TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
KHOA LUẬT HÌNH SỰ
NGƠ THỊ HUỲNH NHƯ
XÉT XỬ CÁC VỤ ÁN XÂM PHẠM TÌNH DỤC
NGƯỜI DƯỚI 16 TUỔI THEO LUẬT
TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT
Giảng viên hướng dẫn: Th.S Trần Quốc Minh
TP. Hồ Chí Minh – Năm 2021
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
KHOA LUẬT HÌNH SỰ
-----
KHĨA LUẬN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT
XÉT XỬ CÁC VỤ ÁN XÂM PHẠM TÌNH DỤC
NGƯỜI DƯỚI 16 TUỔI THEO LUẬT
TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM
SINH VIÊN THỰC HIỆN: Ngơ Thị Huỳnh Như
Khóa: 42
MSSV: 1753801013154
GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN: Th.S Trần Quốc Minh
TP. Hồ Chí Minh - Năm 2021
LỜI CAM ĐOAN
Tơi cam đoan: Khóa luận “Xét xử các vụ án xâm phạm tình dục người dưới 16
tuổi theo luật Tố tụng hình sự Việt Nam” là kết quả nghiên cứu của riêng tôi, được
thực hiện dưới sự hướng dẫn khoa học của Th.S Trần Quốc Minh, đảm bảo tính trung
thực và tuân thủ các quy định về trích dẫn, chú thích tài liệu tham khảo. Tơi xin chịu
hồn tồn trách nhiệm về lời cam đoan này.
Trong q trình nghiên cứu, tác giả có tham khảo các ý kiến, quan điểm của các
nhà nghiên cứu đã thực hiện các đề tài liên quan đến xét xử các vụ án xâm phạm tình
dục người dưới 16 tuổi, có trích dẫn đầy đủ. Do kiến thức cịn hạn hẹp nên khóa luận
khơng tránh khỏi những thiếu sót, rất mong nhận được ý kiến đóng góp của q thầy cơ
và bạn đọc.
Thành phố Hồ Chí Minh, ngày tháng
Sinh viên
Ngơ Thị Huỳnh Như
năm 2021
LỜI CẢM ƠN
Để hồn thành khóa luận “Xét xử các vụ án xâm phạm tình dục người dưới 16
theo luật Tố tụng hình sự Việt Nam”, em xin gởi lời cảm ơn chân thành đến Qúy Thầy,
Cô trong Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh nói chung và Khoa Luật Hình
sự nói riêng đã truyền đạt những kiến thức quý báu trong suốt 4 năm học tập tại Trường.
Đặc biệt, em xin lời cảm ơn gởi chân thành đến Th.S Trần Quốc Minh đã tận tình hướng
dẫn, định hướng cho em trong suốt q trình nghiên cứu khóa luận.
Đồng thời em cũng xin gởi lời cảm ơn đến Thư viện Trường Đại học Luật Thành
phố Hồ Chí Minh đã tạo điều kiện cho em được tiếp cận với những tài liệu bổ ích trong
q trình hồn thiện khóa luận.
Em xin chân thành cảm ơn!
Sinh viên
Ngô Thị Huỳnh Như
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
Từ viết tắt
Cụm từ đầy đủ
BLHS
Bộ luật Hình sự
BLTTHS
Bộ luật Tố tụng Hình sự
CQTHTT
Cơ quan tiến hành tố tụng
NTGTT
Người tham gia tố tụng
TAND
Tòa án Nhân dân
MỤC LỤC
LỜI NĨI ĐẦU ................................................................................................................ 1
1. Tính cấp thiết của đề tài ......................................................................................... 1
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu ........................................................................... 3
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài .............................................................. 5
4. Đối tượng nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu và phương pháp nghiên cứu ........ 6
5. Ý nghĩa ..................................................................................................................... 7
6. Kết cấu của khóa luận ............................................................................................ 8
CHƯƠNG 1..................................................................................................................... 9
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ XÉT XỬ CÁC VỤ ÁN XÂM PHẠM TÌNH DỤC
NGƯỜI DƯỚI 16 TUỔI THEO LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM ............ 9
1.1. Khái niệm.............................................................................................................. 9
1.1.1. Người dưới 16 tuổi ......................................................................................... 9
1.1.2. Người bị hại .................................................................................................. 10
1.1.3. Xâm hại tình dục người dưới 16 tuổi .......................................................... 12
1.1.4. Xét xử các vụ án xâm phạm tình dục người dưới 16 tuổi .......................... 13
1.2. Đặc điểm của các vụ án xâm phạm tình dục người dưới 16 tuổi. ................. 14
1.3. Đặc điểm của việc xét xử vụ án hình sự có bị hại là người dưới 16 tuổi bị xâm
phạm tình dục............................................................................................................ 15
1.4. Cơ sở của việc quy định cơ chế xét xử vụ án hình sự có người dưới 16 tuổi bị
xâm phạm tình dục ................................................................................................... 18
1.4.1. Cơ sở lý luận ................................................................................................. 18
1.4.2. Cơ sở thực tiễn .............................................................................................. 21
1.5. Xét xử các vụ án xâm phạm tình dục người dưới 16 tuổi theo pháp luật một
số nước trên thế giới ................................................................................................. 22
1.5.1. Theo pháp luật nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa ............................... 23
1.5.2 Theo pháp luật nước Liên Bang Nga ........................................................... 24
1.5.3. Theo pháp luật nước Cộng hòa Liên bang Đức ......................................... 24
1.6. Ý nghĩa quy định về thủ tục xét xử các vụ án xâm phạm tình dục người dưới
16 tuổi. ........................................................................................................................ 26
Kết luận Chương 1 ....................................................................................................... 27
CHƯƠNG 2................................................................................................................... 28
QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ XÉT XỬ CÁC VỤ ÁN XÂM PHẠM TÌNH DỤC
NGƯỜI DƯỚI 16 TUỔI THEO LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM .......... 28
2.1. Những quy định chung trong Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 ................ 29
2.2. Các nguyên tắc tiến hành tố tụng các vụ án xâm phạm tình dục người dưới
16 tuổi theo luật Tố tụng hình sự Việt Nam ........................................................... 31
2.3. Những quy định trong xét xử các vụ án xâm hại tình dục có bị hại là người
dưới 16 tuổi. ............................................................................................................... 43
2.3.1. Trình tự, thủ tục bắt buộc khi xét xử vụ án xâm hại tình dục người dưới 18
tuổi. .......................................................................................................................... 44
2.3.2. Thời hạn xét xử ............................................................................................ 48
2.3.3. Những việc Tòa án không được thực hiện khi xét xử vụ án xâm hại tình
dục người dưới 16 tuổi ........................................................................................... 49
2.3.4. Quy định về phòng xử án và thẩm quyền của Tịa gia đình và người chưa
thành niên ............................................................................................................... 51
Kết luận chương 2 ........................................................................................................ 53
CHƯƠNG 3................................................................................................................... 54
THỰC TIỄN XÉT XỬ CÁC VỤ ÁN XÂM PHẠM TÌNH DỤC NGƯỜI DƯỚI 16
TUỔI VÀ MỘT SỐ ĐỀ XUẤT, KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT TỐ
TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM ..................................................................................... 54
3.1 Thực tiễn xét xử các vụ án xâm phạm tình dục người dưới 16 tuổi ............. 54
3.2. Những hạn chế, bất cập trong quy định trong xét xử các vụ án xâm phạm
tình dục người dưới 16 tuổi ...................................................................................... 58
3.3. Nguyên nhân của những hạn chế, bất cập ....................................................... 65
3.4. Một số kiến nghị hoàn thiện. ............................................................................. 68
Kết luận Chương 3 ....................................................................................................... 76
KẾT LUẬN ................................................................................................................... 77
1
LỜI NĨI ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Người dưới 16 tuổi là đối tượng được Nhà nước và pháp luật bảo vệ đặc biệt
không chỉ do đặc điểm thể chất và tinh thần mà còn ở vai trò là thế hệ quyết định tương
lai của đất nước. Xã hội ngày càng phát triển và tiềm ẩn trong đó là những tiêu cực ảnh
hưởng đến người dưới 16 tuổi, đặc biệt trong lĩnh vực hình sự. Thực tiễn cho thấy, những
vụ án xâm hại người dưới 18 tuổi xảy ra ngày càng nhiều, đặc biệt đối với người dưới
16 tuổi – là trẻ em theo Điều 1 Luật Trẻ em năm 2016. Theo một thống kê, từ ngày
01/01/2015 đến ngày 30/6/2019, các Tòa án đã đưa ra xét xử 6.585 vụ với 7.339 bị cáo
phạm các tội xâm hại trẻ em. Trong tổng số các vụ án đã đưa ra xét xử, số trẻ em là nạn
nhân bị các tội phạm trên xâm hại là 7.654 em (trong đó có 7.121 em nữ, 533 em nam).
Điều đáng lo ngại là phần lớn số trẻ em trên là nạn nhân của hành vi xâm hại tình dục
với 84% tổng số trẻ em bị xâm hại (tương đương 6.429 em)1. Đây chỉ là số liệu từ những
vụ án đã được đưa ra xét xử, trên thực tế, số trẻ em bị xâm hại có thể là nhiều hơn so với
số liệu được thống kê, đó chỉ là “phần nổi của tảng băng”.
Người dưới 16 tuổi là đối tượng được pháp luật bảo vệ đặc biệt và hoạt động xét
xử các vụ án hình sự cũng khơng ngoại lệ. Với số lượng ngày càng tăng các vụ án xâm
hại tình dục người dưới 18 tuổi, đặc biệt là người dưới 16 tuổi, thì việc bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của đối tượng này là cần thiết và cấp bách, đặc biệt trong giai đoạn xét
xử vụ án hình sự. Bởi lẽ, xét xử là một giai đoạn quan trọng và có ảnh hưởng trực tiếp
tới những NTGTT nói chung và người dưới 16 tuổi nói riêng – người chưa phát triển
hồn thiện về thể chất và tinh thần thì càng dễ bị ảnh hưởng về tâm lý cũng như quyền
và lợi ích khi tham gia vào giai đoạn xét xử vụ án hình sự. Nhận thấy được tầm quan
trọng về bảo vệ người dưới 16 tuổi là bị hại trong các vụ án xâm hại tình dục, pháp luật
“Quy định của pháp luật và thực trạng xét xử các vụ án xâm hại trẻ em và kiến nghị hoàn thiện”,
truy cập ngày 23/4/2021
1
2
hình sự Việt Nam quy định riêng về những tội xâm phạm tình dục người dưới 16 tuổi,
cụ thể: Tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi (Điều 142 BLHS năm 2015), Tội cưỡng dâm
người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi (Điều 144 BLHS năm 2015), Tội giao cấu hoặc
thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi (Điều
145 BLHS năm 2015), Tội dâm ô đối với người dưới 16 tuổi (Điều 146 BLHS năm
2015), Tội sử dụng người dưới 16 tuổi vào mục đích khiêu dâm (Điều 147 BLHS năm
2015), tiếp theo đó, pháp luật Tố tụng hình sự Việt Nam đặt ra các chế định riêng biệt
nhằm bảo vệ người dưới 18 tuổi nói chung và trẻ em nói riêng trong hoạt động xét xử
các vụ án hình sự liên quan đến người dưới 18 tuổi. Trước kia, Chương XXXII của
BLTTHS năm 2003 về “Thủ tục tố tụng đối với người chưa thành niên” có phạm vi áp
dụng đối với người bị bắt, bị tạm giữ, bị can, bị cáo là người chưa thành niên, sau đó,
Thơng tư liên tịch số 01/2011/TTLT-VKSTC-TANDTC-BCA-BTP-BLĐTBXH ngày
12 tháng 7 năm 2011 về Hướng dẫn thi hành một số quy định của Bộ luật Tố tụng hình
sự đối với người tham gia tố tụng là người chưa thành niên (sau đây gọi là Thơng tư liên
tịch số 01/2011/TTLT-VKSTC-TANDTC-BCA-BTP-BLĐTBXH) đã có quy định về
“Thủ tục tố tụng hình sự đối với người bị hại, người làm chứng là người chưa thành
niên” tại Chương 3, trong đó, nêu ra những nguyên tắc, những quy định chung trong hoạt
động tố tụng hình sự có người bị hại, người làm chứng chưa thành niên. Khác với
BLTTHS năm 2003, BLTTHS năm 2015 các nhà làm luật đã quy định Chương XXVIII
“Thủ tục tố tụng đối với người dưới 18 tuổi” được áp dụng đối với cả người bị buộc tội,
người bị hại, người làm chứng, đây là một bước tiến mới trong việc bảo vệ người bị hại
chưa thành niên nhất là trong các vụ án xâm hại tình dục.
Những quy định của pháp luật Tố tụng hình sự Việt Nam hiện hành tuy có những
quy định bảo vệ bị hại là người chưa thành niên nhưng lại chủ yếu là những quy định
chung chung hay chỉ là cụ thể những quy định bảo vệ người bị hại dưới 18 tuổi, bởi lẽ
người dưới 16 tuổi được pháp luật quy định là trẻ em và có những đặc điểm tâm sinh lý
ít nhiều khác với người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi. Vì vậy, pháp luật hiện hành có
3
những quy định chung cho người dưới 18 tuổi (bao gồm cả người dưới 16 tuổi và người
từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi), một phần nào đó quy định này là tiến bộ và hợp lý, tuy
nhiên để cụ thể hơn nữa, cũng như bảo vệ tốt hơn quyền và lợi ích hợp pháp của trẻ em
thì phải chăng cần có quy định cho người bị hại dưới 16 tuổi là nạn nhân của các vụ án
xâm hại tình dục hoặc có thể lồng ghép những quy định riêng biệt này trong các văn bản
bảo vệ người bị hại dưới 18 tuổi.
Mặc dù pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam đã có những bước tiến trong việc quy
định chi tiết về thủ tục tố tụng hình sự đối với người dưới 18 tuổi, tuy nhiên, thực tiễn
xét xử các vụ án hình sự liên quan đến người dưới 18 tuổi, đặc biệt là những vụ án xâm
hại tình dục người dưới 16 tuổi vẫn cịn một số hạn chế, bất cập. Nhằm làm rõ hơn những
vấn đề lý luận và thực tiễn về xét xử các vụ án xâm hại tình dục người dưới 16 tuổi, phân
tích những quy định của pháp luật hiện hành để chỉ ra những hạn chế, bất cập trong các
quy định của pháp luật. Từ đó, tìm ra những ngun nhân và đề xuất, kiến nghị giải pháp
hoàn thiện. Xuất phát từ những lý do trên, tác giả đã chọn đề tài “Xét xử các vụ án xâm
phạm tình dục dưới 16 tuổi theo luật tố tụng hình sự Việt Nam” để làm khóa luận
tốt nghiệp này với mong muốn đóng góp nền tảng lý luận, mang lại những giá trị khoa
học và thực tiễn để có thể hồn thiện hơn pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về bảo vệ
người dưới 16 tuổi bị xâm hại tình dục trong các vụ án hình sự.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu thực hiện đề tài, tác giả nhận thấy có một số cơng
trình khoa học nghiên cứu liên quan đến đề tài “Xét xử các vụ án xâm phạm tình dục
người dưới 16 tuổi theo luật Tố tụng hình sự Việt Nam”, cụ thể:
Về cơng trình nghiên cứu khoa học, luận văn thạc sĩ, khóa luận tốt nghiệp:
- Nguyễn Châu Trinh (2013), Xét xử kín trong luật Tố tụng hình sự Việt Nam,
Luận văn Thạc sĩ Luật học, Trường Đại học luật Thành phố Hồ Chí Minh.
4
- Lê Huỳnh Tấn Duy (Chủ nhiệm đề tài, 2017), Báo cáo tổng kết đề tài khoa học
và công nghệ cấp trường 2017: Hồn thiện pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam đối với
người dưới 18 tuổi trên cơ sở khung pháp lý của Liên Hợp Quốc.
- Trương Nhật Minh (Trưởng nhóm), Cơng trình dự thi nghiên cứu khoa học sinh
viên cấp trường lần thứ XXIII năm học 2018-2019: Bảo vệ bị hại là người dưới 18 tuổi
theo hướng dẫn của Liên Hợp Quốc và kinh nghiệm cho Việt Nam, đề tài khoa học cấp
trường, Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh.
Về sách, bài viết tạp chí, hội thảo khoa học:
- Lê Minh Thắng (2011), “Một số vấn đề về quyền của người bị hại chưa thành
niên trong tố tụng hình sự”, Tạp chí Giáo dục lý luận, 08/2011.
- Nguyễn Minh Đức và Nguyễn Ngọc Minh (2015), “Hoàn thiện các quy định về
bảo vệ người bị hại, người làm chứng là người chưa thành niên trong pháp luật tố tụng
hình sự”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, 17/2015.
- Đinh Văn Đoàn (2017), “Thủ tục tố tụng đối với bị hại là người dưới 18 tuổi
trong pháp luật Tố tụng hình sự Việt Nam”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, 06/2017.
- Vũ Thị Quyên và Nguyễn Thị Kiều Anh (2017), “Thủ tục tố tụng đối với bị hại
là người dưới 18 tuổi theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015”, Tạp chí Nhà
nước và Pháp luật, 01/2017.
- TS. Nguyễn Thị Ngọc Linh (2019), Các tội xâm phạm tình dục trong luật hình
sự Việt Nam, NXB Tư pháp.
- Nguyễn Ngọc Điệp (Biên soạn) (2019), Bình luận các tội phạm có bị hại là
người dưới 18 tuổi trong BLHS năm 2015 và sự tham gia Tố tụng hình sự của họ, NXB
Lao động – Xã hội.
Tìm hiểu những cơng trình nghiên cứu trên cho thấy hầu hết các tác giả tập trung
vào nghiên cứu thủ tục tố tụng chung đối với người dưới 18 tuổi (bao gồm người bị buộc
5
tội, bị hại và người làm chứng) và chủ yếu hướng tới đối tượng là người bị buộc tội dưới
18 tuổi, vì đây là đối tượng cần được bảo vệ khi có quyền lợi đối trọng với cơ quan Viện
Kiểm sát (bên buộc tội) và đặc thù về độ tuổi, hơn thế nữa, ngày càng nhiều người chưa
thành niên phạm tội, theo nguồn số liệu do Cục cảnh sát hình sự, Bộ Công an, trong hơn
một thập kỷ rưỡi vừa qua, trung bình mỗi năm có ít nhất 13.000 người chưa thành niên
vi phạm pháp luật2, trong quá trình tố tụng quyền và lợi ích hợp pháp của họ dễ bị xâm
phạm, đây cũng là đối tượng dễ bị tổn thương về mặt tâm lý, do đó, cần có cơ chế bảo
vệ họ khi tham gia vào quá trình tố tụng. Bên cạnh đó là những bài viết, cơng trình viết
về thủ tục tố tụng đối với bị hại là người dưới 18 tuổi, phần nào cho thấy việc người bị
hại dưới 18 tuổi ngày càng được quan tâm hơn, tuy nhiên là hướng đến đối tượng chung
dưới 18 tuổi (bao gồm trẻ em và người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi) và các giai đoạn
tố tụng hình sự nói chung. Qua tìm hiểu, đọc và nghiên cứu, tác giả thấy rằng cần có một
cơng trình nghiên cứu cụ thể hơn về chế định xét xử các vụ án xâm phạm tình dục người
dưới 16 tuổi theo luật Tố tụng hình sự Việt Nam để bảo vệ tốt hơn cho đối tượng này,
cũng như dần hoàn thiện những quy định về bảo vệ người bị hại dưới 18 tuổi nói chung
và người bị hại dưới 16 tuổi trong các vụ án xâm hại tình dục nói riêng.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
Mục đích nghiên cứu: Thông qua nghiên cứu lý luận về người dưới 16 tuổi bị
xâm phạm tình dục, thực tiễn xét xử các vụ án có bị hại là người dưới 16 tuổi bị xâm
phạm tình dục, phân tích những quy định của pháp luật về nguyên tắc và những yêu cầu
trong tổ chức xét xử các vụ án này. Kết quả nghiên cứu trên sẽ là cơ sở để tác giả chỉ ra
những tồn tại, vướng mắc trong hoạt động lập pháp và thực tiễn xét xử các vụ án này, từ
đó đưa ra những kiến nghị hồn thiện pháp luật và hiệu quả trong công tác xét xử các vụ
án xâm phạm tình dục người dưới 16 tuổi.
Bộ Tư Pháp (2019), Báo cáo nghiên cứu pháp luật về phòng ngừa, xử lý, phục hồi, tái hòa nhập cộng đồng đối
với người chưa thành niên vi phạm pháp luật và tình hình người chưa thành niên vi phạm pháp luật tại Việt Nam,
tr.11
2
6
Nhiệm vụ nghiên cứu: Dựa trên những mục đích nghiên cứu trên, tác giả tập
trung vào những nhiệm vụ chủ yếu sau:
+ Nghiên cứu những vấn đề lý luận trong xét xử các vụ án xâm phạm tình dục
người dưới 16 tuổi;
+ Phân tích những quy định của pháp luật hiện hành về bảo vệ người dưới 16 tuổi
bị xâm phạm tình dục và chỉ ra những hạn chế, bất cập trong xét xử các vụ án này;
+ Phân tích cơ sở lý luận và thực tiễn của những quy định về xét xử các vụ án
xâm phạm tình dục người dưới 16 tuổi của pháp luật hiện hành;
+ Tìm hiểu thực tiễn xét xử các vụ án xâm hại tình dục người dưới 16 tuổi, những
tồn tại, vướng mắc trong quy định của pháp luật và thực tiễn xét xử, kết hợp với những
lý luận chung, những quy định pháp luật hiện hành để đưa ra kiến nghị hoàn thiện.
4. Đối tượng nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu và phương pháp nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Đề tài có đối tượng nghiên cứu là thủ tục xét xử các vụ
án xâm phạm tình dục người dưới 16 tuổi, hướng tới bảo vệ người dưới 16 tuổi trong xét
xử vụ án xâm hại tình dục.
Phạm vi nghiên cứu: Đề tài tập trung nghiên cứu những đặc điểm của người
dưới 16 tuổi bị xâm phạm tình dục; những quy định của pháp luật trong công tác xét xử
các vụ án xâm phạm tình dục người dưới 16 tuổi theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam
hiện hành; thực tiễn xét xử các vụ án này và kiến nghị về hướng hồn thiện cho pháp
luật. Theo đó, đối tượng sẽ là người dưới 16 tuổi trong các vụ án xâm hại tình dục và sẽ
tập trung vào giai đoạn xét xử bao gồm xét xử sơ thẩm và phúc thẩm.
Phương pháp nghiên cứu: Để thực hiện mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu nêu
trên, đề tài dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ
Chí Minh làm nền tảng, bên cạnh đó, phương pháp nghiên cứu của đề tài là đi từ cái
7
chung đến cái riêng mà chủ yếu các phương pháp phân tích, tổng hợp để thực hiện nhiệm
vụ phân tích các vấn đề lý luận. Cụ thể:
+ Chương 1: sử dụng phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh pháp luật nước
ngồi,… về những vấn đề lý luận chung, cịn được dùng để làm rõ những quy định của
pháp luật hiện hành, đánh giá số liệu và phân tích thực tiễn, nguyên nhân để đưa ra kiến
nghị tại Chương 2 và Chương 3.
+ Chương 2: chủ yếu sử dụng phương pháp phân tích để nhằm làm rõ các quy
định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam.
+ Chương 3: sử dụng phương pháp thống kê, phân tích, tổng hợp,…làm rõ bất
cập, vướng mắc và đưa ra kiến nghị hoàn thiện.
Ngồi ra, đề tài cịn sử dụng một số phương pháp khác như so sánh, liệt kê, lịch
sử,… khi nghiên cứu quy định pháp luật tố tụng hình sự về xét xử các vụ án hình sự xâm
phạm tình dục người dưới 16 tuổi.
5. Ý nghĩa
Ý nghĩa khoa học: Đề tài sẽ cung cấp những vấn đề lý luận dưới nhiều góc độ
khác nhau về xét xử các vụ án xâm phạm tình dục người dưới 16 tuổi, đưa ra những cơ
sở lý luận cho những những quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam, mang tính
chất tham khảo cho những nghiên cứu có liên quan về sau, bổ sung kiến thức lý luận
trong lĩnh vực tố tụng hình sự về những vấn đề liên quan đến xét xử các vụ án xâm phạm
tình dục người dưới 16 tuổi.
Ý nghĩa thực tiễn: Cung cấp những kiến nghị đến các nhà làm luật trong tiến
trình cải cách tư pháp, đặc biệt trong những quy định liên quan đến xét xử các vụ án xâm
phạm tình dục người dưới 16 tuổi. Chỉ ra những ưu, nhược điểm của pháp luật hiện hành
về xét xử vụ án xâm phạm tình dục có người bị hại dưới 16 tuổi. Bên cạnh đó, cung cấp
8
tài liệu tham khảo cho những cá nhân có quan tâm đến xét xử vụ án xâm phạm tình dục
người chưa thành niên nói chung và người dưới 16 tuổi nói riêng.
6. Kết cấu của khóa luận
Ngồi phần mở đầu, phần kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, về nội dung
chính khóa luận có kết cấu gồm 3 chương, cụ thể:
- Chương 1: Một số vấn đề lý luận về xét xử các vụ án xâm phạm tình dục người
dưới 16 tuổi;
- Chương 2: Những quy định của pháp luật về xét xử các vụ án xâm phạm tình
dục người dưới 16 tuổi;
- Chương 3: Thực tiễn áp dụng pháp luật về xét xử các vụ án xâm phạm tình dục
người dưới 16 tuổi và một số đề xuất, kiến nghị hồn thiện pháp luật tố tụng hình sự Việt
Nam.
9
CHƯƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ XÉT XỬ CÁC VỤ ÁN XÂM PHẠM TÌNH
DỤC NGƯỜI DƯỚI 16 TUỔI THEO LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM
1.1. Khái niệm
1.1.1. Người dưới 16 tuổi
Theo quy định của pháp luật Việt Nam thì “Người chưa thành niên” là người chưa
đủ 18 tuổi3 và “Trẻ em” là người người dưới 16 tuổi4. Từ những quy định trên ta thấy
rằng người chưa thành niên theo quy định của pháp luật Việt Nam bao gồm hai bộ phận:
trẻ em (người dưới 16 tuổi) và người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi.
Người dưới 16 tuổi hay còn gọi là trẻ em là những người chưa phát triển toàn diện
về cả thể chất lẫn tinh thần, dễ bị xâm hại quyền và lợi ích hợp pháp, dễ bị tổn thương
nhất là khi tham gia vào quá trình tố tụng. Người dưới 16 tuổi là người chưa trưởng
thành, chưa nhận thức được đầy đủ, cũng như bị hạn chế trong việc bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của họ, vì vậy họ cần người giám hộ, người đại diện để thay mặt bảo vệ họ
đặc biệt là trong q trình tố tụng. Qua đó thấy được, người dưới 16 tuổi là đối tượng
cần được bảo vệ đặc biệt, bởi “trẻ em chính là tương lai của đất nước”, pháp luật cũng
có những chế định riêng bảo vệ cho đối tượng này. Hơn thế nữa, năm 1990, Việt Nam
là nước đầu tiên của Châu Á và nước thứ hai trên thế giới phê chuẩn Công ước của Liên
Hợp Quốc về quyền trẻ em. Điều này một lần nữa khẳng định Việt Nam đang từng bước
nổ lực để bảo vệ tốt nhất cho thế hệ tương lai này. Chính vì thế, khi một người dưới 16
tuổi phải tham gia vào một quy trình tố tụng, với đặc điểm tâm lý dễ bị tổn thương thì
địi hỏi pháp luật phải có những cơ chế đặc biệt dành cho đối tượng này để không làm
ảnh hưởng đến sự phát triển bình thường của họ.
3
4
Khoản 1 Điều 21 Bộ Luật Dân sự 2015
Điều 1 Luật Trẻ em 2016
10
Với các vụ án xâm hại tình dục mà người dưới 16 tuổi là bị hại thì việc bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp cho họ càng trở nên quan trọng hơn. Tuổi của người dưới 16
tuổi càng nhỏ thì khi bị tác động bởi một hành vi vi phạm pháp luật như xâm hại tình
dục thì ảnh hưởng sẽ càng lớn, ảnh hưởng đến thể chất, tinh thần cũng như sự phát triển
bình thường của họ. “Những hậu quả về mặt cơ thể có thể thấy ngay được ở trẻ em như:
gây tổn thương cơ quan sinh dục, và nguy hiểm hơn là nguy cơ lây lan các bệnh lây qua
đường tình dục trong đó có căn bệnh chết người HIV/AIDS. Với trẻ lớn hơn thì nguy cơ
có thai được phát hiện muộn không phải là trường hợp hiếm gặp. Với những trường hợp
này thì sức khỏe và tương lai của cả bà mẹ và thai nhi không được đảm bảo và thường ở
trong tình trạng rất mong manh, nguy hiểm. Ngoài những hậu quả để lại về mặt cơ thể
thì việc xâm hại tình dục cịn mang lại cho trẻ những tổn thương về mặt tâm thần: trẻ em
bị xâm hại tình dục có thể biểu hiện những nổi loạn về hành vi cũng như tâm thần biểu
hiện từ nhẹ tới nặng, ngắn hạn cũng như dài hạn”5. Hơn thế nữa, một số trường hợp
người phạm tội là người quen của bị hại, thậm chí cá biệt có các trường hợp là người
thân của người bị hại.
1.1.2. Người bị hại
“Người bị hại” là một khái niệm phổ biến trong khoa học pháp lý, đặc biệt là trong
lĩnh vực tố tụng hình sự, bởi “người bị hại” là một trong những NTGTT được pháp luật
tố tụng hình sự quy định. Pháp luật tố tụng hình sự các nước dùng những thuật ngữ khác
nhau để nói về “người bị hại”, chẳng hạn pháp luật tố tụng hình sự của Cộng hòa Pháp,
Liên bang Nga hay Việt Nam dùng thuật ngữ “người bị hại”, trong khi đó pháp luật tố
tụng hình sự Cộng hịa Nhân dân Trung Hoa thì dùng thuật ngữ “người tố cáo”. Ngồi
ra người bị hại cịn được gọi là “người bị thiệt hại” hay gọi là “nạn nhân” hay “dân sự
Trần Văn Nhiên (2010), Bảo vệ trẻ em và người chưa thành niên trong luật hình sự Việt Nam dưới góc độ người
bị hại thực trạng và giải pháp hồn thiện, khóa luận tốt nghiệp cử nhân luật, Trường Đại học Luật Thành phố Hồ
Chí Minh, tr.44
5
11
nguyên cáo”6. Tựu trung lại thì những thuật ngữ trên đều nói về “người bị hại” và tác giả
thấy thuật ngữ “người bị hại” là thể hiện đầy đủ bản chất và phù hợp nhất. Vậy, như thế
nào là “người bị hại”?
“Từ điển giải thích thuật ngữ luật học” định nghĩa Người bị hại là “người bị thiệt
hại về thể chất, về tinh thần hoặc về tài sản do tội phạm gây ra. Người bị hại chỉ có thể
là thể nhân bị người phạm tội làm thiệt hại về thể chất, về tinh thần hoặc về tài sản chứ
không thể là pháp nhân”7.
Theo pháp luật Việt Nam, Điều 51 BLTTHS Việt Nam năm 2003 định nghĩa
“Người bị hại” là người bị thiệt hại về thể chất, tinh thần, tài sản do tội phạm gây ra.
Nhận thấy định nghĩa “người bị hại” trong BLTTHS năm 2003 còn nhiều điểm chưa rõ,
cũng như còn gây nhiều tranh cãi, BLTTHS năm 2015 sửa đổi định nghĩa này như sau:
“Bị hại là cá nhân trực tiếp bị thiệt hại về thể chất, tinh thần, tài sản hoặc là cơ quan, tổ
chức bị thiệt hại về tài sản, uy tín do tội phạm gây ra hoặc đe dọa gây ra”. Định nghĩa về
“bị hại” của BLTTHS năm 2015 đã làm rõ những vướng mắc trước đây của định nghĩa
này trong BLTTHS năm 2003, cụ thể:
Thứ nhất, BLTTHS năm 2015 đã thay đổi từ “người bị hại” thành “bị hại”, đây là
sự thay đổi phù hợp, bởi định nghĩa theo BLTTHS năm 2003 đã gây ra tranh cãi về việc
“người bị hại” chỉ bao gồm thể nhân hay “người bị hại” bao gồm cả thể nhân và pháp
nhân, tổ chức, trong đó ý kiến đa số cho rằng “người bị hại” chỉ bao gồm thể nhân không
bao gồm pháp nhân. BLTTHS 2015 đã nêu rõ bị hại gồm cá nhân hoặc cơ quan, tổ chức,
còn người bị hại là cá nhân.
Thứ hai, định nghĩa của BLTTHS năm 2003 đặt ra câu hỏi về tính chất của việc
“bị thiệt hại” có bao gồm “bị thiệt hại gián tiếp” không, hay chỉ bao gồm “gây thiệt hại
trực tiếp” thì nay BLTTHS năm 2015 quy định cụ thể người bị hại phải là cá nhân trực
6
7
Lê Tiến Châu (2007), “Người bị hại trong tố tụng hình sự”, Tạp chí khoa học pháp lý, số 1, tr38
Trường Đại học Luật Hà Nội (1999), Từ điển giải thích thuật ngữ luật học, NXB Công an nhân dân, tr.198.
12
tiếp bị thiệt hại, quy định này là phù hợp vì những thiệt hại gián tiếp là khó xác định và
không phải do trực tiếp hành vi phạm tội gây ra.
Thứ ba, theo BLTTHS năm 2003 thì khi thiệt hại xảy ra trên thực tế thì người bị
thiệt hại đó mới được xem là “người bị hại”, đây được xem là một bất cập khi luật hình
sự có tội phạm chưa đạt và chưa hồn thành, khi đó thiệt hại tuy chưa xảy ra trên thực tế
nhưng hành vi đã cấu thành tội phạm, trong trường hợp này nên xem cả người bị đe dọa
gây thiệt hại là “người bị hại”. Khắc phục bất cập trên, BLTTHS năm 2015 đã quy định
thiệt hại gồm thiệt hại do tội phạm gây ra và đe dọa gây ra.
Còn trong pháp luật nước ngoài, pháp luật Liên Bang Nga định nghĩa: “Được coi
như nạn nhân sẽ là một thể nhân, người có thể chất, tài sản hoặc đạo đức thiệt hại do
tội phạm gây ra, cũng như một pháp nhân, nếu tài sản và doanh nghiệp của anh ta danh
tiếng đã bị tổn hại bởi tội ác. Quyết định công nhận một người là nạn nhân sẽ được
chính thức hóa bằng cách giải quyết của người hỏi, điều tra viên hoặc của tòa án”8.
Trong phạm vi đề tài này, tác giả chỉ tìm hiểu về “người bị hại” dưới 16 tuổi, tức
“bị hại” dưới góc độ là cá nhân, do đó kết luận lại, người bị hại là cá nhân trực tiếp bị
thiệt hại về thể chất, tinh thần, tài sản do tội phạm gây ra hoặc đe dọa gây ra.
1.1.3. Xâm hại tình dục người dưới 16 tuổi
Khoản 8 Điều 4 Luật Trẻ em 2016 định nghĩa hành vi “xâm hại tình dục trẻ em”
là việc dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực, ép buộc, lôi kéo, dụ dỗ trẻ em tham gia vào các
hành vi liên quan đến tình dục, bao gồm hiếp dâm, cưỡng dâm, giao cấu, dâm ô với trẻ
em và sử dụng trẻ em vào mục đích mại dâm, khiêu dâm dưới mọi hình thức. Nghị quyết
06/2019/NQ-HĐTP về hướng dẫn áp dụng một số quy định tại các điều 141, 142, 143,
144, 145, 146, 147 của Bộ luật hình sự và việc xét xử vụ án xâm hại tình dục người dưới
18 tuổi (sau đây gọi là Nghị quyết 06/2019/NQ-HĐTP) cũng định nghĩa thuật ngữ “xâm
8
Điều 42 Bộ luật tố tụng hình sự Liên Bang Nga năm 2001, sửa đổi, bổ sung năm 2012
13
hại tình dục người dưới 16 tuổi”, suy cho cùng hai thuật ngữ này là một vì “trẻ em là
người dưới 16 tuổi” (Điều 1 Luật Trẻ em năm 2016), Nghị quyết 06/2019/NQ-HĐTP bổ
sung thêm về định nghĩa này như sau: “Xâm hại tình dục người dưới 16 tuổi là việc dùng
vũ lực, đe dọa dùng vũ lực, ép buộc, lôi kéo, dụ dỗ, người dưới 16 tuổi tham gia vào các
hành vi liên quan đến tình dục, bao gồm hiếp dâm, cưỡng dâm, giao cấu, dâm ô với
người dưới 16 tuổi và sử dụng người dưới 16 tuổi vào mục đích mại dâm, khiêu dâm
dưới mọi hình thức (ví dụ: hoạt động xâm hại tình dục được thực hiện do đồng thuận với
người dưới 13 tuổi); do cưỡng bức, do hứa hẹn các lợi ích vật chất (tiền, tài sản) hay
các lợi ích phi vật chất (ví dụ: cho điểm cao, đánh giá tốt, tạo cơ hội tiến bộ…)”. Hai
văn bản khác nhau cùng định nghĩa một thuật ngữ sẽ gây ra những khó khăn cho các chủ
thể thực thi pháp luật, do đó cần thống nhất lại vấn đề này. Xem xét tính hồn thiện của
thuật ngữ trên thì “xâm hại tình dục người dưới 16 tuổi” theo Nghị quyết 06/2019/NQHĐTP sẽ đầy đủ và cụ thể hơn định nghĩa trong Luật Trẻ em năm 2016.
1.1.4. Xét xử các vụ án xâm phạm tình dục người dưới 16 tuổi
Xét xử là hoạt động đặc trưng của Tòa án để xem xét, đánh giá bản chất pháp lí
của vụ việc nhằm đưa ra một phán xét về tính chất, mức độ pháp lí của vụ việc9. Xét xử
vụ án hình sự cịn là hoạt động làm thay đổi quyền và lợi ích của các bên tham gia tố
tụng. Hoạt động xét xử của Tịa án có các đặc điểm: tính đặc thù trong áp dụng pháp
luật, tính độc lập trong hoạt động nghề nghiệp, tính hiệu lực tuyệt đối trong các phán
quyết của Tòa án10. Dựa trên các định nghĩa “xâm hại tình dục người dưới 16 tuổi” được
nêu ra tại mục 1.1.3 và “người dưới 16 tuổi” được nêu ra tại mục 1.1.1, “xét xử các vụ
án xâm phạm tình dục người dưới 16 tuổi”, theo tác giả là hoạt động của Tòa án để xem
xét, đánh giá bản chất pháp lí của hành vi dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực, ép buộc, lôi
kéo, dụ dỗ, người dưới 16 tuổi tham gia vào các hành vi liên quan đến tình dục, bao gồm
“Xét xử”, truy cập ngày 04/6/2021
Lưu Thanh Sang, “Xét xử là gì? Quy định của pháp luật về xét xử hai cấp”, truy cập ngày 06/6/2021
9
10
14
hiếp dâm, cưỡng dâm, giao cấu, dâm ô với người dưới 16 tuổi và sử dụng người dưới 16
tuổi vào mục đích mại dâm, khiêu dâm dưới mọi hình thức (ví dụ: hoạt động xâm hại
tình dục được thực hiện do đồng thuận với người dưới 13 tuổi); do cưỡng bức, do hứa
hẹn các lợi ích vật chất (tiền, tài sản) hay các lợi ích phi vật chất (ví dụ: cho điểm cao,
đánh giá tốt, tạo cơ hội tiến bộ…) nhằm đưa ra một phán xét về tính chất, mức độ pháp
lí của vụ việc.
1.2. Đặc điểm của các vụ án xâm phạm tình dục người dưới 16 tuổi.
Những vụ án xâm hại tình dục người dưới 16 tuổi có một số đặc điểm sau:
Thứ nhất, là những vụ án có tội phạm xâm phạm khách thể là tính mạng, sức
khỏe, danh dự, nhân phẩm của người dưới 16 tuổi. Các tội xâm phạm tình dục người
dưới 16 tuổi gồm có các hành vi như: hiếp dâm, cưỡng dâm, dâm ô,…gây tổn hại rất lớn
đến sức khỏe cũng như tinh thần của người dưới 16 tuổi. Hơn nữa, người dưới 16 tuổi
cịn chưa phát triển hồn thiện về thể chất và tinh thần nên những hành vi xâm phạm
khách thể tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm sẽ gây ra những hậu quả rất lớn đối
với họ.
Thứ hai, đối tượng của những vụ án này là người dưới 16 tuổi. Khác với những
vụ án khác, người dưới 16 tuổi là đối tượng được pháp luật đặc biệt bảo vệ, là thế hệ kế
thừa của đất nước. Từ đó cho thấy được tính nghiêm trọng của tội phạm xâm hại tình
dục người dưới 16 tuổi, do đó, khi người dưới 16 tuổi là bị hại trong các vụ án này thì
họ càng phải được bảo vệ. Chính Cơng ước của Liên Hợp Quốc về quyền trẻ em cũng
nêu ra nguyên tắc lớn nhất trong bảo vệ trẻ em là “lợi ích tốt nhất của trẻ em phải là mối
quan tâm hàng đầu”11. Đặc biệt là trong quá trình xét xử vụ án hình sự, người dưới 16
tuổi càng dễ bị tổn thương nên càng cần được bảo vệ.
11
Điều 3 Công ước Liên Hợp Quốc về Quyền trẻ em
15
Thứ ba, đây là những vụ án được dư luận xã hội quan tâm rất nhiều. Dư luận xã
hội luôn lên án, phê phán hành vi xâm hại tình dục người dưới 16 tuổi. Khơng khó để
tìm kiếm thơng tin về các vụ án xâm hại tình dục người dưới 16 tuổi trên các trang mạng
xã hội, trang báo điện tử,…Tuy nhiên, việc lên án như vậy bên cạnh những lợi ích thì
cũng khơng ít tác hại như việc lộ thông tin người dưới 16 tuổi, một số người lợi dụng
thông tin để trục lợi,… ảnh hưởng đến người dưới 16 tuổi. Như vậy, bên cạnh mục đích
tuyên truyền, giáo dục thì việc quan tâm của xã hội đối với các vụ án xâm hại tình dục
người dưới 16 tuổi cũng có một số ảnh hưởng tiêu cực đối với người dưới 16 tuổi.
1.3. Đặc điểm của việc xét xử vụ án hình sự có bị hại là người dưới 16 tuổi bị
xâm phạm tình dục
Hoạt động xét xử vụ án hình sự về xâm hại tình dục người dưới 16 tuổi có những
đặc điểm chủ yếu sau:
Thứ nhất, hoạt động xét xử là hoạt động ảnh hưởng trực tiếp đến quyền và lợi ích
của người dưới 16 tuổi. Hoạt động xét xử là hoạt động nhân danh quyền lực nhà nước
nhằm xem xét, đánh giá và ra phán quyết về tính hợp pháp và tính đúng đắn của hành vi
pháp luật hay quyết định pháp luật khi có sự tranh chấp và mâu thuẫn giữa các bên có
lợi ích khác nhau trong các tranh chấp hay mâu thuẫn đó12. Với đặc điểm tâm lý chưa
hồn thiện thì việc người dưới 16 tuổi phải tham gia vào một phiên tòa hình sự sẽ ảnh
hưởng rất nhiều đến họ. Quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia phiên tòa sẽ có ít nhiều
thay đổi, do đó, để bảo vệ người dưới 16 tuổi thì địi hỏi Hội đồng xét xử phải xét xử vụ
án đúng quy định, phù hợp với mức độ tính chất của vụ án để bảo vệ quyền và lợi ích
của người dưới 16 tuổi bị xâm hại tình dục. Sau phiên tịa, đảm bảo được quyền và lợi
ích trên của đối tượng này khơng bị ảnh hưởng tiêu cực, họ được bồi thường thiệt hại,
người phạm tội bị xét xử đúng tội danh, đúng mức hình phạt, bên cạnh đó là việc bảo vệ
GS, TSKH Đào Trí Úc, ThS Nguyễn Thu Trang, “Vai trị của hoạt động xét xử của tịa án trong q trình phát
triển hệ thống pháp luật Việt Nam, truy cập ngày
28/5/2021.
12
16
những thông tin cá nhân của người dưới 16 tuổi phải được đảm bảo. Bị cáo và người bị
hại có lợi ích trái ngược nhau khi tham gia phiên tịa hình sự, do đó, khi khơng xử đúng
người, đúng tội thì sẽ ảnh hưởng đến quyền và lợi ích của bên cịn lại – bên bị hại. Vì
vậy, hoạt động xét xử là “hoạt động nhân danh nhà nước” của Hội đồng xét xử và ảnh
hưởng trực tiếp đến quyền và lợi ích của các bên, đặc biệt là đối với người bị hại dưới
16 tuổi trong các vụ án xâm hại tình dục.
Thứ hai, hoạt động xét xử vụ án hình sự xâm hại tình dục người dưới 16 tuổi phải
đảm bảo lợi ích tốt nhất cho người dưới 16 tuổi. Đây là nguyên tắc cơ bản trong suốt q
trình xét xử vụ án hình sự có người dưới 16 tuổi tham gia. Công ước của Liên Hợp Quốc
về quyền trẻ em được Việt Nam phê chuẩn vào ngày 20 tháng 2 năm 1990 cũng nhắc
đến nguyên tắc này, cụ thể khoản 1 Điều 3 Công ước này quy định: “Trong mọi hoạt
động liên quan tới trẻ em, dù được thực hiện bởi các cơ quan phúc lợi xã hội của nhà
nước hay tư nhân, bởi tòa án, các nhà chức trách hành chính hay cơ quan pháp luật, thì
lợi ích tốt nhất của trẻ em phải là mối quan tâm hàng đầu”. Còn trong BLTTHS Việt
Nam hiện hành, nguyên tắc này được nêu ra tại khoản 1 Điều 414: “Bảo đảm thủ tục tố
tụng thân thiện, phù hợp với tâm lý, lứa tuổi, mức độ trưởng thành, khả năng nhận thức
của người dưới 18 tuổi; bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của người dưới 18 tuổi; bảo
đảm lợi ích tốt nhất của người dưới 18 tuổi”. Xuất phát từ đặc điểm tâm sinh lý chưa
phát triển hoàn thiện và là thế hệ tương lai của đất nước, vì thế, các nhà chức trách ln
coi trọng việc bảo vệ quyền và lợi ích của người dưới 16 tuổi. Trong xét xử các vụ án
xâm hại tình dục người dưới 16 tuổi thì nguyên tắc này càng phải được tuân thủ, hành vi
phạm tội xâm hại tình dục đã ảnh hưởng rất lớn đến người dưới 16 tuổi, thêm vào đó là
việc tham gia vào các phiên tịa xét xử cũng đem lại những ảnh hưởng không nhỏ. Do
đó, người dưới 16 tuổi cần được đảm bảo lợi ích tốt nhất trong quá trình tố tụng và cả
sau q trình tố tụng, đó là việc giảm thiểu được ảnh hưởng tiêu cực khi họ tham gia
phiên tòa xét xử, việc chăm sóc họ sau khi vụ án đã được xét xử và cả việc bảo mật thông
tin cá nhân của họ. Trong hoạt động xét xử nói riêng, pháp luật phải có những quy định
17
riêng biệt để bảo vệ người dưới 16 tuổi, như việc hạn chế triệu tập người dưới 16 tuổi
đến phiên tòa, điều kiện của người tiến hành tố tụng khi tham gia xét xử, hạn chế tiếp
xúc với bị cáo,… Bên cạnh đó, những ngun tắc cịn lại được nêu ra trong Điều 414
BLTTHS suy cho cùng cũng xuất phát từ nguyên tắc “bảo đảm lợi ích tốt nhất” này.
Thứ ba, hoạt động xét xử vụ án xâm hại tình dục người dưới 16 tuổi phải tuân thủ
các quy định chung và riêng. Những quy định chung về xét xử vụ án xâm hại tình dục
người dưới 16 tuổi là những quy định về tổ chức xét xử các vụ án hình sự mà khơng
phân biệt loại tội phạm, tội danh cũng như người bị hại dưới 16 tuổi hay trên 16 tuổi. Vì
đây là những nguyên tắc chung và cơ bản nên khi xét xử bất kì vụ án hình sự nào kể cả
vụ án xâm hại tình dục người dưới 16 tuổi thì cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành
tố tụng cũng phải đảm bảo tuân thủ các quy định chung này. Còn những quy định riêng
là những quy định về xét xử chỉ áp dụng cho những vụ án xâm hại tình dục có bị hại là
người dưới 16 tuổi, không áp dụng cho những trường hợp khác không thỏa mãn điều
kiện này. Những quy định chung về xét xử vụ án có người bị hại dưới 16 tuổi được nêu
ra trong BLTTHS và một số quy định trong các luật chuyên ngành khác tiêu biểu là Luật
Trẻ em, những quy định cụ thể được nên ra trong các văn bản khác, cụ thể là Điều 7 về
Tổ chức xét xử vụ án xâm hại tình dục có bị hại là người dưới 18 tuổi của Nghị quyết
06/2019/NQ-HĐTP, Điều 7 về Xét xử vụ án hình sự có bị cáo, người bị hại là người
dưới 18 tuổi của Thơng tư 02/2018/TT-TANDTC của Tịa án Nhân dân Tối cao ngày 21
tháng 9 năm 2018 về Quy định chi tiết việc xét xử vụ án hình sự có người tham gia tố
tụng là người dưới 18 tuổi thuộc thẩm quyền của Tịa gia đình và người chưa thành niên
(sau đây gọi là Thơng tư 02/2018/TT-TANDTC),… Tóm lại, khi xét xử vụ án hình sự
xâm hại tình dục người dưới 16 tuổi phải tuân thủ các quy định về xét xử trên.
Đặc điểm cuối cùng là hoạt động xét xử vụ án xâm hại tình dục người dưới 16
tuổi phải đảm bảo thủ tục tố tụng thân thiện, phù hợp với tâm lý, lứa tuổi, mức độ trưởng
thành, khả năng nhận thức của người dưới 16 tuổi. Những quy định chung của pháp luật