CHIẾN DỊCH TỐ CỘNG
(1954-1960)
gày 7-7-1954, trước khi Hiệp định Giơnevơ
được ký kết 13 ngày, Mỹ đã đưa Ngơ Đình
Diệm về miền Nam Việt Nam làm Thủ tướng.
Sau ngày Hiệp định Giơnevơ được ký kết một
thời gian, Mỹ, Chính quyền Sài Gòn và Pháp
đã phá hoại việc thực hiện các điều khoản
Hiệp định. Tháng 9-1954, Mỹ quyết định viện
trợ trực tiếp cho Ngơ Đình Diệm, rồi cử tướng
Cơlin sang làm đại sứ ở Sài Gòn. Mỹ đề ra kế
hoạch củng cố chính quyền Ngơ Đình Diệm
nhằm độc chiếm miền Nam bằng chủ nghĩa
thực dân kiểu mới.
Trong những năm 1954-1960, chính sách cơ
bản của Mỹ và chính quyền Sài Gịn là “tố
Cộng, diệt Cộng”, coi đó là quốc sách bao trùm
tất cả các hoạt động. Chúng xác định chiến dịch
tố Cộng là chủ lực của công cuộc cách mạng
quốc gia.
Ngày 20-7-1955, chiến dịch “tố Cộng” chính
N
145
thức được phát động. Chiến dịch “tố Cộng”
khởi nguồn từ Quảng Nam, Quảng Trị, Thừa
Thiên - Huế, sau đó mở rộng ra các nơi khác.
Sau khi ban hành chính sách “tố Cộng, diệt
Cộng”, địch thẳng tay đàn áp, bắt bớ, khủng bố,
bắt tù đày giết hại nhân dân miền Nam. Nhiều
sắc lệnh, chỉ dụ, luật... được ban hành, trong đó
chung nhất là
Đạo luật 10/59. Đây là đạo luật phát xít, cực
kỳ phản động. Chúng tuyên truyền rộng rãi
Luật 10/59, trích nội dung điều 1 và điều 2 quy
định phạt tử hình hay tù khổ sai, bắt mọi nhà
treo dán lên tuờng, vách hoặc những nơi cơng
cộng. Cùng với điều đó, bộ máy “tố Cộng”
đuợc thiết lập từ Trung ương đến cơ sở, có sự
liên kết giữa các Bộ Thơng tin, Quốc phịng,
Cơng an, Tổng nha Cảnh sát... dưới hình thức
“Hội đồng tố Cộng” và “Ban Chỉ đạo tố CộngBan
Chỉ đạo tố Cộng các cấp gồm những tên phản
động, chống phá cách mạng, chống nhân dân
với nhiều thủ đoạn thâm độc và dã man.
Chiến dịch “tố Cộng” của địch gồm bốn nội
dung chủ yếu:
Phát động tổ chức học tập chiến dịch “tố
Cộng” rộng rãi trong nhân dân.
Bắt giam cầm các đối tượng “Việt Cộng”
theo danh sách đã định.
146
Tổ chức các lớp “chỉnh huấn”, “cải tạo tư
tưởng”, tiến hành kiểm thảo, khai thác, tố giác.
Tổ chức “ly khai” vào cuối các đợt “chỉnh
huấn” và các buổi mít tinh trước công chúng.
Tại các thôn, xã, khu phố, địch bắt nhân dân
học tập, phát động dân tố giác “Việt Cộng”.
Những người thuộc diện “chinh huấn”, “cải tạo
tư tưởng'’ gồm: những người kháng chiến cũ,
những người có thân nhân tập kết miền Bắc,
cựu cán bộ là đảng viên (Đảng Lao động Việt
Nam), những người tán thành hịa bình, hiệp
thương tổng tuyển cử, những người bị tình nghi
có liên hệ với Việt Cộng...
Chiến dịch tố Cộng đã gây nhiều tổn thất
cho phong trào cách mạng miền Nam. Nhiều
cán bộ, đảng viên bị địch bắt bớ, giết hại, tổ
chức Đảng ở cơ sở bị phá vỡ. Chỉ tính riêng
huyện Hương Thủy ở Thừa Thiên - Huế, từ
3.000 đảng viên vào tháng 7-1954 đến cuối năm
1956 chỉ còn lại 10 đảng viên.
147
CUỘC KHỞI NGHĨA TRÀ BỒNG
(QUẢNG NGÃI)
gày 13-3-1959, khoảng 400 đồng bào của hai
xã Trà Giang, Trà Thủy kéo xuống quận lỵ,
biểu tình phản đối trị “bầu cử Ouổc hội” của Mỹ Diệm. Địch đàn áp, giải tán cuộc biểu tình và
mấy ngày sau đưa lính lên khủng bố. Trước
tình hình đó, nhân dân đã vùng dậy đấu tranh.
Ngày 25-8-1959, Ban cán sự miền Tây chỉ thị
cho phép lãnh đạo nhân dân nổi dậy đánh trả
lại địch; sử dụng đơn vị 339 đưa về các địa
phương để hỗ trợ cho nhân dân và các lực
lượng bán vũ trang đánh địch.
Sáng 28-8-1959, cuộc khởi nghĩa đã nổ ra và
thắng lợi ở Trà Bồng (Quảng Ngãi). Nhân dân
xã Trà Bồng kéo ra rẫy, ra rừng tẩy chay cuộc
bầu cử, dùng lý lẽ để đấu tranh, tranh thủ binh
lính của qn đội Sài Gịn. Nhân dân các xã Trà
Phong, Trà Thanh, Trà Nham cũng đã vùng
dậy, dùng vũ khí thơ sơ tiêu diệt địch. Đến trưa
thì cuộc khởi nghĩa đã lan ra 16 xã vùng cao. Tất
N
148
cả những người dân tộc Co làm việc cho chính
quyền Sài Gòn đều tham gia khởi nghĩa. Địch
phải rút bỏ quận lỵ. Các ủy ban tự quản của
nhân dân lần lượt được thành lập. Ngày 3-91959, nhân dân xã Trà Phong mở đại hội bầu ra
ủy ban nhãn dãn tự quản. Sau đó, lần lượt ở 16 xã
vùng cao đã bầu ra ủy ban nhân dân tự quản.
Liên tục 8 ngày vùng dậy đấu tranh, nhân
dân Trà Bồng đã đập tan bộ máy ngụy quyền
trong thị trấn, quét sạch các đồn bốt, tiêu diệt 161
tên địch và làm bị thương hàng trăm tên khác.
Từ Trà Bồng, cuộc khởi nghĩa đã nhanh
chóng lan ra các huyện miền núi khác, theo
đúng chủ trương của tỉnh. Cuối tháng 8 và
tháng 9-1959, từ vùng cao tới vùng thấp của các
huyện miền Tây Quảng Ngãi bao gồm bốn dân
tộc: Co, Hrê, Xơđăng và Kinh, đồng bào đã
vùng lên khởi nghĩa đập tan bộ máy ngụy
quyền, thiết lập chính quyền cách mạng.
149
MỞ ĐƯỜNG HỒ CHÍ MINH TRÊN BỘ
giờ sáng ngày 19-5-1959, cán bộ từng trung
đội đi báo động miệng từng nguời, chỉ sau 4
phút là đội ngũ đã sẵn sàng, chỉnh tề. Đồng
chí Đại đội truởng điểm danh xong, đọc lệnh
hành quân khân cấp, chỉ để lại hai quân nhân
quản lý doanh trại và chăm lo vườn rau tăng gia.
Lệnh xuất phát, toàn đoàn vừa đến chân rừng xã
Trường Thủy, Quảng Bình, cấp trên cho tạm
nghỉ giải lao, chỉnh đốn trang bị và được phát
thêm dụng cụ cuốc, xẻng, xà beng, mìn và kíp
nổ. Đồn lại hành qn, đồng chí đi trước truyền
cho đồng chí đi sau: “Đơn vị chúng ta đi mở
đường Trường Sơn!”. Thật là hồ hởi, nức lòng
chiến sĩ, có chiến sĩ mừng, reo lên. Đồn đi sâu
vào rừng, lên những đường mòn mà nhân dân
thường đi lấy củi, làm than hoặc săn bắn. Có
lệnh dừng, tất cả các trung đội, tiểu đội cho làm
lán để ở tạm, vội vã người cầm dao chặt cây,
người chuẩn bị ni lông... Một lúc sau đã xong.
Các Tiêu đội trưởng đi nhận nhiệm vụ về, có
người thấy chống ngợp lên vì vách núi đá
4
150
dựng đứng, toàn đá tai mèo1, các bụi tre gai,
dây mây rừng chằng chịt. Mỗi ngày một người
chúng tôi phải đào bình quân được 5 m3 đất, 2
m3 đá, nhưng do lịng quyết tâm cịn “cao hơn
núi” của chúng tơi, đất đá cũng phải cúi đầu.
Thanh niên xung phong đi mở đường Trường Sơn
Sau một tuần đầu tiên nỗ lực, con đuờng đã
dần hình thành, tuy cịn nham nhở, nhung đã
dài được 25 km. Ban chỉ huy công trường tuyên
dương những tổ đội làm giỏi. Những ngày tiếp
theo, đôi tay các chiến sĩ đã phồng rộp, rát
bỏng, lưng rớm máu vì gai rừng, có chiến sĩ cịn
bị đá đè vào chân...
_______________
1. Núi đá tai mèo: Núi đá lịm chởm, có nhiều chỗ nhô
lên, nhọn hoắt giống như tai mèo.
151
Làm đường trong điều kiện khó khăn như
vậy, song vẫn phải bảo đảm về yêu cầu kỹ
thuật, độ vát taluy1 từ vách núi xuống mặt
đường không dưới 45°, dốc mặt đường không
quá 13° để xe chạy không tuột ra khỏi đường,
dưới vách đá lại phải có rãnh thốt nước. Hằng
ngày cứ 11 giờ bộ đội nghỉ ăn trưa là lúc mìn nổ
để phá núi đá. Tiếng nổ đinh tai, nhức óc, khói
mù mịt, những tảng đá lớn nhỏ, đất cát văng tứ
tung, đổ ầm ầm. Các chiến sĩ lại tiến hành xúc,
đào những khối đất đá khổng lồ dưới cái nắng
như đổ lửa của núi rừng Trường
Sơn, tưởng như không thể chịu đựng nổi.
Thế nhưng con đường cứ mỗi ngày một vươn
dài vào Nam.
Chiều tối, các chiến sĩ trở về lán trại, nhìn lên
sườn núi, từng tốp người dân tộc Vân Kiều, Cơ
Ho gùi từng gùi bắp, sắn, củi ở rừng về buôn
làng. Xa xa nghe tiếng lốc cốc của đàn trâu đang
gõ mõ2 dưới chân nhà sàn, các con chó cũng leo
_______________
1. Taluy: Khi bạt núi để làm đường, phải bạt vát
nghiêng để không bị sụt lở khi trời mưa to. ở trên vách
núi bạt sâu, dưới chân bạt ít đi, tạo thành vách nghiêng.
2. Trâu gõ mõ: Ở miền núi, đồng bào nuôi trâu
thường thả tự do vào rừng. Mỗi con trâu được đeo vào cổ
một cái mõ làm bằng luồng hoặc bưomg, khi trâu đi hoặc
leo lên dốc phát ra những tiếng kêu lốc cốc đều đều rất
vui tai, nhờ đó đồng bào có thể kiểm sốt được đàn trâu
của mình.
152
lên các bậc thang, trên bầu trời khói lam bay là
là tỏa như sương mờ. Và rồi sáng hôm sau, lại
cuốc, xẻng, xà beng ra đường. Cứ vậy mà mở
đường, kéo dài con đường Vít Thù Lù băng qua
làng Ho rồi chẽ ra hai hướng thành Trường Sơn
Đông và Trường Sơn Tây tại ngã ba này. Đến
đây đơn vị chúng tôi lại được lệnh đi nhận
nhiệm vụ mới, bàn giao các phương tiện làm
đường cho các đơn vị 559 tiếp tục. Chúng tôi lại
vượt Trường Sơn đi chiến đấu.
153
CHUYẾN HÀNG VẬN CHUYỂN
VŨ KHÍ ĐẦU TIÊN
ế hoạch tiến hành vận chuyển vũ khí phải
tuyệt đối bí mật, phải cải trang, xóa mọi dấu
vết trên trang bị, đồ dùng cá nhân của bộ đội
miền Bắc, thực hiện nghiêm chỉnh việc lánh dân,
tránh địch nhưng phải dựa vào dân để bảo vệ
tuyến đường, phải thực hiện việc “đi không dấu,
nấu không khói, nói khơng tiếng”. Các cán bộ
chiến sĩ Đồn 301 chia nhau lên rừng tìm mây,
đan mỗi người một chiếc gùi rộng như chiếc gùi
của đồng bào dân tộc, thay cho ba lô. Khi đi
đường chỉ được mang theo quần áo lót, khăn
mặt, tăng, ni lơng, võng. Cịn tất cả trang phục
giặt giũ xếp gọn vào ba lô bộ đội ghi họ tên, đơn
vị (Trạm) giao nộp vào kho Ban Hậu cần cất giữ.
Mọi người đều mặc quần áo bà ba đen và dép
cao su làm bằng vỏ lốp ô tơ phế thải.
Những ngày đầu tiên, có lệnh của lãnh đạo
cho các trạm nhận hàng theo kế hoạch sâu đo
(giao hàng sang vai: trong ra nhận, ngoài giao ở
K
154
khoảng giữa hai trạm). Tồn bộ đội hình vận
chuyển được chia thành 9 trạm dọc theo phía
Bắc và phía Nam đường 9.
Các chiến sĩ vận chuyển bằng gùi trên đôi vai
với trọng lượng bình qn 45 kg/một người
(khơng kẻ cơm nước, đồ dùng cá nhân), trừ trạm 1,
chỉ làm nhiệm vụ chuyển vào được bố trí 20
người, các trạm khác vừa ra đón hàng vừa
chuyển vào, được bố trí 40 người, riêng trạm 9 bố
trí 24 người (2 người giữ trạm và dự bị ốm đau).
Do có sự phản bội của một cán bộ ở huyện
Hướng Hoá, nên địch lùng sục ta ở vùng Làng
Vây - Lao Bảo. Tay chân địch ở đây rất nhiều. Vì
vậy, chỗ vượt đường 9 (nằm giữa trạm 6 và 7), từ
phía Đơng Khe Sanh, giữa đồn Rào Quán và đồn
Ba Trăng, các chiến sĩ bộ đội phải vượt bằng
nhiều cách như ban đêm đi sát đồn Rào Quán;
dùng ni lông nối thành tấm rộng 4 m dài 10 m,
trải qua ngang đường 9, đi qua xong, trinh sát
cuốn lại; hoặc lợi dụng lối mòn có sẵn ở đồn điền
cà phê Ba-Rhơm hoặc bị qua cống thốt nước
Rào Qn đường kính 1,2 m để qua đường.
Sáu ngày đầu vận chuyển lương thực, thực
phẩm (gạo, muối, mỡ) theo nguyên tắc trạm xa
nhất (trạm 9) nhận trước và lùi dần lại đến trạm
2. Sau một thời gian vận chuyển lương thực,
thực phẩm, chúng tôi vận chuyển vũ khí và
trang bị có kèm theo gạo, thực phẩm.
155
Mỗi ngày trạm 1 chuyển cho trạm 2,18 gùi
hàng, trong đó có 15 gùi hàng là vũ khí các loại
đóng gói bí mật, chỉ ghi ở ngồi ký hiệu: “Chị
Thể”, “Bác Hòa”, “Anh Tụ”, “Chú Loan”. Ký
hiệu ấy chỉ bộ phận đóng gói Đồn 559 biết, cịn
ở Đồn 301 khơng ai biết trong đó là vũ khí gì.
Đến ngày 20-8-1959, Đồn 301 đã giao
chuyến hàng vũ khí đầu tiên gồm 30 gói cho
Liên khu 5 tại Bắc ALưới. Đồng chí Tư Vạn Liên khu ủy Khu 5 trực tiếp đón nhận đã bắt
tay thân mật các chiến sĩ trạm 9, rồi chỉ vào các
bó súng, hịm đạn và nói:
- Chính quyền là đây, độc lập, thống nhất
nước nhà là đây. Ôi, sung sướng lắm các đồng
chí ơi!
Tải đạn ra chiến trường
156
Chuyến vận chun hàng đầu tiên thắng lợi
tạo khơng khí thi đua trong toàn Đoàn 301. Anh
em thay nhau mang vác, có nhiều người ln
mang trên vai 60 kg như Thi Huỳnh, Phan Mùi,
Nguyễn Sơn, Nguyễn Văn Trí... Anh Trần Mẹo
ở trạm 4, người bé nhỏ chỉ cao 1,45 m, nặng 39
kg, nhưng đã mang đến 50 kg.
Sau 17 tháng vận chuyển bằng “chân đồng,
vai sắt”, mỗi ngày Đoàn 301 đã chuyển bình
quân được 900 kg, tổng cộng đã chuyển 355,50
tấn vũ khí, 71,10 tấn qn dụng, góp phần cho
sự nổi dậy ở miền Nam và sự ra đời Mặt trận
Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam ngày
20-12-1960.
157
ĐƯỜNG HỒ CHÍ MINH TRÊN BIỂN
rước sự phát triển của phong trào cách mạng
miền Nam, Bộ Chính trị và Quân ủy Trung
ương quyết định nghiên cứu mở tuyến đường
vận tải bí mật trên Biển Đơng chi viện trực tiếp
cho Qn Giải phóng miền Nam.
Tiểu đồn vận tải biển 603 được thành lập,
đóng tại cửa sơng Gianh - Quảng Bình với tên
gọi là “Tập đồn đánh cá sơng Gianh”. Thuyền
được ngụy trang giống thuyền đánh cá của ngư
dân miền Nam. Sau một thời gian tập luyện,
thăm dò và chuẩn bị mọi mặt, đêm 30 Tết Canh
Tý (27-1-1960), chuyến tàu đặc biệt đầu tiên
xuất phát, gồm 6 người do Nguyễn Bất chỉ huy.
Ngày 23-10-1961, Bộ Quốc phịng ra Quyết
định thành lập Đồn vận tải 759, cịn gọi là
“Đồn tàu khơng sổ “. Sau đó, đồn 759 được đổi
thành ĐmM25 trực thuộc Bộ tư lệnh Hải
quân. Trên con đường dài hàng nghìn hải lý,
đối mặt với mn trùng sóng gió, bão tố và kẻ
thù ngăn chặn, các chiến sĩ “Đồn tàu khơng
T
158
số” đã phải vượt qua biết bao khó khăn, gian
khổ, hy sinh để đưa hàng vào Nam và giữ bí
mật cho con đường chiến lược.
Đoàn vận tài ỉ 25 Hải quân vận tải vũ khí cho chiến trirờng miền Nam
Sau khi một chiếc tàu khơng số đến Vũng
Rơ thì bị địch phát hiện và tấn cơng. “Đường
Hồ Chí Minh” trên biển bị lộ. Những chuyến
hàng của “Đồn tàu khơng số” phải cải dạng
thành tàu hàng, tàu đánh cá nước ngoài, xuất
phát từ nhiều bến dã chiến và phải hành trình
theo hải đồ quốc tế. Nhiều tấm gương chiến
đấu ngoan cường, hy sinh quả cảm của các
chiến sĩ “Đồn tàu khơng số” đã mãi mãi đi
vào lịch sử. Con tàu không số, mang bí số 235
có nhiệm vụ chở 14 tấn vũ khí đến điểm tập
kết, thả hàng ở bến Hịn Hèo tỉnh Khánh Hòa
do thuyền trưởng Nguyễn Phan Vinh chỉ huy.
159
Trên đường đi, tàu bị địch phát hiện, chúng
huy động 7 tàu chiến và cả máy bay đến thả
pháo sáng, bắn rốckét nhằm bắt sống toàn bộ
thủy thủ trên tàu. Các chiến sĩ chống trả quyết
liệt và thả những thùng vũ khí xuống biển hy
vọng các chiến sĩ ta sẽ vớt được... Nhưng do
tàu bị bắn nên hỏng nặng, các chiến sĩ trên tàu
hy sinh, chỉ còn 2 người. Anh Vinh quyết định
hủy con tàu, rồi cùng một chiến sĩ nữa nhảy
xuống biển. Do bị thương và đuối sức, anh đã
hy sinh. Anh được Nhà nước truy tặng danh
hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang và đã được
chọn đặt tên cho một hòn đảo thuộc quần đảo
Trường Sa thân yêu - đảo Phan Vinh.
160
ĐỒNG BÀO BẾN TRE “ĐỒNG KHỞI”
êm 2-1-1960, tại xã Tân Trung, ban lãnh đạo
tỉnh Bến Tre họp bàn về chủ trương “đồng
khởi”. Hội nghị nhất trí phát động một tuần lễ
tồn dân đồng khởi, diệt ác ơn phá thế kìm kẹp,
giải phóng nơng thơn, làm chủ ruộng vườn và
quyết định khởi nghĩa thống nhất từ ngày 25-11960 lấy ba huyện Minh Tân, Mỏ Cày, Thạnh
Phú làm điểm đột phá mà điểm chính là Mỏ
Cày. Hội nghị đề ra một số biện pháp tiến hành
như: phải đánh tới tấp, phát triển hết khả năng,
không hạn chế.
Kế hoạch tiến hành được giữ bí mật tuyệt
đối. Đúng 8 giờ sáng ngày 17-1-1960, tại xã
Định Thủy cách Mỏ Cày 3 km, các đồng chí
lãnh đạo đã chớp thời cơ nổ súng. Thạnh Phú,
Minh Tân và Mỏ Cày đồng khởi nhất loạt đêm
17-1-1960. Trước tình hình phát triển thắng lợi,
ngay đêm 17-1-1960, Ban lãnh đạo “đồng khởi”
thảo ra một quân lệnh gồm mấy điểm sau:
Anh em binh sĩ dù có tội ác thế nào, nếu biết
Đ
161
ăn năn, hối cải, mang súng trở về với nhân dân
sẽ được khoan hồng tha thứ;
Tề xã, tề ấp, trưởng liên gia, công an, chỉ
điểm viên đi trả chức và ra thú tội với nhân dân
thì được nhân dân tha tội;
Địa chủ nào dựa hơi địch, giật đất, tăng tô
của nông dân phải trả lại cho nông dân.
Quân lệnh nêu thời hạn từ ngày 17-1 đến 251-1960, nếu ai không tuân lệnh sẽ bị nhân dân
lên án, tử hình, tịch thu tài sản.
Qua một đêm “đồng khởi”, bộ máy kìm kẹp
của địch ở một số xã bị tan rã hẳn. Sau hai
ngày, địch mất bốt Định Thủy, Bình Khánh,
Phuớc Hiệp. Ta giải phóng hồn tồn ba xã:
Định Thủy, Phuớc Hiệp, Bình Khánh. Trung
đội giải phóng đầu tiên của Bến Tre đuợc
thành lập trong phong trào “đồng khởi” đã
làm lễ ra mắt tại một vuờn dừa của xã Bình
Khánh, huyện Mỏ Cày.
Từ thắng lợi này, chỉ trong một tuần (từ 17
đến 24-1-1960), 47 xã thuộc các huyện Mỏ Cày,
Giồng Trôm, Châu Thành, Ba Tri, Thạnh Phú,
nhân dân nhất tề nổi dậy. 22 xã diệt ác, lấy đồn,
giải phóng hồn tồn xã, 25 xã khác giải phóng
nhiều ấp.
162
ẤP CHIẾN LƯỢC
Ở MIỀN NAM VIỆT NAM
(1961-1965)
iến hành cuộc chiến tranh xâm lược miền
Nam Việt Nam, đế quốc Mỹ đã tìm mọi cách
triệt để phá tận gốc cơ sở của chiến tranh du
kích, cơ lập và đi đến tiêu diệt lực lượng cách
mạng. Vì vậy, trong suốt 20 năm xâm lược Việt
Nam, Mỹ đã coi bình định là vấn đề quan trọng
nhất, trong đó quốc sách ấp chiến lược mà Mỹ
và chính quyền Sài Gịn tiến hành ở miền Nam
giai đoạn 1961-1965 là điển hình trong chính
sách của chúng.
Chính sách dồn dân lập ấp chiến lược nhằm
ba mục tiêu chính:
- Thứ nhất, tách dân ra khỏi cộng sản, giành
giật nông dân và địa bàn nông thôn với lực
lượng cách mạng, triệt phá cơ sở của chiến
tranh du kích, nhằm cơ lập và đi đến tiêu diệt
cách mạng miền Nam.
Thứ hai, trên cơ sở tập trung rào ấp, kìm kẹp
T
163
và kiểm sốt nhân dân, Mỹ hịng biến nơng
thơn miền Nam Việt Nam thành nơi cung cấp
nhân lực, vật lực cho cuộc chiến tranh xâm lược.
Thứ ba, biến ấp chiến lược thành những điểm
tựa cho quân đội. Âp chiến lược như những
pháo đài, những phòng tuyến quân sự để tiến
hành các cuộc hành quân càn quét, chống phá
các lực lượng cách mạng ở bên ngoài.
Từ tháng 7-1961, Mỹ - Diệm gấp rút tăng
cường lực lượng vũ trang, triển khai thí điểm
dồn dân lập ấp chiến lược ở các địa phương
thuộc các tỉnh Tây Ninh, Bình Dương, Biên
Hịa, Quảng Ngãi... và sau đó áp dụng rộng rãi
ở một số tỉnh thuộc đồng bằng sơng Cửu Long.
Từ năm 1961, Mỹ và chính quyền Sài Gòn phát
động phong trào lập ấp chiến lược trên toàn
miền Nam. Sau khi rào làng, dồn dân vào
những khu vực đã chọn, địch tiến hành phân
loại dân trong từng ấp thành ba loại:
Loại 1: là những gia đình cách mạng hay có
cảm tình với cách mạng, thì gom vào một lô
riêng để tiến hành theo dõi và đàn áp.
Loại 2: là những gia đình “lưng chừng”, thì
tiến hành chính sách dụ dỗ, lơi kéo.
Loại 3: là những gia đình binh sĩ, ác ơn, có
cơng với chính quyền Sài Gịn, thì thực hiện chính
sách ưu đãi và sử dụng họ làm “lực lượng nòng
cốt” để theo dõi và khống chế nhân dân trong ấp.
164
Trong ấp chiến lược, các gia đình cán bộ,
chiến sĩ cách mạng bị tập trung ở vào một khu
riêng biệt; cấm khơng cho dân về làm vườn,
thóc lúa và các sản phẩm do dân làm ra đều bị
thu gom vào kho lương cơng cộng. Từng bữa
ăn, các gia đình phải mang nồi kèm theo tờ khai
gia đình đến lĩnh gạo đã bị ngâm nước về nấu
(để không thẻ mang gạo ấy tiếp tế cho cách
mạng). Để quản lý chặt chẽ dân, chúng tiến
hành phát thẻ căn cước cho từng người và hàng
ngày kiểm soát rất gắt gao; cấm nhân dân tụ
họp, ban đêm giới nghiêm, không cho ai được
ra khỏi nhà, ban ngày chỉ cho dân được ra ngoài
với một thời gian nhất định có thanh niên cộng
hịa hoặc dân vệ canh gác. Mỗi xã có từ 20 đến
30 tên cán bộ bình định. Bọn này cũng nêu khâu
hiệu “cùng ăn, cùng ở, cùng làm” với dân
nhưng thực chất là đê tổ chức do thám, gián
điệp, phối hợp chặt chẽ với bọn tề, bảo an, dân
vệ nhằm khống chế, kìm kẹp quần chúng.
Từ năm 1961-1965, địch đã tập trung tối đa
tiền của, lực lượng để tiến hành lập một hệ
thống ấp chiến lược có quy mơ ở khắp các
vùng. Đứng trước tình hình đó, Bộ Chính trị đã
họp vào tháng 2-1962 và đề ra chủ trương trước
mắt của cách mạng miền Nam, trong đó “phá
ấp chiến lược là một nhiệm vụ có tính chất cấp
bách, đồng thời là nhiệm vụ lâu dài”. Theo tinh
165
thần đó, quân dân miền Nam đã cương quyết
đấu tranh chống phá ấp chiến lược của địch.
Khẩu hiệu “Một tấc không đi, một ly không rời”
đã trở thành phương châm hành động của nhân
dân miền Nam trong thời gian này. Dưới sự chỉ
đạo sát sao của Trung ương Đảng, một cao trào
đấu tranh rộng lớn, quyết liệt của nhân dân
miền Nam chống phá ấp chiến lược đã diễn ra,
làm tan rã từng mảng bộ máy kìm kẹp của địch
ở nơng thôn. Cuối năm 1965, quân và dân miền
Nam đã phá được tổng số 5.800 ấp chiến lược,
mở rộng vùng giải phóng trên 7 triệu dân.
Thắng lợi của quân và dân ta trong cuộc đấu
tranh chống phá ấp chiến lược dưới sự lãnh đạo
của Đảng đã góp phần quyết định sự phá sản
chiến lược “chiến tranh đặc biệt” của đế quốc
Mỹ ở miền Nam.
166
QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN MIỀN BẮC
NGÀY CÀNG LỚN MẠNH
ùng với phong trào thi đua lao động sản
xuất để thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ
nhất (1961-1965), việc xây dựng quân đội chính
quy hiện đại cũng đuợc đẩy mạnh nhằm đảm
đương được nhiệm vụ bảo vệ miền Bắc, giải
phóng miền Nam và làm nghĩa vụ quốc tế. Lực
lượng vũ trang ba thứ quân lớn mạnh không
ngừng cả về số lượng và chất lượng. Các đơn vị
tập kết từ miền Nam ra đã tổ chức thành các lữ
đồn có hỏa lực tương đối mạnh, sẵn sàng trở
lại chiến trường làm nhiệm vụ. Các sư đoàn chủ
lực được biên chế đủ số quân, có trang bị cải
tiến, đáp ứng khả năng tác chiến trên các chiến
trường. Một số sư đoàn được biên chế sẵn sàng,
khi có lệnh sẽ nhanh chóng bổ sung đủ quân
chiến đấu. Các quân chủng, binh chủng được
chú trọng phát triển, nhất là Phịng khơng Khơng qn, Đặc cơng, Pháo binh, Công binh,
Thông tin. Quân số thường trực ở miền Bắc đã
C
167
lên tới 173.000 người, chiếm khoảng 1% dân số.
Lực lượng dân quân tự vệ được tổ chức rộng
khắp với số lượng khoảng 25 vạn người, 50
vạn người đăng ký quân dự bị, trong đó có 18
vạn quân dự bị loại 1 được quản lý chặt chẽ,
sẵn sàng động viên khi được lệnh để tăng
cường cho quân thường trực (khoảng trên 3 5
vạn) trong một thời gian ngắn. Trình độ tác
chiến của qn đội được nâng lên một bước,
tích cực hồn thành nhiệm vụ trong mọi tình
huống, và 30% ngân sách quốc phịng được
dùng vào việc xây dựng các cơng trình phòng
thủ ở các địa bàn trọng điểm. Riêng lực lượng
hải quân, ta đã xây dựng được 4 tiểu đoàn tàu
ven biển với trôn 100 tàu các loại làm nhiệm vụ
vận tải, tuần tiễu, phóng lơi, săn ngầm. Ta xây
dựng được 1 trung đồn khơng qn tiêm
kích, 12 sân bay được sửa chữa, nâng cấp và
xây dựng thêm một số sân bay mới. lực lượng
Phịng khơng - gồm 12 trung đồn, 17 tiểu
đoàn với trên 1.000 khẩu pháo cao xạ các loại,
11 trung đoàn được trang bị pháo điều khiển
tự động. Hệ thống ra đa được xây dụng thành
một màng lưới trinh sát cảnh giới phịng
khơng quốc gia. Lục lượng phịng thủ bờ biển
và các trọng điểm được tổ chức theo các binh
chủng hợp thành, sẵn sàng đánh địch nếu
chúng tập kích hoặc xâm nhập từ bờ biển vào.
168
Công tác huấn luyện được chuyển hướng theo
yêu cầu thực tế phù hợp với hai nhiệm vụ
chiến lược quân sụ là bảo vệ miền Bắc, giải
phóng miền Nam.
169