1.
Hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam
Toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế đã trở thành xu thế khách quan chi phối sự
phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia và quan hệ quốc tế, bắt nguồn từ quy luật
phát triển của lực lượng sản xuất và phân công lao động quốc tế. Việt Nam cũng không
nằm ngoài quy luật đó.
Trong bối cảnh hiện nay, hội nhập kinh tế quốc tế không chỉ đơn thuần giới hạn trong
phạm vi cắt giảm thuế quan mà đã được mở rộng ra tất cả lĩnh vực liên quan đến chính
sách kinh tế thương mại, nhằm mục đích mở cửa thị trường cho hàng hoá và dịch vụ,
loại bỏ các rào cản hữu hình và vô hình đối với trao đổi thương mại.
Đối với Việt Nam hiện nay, vấn đề đặt ra không phải là có hội nhập hay không mà là làm thế nào
để hội nhập kinh tế quốc tế có hiệu quả, đảm bảo được lợi ích dân tộc, nâng cao được sự cạnh
tranh của nền kinh tế, thực hiện thắng lợi các mục tiêu phát triển kinh tế- xã hội trong quá trình
hội nhập. Báo cáo Chính trị Đại hội IX của Đảng, nhất là Nghị quyết 07- NQ/W ngày 27/11/2001
của Bộ Chính trị về Hội nhập kinh tế quốc tế đã nhấn mạnh quan điểm: Chủ động hội nhập kinh
tế quốc tế và khu vực theo tinh thần phát huy tối đa nội lực, đồng thời tranh thủ nguồn lực bên
ngoài để phát triển nhanh, có hiệu quả và bền vững, đảm bảo tính độc lập tự chủ và định hướng
xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích dân tộc, giữ gìn an ninh quốc gia, phát huy bản sắc văn hoá dân
tộc, bảo vệ môi trường sinh thái.
Đây là một chủ trương lớn trong chính sách đối ngoại, hội nhập của Đảng và Nhà nước ta. Theo
quan điểm này, hội nhập kinh tế quốc tế trong điều kiện toàn cầu hoá kinh tế là một quá trình mà
trọng tâm là chủ động mở cửa kinh tế, tham gia phân công hợp tác quốc tế tạo điều kiện kết hợp
có hiệu quả nguồn lực trong nước và nước ngoài, mở rộng không gian và môi trường để phát
triển và chiếm lĩnh vị trí phù hợp trong quan hệ kinh tế quốc tế. Hội nhập giúp cho việc mở rộng
cơ hội kinh doanh, thâm nhập thị trường thế giới, tìm kiếm và tạo lập thị trường ổn định, từ đó có
điều kiện thuận lợi để xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý, phát triển kinh tế trong nước. Việc nâng
cao sức cạnh tranh của nền kinh tế, của doanh nghiệp và hàng hoá là một trong những nội dung
quan trọng nhất để hội nhập kinh tế quốc tế hiệu quả, thực hiện thắng lợi các mục tiêu của
Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2001 - 2010.
Trong thời gian qua, nền kinh tế ở Việt Nam đã đạt được những kết quả quan trọng như: tăng
trưởng GDP ở nhịp độ cao, cơ cấu kinh tế tiếp tục chuyển dịch theo hướng tăng tỉ trọng của
công nghiệp, dịch vụ, giảm dần tỉ trọng nông nghiệp. Tỉ lệ huy động vốn cho đầu tư phát triển có
xu hướng tăng, các nguồn lực trong xã hội được huy động tốt hơn, đặc biệt trong khu vực kinh
tế tư nhân, đầu tư cho cơ sở hạ tầng có tiến bộ, năng lực sản xuất của nhiều ngành tăng lên.
Tuy nhiên, hiệu quả sức cạnh tranh kinh tế nước ta vẫn còn một số tồn tại:
- Xét về các chỉ số cạnh tranh của nền kinh tế, Việt Nam xếp thứ 48/53 nước được xem xét năm
1999, 53/59 nước năm 2000, 60/75 nước năm 2001 ; 65/80 năm 2002 nước tham gia xếp hạng.
Năm 2004 giảm 17 bậc so với năm 2003, năm 2005 giảm tiếp 4 bậc so với năm 2004 trong các
nước xếp hạng (theo đánh giá của Diễn đàn Kinh tế thế giới - WEF)
- Sức cạnh tranh và năng lực quản lý doanh nghiệp còn yếu, thiếu sự chuẩn bị để ứng phó hiệu
quả với quá trình hội nhập đang diễn ra ngày càng sâu rộng.
- Xét tiêu chí cạnh tranh của sản phẩm như giá cả, chất lượng, mạng lưới tổ chức tiêu thụ và uy
tín doanh nghiệp thì sức cạnh tranh của hàng Việt Nam cũng thấp hơn so với các nước trong
khu vực và trên thế giới.
- Những lợi thế về nguồn lao động trẻ đang mất dần, vấp phải sự cạnh tranh của các nước trong
khu vực nhất là Trung Quốc, việc phát triển các mặt hàng mới đang gặp khó khăn về vốn, công
nghệ, nguồn nhân lực và thị trường tiêu thụ.
- Tốc độ tăng trưởng nền kinh tế chưa tương xứng với mức tăng đầu tư, cơ cấu kinh tế chuyển
dịch còn chậm, chưa phát huy được các lợi thế so sánh cạnh tranh của ngành, sản phẩm. Khu
vực dịch vụ tuy được đầu tư khá song tỷ trọng tăng chậm trong cơ cấu GDP, hệ thống dịch vụ
hỗ trợ phát triển sản xuất vừa thiếu, vừa yếu và kém hiệu quả. Cơ cấu lao động chuyển dịch rất
1
chậm không tương xứng với chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nhất là trong khu vực nông nghiệp,
nông thôn.
- Mặc dù việc phát huy các nguồn nội lực cho đầu tư phát triển có nhiều tiến bộ, vốn trong nước
chiếm trên 70%, nhưng lại xảy ra tình trạng giảm sút của nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
(FDI) mấy năm qua: năm 2002 vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thu hút mới chỉ bằng 60% so với
cùng kỳ năm 2001.
- Hoạt động tài chính - tiền tệ tuy có tiến bộ nhưng tiềm ẩn nhiều rủi ro, lãi suất tiền đồng quá
cao so với lãi suất USD và rất cao so với khả năng sinh lời của nền kinh tế, làm tăng chi phí đầu
vào của sản xuất kinh doanh, giảm khả năng cạnh tranh của sản phẩm. Vốn huy động của hệ
thống ngân hàng chủ yếu là ngắn hạn, nhưng lại được sử dụng một tỷ lệ khá để cho vay trung
và dài hạn. Do vậy, các ngân hàng chịu sức ép bất lợi về lợi nhuận và làm giảm khả năng đề
phòng rủi ro.
Nhìn chung, sự chuẩn bị để ứng phó với những cách thức cạnh tranh trong hội nhập kinh tế
quốc tế của nước ta còn chậm, thiếu một Chiến lược tổng thể hội nhập kinh tế quốc tế của quốc
gia dẫn đến sự lúng túng trong xây dựng chiến lược của từng bộ, ngành, địa phương và doanh
nghiệp. Một số chính sách khuyến khích phát triển các thành phần kinh tế đưa vào cuộc sống
chậm, môi trường kinh doanh còn chưa bình đẳng, chính sách còn thiếu đồng bộ, nhất quán,
khó thực hiện.
Để nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế
hiện nay, cần xây dựng chiến lược cạnh tranh quốc gia mà cốt lõi của nó là hệ thống các chính
sách cạnh tranh. Việc xây dựng và thực hiện chính sách cạnh tranh cần theo hướng: giảm dần
tiến tới xoá bỏ phân biệt đối xử trong kinh doanh, chống hạn chế cạnh tranh, giảm thiểu các
hành vi cạnh tranh không lành mạnh trên thị trường, hạn chế kiểm soát độc quyền. Theo hướng
này, cần nhanh chóng ban hành Luật cạnh tranh và kiểm soát độc quyền trong kinh doanh.
Ngoài ra, cần tập trung vào các giải pháp khác như:
- Cải thiện nhanh môi trường đầu tư để thu hút đầu tư trong nước, nhất là đầu tư nước ngoài
theo hướng kiên quyết giảm giá đầu vào của sản xuất thuộc thẩm quyền của Nhà nước, đặc biệt
là một số loại giá có tính độc quyền (điện, viễn thông, dịch vụ cảng biển, phí cầu đường); giải
quyết kịp thời những khó khăn ách tắc trong việc giải phóng mặt bằng, xây dựng cơ sở hạ tầng,
đảm bảo tính nhất quán minh bạch của chính sách, tôn trọng và đảm bảo quyền lợi của nhà đầu
tư; xây dựng cơ sở pháp lý, thiết lập một mặt bằng áp dụng chung cho cả đầu tư trong nước và
đầu tư nước ngoài với các quy định về điều kiện đầu tư và ưu đãi phù hợp với từng đối tượng.
- Thực hiện quá trình cải cách hệ thống thuế nhằm đáp ứng yêu cầu của quá trình hội nhập mở
cửa nền kinh tế, tiến tới xây dựng hệ thống thuế thống nhất cho các thành phần kinh tế; thực
hiện nhất quán lộ trình cắt giảm thuế theo hiệp định song phương và đa phương mà Việt Nam
đã và sẽ ký kết (AFTA, Hiệp định Thương mại Việt Nam- Hoa Kỳ, WTO); công khai thời gian và
mức độ cắt giảm thuế nhập khẩu để các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế chủ động
trong hội nhập và cạnh tranh ở thị trường trong nước và quốc tế.
- Đẩy mạnh xúc tiến thương mại, xúc tiến đầu tư nhất là đối với các đối tác lớn như: EU, Mỹ,
Nhật Bản… để mở rộng thị trường, tranh thủ công nghệ nguồn, kinh nghiệm quản lý tiên tiến.
- Đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thông qua điều chỉnh cơ cấu đầu tư nhằm phát huy lợi
thế so sánh, lợi thế cạnh tranh, thực hiện chủ động hội nhập kinh tế quốc tế; khắc phục căn bản
tình trạng bố trí đầu tư dàn trải phân tán, dứt khoát không đầu tư vào những công trình dự án
kém hiệu quả đồng thời đa dạng hoá các hình thức đầu tư như BOT, BT, phát hành trái phiếu
công trình…
- Khẩn trương xây dựng, triển khai thực hiện Chiến lược tổng thể hội nhập kinh tế quốc tế; tích
cực đàm phán và chuẩn bị khẩn trương những điều kiện cần thiết trong nước để nước ta có thể
gia nhập WTO vào năm 2006, đặc biệt tập trung vào sắp xếp, cải cách doanh nghiệp nhà nước,
lành mạnh hoá hệ thống tài chính, ngân hàng, đẩy mạnh cải cách thể chế, tăng cường hiệu lực
của bộ máy hành chính Nhà nước, tiến hành cải cách tiền lương, nâng cao trách nhiệm, trình độ
của bộ máy công chức, đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao của quá trình hội nhập kinh tế
quốc tế đang đặt ra hiện nay.
PGS.TSKH Trần Nguyễn Tuyên
2
2.
Hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam
Toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế đã trở thành xu thế khách quan chi phối sự
phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia và quan hệ quốc tế, bắt nguồn từ quy luật
phát triển của lực lượng sản xuất và phân công lao động quốc tế. Việt Nam cũng không
nằm ngoài quy luật đó.
Trong bối cảnh hiện nay, hội nhập kinh tế quốc tế không chỉ đơn thuần giới hạn trong
phạm vi cắt giảm thuế quan mà đã được mở rộng ra tất cả lĩnh vực liên quan đến chính
sách kinh tế thương mại, nhằm mục đích mở cửa thị trường cho hàng hoá và dịch vụ,
loại bỏ các rào cản hữu hình và vô hình đối với trao đổi thương mại.
Đối với Việt Nam hiện nay, vấn đề đặt ra không phải là có hội nhập hay không mà là làm thế nào
để hội nhập kinh tế quốc tế có hiệu quả, đảm bảo được lợi ích dân tộc, nâng cao được sự cạnh
tranh của nền kinh tế, thực hiện thắng lợi các mục tiêu phát triển kinh tế- xã hội trong quá trình
hội nhập. Báo cáo Chính trị Đại hội IX của Đảng, nhất là Nghị quyết 07- NQ/W ngày 27/11/2001
của Bộ Chính trị về Hội nhập kinh tế quốc tế đã nhấn mạnh quan điểm: Chủ động hội nhập kinh
tế quốc tế và khu vực theo tinh thần phát huy tối đa nội lực, đồng thời tranh thủ nguồn lực bên
ngoài để phát triển nhanh, có hiệu quả và bền vững, đảm bảo tính độc lập tự chủ và định hướng
xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích dân tộc, giữ gìn an ninh quốc gia, phát huy bản sắc văn hoá dân
tộc, bảo vệ môi trường sinh thái.
Đây là một chủ trương lớn trong chính sách đối ngoại, hội nhập của Đảng và Nhà nước ta. Theo
quan điểm này, hội nhập kinh tế quốc tế trong điều kiện toàn cầu hoá kinh tế là một quá trình mà
trọng tâm là chủ động mở cửa kinh tế, tham gia phân công hợp tác quốc tế tạo điều kiện kết hợp
có hiệu quả nguồn lực trong nước và nước ngoài, mở rộng không gian và môi trường để phát
triển và chiếm lĩnh vị trí phù hợp trong quan hệ kinh tế quốc tế. Hội nhập giúp cho việc mở rộng
cơ hội kinh doanh, thâm nhập thị trường thế giới, tìm kiếm và tạo lập thị trường ổn định, từ đó có
điều kiện thuận lợi để xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý, phát triển kinh tế trong nước. Việc nâng
cao sức cạnh tranh của nền kinh tế, của doanh nghiệp và hàng hoá là một trong những nội dung
quan trọng nhất để hội nhập kinh tế quốc tế hiệu quả, thực hiện thắng lợi các mục tiêu của
Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2001 - 2010.
Trong thời gian qua, nền kinh tế ở Việt Nam đã đạt được những kết quả quan trọng như: tăng
trưởng GDP ở nhịp độ cao, cơ cấu kinh tế tiếp tục chuyển dịch theo hướng tăng tỉ trọng của
công nghiệp, dịch vụ, giảm dần tỉ trọng nông nghiệp. Tỉ lệ huy động vốn cho đầu tư phát triển có
xu hướng tăng, các nguồn lực trong xã hội được huy động tốt hơn, đặc biệt trong khu vực kinh
tế tư nhân, đầu tư cho cơ sở hạ tầng có tiến bộ, năng lực sản xuất của nhiều ngành tăng lên.
Tuy nhiên, hiệu quả sức cạnh tranh kinh tế nước ta vẫn còn một số tồn tại:
- Xét về các chỉ số cạnh tranh của nền kinh tế, Việt Nam xếp thứ 48/53 nước được xem xét năm
1999, 53/59 nước năm 2000, 60/75 nước năm 2001 ; 65/80 năm 2002 nước tham gia xếp hạng.
Năm 2004 giảm 17 bậc so với năm 2003, năm 2005 giảm tiếp 4 bậc so với năm 2004 trong các
nước xếp hạng (theo đánh giá của Diễn đàn Kinh tế thế giới - WEF)
- Sức cạnh tranh và năng lực quản lý doanh nghiệp còn yếu, thiếu sự chuẩn bị để ứng phó hiệu
quả với quá trình hội nhập đang diễn ra ngày càng sâu rộng.
- Xét tiêu chí cạnh tranh của sản phẩm như giá cả, chất lượng, mạng lưới tổ chức tiêu thụ và uy
tín doanh nghiệp thì sức cạnh tranh của hàng Việt Nam cũng thấp hơn so với các nước trong
khu vực và trên thế giới.
- Những lợi thế về nguồn lao động trẻ đang mất dần, vấp phải sự cạnh tranh của các nước trong
khu vực nhất là Trung Quốc, việc phát triển các mặt hàng mới đang gặp khó khăn về vốn, công
nghệ, nguồn nhân lực và thị trường tiêu thụ.
- Tốc độ tăng trưởng nền kinh tế chưa tương xứng với mức tăng đầu tư, cơ cấu kinh tế chuyển
dịch còn chậm, chưa phát huy được các lợi thế so sánh cạnh tranh của ngành, sản phẩm. Khu
vực dịch vụ tuy được đầu tư khá song tỷ trọng tăng chậm trong cơ cấu GDP, hệ thống dịch vụ
hỗ trợ phát triển sản xuất vừa thiếu, vừa yếu và kém hiệu quả. Cơ cấu lao động chuyển dịch rất
3
chậm không tương xứng với chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nhất là trong khu vực nông nghiệp,
nông thôn.
- Mặc dù việc phát huy các nguồn nội lực cho đầu tư phát triển có nhiều tiến bộ, vốn trong nước
chiếm trên 70%, nhưng lại xảy ra tình trạng giảm sút của nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
(FDI) mấy năm qua: năm 2002 vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thu hút mới chỉ bằng 60% so với
cùng kỳ năm 2001.
- Hoạt động tài chính - tiền tệ tuy có tiến bộ nhưng tiềm ẩn nhiều rủi ro, lãi suất tiền đồng quá
cao so với lãi suất USD và rất cao so với khả năng sinh lời của nền kinh tế, làm tăng chi phí đầu
vào của sản xuất kinh doanh, giảm khả năng cạnh tranh của sản phẩm. Vốn huy động của hệ
thống ngân hàng chủ yếu là ngắn hạn, nhưng lại được sử dụng một tỷ lệ khá để cho vay trung
và dài hạn. Do vậy, các ngân hàng chịu sức ép bất lợi về lợi nhuận và làm giảm khả năng đề
phòng rủi ro.
Nhìn chung, sự chuẩn bị để ứng phó với những cách thức cạnh tranh trong hội nhập kinh tế
quốc tế của nước ta còn chậm, thiếu một Chiến lược tổng thể hội nhập kinh tế quốc tế của quốc
gia dẫn đến sự lúng túng trong xây dựng chiến lược của từng bộ, ngành, địa phương và doanh
nghiệp. Một số chính sách khuyến khích phát triển các thành phần kinh tế đưa vào cuộc sống
chậm, môi trường kinh doanh còn chưa bình đẳng, chính sách còn thiếu đồng bộ, nhất quán,
khó thực hiện.
Để nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế
hiện nay, cần xây dựng chiến lược cạnh tranh quốc gia mà cốt lõi của nó là hệ thống các chính
sách cạnh tranh. Việc xây dựng và thực hiện chính sách cạnh tranh cần theo hướng: giảm dần
tiến tới xoá bỏ phân biệt đối xử trong kinh doanh, chống hạn chế cạnh tranh, giảm thiểu các
hành vi cạnh tranh không lành mạnh trên thị trường, hạn chế kiểm soát độc quyền. Theo hướng
này, cần nhanh chóng ban hành Luật cạnh tranh và kiểm soát độc quyền trong kinh doanh.
Ngoài ra, cần tập trung vào các giải pháp khác như:
- Cải thiện nhanh môi trường đầu tư để thu hút đầu tư trong nước, nhất là đầu tư nước ngoài
theo hướng kiên quyết giảm giá đầu vào của sản xuất thuộc thẩm quyền của Nhà nước, đặc biệt
là một số loại giá có tính độc quyền (điện, viễn thông, dịch vụ cảng biển, phí cầu đường); giải
quyết kịp thời những khó khăn ách tắc trong việc giải phóng mặt bằng, xây dựng cơ sở hạ tầng,
đảm bảo tính nhất quán minh bạch của chính sách, tôn trọng và đảm bảo quyền lợi của nhà đầu
tư; xây dựng cơ sở pháp lý, thiết lập một mặt bằng áp dụng chung cho cả đầu tư trong nước và
đầu tư nước ngoài với các quy định về điều kiện đầu tư và ưu đãi phù hợp với từng đối tượng.
- Thực hiện quá trình cải cách hệ thống thuế nhằm đáp ứng yêu cầu của quá trình hội nhập mở
cửa nền kinh tế, tiến tới xây dựng hệ thống thuế thống nhất cho các thành phần kinh tế; thực
hiện nhất quán lộ trình cắt giảm thuế theo hiệp định song phương và đa phương mà Việt Nam
đã và sẽ ký kết (AFTA, Hiệp định Thương mại Việt Nam- Hoa Kỳ, WTO); công khai thời gian và
mức độ cắt giảm thuế nhập khẩu để các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế chủ động
trong hội nhập và cạnh tranh ở thị trường trong nước và quốc tế.
- Đẩy mạnh xúc tiến thương mại, xúc tiến đầu tư nhất là đối với các đối tác lớn như: EU, Mỹ,
Nhật Bản… để mở rộng thị trường, tranh thủ công nghệ nguồn, kinh nghiệm quản lý tiên tiến.
- Đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thông qua điều chỉnh cơ cấu đầu tư nhằm phát huy lợi
thế so sánh, lợi thế cạnh tranh, thực hiện chủ động hội nhập kinh tế quốc tế; khắc phục căn bản
tình trạng bố trí đầu tư dàn trải phân tán, dứt khoát không đầu tư vào những công trình dự án
kém hiệu quả đồng thời đa dạng hoá các hình thức đầu tư như BOT, BT, phát hành trái phiếu
công trình…
- Khẩn trương xây dựng, triển khai thực hiện Chiến lược tổng thể hội nhập kinh tế quốc tế; tích
cực đàm phán và chuẩn bị khẩn trương những điều kiện cần thiết trong nước để nước ta có thể
gia nhập WTO vào năm 2006, đặc biệt tập trung vào sắp xếp, cải cách doanh nghiệp nhà nước,
lành mạnh hoá hệ thống tài chính, ngân hàng, đẩy mạnh cải cách thể chế, tăng cường hiệu lực
của bộ máy hành chính Nhà nước, tiến hành cải cách tiền lương, nâng cao trách nhiệm, trình độ
của bộ máy công chức, đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao của quá trình hội nhập kinh tế
quốc tế đang đặt ra hiện nay.
PGS.TSKH Trần Nguyễn Tuyên
4
3.
Hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam
Toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế đã trở thành xu thế khách quan chi phối sự
phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia và quan hệ quốc tế, bắt nguồn từ quy luật
phát triển của lực lượng sản xuất và phân công lao động quốc tế. Việt Nam cũng không
nằm ngoài quy luật đó.
Trong bối cảnh hiện nay, hội nhập kinh tế quốc tế không chỉ đơn thuần giới hạn trong
phạm vi cắt giảm thuế quan mà đã được mở rộng ra tất cả lĩnh vực liên quan đến chính
sách kinh tế thương mại, nhằm mục đích mở cửa thị trường cho hàng hoá và dịch vụ,
loại bỏ các rào cản hữu hình và vô hình đối với trao đổi thương mại.
Đối với Việt Nam hiện nay, vấn đề đặt ra không phải là có hội nhập hay không mà là làm thế nào
để hội nhập kinh tế quốc tế có hiệu quả, đảm bảo được lợi ích dân tộc, nâng cao được sự cạnh
tranh của nền kinh tế, thực hiện thắng lợi các mục tiêu phát triển kinh tế- xã hội trong quá trình
hội nhập. Báo cáo Chính trị Đại hội IX của Đảng, nhất là Nghị quyết 07- NQ/W ngày 27/11/2001
của Bộ Chính trị về Hội nhập kinh tế quốc tế đã nhấn mạnh quan điểm: Chủ động hội nhập kinh
tế quốc tế và khu vực theo tinh thần phát huy tối đa nội lực, đồng thời tranh thủ nguồn lực bên
ngoài để phát triển nhanh, có hiệu quả và bền vững, đảm bảo tính độc lập tự chủ và định hướng
xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích dân tộc, giữ gìn an ninh quốc gia, phát huy bản sắc văn hoá dân
tộc, bảo vệ môi trường sinh thái.
Đây là một chủ trương lớn trong chính sách đối ngoại, hội nhập của Đảng và Nhà nước ta. Theo
quan điểm này, hội nhập kinh tế quốc tế trong điều kiện toàn cầu hoá kinh tế là một quá trình mà
trọng tâm là chủ động mở cửa kinh tế, tham gia phân công hợp tác quốc tế tạo điều kiện kết hợp
có hiệu quả nguồn lực trong nước và nước ngoài, mở rộng không gian và môi trường để phát
triển và chiếm lĩnh vị trí phù hợp trong quan hệ kinh tế quốc tế. Hội nhập giúp cho việc mở rộng
cơ hội kinh doanh, thâm nhập thị trường thế giới, tìm kiếm và tạo lập thị trường ổn định, từ đó có
điều kiện thuận lợi để xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý, phát triển kinh tế trong nước. Việc nâng
cao sức cạnh tranh của nền kinh tế, của doanh nghiệp và hàng hoá là một trong những nội dung
quan trọng nhất để hội nhập kinh tế quốc tế hiệu quả, thực hiện thắng lợi các mục tiêu của
Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2001 - 2010.
Trong thời gian qua, nền kinh tế ở Việt Nam đã đạt được những kết quả quan trọng như: tăng
trưởng GDP ở nhịp độ cao, cơ cấu kinh tế tiếp tục chuyển dịch theo hướng tăng tỉ trọng của
công nghiệp, dịch vụ, giảm dần tỉ trọng nông nghiệp. Tỉ lệ huy động vốn cho đầu tư phát triển có
xu hướng tăng, các nguồn lực trong xã hội được huy động tốt hơn, đặc biệt trong khu vực kinh
tế tư nhân, đầu tư cho cơ sở hạ tầng có tiến bộ, năng lực sản xuất của nhiều ngành tăng lên.
Tuy nhiên, hiệu quả sức cạnh tranh kinh tế nước ta vẫn còn một số tồn tại:
- Xét về các chỉ số cạnh tranh của nền kinh tế, Việt Nam xếp thứ 48/53 nước được xem xét năm
1999, 53/59 nước năm 2000, 60/75 nước năm 2001 ; 65/80 năm 2002 nước tham gia xếp hạng.
Năm 2004 giảm 17 bậc so với năm 2003, năm 2005 giảm tiếp 4 bậc so với năm 2004 trong các
nước xếp hạng (theo đánh giá của Diễn đàn Kinh tế thế giới - WEF)
- Sức cạnh tranh và năng lực quản lý doanh nghiệp còn yếu, thiếu sự chuẩn bị để ứng phó hiệu
quả với quá trình hội nhập đang diễn ra ngày càng sâu rộng.
- Xét tiêu chí cạnh tranh của sản phẩm như giá cả, chất lượng, mạng lưới tổ chức tiêu thụ và uy
tín doanh nghiệp thì sức cạnh tranh của hàng Việt Nam cũng thấp hơn so với các nước trong
khu vực và trên thế giới.
- Những lợi thế về nguồn lao động trẻ đang mất dần, vấp phải sự cạnh tranh của các nước trong
5
khu vực nhất là Trung Quốc, việc phát triển các mặt hàng mới đang gặp khó khăn về vốn, công
nghệ, nguồn nhân lực và thị trường tiêu thụ.
- Tốc độ tăng trưởng nền kinh tế chưa tương xứng với mức tăng đầu tư, cơ cấu kinh tế chuyển
dịch còn chậm, chưa phát huy được các lợi thế so sánh cạnh tranh của ngành, sản phẩm. Khu
vực dịch vụ tuy được đầu tư khá song tỷ trọng tăng chậm trong cơ cấu GDP, hệ thống dịch vụ
hỗ trợ phát triển sản xuất vừa thiếu, vừa yếu và kém hiệu quả. Cơ cấu lao động chuyển dịch rất
chậm không tương xứng với chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nhất là trong khu vực nông nghiệp,
nông thôn.
- Mặc dù việc phát huy các nguồn nội lực cho đầu tư phát triển có nhiều tiến bộ, vốn trong nước
chiếm trên 70%, nhưng lại xảy ra tình trạng giảm sút của nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
(FDI) mấy năm qua: năm 2002 vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thu hút mới chỉ bằng 60% so với
cùng kỳ năm 2001.
- Hoạt động tài chính - tiền tệ tuy có tiến bộ nhưng tiềm ẩn nhiều rủi ro, lãi suất tiền đồng quá
cao so với lãi suất USD và rất cao so với khả năng sinh lời của nền kinh tế, làm tăng chi phí đầu
vào của sản xuất kinh doanh, giảm khả năng cạnh tranh của sản phẩm. Vốn huy động của hệ
thống ngân hàng chủ yếu là ngắn hạn, nhưng lại được sử dụng một tỷ lệ khá để cho vay trung
và dài hạn. Do vậy, các ngân hàng chịu sức ép bất lợi về lợi nhuận và làm giảm khả năng đề
phòng rủi ro.
Nhìn chung, sự chuẩn bị để ứng phó với những cách thức cạnh tranh trong hội nhập kinh tế
quốc tế của nước ta còn chậm, thiếu một Chiến lược tổng thể hội nhập kinh tế quốc tế của quốc
gia dẫn đến sự lúng túng trong xây dựng chiến lược của từng bộ, ngành, địa phương và doanh
nghiệp. Một số chính sách khuyến khích phát triển các thành phần kinh tế đưa vào cuộc sống
chậm, môi trường kinh doanh còn chưa bình đẳng, chính sách còn thiếu đồng bộ, nhất quán,
khó thực hiện.
Để nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế
hiện nay, cần xây dựng chiến lược cạnh tranh quốc gia mà cốt lõi của nó là hệ thống các chính
sách cạnh tranh. Việc xây dựng và thực hiện chính sách cạnh tranh cần theo hướng: giảm dần
tiến tới xoá bỏ phân biệt đối xử trong kinh doanh, chống hạn chế cạnh tranh, giảm thiểu các
hành vi cạnh tranh không lành mạnh trên thị trường, hạn chế kiểm soát độc quyền. Theo hướng
này, cần nhanh chóng ban hành Luật cạnh tranh và kiểm soát độc quyền trong kinh doanh.
Ngoài ra, cần tập trung vào các giải pháp khác như:
- Cải thiện nhanh môi trường đầu tư để thu hút đầu tư trong nước, nhất là đầu tư nước ngoài
theo hướng kiên quyết giảm giá đầu vào của sản xuất thuộc thẩm quyền của Nhà nước, đặc biệt
là một số loại giá có tính độc quyền (điện, viễn thông, dịch vụ cảng biển, phí cầu đường); giải
quyết kịp thời những khó khăn ách tắc trong việc giải phóng mặt bằng, xây dựng cơ sở hạ tầng,
đảm bảo tính nhất quán minh bạch của chính sách, tôn trọng và đảm bảo quyền lợi của nhà đầu
tư; xây dựng cơ sở pháp lý, thiết lập một mặt bằng áp dụng chung cho cả đầu tư trong nước và
đầu tư nước ngoài với các quy định về điều kiện đầu tư và ưu đãi phù hợp với từng đối tượng.
- Thực hiện quá trình cải cách hệ thống thuế nhằm đáp ứng yêu cầu của quá trình hội nhập mở
cửa nền kinh tế, tiến tới xây dựng hệ thống thuế thống nhất cho các thành phần kinh tế; thực
hiện nhất quán lộ trình cắt giảm thuế theo hiệp định song phương và đa phương mà Việt Nam
đã và sẽ ký kết (AFTA, Hiệp định Thương mại Việt Nam- Hoa Kỳ, WTO); công khai thời gian và
mức độ cắt giảm thuế nhập khẩu để các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế chủ động
trong hội nhập và cạnh tranh ở thị trường trong nước và quốc tế.
- Đẩy mạnh xúc tiến thương mại, xúc tiến đầu tư nhất là đối với các đối tác lớn như: EU, Mỹ,
Nhật Bản… để mở rộng thị trường, tranh thủ công nghệ nguồn, kinh nghiệm quản lý tiên tiến.
6
- Đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thông qua điều chỉnh cơ cấu đầu tư nhằm phát huy lợi
thế so sánh, lợi thế cạnh tranh, thực hiện chủ động hội nhập kinh tế quốc tế; khắc phục căn bản
tình trạng bố trí đầu tư dàn trải phân tán, dứt khoát không đầu tư vào những công trình dự án
kém hiệu quả đồng thời đa dạng hoá các hình thức đầu tư như BOT, BT, phát hành trái phiếu
công trình…
- Khẩn trương xây dựng, triển khai thực hiện Chiến lược tổng thể hội nhập kinh tế quốc tế; tích
cực đàm phán và chuẩn bị khẩn trương những điều kiện cần thiết trong nước để nước ta có thể
gia nhập WTO vào năm 2006, đặc biệt tập trung vào sắp xếp, cải cách doanh nghiệp nhà nước,
lành mạnh hoá hệ thống tài chính, ngân hàng, đẩy mạnh cải cách thể chế, tăng cường hiệu lực
của bộ máy hành chính Nhà nước, tiến hành cải cách tiền lương, nâng cao trách nhiệm, trình độ
của bộ máy công chức, đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao của quá trình hội nhập kinh tế
quốc tế đang đặt ra hiện nay.
PGS.TSKH Trần Nguyễn Tuyên
Lịch sử của toàn cầu hoá
Toàn cầu hoá, theo nghĩa cổ điển, đã bắt đầu vào khoảng thế kỷ thứ 15, sau khi có những
cuộc thám hiểm hàng hải quy mô lớn. Cuộc thám hiểm lớn lần đầu tiên vòng quanh thế
giới do Ferdinand Magellan thực hiện vào năm 1522. Cũng như việc xuất hiện các trục
đường trao đổi thương mại giữa châu Âu, châu Á, châu Phi và châu Mỹ không phải là
hiện tượng gần đây. Ngoài những trao đổi về hàng hoá vật chất, một số giống cây cũng
được đem trồng từ vùng khí hậu này sang vùng khí hậu khác (chẳng hạn như khoai tây,
cà chua và thuốc lá).
Do có hai khía cạnh kỹ thuật và chính trị, "toàn cầu hoá" sẽ có nhiều lịch sử khác nhau.
Thông thường trong phạm vi của môn kinh tế học và kinh tế chính trị học, toàn cầu hoá
chỉ là lịch sử của việc trao đổi thương mại không ngừng giữa các nước dựa trên những cơ
sở ổn định cho phép các cá nhân và công ty trao đổi hàng hoá với nhau một cách trơn tru
nhất.
Thuật ngữ "tự do hoá" xuất hiện để chỉ sự kết hợp của học thuyết kinh tế về thị trường tự
do tuyệt đối và sự hủy bỏ các rào cản đối với việc lưu thông hàng hoá. Điều này dẫn tới
sự chuyên môn hoá không ngừng của các nước trong lĩnh vực xuất khẩu, cũng như tạo ra
áp lực chấm dứt hàng rào thuế quan bảo hộ và các rào cản khác. Thời kỳ bắt đầu dùng
vàng làm tiêu chuẩn của hệ thống tiền tệ (bản vị vàng) và tự do hoá trong thế kỷ thứ 19
thường được chính thức gọi là "thời kỳ đầu của toàn cầu hoá". Cùng với thời kỳ bành
trướng của đế quốc Anh (Pax Britannica) và việc trao đổi hàng hoá bằng các loại tiền tệ
có sử dụng tiền xu, thời kỳ này là cùng với giai đoạn công nghiệp hoá. Cơ sở lý thuyết là
công trình của David Ricardo nói về lợi thế so sánh và luật cân bằng chung của Jean-
Baptiste Say, cho rằng, về cơ bản các nước sẽ trao đổi thương mại một cách hiệu quả, và
bất kỳ những bất ổn tạm thời về cung hay cầu cũng sẽ tự động được điều chỉnh. Việc
thiết lập bản vị vàng bắt đầu ở các nước công nghiệp hoá chính khoảng giữa năm 1850 và
năm 1880, mặc dù chính xác khi nào các nước này áp dụng bản vị vàng vẫn còn là đề tài
gây nhiều tranh cãi.
7
"Thời kỳ đầu của toàn cầu hoá" rơi vào thoái trào khi bắt đầu bước vào Chiến tranh thế
giới lần thứ nhất, và sau đó sụp đổ hẳn khi xảy ra khủng hoảng bản vị vàng vào cuối
những năm 1920 và đầu những năm 1930.
Trong môi trường hậu Chiến tranh thế giới lần thứ hai, thương mại quốc tế đã tăng trưởng
đột ngột do tác động của các tổ chức kinh tế quốc tế và các chương trình tái kiến thiết. Kể
từ Chiến tranh thế giới lần thứ hai, các Vòng đàm phán thương mại do GATT khởi
xướng, đã đặt lại vấn đề toàn cầu hoá và từ đó dẫn đến một loạt các hiệp định nhằm gỡ bỏ
các hạn chế đối với "thương mại tự do". Vòng đàm phán Uruguay đã đề ra hiệp ước thành
lập Tổ chức thương mại thế giới hay WTO, nhằm giải quyết các tranh chấp thương mại.
Các hiệp ước thương mại song phương khác, bao gồm một phần của Hiệp ước Maastricht
của châu Âu và Hiệp ước mậu dịch tự do Bắc Mỹ (NAFTA) cũng đã được ký kết nhằm
mục tiêu giảm bớt các thuế quan và rào cản thương mại. Từ thập kỷ 1970, các tác động
của thương mại quốc tế ngày càng rõ rệt, cả về mặt tích cực lẫn tiêu cực.
Ý nghĩa của toàn cầu hóa
Thuật ngữ toàn cầu hoá xuất hiện vào những năm 1950, với sự phổ biến các phương tiện
vận tải có động cơ và sự gia tăng các trao đổi thương mại; và được chính thức sử dụng
rộng rãi từ những năm 1990 của thế kỷ thứ 20.
"Toàn cầu hóa" có thể có nghĩa là:
• Sự hình thành nên một ngôi làng toàn cầu — dưới tác động của những tiến bộ
trong lĩnh vực tin học và viễn thông, quan hệ giữa các khu vực trên thế giới ngày
càng gần gũi hơn, cộng với sự gia tăng không ngừng về các trao đổi ở mức độ cá
nhân và sự hiểu biết lẫn nhau cũng như tình hữu nghị giữa các "công dân thế
giới", dẫn tới một nền văn minh toàn cầu,
• Toàn cầu hoá kinh tế — "thương mại tự do" và sự gia tăng về quan hệ giữa các
thành viên của một ngành công nghiệp ở các khu vực khác nhau trên thế giới
(toàn cầu hoá một nền kinh tế) ảnh hưởng đến chủ quyền quốc gia trong phạm vi
kinh tế.
Xem bài nói riêng về toàn cầu hoá kinh tế
• Tác động tiêu cực của các tập toàn đa quốc gia tìm kiếm lợi nhuận — việc sử
dụng các phương tiện luật lệ và tài chính mạnh mẽ và tinh vi để vượt qua giới hạn
của các tiêu chuẩn và luật pháp địa phương hòng lợi dụng nhân công và dịch vụ
của các vùng phát triển chưa đồng đều lẫn nhau.
• Sự lan rộng của chủ nghĩa tư bản từ các quốc gia phát triển sang các quốc gia
đang phát triển.
Khái niệm này cũng chia sẻ một số tính chất với khái niệm quốc tế hoá và có thể dùng
thay cho nhau được, mặc dù có một số người thích dùng "toàn cầu hoá" để nhấn mạnh sự
mờ nhạt của ý niệm nhà nước hay biên giới quốc gia.
8
Toàn cầu hóa được định nghĩa một cách khách quan nhất là sự phụ thuộc qua lại không
ngừng giữa các quốc gia và các cá nhân. Sự phụ thuộc qua lại có thể xảy ra trên lĩnh vực
kinh tế, công nghệ, môi trường, văn hoá hay xã hội Rõ ràng cần phân biệt toàn cầu hoá
kinh tế với khái niệm rộng hơn là toàn cầu hoá nói chung.
Khái niệm chủ nghĩa toàn cầu, nếu chỉ được sử dụng trong phạm vi kinh tế, có thể được
xem là trái ngược hẳn với khái niệm chủ nghỉa kinh tế quốc gia và chủ nghĩa bảo hộ. Nó
có liên quan đến khái niệm chủ nghĩa tư bản không can thiệp và chủ nghĩa tân tự do.
Các dấu hiệu của toàn cầu hoá
Có thể nhận biết toàn cầu hoá thông qua một số xu hướng, hầu hết các xu hướng đó bắt
đầu từ Chiến tranh thế giới lần thứ hai. Trong số đó có lưu thông quốc tế ngày càng tăng
đối với hàng hoá, tiền tệ, thông tin và người; cùng với việc phát triển các công nghệ, tổ
chức, hệ thống luật lệ và cơ sở hạ tầng cho việc lưu thông này. Hiện nay vẫn còn nhiều
tranh luận xung quanh sự tồn tại của một số xu hướng.
• Gia tăng thương mại quốc tế với tốc độ cao hơn tốc độ tăng trưởng kinh tế thế
giới
• Gia tăng luồng tư bản quốc tế bao gồm cả đầu tư trực tiếp từ nước ngoài
• Gia tăng luồng dữ liệu xuyên biên giới thông qua việc sử dụng các công nghệ như
Internet, các vệ tinh liên lạc và điện thoại
• Gia tăng trao đổi văn hoá quốc tế, chẳng hạn như việc xuất khẩu các văn hoá
phẩm như phim ảnh hay sách báo.
• Toàn cầu hoá cũng tác động đến ý thức con người, khiến con người chú ý hơn đến
những vấn đề có ảnh hưởng toàn cầu như vấn đề nóng lên của khí hậu, khủng bố,
buôn lậu ma tuý và vấn đề nâng cao mức sống ở các nước nghèo.
• Sự tràn lan của chủ nghĩa đa văn hoá và việc cá nhân ngày càng có xu hướng
hướng đến đa dạng văn hoá, mặt khác, làm mất đi tính đa dạng văn hoá thông qua
sự đồng hoá, lai tạp hoá, Tây hoá, Mỹ hoá hay Hán hoá của văn hoá.
• Làm mờ đi ý niệm chủ quyền quốc gia và biên giới quốc gia thông qua các hiệp
ước quốc tế dẫn đến việc thành lập các tổ chức như WTO và OPEC
• Gia tăng việc đi lại và du lịch quốc tế
• Gia tăng di cư, bao gồm cả nhập cư trái phép
• Phát triển hạ tầng viễn thông toàn cầu
• Phát triển các hệ thống tài chính quốc tế
• Gia tăng thị phần thế giới của các tập đoàn đa quốc gia
• Gia tăng vai trò của các tổ chức quốc tế như WTO, WIPO, IMF chuyên xử lý các
giao dịch quốc tế
• Gia tăng số lượng các chuẩn áp dụng toàn cầu; v.d. luật bản quyền
Các rào cản đối với thương mại quốc tế đã giảm bớt tương đối kể từ Chiến tranh thế giới
lần thứ hai thông qua các hiệp ước như Hiệp ước chung về thuế quan và mậu dịch
(GATT). Các đề xuất của GATT cũng như WTO bao gồm:
• Thúc đẩy thương mại tự do
9
o Về hàng hoá: giảm hoặc bỏ hẳn các loại thuế quan; xây dựng các khu mậu
dịch tự do với thuế quan thấp hoặc không có
o Về tư bản: giảm hoặc bỏ hẳn các hình thức kiểm soát tư bản
o Giảm, bỏ hẳn hay điều hoà việc trợ cấp cho các doanh nghiệp địa phương
• Thắt chặt vấn đề sở hữu trí tuệ
o Hoà hợp luật sở hữu trí tuệ giữa các quốc gia (nói chung là thắt chặt hơn)
o Công nhận sở hữu trí tuệ ở quy mô giữa các nước (v.d. bằng sáng chế do
Việt Nam cấp có thể được Mỹ thừa nhận)
Có khá nhiều thảo luận mang tính học thuật nghiêm túc quanh việc xem toàn cầu hoá là
một hiện tượng có thật hay chỉ là một sự đồn đại. Mặc dù thuật ngữ này đã trở nên phổ
biến, nhiều học giả lý luận rằng các tính chất của hiện tượng này đã từng được thấy ở một
thời điểm trước đó trong lịch sử. Tuy vậy, nhiều người cho rằng những dấu hiệu làm
người ta tin là đang có tiến trình toàn cầu hoá, bao gồm việc gia tăng thương mại quốc tế
và vai trò ngày càng lớn của các tập đoàn gia quốc gia, thực sự không rõ ràng như ta
tưởng. Do vậy, nhiều học giả thích dùng thuật ngữ "quốc tế hoá" hơn là "toàn cầu hoá".
Để cho đơn giản, vai trò của nhà nước và tầm quan trọng của các quốc gia lớn hơn nhiều
trong khái niệm quốc tế hoá, trong khi toàn cầu hoá lại loại trừ vai trò các nhà nước quốc
gia theo bản chất thực sự của nó. Chính vì vậy, các học giả này xem biên giới quốc gia,
trong một nghĩa rộng, còn lâu mới mất đi, do vậy tiến trình toàn cầu hoá căn bản này vẫn
chưa thể xảy ra, và có lẽ sẽ không bao giờ xảy ra vì dựa trên lịch sử thế giới người ta thấy
rằng quốc tế hoá sẽ không bao giờ biến thành toàn cầu hoá — chẳng hạn như trường hợp
Liên hiệp châu Âu và NAFTA hiện tại.
Tác động của toàn cầu hoá
Khía cạnh kinh tế
Các tổ chức quốc gia sẽ mất dần quyền lực (xem ảnh hưởng về khía cạnh chính trị phía
dưới), quyền lực này sẽ chuyển về tay các tổ chức đa phương như WTO. Các tổ chức
này sẽ mở rộng việc tự do đối với các giao dịch thương mại, và thông qua các hiệp ước
đa phương hạ thấp hoặc nâng cao hàng rào thuế quan để điều chỉnh thương mại quốc tế.
Toàn cầu hóa cũng làm cho hiện tượng "chảy máu chất xám" diễn ra nhiều và dễ dàng
hơn, kéo theo biến tướng là nạn "săn đầu người". Hai hiện tượng này đã góp phần gia
tăng khoảng cách giàu nghèo giữa các quốc gia phát triển và đang phát triển, giữa từng
khu vực riêng biệt trong một đất nước.
Khía cạnh văn hoá, xã hội và ngôn ngữ
Toàn cầu hoá sẽ tạo ra những hiệu quả trái ngược ở mức độ cá nhân hay dân tộc, mà kết
cục thế nào đến nay cũng vẫn chưa ngã ngũ. Toàn cầu hoá sẽ tạo ra:
• Một sự đa dạng cho các cá nhân do họ được tiếp xúc với các nền văn hoá và văn
minh khác nhau. Toàn cầu hoá giúp con người hiểu hơn về thế giới và những
10
thách thức ở quy mô toàn cầu qua sự bùng nổ các nguồn thông tin, việc phổ thông
hoá hoạt động du lịch, việc tiếp cận dễ dàng hơn với giáo dục và văn hoá;
• Một sự đồng nhất đối với các dân tộc qua ảnh hưởng của các dòng chảy thương
mại và văn hoá mạnh. Trên thực tế, thông tin tạo ra chính kiến và vì thế một vài
tập đoàn truyền thông lớn, chủ yếu là phương Tây có thể tạo ra (và làm giả) thông
tin đưa đến dân chúng. Sự độc quyền trong lĩnh vực văn hoá và thông tin này
được xem như một sự " Mỹ hoá " thế giới.
Mỗi người nhìn toàn cầu hoá theo một kiểu khác nhau. Có hai xu hướng chính:
• nỗ lực che dấu những khác biệt về bản sắc, thay vì để lộ ra.
• cảm giác toàn cầu hoá sẽ mang lại sự tự do cá nhân, ngay cả khi điều đó đi cùng
với một sự đồng nhất hoá toàn cầu một cách tương đối.
Ở góc độ ngôn ngữ, chúng ta thấy khuynh hướng rõ ràng hướng tới đồng nhất hoá việc
dùng "tiếng Anh toàn cầu" ("globish", viết tắt của global English), một thứ tiếng Anh
nghèo nàn do những người không phải là người Anglo-Saxon dùng khi họ ở nước ngoài.
(Lưu ý là "tiếng Anh toàn cầu" không phải là tiếng Anh cơ bản như trong phiên bản
Wikipedia bằng tiếng Anh đơn giản).
Sự phổ cập của tiếng Anh toàn cầu gắn với việc mất đi quyền lực chính trị ở cấp độ thế
giới: thay vì một chính sách văn hoá quốc tế có sự phối hợp để có thể dẫn đến việc chọn
một thứ tiếng có quy luật rõ ràng và ngữ âm học rõ ràng, phần lớn các nước đều chọn dạy
tiếng Anh cho giới trẻ dựa trên lựa chọn của các nước khác! Do sự bắt chước một cách
máy móc và sự trơ ì chính trị, tiếng Anh đã trở thành một ngôn ngữ của thế giới và được
gọi là "tiếng Anh toàn cầu" ("globish") vì các yếu tố cơ bản của tiếng Anh Oxford đã bị
biến dạng về phát âm, ngữ pháp, từ vựng, v.v.). Đối với một số những người nói tiếng
Anh, "tiếng Anh toàn cầu" là kết quả của chủ nghĩa đế quốc về ngôn ngữ của nước họ.
Vấn đề là liệu có thể dễ dàng cho rằng các nỗ lực hướng đến việc dạy tiếng Anh thay vì
giảng dạy các thứ tiếng khác sẽ làm giảm chất lượng của các ngôn ngữ khác hay không
(như tiếng Pháp lai Anh - franglais).
===Khía cạnh chính trị===ghio Toàn cầu hoá sẽ làm tăng lên nhiều lần các mối quan hệ
giữa các công dân trên thế giới và cũng như các cơ hội cho từng người. Tuy nhiên nó đặt
ra vấn đề là phải tìm ra một giải pháp thay thế cho hệ thống chính trị và hiến pháp hiện
tại dựa trên khái niệm nhà nước-quốc gia. Các thực thể này đã từng gây ra những tác
động tiêu cực trong suốt lịch sử do tính chất can thiệp mạnh bạo của nó. Ảnh hưởng của
chúng giảm dần do sự toàn cầu hoá, và không còn đủ tầm xử lý nhiều thách thức mang
tính toàn cầu ngày nay.
Từ đó nảy sinh thách thức cần thiết lập một toàn cầu hoá dân chủ thể chế nào đó. Kiểu
toàn cầu hoá này dựa trên khái niệm "công dân thế giới", bằng cách kêu gọi mọi người
sống trên hành tinh này tham gia vào quá trình quyết định những việc liên quan đến họ,
mà không thông qua một bức màn "quốc tế".
11
Các tổ chức phi chính phủ muốn thay vào khoảng trống này, tuy nhiên họ thiếu tính hợp
pháp và thường thể hiện các tư tưởng đảng phái quá nhiều để có thể đại diện tất cả công
dân trên thế giới.
Phản ứng xung quanh toàn cầu hoá
Chống toàn cầu hoá
Bài chính: "Chống toàn cầu hoá".
Các nhà hoạt động xã hội vì lợi ích cộng đồng coi một số khía cạnh của toàn cầu hoá là
nguy hại. Phong trào này không có tên gọi thống nhất. "Chống toàn cầu hoá" là thuật ngữ
mà báo chí hay dùng nhất. Ngay chính các nhà hoạt động xã hội như Noam Chomsky đã
cho rằng tên này không có ý nghĩa gì cả vì mục tiêu của phong trào là toàn cầu hoá sự
công bằng. Trên thực tế, có một tên phổ biến là "phong trào đòi công bằng toàn cầu".
Nhiều nhà hoạt động xã hội cũng tập hợp dưới khẩu hiệu "có thể có một thế giới khác",
từ đó ra đời những tên gọi như altermondisme hay altermondialisation, đến từ tiếng
Pháp.
Có rất nhiều kiểu "chống toàn cầu hoá" khác nhau. Nói chung, những phê phán cho rằng
kết quả của toàn cầu hoá hiện không phải là những gì đã được hình dung khi bắt đầu quá
trình tăng cường thương mại tự do, cũng như nhiều tổ chức tham gia trong hệ thống toàn
cầu hoá đã không xét đến lợi ích cho các nước nghèo cũng như giới lao động.
Các lý luận kinh tế của các nhà kinh tế theo học thuyết thương mại công bằng thì cho
rằng thương mại tự do không giới hạn chỉ đem lại lợi ích cho những ai có tỷ lệ vốn lớn
(v.d. người giàu) mà không hề đếm xỉa đến người nghèo.
Nhiều nhà hoạt động xã hội "chống toàn cầu hoá" coi toàn cầu hoá là việc thúc đẩy
chương trình nghị sự của những người theo chủ nghĩa tập đoàn, một chương trình này
nhằm mục tiêu giới hạn các quyền tự do cá nhân dưới danh nghĩa lợi nhuận. Họ cũng cho
rằng sự tự chủ và sức mạnh ngày càng tăng của các tập đoàn dần dần hình thành nên các
chính sách chính trị của nhà nước quốc gia.
Một số nhóm "chống toàn cầu hoá" lý luận rằng toàn cầu hoá chỉ đơn thuần là hình thức
đế quốc, là một trong những lý do căn bản dẫn đến chiến tranh Irac và là cơ hội kiếm tiền
của Mỹ hơn là các nước đang phát triển.
Một số khác cho rằng toàn cầu hoá áp đặt một hình thức kinh tế dựa trên tín dụng, kết quả
là dẫn tới các nợ nần và khủng hoảng nợ nần chồng chất không tránh khỏi.
Sự phản đối chủ yếu nhắm vào sự toàn cầu hoá không kiểm soát (như trong các chủ nghĩa
tân tự do và tư bản tự do tuyệt đối) do các chính phủ hay các tổ chức gần như chính phủ
(như Quỹ tiền tệ quốc tế và Ngân hàng thế giới) chỉ đạo và không chịu trách nhiệm đối
với quần chúng mà họ lãnh đạo mà thay vào đó gần như chỉ đáp ứng lợi ích của các tập
đoàn. Rất nhiều các cuộc hội thảo giữa các vị bộ trưởng tài chính và thương mại các nước
12
trong trục toàn cầu hoá đã gặp phải những phản kháng rầm rộ, đôi khi cũng có bạo lực từ
các đối tượng chống đối "chủ nghĩa toàn cầu tập đoàn".
Phong trào này quy tụ nhiều thành phần, bao gồm các nhóm tín ngưỡng, các đảng phái tự
do dân tộc, các đảng phái cánh tả, các nhà hoạt động vì môi trường, các hiệp hội nông
dân, các nhóm chống phân biệt chủng tộc, các nhà chủ nghĩa xã hội tự do và các thành
phần khác. Đa số theo chủ nghĩa cải cách (hay ủng hộ chủ nghĩa tư bản nhưng mang tính
nhân bản hơn) và một thiểu số tương đối thuộc thành phần cách mạng (ủng hộ một hệ
thống nhân bản hơn chủ nghĩa tư bản). Nhiều người đã chê trách sự thiếu thống nhất và
định hướng của phong trào, tuy nhiên một số khác như Noam Chomsky thì cho rằng sự
thiếu tập trung hoá kiểu này trên thực tế có thể lại là một sức mạnh.
Những người phản đối bằng phong trào công bằng toàn cầu đã tổ chức các cuộc gặp mặt
quốc tế lớn ở những thành phố nhỏ thay vì những trung tâm đô thị lớn như trước đây.
Ủng hộ toàn cầu hoá (chủ nghĩa toàn cầu)
Những người ủng hộ toàn cầu hoá dân chủ có thể được gọi là những người ủng hộ chủ
nghĩa toàn cầu. Họ cho rằng giai đoạn đầu của toàn cầu hoá là hướng thị trường, và sẽ
được kết thúc bởi giai đoạn xây dựng các thiết chế chính trị toàn cầu đại diện cho ý chí
của toàn thể công dân thế giới. Sự khác biệt giữa họ với những người ủng hộ chủ nghĩa
toàn cầu khác là họ không định nghĩa trước bất kỳ hệ tư tưởng nào để định hướng ý chí
này, mà để cho các công dân được tự do chọn lựa thông qua một tiến trình dân chủ.
Những người ủng hộ thương mại tự do dùng các học thuyết kinh tế như lợi thế so sánh để
chứng minh thương mại tự do sẽ dẫn đến một sự phân phối tài nguyên hiệu quả hơn, với
tất cả những ai tham gia vào quá trình tìm kiếm lợi ích từ thương mại. Thương mại tự do
sẽ cho những nhà sản xuất tại các nước một thị trường tiêu thụ rộng lớn hơn dẫn đến lợi
nhuận cao hơn. Đồng thời tạo ra sự cạnh tranh giữa các nguồn tư bản, từ đó đem lại lợi
ích cho người lao động trên toàn thế giới; cũng như cạnh tranh giữa nguồn nhân công trên
toàn thế giới sẽ mang lại lợi ích cho các nhà tư bản và trên hết là cho người tiêu thụ. Nói
chung, họ cho rằng điều này sẽ dẫn đến giá thành thấp hơn, nhiều việc làm hơn và phân
phối tài nguyên tốt hơn. Toàn cầu hoá đối với những người ủng hộ dường như là một yếu
tố dẫn đến phát triển kinh tế cho số đông. Chính từ điều này mà họ chỉ nhìn thấy trong sự
truyền thông hoá khái niệm "toàn cầu hoá" một cố gắng biện minh đầy cảm tính và không
duy lý của chủ nghĩa bảo hộ kinh tế.
Những người ủng hộ chủ nghĩa tự do cá nhân và những người ủng hộ chủ nghĩ tư bản tự
do tuyệt đối cho rằng mức độ tự do cao về kinh tế và chính trị dưới hình thức dân chủ và
chủ nghĩa tư bản ở phần thế giới phát triển sẽ làm ra của cải vật chất ở mức cao hơn. Do
vậy họ coi toàn cầu hoá là hình thức giúp phổ biến nền dân chủ và chủ nghĩa tư bản.
Họ phê phán phong trào chống toàn cầu hoá chỉ sử dụng những bằng chứng vụn vặt để
biện minh cho quan điểm của mình, còn họ thì sử dụng những thống kê ở quy mô toàn
cầu. Một trong những dẫn chứng này là tỉ lệ phần trăm dân chúng ở các nước đang phát
triển sống dưới mức 1 đôla Mỹ (điều chỉnh theo lạm phát) một ngày đã giảm một nửa chỉ
13
trong hai mươi năm [1]. Tuổi thọ gần như tăng gấp đôi ở các nước đang phát triển kể từ
Chiến tranh thế giới lần thứ hai và bắt đầu thu hẹp khoảng cách với các nước phát triển
nơi ít có sự cải thiện hơn. Tỉ lệ tử vong trẻ sơ sinh đã giảm ở các khu vực đang phát triển
trên thế giới [2]. Bất bình đẳng trong thu nhập trên toàn thế giới nói chung đang giảm dần
[3].
Nhiều người ủng hộ chủ nghĩa tư bản cũng phản đối Ngân hàng thế giới và Quỹ tiền tệ
quốc tế với lý luận rằng những tổ chức này đều tham ô, quan liêu do các nhà nước kiểm
soát và cung cấp tài chính, chứ không phải các tập đoàn kinh doanh. Nhiều khoản cho
vay chỉ đến tay những lãnh đạo độc tài không thực hiện bất kỳ một cải cách nào, rốt cuộc
chỉ dân thường là những người phải trả những khoản nợ này về sau. Một số nhóm đặc
biệt như các liên đoàn thương mại của thế giới phương Tây cũng phản kháng sự toàn cầu
hoá vì mâu thuẫn quyền lợi.
Tuy nhiên, thế giới ngày càng chia sẻ những vấn đề và thách thức vượt qua khỏi quy mô
biên giới quốc gia, nhất là vấn đề ô nhiễm môi trường tự nhiên, và như vậy phong trào
được biết đến trước đây với tên gọi phong trào chống toàn cầu hoá từ nay đã biến thành
một phong trào chung của các phong trào vì toàn cầu hoá; họ tìm kiếm, thông qua thử
nghiệm, các hình thức tổ chức xã hội vượt qua khỏi khuôn khổ nhà nước quốc gia và nền
dân chủ đại diện. Do đó, cho dù các lý lẽ của phe chống toàn cầu hoá lúc ban đầu có thể
bị bác bỏ thông qua các thực tế về quốc tế hoá như ở trên, song sự xuất hiện của một
phong trào toàn cầu là không thể chối cãi và do đó chúng ta có thể nói về một tiến trình
thực sự hướng tới một xã hội nhân bản ở quy mô toàn cầu của tất cả các xã hội
4.
TBKTSG) - Hội nhập kinh tế thế giới đã giúp Việt Nam đẩy mạnh xuất khẩu, thu
hút vốn đầu tư nước ngoài, tạo việc làm và nâng thu nhập trong những năm gần
đây. Đến nay, Việt Nam là một trong những quốc gia hưởng lợi từ toàn cầu hóa.
Tuy nhiên, toàn cầu hóa có nhiều hệ quả khác ngoài thương mại và đầu tư.
Trong nhiều trường hợp thì những hệ quả này nằm ngoài chọn lựa của một quốc
gia. Ví dụ, sự ấm lên của trái đất giờ đây đã được nhìn nhận là một mối nguy trước
mắt và lớn hơn so với vài năm trước. Những thay đổi lớn về điều kiện khí hậu,
bệnh tật và mực nước biển có thể mang lại nhiều thách thức nghiêm trọng trong
một hoặc hai thập niên sắp tới.
Việt Nam thực tế là một trong những quốc gia bị đe dọa nghiêm trọng nhất trên thế
giới, do khu vực ĐBSCL và một số khu vực khác hiện không cao hơn mực nước
biển bao nhiêu. Chỉ cần mực nước biển dâng cao khoảng nửa mét thì sẽ có nhiều
vùng đất trồng lúa bị ngập mặn và gây lụt trên diện rộng. ĐBSCL cũng bị những
hoạt động phát triển ở thượng nguồn sông Mêkông đe dọa, một số con đập có thể
sẽ làm thay đổi dòng chảy và lượng phù sa, khiến hoạt động canh tác nông nghiệp
trở nên khó khăn hơn.
Việt Nam không thể làm gì để thay đổi những xu hướng này trừ việc nghiên cứu và
chuẩn bị chuyển đổi phương pháp canh tác nông nghiệp và có lẽ nên chuyển những
14
nông hộ hiện nay sang các hoạt động phi nông nghiệp ở những vùng ít bị đe dọa
hơn. (Việc xây dựng những con đê ngăn biển có thể tác dụng với các thành phố,
nhưng sẽ không hiệu quả đối với những vùng đất nông nghiệp rộng lớn).
Sự chuyển dịch lao động này dù sao cũng xảy ra, nhưng có lẽ cần chủ động đẩy
nh anh nếu tốc độ thay đổi khí hậu diễn ra nhanh hơn so
với dự báo hiện nay. Một cách để đối phó khía cạnh hội nhập thế giới bất đắc dĩ
này là cân nhắc tác động tiềm tàng từ sự thay đổi của khí hậu lên Việt Nam và đẩy
mạnh hoạt động nghiên cứu để có cách thức giảm nhẹ những tác động này.
Một thí dụ khác về tác động của toàn cầu hóa là giá lương thực. Khi ngày càng có
nhiều ngũ cốc và những loại cây trồng được dùng để chế biến cồn và dầu sinh học,
giá lương thực sẽ gia tăng. Năm 2007, giá gạo theo đô la đã tăng 30%.
Nhà xuất khẩu lương thực có thể có lợi nhưng chi phí đối với người tiêu dùng
trong nước sẽ tăng. Trung Quốc gần đây cho biết sẽ áp đặt thuế xuất khẩu lên ngũ
cốc để giữ giá lương thực thành thị thấp hơn, dù rằng sẽ gây thiệt hại cho nông dân
trồng ngũ cốc. Mặc dù Việt Nam sẽ có lợi từ xu hướng này do xuất khẩu lương
thực, áp lực tăng giá lương thực sẽ đưa đến những hành động tương tự.
Ví dụ thứ ba về những kết nối toàn cầu không
mong muốn là bệnh tật. SARS đã là một cảnh
báo sớm về những gì có thể xảy ra khi xuất hiện
một loại bệnh mới. Trong trường hợp SARS,
thiệt hại đã được hạn chế trong vài tháng và mọi
chuyện sớm trở về bình thường với tương đối ít
ca tử vong.
Tuy nhiên, vẫn còn nguy cơ xuất hiện các căn bệnh khác. Các phương tiện truyền
thông đề cập nhiều đến một dòng virus cúm gia cầm có nguy cơ gây đại dịch. Nếu
loại H5N1 hiện nay hay một số loại virus mới khác học được cách lây lan hiệu quả
từ người sang người, thì chúng có thể gây ra hàng trăm triệu cái chết, bằng hoặc
qua mặt đại dịch cúm năm 1918 với 50 triệu người chết trong khi dân số thế giới
chỉ bằng một phần tư hiện nay.
Tổn thất kinh tế từ thảm họa trên có thể tính bằng ngàn tỉ đô la. Phản ứng của Việt
Nam đối với virus H5N1 không gây đại dịch là khá tốt, nhưng thế giới này khá nhỏ
bé và nếu Indonesia, Campuchia, Trung Quốc, Bangladesh hoặc Ai Cập không chế
ngự được virus này, thì có khả năng nó sẽ tiến hóa ở đó và lây lan ra khắp thế giới.
Để đối phó với mối đe dọa này đòi hỏi phải có một hệ thống y tế công mạnh và tổ
15
Kiều hối sẽ giúp cải thiện tình
hình tiêu dùng và giáo dục cơ
bản của người thân, hoặc
ngược lại cũng có thể là động
cơ khiến những người thân
này không muốn làm việc.
chức cộng đồng chặt chẽ, kể cả dự trữ đầy đủ lương thực và thuốc men. Đây sẽ là
một thách thức cho bất kỳ xã hội nào, dù giàu hay nghèo, trừ khi phát triển được
loại vắc xin hay thuốc chữa trị hiệu quả, mà có thể phải mất vài năm nữa. Cũng cần
có công nghệ tương tự để đối phó với chủ nghĩa khủng bố sinh học, là mối đe dọa
đáng ngại trong thập niên sắp tới.
Một lĩnh vực khác mà toàn cầu hóa khó kiểm soát là di trú. Việt Nam quen với suy
nghĩ cho rằng mình là nơi xuất phát, và có nhiều người Việt Nam muốn làm việc ở
nước ngoài. Tuy nhiên, nhiều người ở Campuchia và Lào có thể muốn làm việc ở
Việt Nam. Việc sử dụng lao động Trung Quốc ở một số dự án của Việt Nam là một
bằng chứng.
Mặc dù nhiều nước ngăn cấm việc di cư, nhưng thực tế rất khó để đóng cửa biên
giới hoàn toàn khi người lao động muốn làm việc và doanh nghiệp muốn thuê lao
động. Luồng di dân to lớn có thể có tác động quan trọng, tích cực lẫn tiêu cực, lên
số lượng lao động nội địa tăng thêm và cả xã hội.
Liệu Việt Nam sẽ ủng hộ những quy định cởi mở hơn để có nhiều người ra nước
ngoài làm việc hơn, hay muốn có nhiều biện pháp kiểm soát trong nước để không
cho lao động bên ngoài vào Việt Nam (có thể) làm việc, đổi lại sẽ có ít cơ hội hơn
cho lao động Việt Nam ở nước ngoài? Hay lao động vẫn cứ lưu chuyển bất kể luật
nói gì?
Một vấn đề khác liên quan nhưng không hoàn toàn giống là tình trạng “chảy máu
chất xám”. Nhiều quốc gia thấy nhân lực trẻ có trình độ tốt nhất của mình tìm cách
ra nước ngoài làm việc. Thông thường những lao động có trình độ này luôn được
chào đón ở nước khác, nên khó có thể cấm đoán buộc họ phải ở lại trong nước.
Nhưng khi đã không có những chính sách ràng buộc sự đi lại này, thì KHÔNG
THỂ không hội nhập với thế giới và không gặp phải vấn đề này.
Vấn đề lớn đến đâu còn tùy vào nhiều biến số. Một là tỷ lệ lao động có trình độ
muốn làm việc ở nước ngoài. Ở một số hòn đảo vùng Caribe, hơn ba phần tư sinh
viên đi làm ở nơi khác sau khi tốt nghiệp. Ở những nước lớn hơn có thể chỉ là vài
phần trăm. Tổn thất tương đối càng nhỏ, thì tác động của xu hướng di dân càng ít.
Hai là ở một số nước, sau một thời gian lưu trú ở nước ngoài, dân di cư thường hồi
hương mang theo họ những mối quan hệ, công nghệ và kỹ năng quý giá.
Điều này đã xảy ra ở Đài Loan và Hàn Quốc, và dường như đang diễn ra ở Trung
Quốc và Ấn Độ. Nếu những người di cư tích lũy được những kỹ năng quan trọng
và khả năng tiếp cận vốn và thị trường, sau đó hồi hương, thì sẽ rất tốt cho quê nhà
của họ. Vấn đề thứ ba là tình trạng di cư của lao động ngành y tế, một dạng lao
động đặc biệt khan hiếm.
Trong khi một số nơi quản lý tốt vấn đề này, cụ thể là Philippines nơi đào tạo số
lượng y tá nhiều hơn cả yêu cầu trong nước, thì nhiều nước khác lại không có năng
lực sản xuất dôi dư loại kỹ năng cần thiết này. Một cách giải quyết là đào tạo nhân
viên y tế theo hướng chuyên biệt theo nhu cầu cụ thể của địa phương, thay vì cứ
lặp lại cách đào tạo cũ, vốn chỉ để thỏa mãn nhu cầu của các nước giàu mà thôi.
Tóm lại, tình trạng chảy máu chất xám có thể vừa xấu vừa tốt, tùy vào việc nó
được quản lý như thế nào, quy mô và thành phần của nó ra sao.
16
Còn một vấn đề nữa đó là kiều hối. Kiều hối là tiền của người lao động ở nước
ngoài gửi về quê nhà. Các ước tính mới đây cho thấy lượng kiều hối toàn cầu là
khoảng 300 tỉ đô la, hơn cả lượng FDI đổ vào các nước đang phát triển và hơn hẳn
tiền viện trợ.
Theo một số ước tính, lượng kiều hối về Việt Nam là 10% GDP. Có thể xem đây là
suất sinh lợi từ đầu tư cho giáo dục, khi lao động di cư “hoàn trả” cho xã hội bằng
cách gửi tiền về cho người thân. Và suất sinh lợi này thường khá hấp dẫn. Nếu
những người bà con nhận tiền để mua hàng hóa chịu thuế nhập khẩu, thuế doanh
thu hay giá trị gia tăng thì một phần kiều hối sẽ đi vào ngân sách nhà nước.
Tuy nhiên, những người ra đi thường là rất năng nổ và có khả năng cải thiện tổ
chức, chứ không chỉ sản xuất ra hàng hóa. Tiền họ gửi về sẽ giúp cải thiện tình
hình tiêu dùng và giáo dục cơ bản của người thân, hoặc ngược lại cũng có thể là
động cơ khiến những người thân này không muốn làm việc.
Phải chăng những nước tăng trưởng chậm có lượng kiều hối cao là vì thành quả
ban đầu không tốt hay do chính lượng kiều hối này gây ra? Hay do cả hai? Phân
tích kinh tế về hai lĩnh vực này sẽ cho câu trả lời. Việt Nam đang tăng trưởng rất
nhanh nên vấn đề phân tích này không cấp bách, mà vấn đề là làm thế nào để sử
dụng kiều hối một cách hiệu quả để thúc đẩy tăng trưởng nhanh hơn hoặc đồng đều
hơn.
Vấn đề cuối cùng (trong bài này) của hội nhập toàn cầu có lẽ là văn hóa. Mỗi quốc
gia đều có nền văn hóa độc đáo riêng của mình. Nhưng văn hóa là một thực tế sống
động, nó cho và nhận với nền văn hóa khác và cũng tự làm mới mình. Quá trình
này đã diễn ra nhiều thế kỷ nay. Tuy nhiên, khả năng tiếp cận vô vàn thông tin trên
mạng điện tử và sự dễ dàng đi lại ngày nay khiến cho các luồng văn hóa trở nên
lớn hơn, nhanh hơn và dễ dàng hòa trộn hơn so với trước đây.
Nhiều nước đưa ra những nguyên tắc về nội dung văn hóa địa phương để nó không
bị lấn át. Xã hội Việt Nam là một xã hội tương đối mở và có nhiều Việt kiều.
Những chuyến viếng thăm, điện thoại, e-mail, việc tiếp cận với phim ảnh, âm nhạc
và ý tưởng qua mạng điện tử, tất cả sẽ khiến cho việc xác định đâu là “Việt Nam
đích thực”, đâu là vay mượn trở nên khó khăn.
Đây không phải là vấn đề gì to lớn đối với một nền văn hóa sống động, sẵn sàng
thích nghi với những ý tưởng phù hợp và chối bỏ những ý tưởng lệch lạc từ bên
ngoài. Tuy nhiên, nó có thể tạo ra một cảm giác bất an và thiếu tự tin về văn hóa.
Có lẽ, chúng ta đang hướng đến một nền văn hóa toàn cầu hoặc chúng ta sẽ bấu víu
lấy những biểu trưng và thực tiễn văn hóa của địa phương mình. Nếu văn hóa quốc
gia là điều kiện tiên quyết cho bản sắc quốc gia, thì có thể cần phải cân đối giữa sự
mở cửa chọn lọc với một nền văn hóa địa phương sống động.
Điểm cốt lõi của bài viết này là nêu ra nhiều lĩnh vực mà ở đó hội nhập toàn cầu
không còn là vấn đề chọn lựa, và chúng sẽ có những tác động quan trọng ở đâu
trong nước. Cách giải quyết không phải là cố gắng thu mình né tránh mà là ý thức
được những vấn đề tiềm tàng, để đưa ra những cách thức ứng phó phù hợp. Thông
thường các vấn đề này khó tránh khỏi dù muốn hay không. Nhưng khi có thể tránh
khỏi ở một chừng mực nào đó thì nên đối mặt và ứng phó với nó hơn là theo chủ
17
nghĩa cô lập.
Một đất nước với truyền thống hiếu học, khả năng khuyến khích những tranh luận
thẳng thắn các vấn đề này, cũng như khả năng phối hợp những bài học từ tranh
luận và kinh nghiệm thực tiễn vào chính sách sẽ có khả năng giải quyết các vấn đề
này tốt hơn một quốc gia không có các đặc tính trên. Sự ổn định trong hội nhập
toàn cầu giống như sự thăng bằng của một người đang chạy xe đạp trên đường, chứ
không phải đang sụp vào vũng lầy.
DAVID DAPICE (Quý Tâm biên dịch)
18