Hội đồng chỉ đạo xuất bản
Chủ tịch Hội đồng
pgs.TS. PHM VN LINH
Phó Chủ tịch Hội đồng
PHM CH THNH
Thnh viên
trần quốc dân
TS. Nguyễn ĐứC TI
TS. NGUYễN AN TIÊM
Nguyễn Vũ Thanh Hảo
LỜI NÓI ĐẦU
ể giúp các em học sinh ở các bậc học phổ
thông và sinh viên các trường đại học, cũng
như các bạn đọc xa gần muốn tìm hiểu lịch sử
Việt Nam một cách dễ dàng, dễ nhớ, chúng tôi
biên soạn bộ sách Truyện đọc Lịch sử Việt Nam.
Các truyện đọc trong bộ sách được sưu tầm và
biên soạn dựa trên nhiều nguồn tư liệu khác
nhau. Bộ sách sẽ đem đến cho các em học sinh,
sinh viên và bạn đọc nhiều điều thú vị và bổ
ích. Nội dung các truyện đọc không chỉ cung
cấp cho bạn đọc những kiến thức về lịch sử Việt
Nam, mà còn cung cấp những câu chuyện có
tính nhân văn và tính giáo dục về các sự kiện,
hiện tượng, nhân vật lịch sử, các thành tựu kinh
tế, văn hố tiêu biểu của dân tộc theo dịng thời
gian của lịch sử Việt Nam từ triều đại nhà
Nguyễn cho đến ngày nay.
Đ
Bộ sách gồm 3 tập:
Tập 1: Giới thiệu các truyện về triều đại nhà
Nguyễn thời độc lập tự chủ.
5
Tập 2: Viết về các truyện từ khi thực dân
Pháp xâm chiếm nước ta cuối thế kỷ XIX đến
Cách mạng tháng Tám thành công.
Tập 3: Là các truyện về giai đoạn lịch sử từ
sau Cách mạng tháng Tám đến nay.
Ở đầu mỗi tập truyện đọc, chúng tôi đều
giới thiệu một cách khái quát nội dung lịch sử
của giai đoạn mà các truyện đọc sẽ phản ánh để
bạn đọc tiện theo dõi.
Các tác giả cố gắng biên soạn theo nguyên
tắc ngắn gọn, rõ ràng và dễ hiểu; chỗ nào có
thuật ngữ khó hoặc có địa danh cổ, chúng tơi
đều có chú thích và giải nghĩa ở cuối trang.
Nhân tập 2 của bộ sách ra đời, chúng tơi xin
bày tỏ lịng biết ơn chân thành đối với các soạn
giả các tài liệu được sưu tầm, chọn dẫn và các
tác giả có tranh, ảnh được minh hoạ trong sách.
Mặc dù đã rất cố gắng, song cuốn sách chắc
chắn khơng tránh khỏi thiếu sót. Chúng tơi rất
mong nhận được những ý kiến đóng góp của
bạn đọc xa gần để sách được tốt hơn trong
những lần tái bản sau.
Nhóm tác giả
6
KHÁI QUÁT LỊCH SỬ VIỆT NAM
TỪ SAU CÁCH MẠNG THÁNG TÁM
ĐẾN NAY
au Cách mạng tháng Tám năm 1945, nước
Việt Nam Dân chủ Cộng hịa đứng trước
những khó khăn thử thách tưởng chừng không
thể vượt qua nổi. Nhưng Đảng, Nhà nước và
nhân dân ta đã dũng cảm, khôn khéo đấu tranh
với thù trong, giặc ngồi, bảo vệ chính quyền
cách mạng cịn non trẻ; đồng thời tranh thủ thời
gian hịa hỗn xây dựng chính quyền mới,
chuẩn bị những điều kiện căn bản cho cuộc
kháng chiến chống Pháp (1946-1954).
Trong những năm kháng chiến chổng Pháp,
nhân dân Việt Nam vừa kháng chiến vừa kiến
quốc. Nhiệm vụ kiến quốc tuy tiến hành trong
điều kiện kháng chiến, nhưng nhân dân ta đã
từng bước xây dựng, củng cố chế độ xã hội mới
về mọi mặt. Chính quyền dân chủ nhân dân
được giữ vững, không những tạo nên thắng lợi
của cuộc kháng chiến mà còn tạo cơ sở cho việc
S
7
xây dựng chế độ xã hội mới trong những giai
đoạn sau.
Năm 1954, sau Chiến thắng Điện Biên Phủ,
Hiệp định Giơnevơ được ký kết, cuộc kháng
chiến đã kết thúc thắng lợi. Miền Bắc được giải
phóng, bước vào thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa
xã hội. Trong những năm kháng chiến chống Mỹ
(1954-1975), nhân dân miền Bắc ra sức khôi phục
kinh tế và xây dựng cơ sở vật chất cho chủ nghĩa xã
hội, đồng thời đưa miền Bắc trở thành hậu
phuơng lớn, chi viện sức người, sức cứa cho tiền
tuyến và trực tiếp chiến đấu chống lại cuộc
chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỳ.
Nhân dân miền Nam tiếp tục tiến hành cách
mạng dân tộc dân chù trong điều kiện Mỹ thi
hành chính sách thực dân mới ở miền Nam, đã
từng bước đánh bại bốn chiến lược quân sự của
Mỹ và chính quyền Sài Gịn (Chiến tranh đơn
phương, Chiến tranh đặc biệt, Chiến tranh cục
bộ và Việt Nam hoá chiến tranh). Đại thắng
mùa Xn năm 1975, giải phóng hồn tồn
miền Nam khỏi sự thống tiị của đế quốc Mỹ và
chính quyền tay sai. Đó là kết quả và là đỉnh
cao của 30 năm chiến đấu vô cùng anh dũng
của quân và dân ta do Đảng Cộng sản Việt Nam
lãnh đạo. Thắng lợi năm 1975 đã mở ra một thời
kỳ mới: đất nước hịa bình, thống nhất đi lên chủ
nghĩa xã hội.
8
Năm 1976, nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam ra đời, công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã
hội diễn ra trên cả nước. Song trong 10 năm đầu
(1975-1985), do nhiều nguyên nhân chủ quan và
khách quan, đất nước ta rơi vào tình trạng
khủng hoảng, đời sống của nhân dân vơ cùng
khó khăn. Trước tình hình đó, Đại hội đại biểu
toàn quốc Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ VI
(1986) đã đề ra dường loi đổi mới đất nước, trọng
tâm là đổi mới về kinh tế. Qua hai kế hoạch 5
năm (1986-1990) và (1991-1995), đất nước về cơ
bản đã thoát ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã
hội, đời sống nhân dân được nâng lên.
Trong quá trình đấu tranh bảo vệ Tổ quốc và
xây dựng đất nước, người dân Việt Nam đã
được rèn luyện, đã hun đúc nên tinh thần hy
sinh anh dũng, truyền thống lao động cần cù,
sáng tạo, tính thích nghi và hội nhập, lối ứng xử
mềm mỏng, tính hiếu học, trọng nghĩa khí, lịng
nhân ái khoan dung. Trong hồn cảnh lịch sử
đó, trên đất nước ta đã xuất hiện biết bao những
tấm gương, những người con sẵn sàng hy sinh
vì nền độc tập, tự do của Tố quốc, những nhà
khoa học, những trí thức lớn đã làm việc khơng
biết mệt mỏi, đem hết tài trí của mình phục vụ
cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, cũng như
đem lại cuộc sống ấm no và niềm hạnh phúc
cho nhân dân. Đó chính là sức mạnh tiềm tàng,
9
là nguồn nội lực để nhân dân ta tiếp tục xây
dựng đất nước giàu mạnh, xã hội công bằng,
dân chủ, văn minh, hội nhập với sự phát triển
của khu vực và thế giới.
10
QUỸ ĐỘC LẬP TUẦN LỄ VÀNG
rước tình hình nguy ngập về tài chính, Chính
phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hịa kiên quyết
cắt giảm các khoản chi tiêu chưa thật cần thiết
và kêu gọi sự đóng góp của nhân dân. Ngày
4-9-1945, Bộ trưởng Bộ Nội vụ Võ Nguyên Giáp
T
Ông Trịnh Văn Bô (ngirời đầu tiên từ trái qua) và ông
Phạm Văn Đồng (người thứ tư từ trái qua) trước thềm
Nhà hát Lớn tại Tuần lễ Vàng năm 1945
11
thay mặt Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng
hịa ký Sắc lệnh số 4 thành lập “Quỹ Độc lập”.
Tiếp đó, trong khn khổ “Quỹ Độc lập” Chính
phủ đã đề ra chương trình tổ chức “Tuần lễ
Vàng” từ ngày 17 - 24/9/1945. Nhiều người góp
cả những vật kỷ niệm thân thiết như đôi
khuyên tai của một bà cụ đã sắm từ ngày còn là
con gái, hai chiếc nhẫn cưới của một cặp vợ
chồng; một cụ bà 80 tuổi mang tới một gói lụa
điều, bên trong là một nén vàng gia bảo nặng
mười bảy lạng; có gia đình qun góp tồn bộ
tư trang của những người trong nhà. Đặc biệt,
gia đình ơng bà Trịnh Văn Bô đã ủng hộ Quỹ
Độc lập 20 vạn đồng tiền Đông Dương - tương
đương 500 cây vàng. Trong Tuần lễ Vàng, gia
đình ơng bà đã đóng góp 117 cây vàng và vận
động người khác ủng hộ thêm 1.000 cây vàng
nữa. Chỉ trong một thời gian ngắn, các tầng lớp
nhân dân đã đóng góp được hơn 20 triệu đồng
và 370 kg vàng.
Vàng thu góp được đã dùng vào việc quốc
phịng. Những chiến sĩ ngồi chiến trường
nguyện hy sinh đến giọt máu cuối cùng, cịn
những người dân thì đóng góp vàng bạc, châu
báu cho Tổ quốc. Vì thế, Tuần lễ Vàng khơng chỉ
có ý nghĩa về “tài chính quốc phịng”, mà cịn có ý
nghĩa chính trị quan trọng.
Các đồn thể cứu quốc thường xuyên tổ
12
chức các cuộc lạc quyên ủng hộ bộ đội. Chỉ
trong “Ngày Len, vái, sợi” do Hội Phụ nữ cứu
quốc Hà Nội tổ chức đã quyên được 5.842 m
vải, 149 kg len, hàng nghìn bộ quần áo, chăn
màn, giày dép cho bộ đội.
Những đóng góp trên đã giúp Chính phủ
giải quyết được những khó khăn gay gắt trước
mắt, nhất là việc nuôi dưỡng, trang bị các đơn
vị Vệ quốc quân để chuẩn bị bước vào cuộc
kháng chiến.
13
CHỐNG “GIẶC DỐT”
gày 3-9-1945, trong phiên họp đầu tiên của
Hội đồng Chính phủ, Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã nói: “Nạn dốt là một trong những phương pháp
thâm độc mà bọn thực dân dùng để cai trị chúng ta...
Một dân tộc dốt là một dãn tộc yếu. Vì vậy, tơi đề
nghị mở một chiến dịch chống nạn mù chữ”. Tiếp
đó, ngày 8-9-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh ban hành
sắc lệnh 17/SL quyết định thành lập Nha Bình dân
học vụ; sắc lệnh 19/SL quy định các địa phương phải
mở các lớp học Bình dân học vụ chậm nhất trong
thời gian 6 tháng và sắc lệnh 29/SL thi hành cưỡng
bức việc học chữ Quốc ngữ khơng mất tiền.
Tồn dân đã sơi nổi hưởng ứng các sắc lệnh
trên của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Khắp nơi từ
thành phố đến nơng thơn, nhiều lớp Bình dân
học vụ đã được mở, lôi cuốn từ các em nhỏ đến
cụ già. Khẩu hiệu “Đi học là kháng chiến”, “Mỗi
lớp học là một tổ tuyên truyền kháng chiến” xuất
hiện ở khắp các đường phố, xóm làng.
Sau hơn một năm thục hiện chiến dịch
N
14
chống “giặc dốt” cả nước đã có 2,5 triệu người
thốt nạn mù chữ. Hệ thống giáo dục phổ thông
và đại học cũng được xây dựng và từng bước
phát triển theo ba nguyên tắc: dân tộc, khoa học
và đại chủng. Tiếng Việt được dùng trong các
văn bản chính thức của Nhà nước và trong việc
học tập, giảng dạy ở các trường học.
Thắng lợi của cuộc đấu tranh chống “giặc
dốt” ngoài ý nghĩa to lớn về văn hố, cịn là một
thắng lợi lớn về chính trị; tạo điều kiện để nhân
dân tham gia quản lý nhà nước và phát huy
quyền làm chủ của mình trong xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc.
15
CẢ NƯỚC CỨU ĐĨI
ản xuất lương thực để cứu đói và ni
dưỡng qn đội là cơng việc bức thiết mà
chính quyền cách mạng phải quan tâm lãnh đạo
nhân dân thực hiện. Ngày 3-9-1945, trong phiên
họp đầu tiên của Hội đồng Chính phủ, Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã phát động một phong trào
“Tăng gia sản xuất để chống nạn đóf , thực hiện
“tấc đất tấc vàng”. Người kêu gọi đồng bào cả
nước nhường cơm sẻ áo cho nhau, lập “hũ gạo
tiết kiệm”. Mười ngày một lần, tất cả đồng bào
nhịn ăn một bữa, gạo tiết kiệm được sẽ phát cho
người nghèo. Chính Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu
gương thực hiện đầu tiên.
Lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh được
nhân dân cả nước hưởng ứng. Mọi người nô
nức tăng gia sản xuất, chống đói như chống
giặc ngoại xâm. Tính đến cuối năm 1945, nhân
dân ta đã bỏ ra hơn 4 triệu ngày công, đào đắp
2,72 triệu m3 đất bổ trợ cho đê điều, đẩy lùi
nạn lụt. Diện tích trồng lúa được mở rộng gấp
S
16
rưỡi, diện tích trồng khoai lang tăng gấp ba, số
khoai lang thu hoạch tăng gấp bốn lần so với
năm 1943.
Nhờ sự nỗ lực vượt bậc của toàn dân, giá
gạo ở Bắc bộ hạ từ 700 đồng xuống 200 đồng 1
tạ. Cách mạng đã chiến thắng nạn đói ngay từ
những ngày đầu của chế độ mới. Kết quả đó
khơng những chỉ bồi dưỡng sức dân mà cịn
góp phần quyết định vào việc xây dựng và bảo
vệ vững chắc chính quyền cách mạng. Thắng lợi
trên mặt trận chống “giặc đói” vì vậy có ý nghĩa
chính trị to lớn, làm nổi bật tính ưu việt của
chính quyền cách mạng. Nhân dân càng thêm
tin tưởng và gắn bó với chế độ mới.
17
THỰC DÂN PHÁP
TRỞ LẠI XÂM LƯỢC NAM BỘ
a tuần lễ sau khi nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa ra đời (1945), thực dân Pháp - kẻ
đã đầu hàng phát xít Nhật ở Đơng Dương trước
đây, nay núp dưới bóng qn Anh trở lại xâm
lược nước ta.
Lợi dụng thời cơ Nhật đầu hàng Đồng minh,
Pháp đặt ngay kế hoạch chiếm lại Đông Dương.
Ngay từ ngày 2-9-1945, giữa lúc 50 vạn nhân
dân Sài Gịn họp mít tinh mừng Ngày Độc lập,
một số tên lính Pháp nấp trong nhà thờ Đức Bà
xả súng bắn ra làm 47 người chết, nhiều người
bị thương. Đây là một hành động khiêu khích
hết sức nghiêm trọng.
Dựa vào thế lực quân Anh và 5.000 lính
Nhật, đêm 22 rạng sáng ngày 23-9-1945 thực
dân Pháp nổ súng tiến công Sài Gịn, rồi mở
rộng chiến tranh ra tồn Nam bộ, Nam Trung
bộ. Ngày 26-9-1945, qua Đài phát thanh, Chủ
tịch Hồ Chí Minh kêu gọi đồng bào Nam bộ
B
18
anh dũng kháng chiến chống thực dân Pháp
xâm lược. Chính phủ đã ra huấn lệnh cho quân
và dân Nam bộ, đồng thời kêu gọi nhân dân cả
nước chi viện sức người, sức của cho cuộc
kháng chiến ở miền Nam; quyết định thành lập
lực lượng Nam tiến, đưa ngay vào tham gia
chiến đấu ở miền Nam.
Phụ nữ Đồng Tháp Mười đang đào hào
làm chướng ngại vật kháng chiến
Ngày 17-10-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh với
tư cách là Chủ tịch Chính phủ Lâm thòi nước
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã gửi điện văn
tới Tông thống Mỹ H.Truman khẳng định địa vị
pháp lý của Việt Nam trong các quan hệ quốc
19
tế, trong việc giải quyết các vấn đề của Việt
Nam và khu vực; trong Cơng điện gửi Tướng
Đị Gơn (Charles de Gaulle), người đứng đầu
Chính phủ Pháp; điện văn gửi Chủ tịch Quốc
hôi Pháp; điện văn gửi Hội nghị liên Phi; các
điện văn gửi Thống chế Tưởng Giới Thạch; thư
gửi Bộ trưởng Ngoại giao Hoa Kỳ... và trong các
cuộc trả lời phỏng vấn của báo chí trong, ngồi
nước vào các tháng 9, 10-1945, Chủ tịch Hồ Chí
Minh ln ln khẳng định chủ quyền của Việt
Nam, xác định rõ vị trí pháp lý của Chính phủ
Việt Nam Dân chủ Cộng hịa trên trường quốc
tế. Người yêu cầu các quốc gia tôn trọng thực tế
lịch sử hiển nhiên đó.
20
GỬI ĐỒNG BÀO NAM BỘ
gày 26-9-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi
thư cho đồng bào Nam bộ kháng chiến:
“Hỡi đồng bào Nam bộ!
Nước ta vừa tranh quyền độc lập, thì đã gặp
nạn ngoại xâm. Khi cịn chiến tranh với Nhật,
thì bọn thực dân Pháp hoặc đầu hàng hoặc chạy
trốn. Nay vừa hết chiến tranh thì bọn thực dân
Pháp hoặc bí mật hoặc cơng khai mị lại. Trong
bốn năm, họ đã bán nước ta hai lần. Nay họ lại
muốn thống trị dân ta lần nữa.
Tôi chắc và đồng bào cả nước đều chắc vào
lòng kiên quyết ái quốc của đồng bào Nam bộ.
Chúng ta nên nhớ lời nói oanh liệt của một nhà
đại cách mạng Pháp: “Thà chết tự do hơn sống
nô lệ”.
Tôi chắc và đồng bào Nam bộ cũng chắc
rằng Chính phủ và tồn quốc đồng bào sẽ hết
sức giúp những chiến sĩ và nhân dân hiện đang
hy sinh đấu tranh để giữ vững nền độc lập của
nước nhà.
N
21
Tôi chắc và tất cả đồng bào đều chắc rằng
những người và những dân tộc yêu chuộng
bình đẳng, tự do trên thế giới đều đồng tình với
chúng ta.
Chúng ta nhất định thắng lợi vì chúng ta có
lực lượng đồn kết của cả quốc dân. Chúng ta
nhất định thắng lợi vì cuộc tranh đấu của chúng
ta là chính đáng.
Ban Chỉ huy quân sự cùa ủy ban kháng chiến hành chỉnh Nam bộ,
tháng 10-1945
Tôi chỉ muốn dặn đồng bào Nam bộ một lời:
“Đối với những người Pháp bị bắt trong lúc
chiến tranh, ta phải canh phòng cho cẩn thận,
nhưng phải đối đãi với họ cho khoan hồng.
22
Phải làm cho thế giới, trước hết làm cho dân
Pháp biết rằng: “Chúng ta là quang minh chính
đại. Chúng ta chỉ địi quyền độc lập, tự do, chứ
chúng ta khơng vì tư thù, tư ốn; làm cho thế
giới biết rằng chúng ta là một dân tộc văn minh,
văn minh hon bọn đi giết người cướp nước.
Nước Nam độc lập m n năm ì Đồng bào Nam
bộ mn năm ì ”
23
CẢ NƯỚC HƯỚNG VỀ NAM BỘ
rước hành động gây chiến trắng trợn, tàn
bạo của thực dân Pháp, Trung ương Đảng,
Chính phủ và Chủ tịch Hồ Chí Minh kêu gọi
đồng bào cả nước dốc sức ủng hộ cuộc kháng
chiến của đồng bào miền Nam.
Hưởng ứng lời kêu gọi của Đảng và Bác HÒ,
phong trào ủng hộ kháng chiến miền Nam diễn
ra sôi nổi khắp nơi. Lời ca: “Tiếng súng vang
sông núi miền Nam. Ta muốn băng mình tới
phương Nam giết hết quân tham tàn...” ngày đêm
thôi thúc, giục giã mọi người lên đường cứu
nước. Hầu hết các tỉnh Trung bộ và Bắc Trung
bộ lập “Phòng Nam bộ ” ghi tên những người
vào Nam giết giặc.
Các đơn vị Nam tiến được tổ chức, xây dựng
theo nguyên tắc tổ chức biên chế chặt chẽ, lựa
chọn trong số những người hăng hái tình
nguyện đã được huấn luyện qn sự hoặc đã có
ít nhiều kinh nghiệm chiến đấu, được trang bị
các loại vũ khí tốt nhất, có đủ phụ tùng thay
T
24
Đoàn quân "Nam tiến ” lên đường vào Nam chiến đẩu
(Ảnh: Nguyễn Bá Khoản)
thế và đạn dược bổ sung; cán bộ chỉ huy phải là
những người đã tham gia chiến đấu, được thử
thách, có kỷ luật, đồn kết chặt chẽ với đội viên.
Việc bảo vệ mọi mặt cho bộ đội Nam tiến do địa
phương phụ trách; việc điều động, sử dụng
thuộc quyền các bộ chỉ huy các mặt trận, tuỳ
theo khả năng nhân tài, vật lục của từng địa
phương mà tổ chức nhiều hay ít đơn vị Nam
tiến. Rất nhiều thanh niên, phụ nữ, thiếu niên
bao gồm công nhân, nông dân, thợ thủ công,
học sinh, sinh viên, thầy thuốc, kỹ sư, nhà văn,
nhà giáo, viên chức..., cả một số nhà sư cũng cởi
áo cà sa tình nguyện lên đường chiến đấu với
khí thế sục sơi của những ngày Tổng khởi nghĩa
tháng Tám. Có cả những Việt kiều mới về nước
25