Tải bản đầy đủ (.pdf) (96 trang)

Rút quyết định truy tố tại phiên tòa theo luật tố tụng hình sự việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.39 MB, 96 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
KHOA LUẬT HÌNH SỰ

PHẠM THỊ NGỌC HUYỀN

RÚT QUYẾT ĐỊNH TRUY TỐ TẠI PHIÊN TỊA THEO
LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM

KHĨA LUẬN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT

Giảng viên hướng dẫn: Th.S ĐINH VĂN ĐỒN

TP. HỒ CHÍ MINH – NĂM 2021


TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
KHOA LUẬT HÌNH SỰ

------

KHĨA LUẬN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT

RÚT QUYẾT ĐỊNH TRUY TỐ TẠI PHIÊN TỊA THEO
LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM

SINH VIÊN THỰC HIỆN: Phạm Thị Ngọc Huyền
Khóa: 42

MSSV: 1753801013076

GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN: Th.S Đinh Văn Đồn



TP. HỒ CHÍ MINH - NĂM 2021


LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan khóa luận “Rút quyết định truy tố tại phiên tịa theo luật tố
tụng hình sự Việt Nam” là cơng trình nghiên cứu khoa học do cá nhân tôi thực hiện
dưới sự hướng dẫn khoa học của Th.S Đinh Văn Đồn. Trong q trình nghiên cứu,
khóa luận cũng có sự kế thừa quan điểm, ý kiến khoa học của những nhà nghiên cứu
đã từng thực hiện các đề tài có liên quan. Những quan điểm, ý kiến này, cũng như
những thơng tin mà khóa luận có tham khảo, khi được sử dụng đều được thể hiện một
cách trung thực và có trích dẫn nguồn đầy đủ.
Do chưa có nhiều kinh nghiệm tiếp xúc thực tế, cũng như vốn kiến thức cịn
hạn hẹp, nên sẽ khơng tránh khỏi những thiếu sót nhất định. Chính vì vậy, tác giả rất
mong nhận được sự đóng góp ý kiến từ Q Thầy, Cơ và bạn đọc, để có thể rút kinh
nghiệm tốt hơn.

Thành phố Hồ Chí Minh, ngày tháng năm 2021
Sinh viên

Phạm Thị Ngọc Huyền


LỜI CẢM ƠN
Trong q trình thực hiện khóa luận “Rút quyết định truy tố tại phiên tòa theo
luật tố tụng hình sự Việt Nam”, tác giả đã nhận được sự hướng dẫn tận tình của Th.S
Đinh Văn Đồn. Do đó, tác giả cũng xin gửi lời cảm ơn chân thành đến Thầy đã hỗ
trợ, định hướng cho tác giả trong suốt quá trình nghiên cứu. Sự tận tâm của Thầy là
động lực rất lớn giúp tác giả hoàn thiện tốt hơn khóa luận này.
Đồng thời, tác giả cũng xin chân thành cảm ơn Q Thầy, Cơ khoa Luật Hình

sự, Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh đã truyền đạt kiến thức quý báu
cho tác giả trong suốt quá trình học tập tại trường, để có thể vận dụng những kiến
thức đó vào khóa luận này.

Sinh viên

Phạm Thị Ngọc Huyền


MỤC LỤC
Phần mở đầu .............................................................................................................. 1
CHƯƠNG I. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ RÚT QUYẾT ĐỊNH TRUY TỐ
TẠI PHIÊN TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ ........................................................... 8
1.1. Khái niệm rút quyết định truy tố tại phiên tòa ................................................... 8
1.2. Đặc điểm của rút quyết định truy tố tại phiên tòa............................................ 12
1.3. Cơ sở của việc quy định rút quyết định truy tố tại phiên tòa ........................... 14
1.4. Lược sử quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về rút quyết định
truy tố tại phiên tòa .................................................................................................. 17
1.5. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự một số nước về rút quyết định truy tố
tại phiên tòa .............................................................................................................. 22
1.5.1. Rút quyết định truy tố tại phiên tòa theo pháp luật tố tụng hình sự nước
Anh …………………………………………………………………………... 23
1.5.2. Rút quyết định truy tố tại phiên tòa theo pháp luật tố tụng hình sự Liên
Bang Nga ............................................................................................................ 24
1.5.3. Rút quyết định truy tố tại phiên tòa theo pháp luật tố tụng hình sự Nhật
Bản …………………………………………………………………………... 25
1.5.4. Rút quyết định truy tố tại phiên tịa theo pháp luật tố tụng hình sự Cộng
hòa nhân dân Trung Hoa ................................................................................... 26
CHƯƠNG II. QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT
NAM HIỆN HÀNH VỀ RÚT QUYẾT ĐỊNH TRUY TỐ TẠI PHIÊN TÒA ... 30

2.1. Quy định về thẩm quyền rút quyết định truy tố tại phiên tòa ......................... 30
2.2. Quy định về thời điểm và phạm vi rút quyết định truy tố tại phiên tịa .......... 32
2.3. Quy định về hình thức rút quyết định truy tố tại phiên tòa............................. 36


2.4. Quy định về căn cứ rút quyết định truy tố tại phiên tòa .................................. 40
2.5. Quy định về hậu quả rút quyết định truy tố tại phiên tòa ............................... 41
CHƯƠNG III. THỰC TIỄN ÁP DỤNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ
TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ RÚT QUYẾT ĐỊNH TRUY TỐ TẠI PHIÊN
TÒA VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG PHÁP LUẬT ...... 51
3.1. Thực tiễn áp dụng quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về rút
quyết định truy tố tại phiên tòa ................................................................................ 51
3.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng quy định của pháp luật về rút quyết
định truy tố tại phiên tịa .......................................................................................... 72
3.2.1. Một số kiến nghị hồn thiện các quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự Việt
Nam về rút quyết định truy tố tại phiên tòa........................................................ 72
3.2.2. Một số giải pháp khác nâng cao hiệu quả của hoạt động rút quyết định
truy tố tại phiên tòa. ........................................................................................... 79
KẾT LUẬN .............................................................................................................. 83
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................... 85


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

Số thứ tự

Ký hiệu chữ viết tắt

Chữ viết đầy đủ


1

BLHS

Bộ luật Hình sự

2

BLTTHS

Bộ luật Tố tụng hình sự

3

HĐXX

Hội đồng xét xử

4

KSV

Kiểm sát viên

5

TAND

Tịa án nhân dân


6

TTHS

Tố tụng hình sự

7

VKS

Viện kiểm sát

8

XHCN

Xã hội chủ nghĩa


Phần mở đầu
1.

Tính cấp thiết của đề tài
Cùng với việc tiến hành cải cách kinh tế, cải cách xã hội, Đảng và Nhà nước

ta luôn chú trọng đến công tác cải cách tư pháp. Đây là một yêu cầu khách quan và
tất yếu của công cuộc đổi mới và hội nhập quốc tế, song song đó đáp ứng tình hình
thực tiễn trong giai đoạn hiện nay cần phải tăng cường cơng tác đấu tranh phịng ngừa
tội phạm trong tồn xã hội, hoàn thiện hệ thống pháp luật quốc gia. Chủ trương và ý
tưởng công tác cải cách tư pháp được thể hiện trong các Nghị quyết Trung ương khóa

8 lần VIII, Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ IX, … Theo đó, Đảng
đã đặt ra cho các cơ quan tư pháp nhiệm vụ phải xây dựng được một nền tư pháp
công bằng, dân chủ, nghiêm minh, phục vụ nhân dân. Đặc biệt, Nghị quyết số 08NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị đã nêu rõ “Viện kiểm sát nhân dân các
cấp thực hiện tốt chức năng công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt
động tư pháp… Nâng cao chất lượng thực hành quyền cơng tố của Kiểm sát viên tại
phiên tịa, đảm bảo tranh tụng dân chủ với luật sư, người bào chữa và những người
tham gia tố tụng khác… Việc phán quyết của Tòa án phải căn cứ chủ yếu vào kết quả
tranh tụng tại phiên tòa…”, Nghị quyết đã đề ra những định hướng, quan điểm chỉ
đạo, biện pháp cụ thể đối với cơng tác tư pháp. Cụ thể hóa tinh thần của Nghị quyết,
công tác tư pháp bước đầu đã có những chuyển biến tích cực. Phát huy và kế thừa
những thành quả đạt được, ngày 02/6/2005, Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương
Đảng tiếp tục ban hành Nghị quyết số 49-NQ/TW về chiến lược cải cách tư pháp đến
năm 2020. Nghị quyết số 49 đã nhấn mạnh “… Đổi mới việc tổ chức phiên tòa xét
xử, xác định rõ hơn vị trí, quyền hạn, trách nhiệm của người tiến hành tố tụng và
người tham gia tố tụng theo hướng đảm bảo tính cơng khai, dân chủ, nghiêm minh;
nâng cao tính tranh tụng tại các phiên tịa xét xử, coi đây là khâu đột phá của hoạt
động tư pháp…”, Nghị quyết đã chỉ rõ một trong những nhiệm vụ cải cách tư pháp
là xác định rõ vị trí, quyền hạn, trách nhiệm và hoàn thiện tổ chức, hoạt động của bộ
máy các cơ quan tư pháp.

1


Để thực hiện việc thể chế các chủ trương và quan điểm trong hai Nghị quyết
nêu trên, Đảng và Nhà nước ta trong thời gian vừa qua đã tiến hành đẩy mạnh cải
cách pháp luật, đặc biệt là pháp luật hình sự và tố tụng hình sự. Đây được xem là
công cụ sắc bén, hữu hiệu giúp Đảng và Nhà nước trong cơng cuộc đấu tranh phịng
chống tội phạm, góp phần bảo vệ pháp quyền xã hội chủ nghĩa, củng cố và duy trì
trật tự pháp luật, ổn định kinh tế xã hội. Các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến
hành tố tụng khơng ngừng nâng cao trình độ, năng lực chun mơn nghiệp vụ trong

q trình giải quyết vụ án hình sự.
Viện kiểm sát nhân dân là cơ quan thừa hành quyền lực của Quốc hội, chức
năng của Viện kiểm sát nhân dân được quy định tại khoản 1 Điều 107 Hiếp pháp năm
2013 và khoản 1 Điều 2 Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014, theo đó
“Viện kiểm sát nhân dân thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp của
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”. Hiện nay ở nước ta, Viện kiểm sát là cơ
quan duy nhất có chức năng thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tuân theo
pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án hình sự. Khi thực hành quyền cơng tố tại
phiên tịa, Kiểm sát viên khi tham gia phiên tịa có các nhiệm vụ, quyền hạn khác
nhau như đọc bản cáo trạng, tham gia xét hỏi, thực hiện việc luận tội và bảo vệ bản
cáo trạng, phát biểu quan điểm tranh luận, đối đáp với bên bào chữa và những người
tham gia tố tụng khác, trong đó có quyền rút quyết định truy tố tại phiên tòa.
Việc rút quyết định truy tố tại phiên tịa là hoạt động có ý nghĩa quan trọng.
Việc Kiểm sát viên có quyết định rút quyết định truy tố hay không phụ thuộc rất lớn
vào quá trình tranh tụng tại phiên tịa. Nếu như trước đó, Viện kiểm sát đã ban hành
bản cáo trạng nhằm quyết định truy tố đối với một hay nhiều người về một hay một
số tội phạm nào đó và yêu cầu Tịa án có thẩm quyền đưa ra xét xử thì tại phiên tịa,
sau q trình xét hỏi, nếu những căn cứ kết tội ban đầu khơng cịn, khơng đủ cơ sở
để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người đó hoặc quyết định truy tố ban đầu có
sai sót thì Kiểm sát viên thực hành quyền cơng tố tại phiên tịa có quyền rút quyết
định truy tố đối với quyết định truy tố không đúng ban đầu, điều này có nghĩa là
khơng cịn lời luận tội và u cầu xét xử đối với quyết định truy tố mà Kiểm sát viên
2


đã rút. Khi Kiểm sát viên rút một phần hay rút toàn bộ quyết định truy tố sẽ dẫn đến
những hậu quả khác nhau.
Pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam đã có những quy định chặt chẽ về thẩm
quyền, thời điểm, phạm vi, thủ tục và hậu quả pháp lý của việc rút quyết định truy tố
tại phiên tòa. Các quy định này đã tạo ra cơ sở pháp lý cho hoạt động của các chủ thể

có thẩm quyền tiến hành tố tụng trong thực tiễn. Tuy nhiên, tác giả nhận thấy hoạt
động rút quyết định truy tố tại phiên tòa còn một số hạn chế, bất cập nhất định. Để
nâng cao hơn nữa chất lượng của hoạt động này trên thực tế, góp phần bảo vệ quyền
con người, quyền cơng dân trong tố tụng hình sự, tác giả đã chọn vấn đề “Rút quyết
định truy tố tại phiên tịa theo luật tố tụng hình sự Việt Nam” làm đề tài khóa luận
tốt nghiệp cử nhân luật.
2.

Tình hình nghiên cứu
Trong khoa học pháp lý, vấn đề rút quyết định truy tố tại phiên tịa theo luật tố

tụng hình sự Việt Nam được nhiều nhà khoa học cũng như những người làm công tác
thực tiễn quan tâm nghiên cứu với nhiều phương diện, cấp độ khác nhau.
Đối với cấp độ luận văn, luận án, khóa luận gồm có: Luận văn Thạc sĩ Luật
học năm 2020 “Rút quyết định truy tố và một số giải pháp hoàn thiện” của tác giả
Quan Tuấn Nghĩa; Luận văn Thạc sĩ Luật học năm 2012 “Tranh luận tại phiên tịa
hình sự sơ thẩm lý luận và thực tiễn” của tác giả Trần Đình Toản; Luận văn Thạc sĩ
Luật năm 2007 “Thực hành quyền công tố tại phiên tịa hình sự sơ thẩm trong điều
kiện cải cách tư pháp” của tác giả Nguyễn Nhứt; Khóa luận tốt nghiệp năm 2003
“Vấn đề rút quyết định truy tố của Viện kiểm sát trong tố tụng hình sự” của tác giả
Nguyễn Thanh Nhàn.
Bên cạnh đó, cịn nhiều bài viết, bài nghiên cứu của các tác giả và các nhà
nghiên cứu trên những tạp chí khoa học về vấn đề rút quyết định truy tố theo luật tố
tụng hình sự Việt Nam như: Bài viết “Rút quyết định truy tố và một số giải pháp hoàn
thiện” của tác giả Quan Tuấn Nghĩa, đăng trên Tạp chí Kiểm sát số 02/2021; Bài viết
“Bàn về hậu quả khi Viện kiểm sát rút quyết định truy tố” của tác giả Đỗ Xuân Tựu,
3


đăng trên tạp chí Kiểm sát số 13/2016; Bài viết “Hoàn thiện các quy định về rút quyết

định truy tố trong Bộ luật Tố tụng hình sự” của tác giả Phạm Thị Hồng Hương được
đăng trên tạp chí Khoa học kiểm sát số 03/2014; Bài viết “Cần sửa đổi, bổ sung quy
định về rút quyết định truy tố” của tác giả Đỗ Văn Chính được đăng trên tạp chí Tịa
án nhân dân số 05/2012; Bài viết “Trường hợp Viện kiểm sát rút quyết định truy tố”
của tác giả Đinh Thế Hưng được đăng trên tạp chí Dân chủ và Pháp luật số
12(213)/2009; Bài viết “Một số đề xuất sửa đổi, bổ sung chế định Viện kiểm sát rút
quyết định truy tố trong Bộ luật Tố tụng hình sự” của tác giả Hồ Đức Anh, được đăng
trên tạp chí Kiếm sát số 19/2008.
Nhìn chung các cơng trình nghiên cứu và các bài viết nêu trên cũng đã đề cập
các nội dung liên quan đến rút quyết định truy tố của Viện kiểm sát. Tuy nhiên, các
cơng trình nghiên cứu và các bài viết nêu trên đề cập đến vấn đề rút quyết định truy
tố của Viện kiểm sát trong suốt quá trình tố tụng hình sự, bao gồm trước khi mở phiên
tòa và tại phiên tòa. Các tác giả tiếp cận vấn đề ở nhiều khía cạnh khác nhau với
những mục đích khác nhau, chưa có một cơng trình nghiên cứu hay một bài viết nào
đề cập chuyên sâu đối với vấn đề rút quyết định truy tố tại phiên tòa. Vì vậy, việc kế
thừa và tiếp tục nghiên cứu một cách có hệ thống, tồn diện, đa chiều nhằm làm sáng
tỏ các vấn đề lý luận, quy định của pháp luật và thực tiễn áp dụng pháp luật về rút
quyết định truy tố tại phiên tịa, qua đó đề xuất một số giải pháp nâng cao hiệu quả
áp dụng các quy định của pháp luật tố tụng hình sự là một định hướng nghiên cứu
mới và phù hợp của tác giả.
3.

Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1.

Mục đích nghiên cứu

Tác giả chọn đề tài này với mục đích làm sáng tỏ các vấn đề lý luận cũng như
các quy định của pháp luật tố tụng hình sự về rút quyết định truy tố tại phiên tòa, đánh
giá thực tiễn áp dụng quy định của pháp luật về rút quyết định truy tố tại phiên tịa.

Từ đó, tác giả đưa ra một số giải pháp nâng cao chất lượng của hoạt động rút quyết
định truy tố tại phiên tòa.

4


3.2.

Nhiệm vụ nghiên cứu

Với mục đích nghiên cứu như trên, khóa luận có nhiện vụ nghiên cứu là:
+ Phân tích những vấn đề lý luận liên quan đến hoạt động rút quyết định truy
tố tại phiên tòa trong luật tố tụng hình sự Việt Nam; đồng thời,
+ Phân tích quy định của pháp luật hình sự của một số nước trên thế giới về
rút quyết định truy tố tại phiên tịa, qua đó rút ra bài học kinh nghiệm cho nước ta
trong tiến trình hồn thiện các quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về
rút quyết định truy tố tại phiên tịa;
+ Phân tích các quy định của pháp luật hình sự hiện hành liên quan đến hoạt
động rút quyết định truy tố tại phiên tòa;
+ Thu thập số liệu, vụ án điển hình để xử lý, phân tích thực tiễn hoạt động rút
quyết định truy tố tại phiên tịa theo pháp luật tố tụng hình sự. Trên cơ sở đó xây dựng
những kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật về vấn đề nghiên cứu.
4.

Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1.

Đối tượng nghiên cứu

Dựa vào mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu nêu trên, đối tượng nghiên cứu của

đề tài là làm rõ các vấn đề lý luận chung về hoạt động rút quyết định truy tố tại phiên
tịa; phân tích, đánh giá các quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam hiện
hành và pháp luật của một số nước trên thế giới về rút quyết định truy tố tại phiên
tòa; nghiên cứu thực tiễn áp dụng pháp luật về rút quyết định truy tố tại phiên tòa ở
Việt Nam.
4.2.

Phạm vi nghiên cứu

Phạm vi về pháp luật, khóa luận tập trung nghiên cứu cơ sở lý luận, quy định
của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam hiện hành và các nước Anh, Liên Bang Nga,
Nhật Bản, Trung Quốc về hoạt động rút quyết định truy tố tại phiên tòa.

5


Phạm vi về thời gian, khóa luận nghiên cứu thực tiễn áp dụng quy định của
pháp luật về rút quyết định truy tố tại phiên tòa từ năm 2015 đến năm 2020, nhằm
đảm bảo tính tồn diện, khách quan cho việc nghiên cứu.
Phạm vi về khơng gian, khóa luận nghiên cứu việc áp dụng pháp luật, các số
liệu và những vụ án điển hình về rút quyết định truy tố tại phiên tịa trên phạm vi tồn
quốc.
5.

Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Khóa luận nghiên cứu các nội dung liên quan đến đề tài dựa trên quan điểm

của Chủ nghĩa Mác – Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng ta về
Nhà nước và pháp luật, về hoàn thiện pháp luật về tổ chức và hoạt động của Viện
kiểm sát nhân dân trong hoạt động tư pháp.

Tác giả sử dụng các phương pháp nghiên cứu khác nhau như: phân tích, tổng
hợp, so sánh, đối chiếu, phương pháp lịch sử … để nghiên cứu đề tài. Việc sử dụng
các phương pháp này trong việc nghiên cứu đề tài cho phép tác giả xem xét vấn đề từ
nhiều khía cạnh khác nhau và tổng hợp lại để có cái nhìn khách quan, tồn diện về
hoạt động rút quyết định truy tố tại phiên tòa theo luật tố tụng hình sự Việt Nam.
6.

Ý nghĩa lý luận và ý nghĩa thực tiễn của khóa luận
Khóa luận góp phần làm sáng tỏ các vấn đề lý luận, pháp lý về rút quyết định

truy tố tại phiên tòa theo luật tố tụng hình sự Việt Nam. Một số kiến nghị của khóa
luận có giá trị tham khảo cho các nhà lập pháp trong việc hoàn thiện pháp luật về rút
quyết định truy tố tại phiên tòa.
Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể được dùng làm tài liệu tham khảo
phục vụ cho công tác nghiên cứu, học tập của sinh viên ngành Luật và những ai quan
tâm đến hoạt động rút quyết định truy tố tại phiên tòa theo luật tố tụng hình sự Việt
Nam.

6


7.

Bố cục của khóa luận
Ngồi phần mở đầu, mục lục, danh mục các từ viết tắt, kết luận, danh mục tài

liệu tham khảo, nội dung của khóa luận được trình bày trong 3 chương:
Chương I. Những vấn đề lý luận về rút quyết định truy tố tại phiên tòa trong
tố tụng hình sự.
Chương II. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam hiện hành về rút

quyết định truy tố tại phiên tòa.
Chương III. Thực tiễn áp dụng quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt
Nam về rút quyết định truy tố tại phiên tòa và giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng
pháp luật.

7


CHƯƠNG I
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ RÚT QUYẾT ĐỊNH TRUY TỐ TẠI PHIÊN
TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ
1.1.

Khái niệm rút quyết định truy tố tại phiên tịa
Tố tụng hình sự bao gồm nhiều giai đoạn khác nhau như khởi tố, điều tra, truy

tố, xét xử, … đây là các giai đoạn kế tiếp nhau của quá trình giải quyết vụ án hình sự.
Trong đó, giai đoạn trước là tiền đề của giai đoạn sau, giai đoạn sau kiểm tra các hành
vi, quyết định tố tụng của giai đoạn trước. Nếu khơng có việc truy tố của VKS trong
giai đoạn truy tố thì sẽ khơng có giai đoạn xét xử của Tịa án.
Quyền cơng tố là quyền nhân danh Nhà nước thơng qua thủ tục tố tụng hình
sự thực hiện việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội. Quyền cơng
tố được thể hiện ra bên ngồi bằng hoạt động cụ thể của cơ quan nhà nước có thẩm
quyền, người có thẩm quyền trong cơ quan đó gọi là thực hành quyền công tố. Nội
dung của quyền công tố có thể được liệt kê gồm: kiểm sát tính hợp pháp của hoạt
động tố tụng hình sự, truy tố bị can ra trước Tòa án và thực hiện quyền buộc tội, bảo
vệ cáo trạng tại phiên tòa. Ở nước ta, quyền công tố được giao cho cơ quan là Viện
kiểm sát nhân dân thực hiện.
Truy tố là một trong những chức năng của quyền công tố, là hoạt động đặc
trưng nhất thể hiện chức năng thực hành quyền công tố của VKS nhằm xem xét, quyết

định truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội ra trước Tịa án có thẩm
quyền để xét xử. Tại giai đoạn này, VKS căn cứ vào các quy định của pháp luật, trọng
tâm là pháp luật hình sự, tố tụng hình sự, sử dụng các quyền năng pháp lý của mình
do pháp luật quy định tiến hành các biện pháp cần thiết nhằm kiểm tra, đánh giá một
cách chính xác, khách quan, toàn diện những chứng cứ, tài liệu đã thu thập được trong
hồ sơ vụ án, trên cơ sở đó đưa ra một trong các quyết định: truy tố bị can; trả hồ sơ
điều tra bổ sung; đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án hình sự. Có thể hiểu rằng, truy tố
là quyền năng đặc trưng mà Nhà nước trao cho VKS và chỉ có VKS mới có quyền

8


đưa ra bản cáo trạng truy tố một người về một hay một số tội nào đó trước Tịa án có
thẩm quyền xét xử.
Trong giai đoạn truy tố, VKS quyết định việc truy tố bị can ra trước Tòa án
bằng bản cáo trạng hoặc quyết định truy tố (theo thủ tục rút gọn). Bản cáo trạng phải
dựa vào bản kết luận điều tra để nêu rõ: ngày, giờ, tháng, năm, địa điểm xảy ra tội
phạm; ai là người đã thực hiện hành vi phạm tội, thủ đoạn, mục đích, hậu quả của tội
phạm và những tình tiết quan trọng khác; những chứng cứ xác định tội trạng của bị
can, những tình tiết tăng nặng và tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự; nhân thân
của bị can và mọi tình tiết khác có ý nghĩa đối với vụ án. Phần kết luận của cáo trạng
ghi rõ tội danh và điều khoản Bộ luật Hình sự được áp dụng. Bản cáo trạng phải được
giao cho bị can.
Bản cáo trạng là văn bản pháp lý chính thức của VKS buộc tội bị can thuộc
thẩm quyền của Viện trưởng, Phó Viện trưởng VKS. Tại phiên tòa, KSV là người
thừa ủy quyền Viện trưởng, Phó Viện trưởng VKS để cơng bố và bảo vệ bản cáo
trạng, do vậy phải đọc nguyên văn, sau đó mới bổ sung nếu thấy cần thiết. Việc bổ
sung của KSV trong trường hợp này là nhằm làm rõ thêm nội dung của bản cáo trạng
chứ không làm thay đổi bất cứ nội dung nào của cáo trạng1.
Như vậy, việc truy tố bị can ra trước Tòa án bằng bản cáo trạng được VKS

thực hiện trong giai đoạn truy tố vụ án. Sau khi ra quyết định truy tố bằng bản cáo
trạng, VKS sẽ chuyển toàn bộ hồ sơ vụ án và bản cáo trạng sang Tịa án có thẩm
quyền xét xử. Về mặt nguyên tắc, khi hồ sơ vụ án và cáo trạng đã chuyển sang giai
đoạn xét xử thì thẩm quyền giải quyết vụ án (xem xét và ra bản án, quyết định) thuộc
về Tòa án. Trong giai đoạn chuẩn bị xét xử, Tòa án sẽ tiến hành các hoạt động tố tụng
để tạo ra các tiền đề cần thiết cho hoạt động xét xử tại phiên tòa. Tại phiên tòa, trên
cơ sở việc kiểm tra, đánh giá khách quan, toàn diện, đầy đủ các chứng cứ và nghe các
bên tranh tụng tại phiên tòa, Tòa án sẽ ra bản án, quyết định về việc giải quyết vụ án.

Nguyễn Nhứt (2007), Thực hành quyền công tố tại phiên tịa hình sự sơ thẩm trong điều kiện cải cách tư
pháp, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh, tr.44-48.
1

9


Tuy nhiên, trong giai đoạn xét xử pháp luật tố tụng hình sự vẫn cho phép VKS rút lại
quyết định truy tố trước khi mở phiên tòa và tại phiên tòa. Việc rút quyết định truy tố
của VKS trong các giai đoạn này sẽ dẫn đến những hậu quả pháp lý khác nhau. Để
nghiên cứu về chế định rút quyết định truy tố tại phiên tịa thì điều tiên quyết là phải
làm sáng tỏ khái niệm về đối tượng nghiên cứu. Mặc dù, việc rút quyết định truy tố
tại phiên tòa đã được quy định trong pháp luật tố tụng hình sự và chế định này có vị
trí, vai trị quan trọng về mặt lý luận, pháp lý và thực tiễn. Tuy nhiên, đến nay pháp
luật tố tụng hình sự chưa đưa ra khái niệm pháp lý của chế định này. Trong khoa học
pháp lý cũng rất ít quan điểm khoa học đưa ra khái niệm về rút quyết định truy tố tại
phiên tịa.
Theo từ điển Tiếng Việt thì, “rút” có nghĩa là “thu lại, lấy ra, thu về”2. Như
vậy có thể hiểu rút quyết định truy tố là thu lại, thu về việc truy cứu trách nhiệm hình
sự đối với bị can đã nêu trong bản cáo trạng hoặc quyết định truy tố (theo thủ tục rút
gọn).

Theo tác giả Quan Tuấn Nghĩa: “Rút quyết định truy tố là thu lại việc truy cứu
trách nhiệm hình sự đối với bị can đã nêu trong bản cáo trạng hoặc quyết định truy
tố theo thủ tục rút gọn hoặc quyết định khác, nghĩa là thu lại việc buộc tội3”. Quan
điểm này được đưa ra trên cơ sở kết hợp thuật ngữ “rút” theo từ điển Tiếng Việt và
bản chất của quyết định truy tố. Quan điểm này chưa xây dựng khái niệm về rút quyết
định truy tố dựa trên các dấu hiệu đặc trưng của đối tượng nghiên cứu như chủ thể,
căn cứ, pháp luật điều chỉnh, giai đoạn rút.
Theo tác giả Trần Đình Thắng: “Rút quyết định truy tố chính là rút cáo trạng.
Rút toàn bộ quyết định truy tố tức là rút toàn bộ cáo trạng mà Viện kiểm sát đã truy
tố người phạm tội; rút một phần quyết định truy tố tức là Kiểm sát viên đề nghị Hội
đồng xét xử không xét xử người phạm tội về một tội hoặc về một số tội nào đó hoặc
khơng áp dụng các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự đã nêu trong cáo trạng.
Từ điển Tiếng Việt (1994), Nhà xuất bản Khoa học xã hội.
Quan Tuấn Nghĩa (2021), “Rút quyết định truy tố và một số giải pháp hoàn thiện”, Kiểm sát, Viện kiểm sát
nhân dân tối cao, Số 02, tr.31-37.
2
3

10


Việc rút quyết định truy tố thường được thực hiện ở hai giai đoạn: giai đoạn từ khi
nhận hồ sơ vụ án đến trước khi có quyết định đưa vụ án ra xét xử; giai đoạn từ khi
có quyết định đưa vụ án ra xét xử tới khi mở phiên tòa4”. So với quan điểm trên, quan
điểm này tương đối đầy đủ và toàn diện hơn khi tiếp cận khái niệm rút quyết định
truy tố ở phạm vi rút (một phần hoặc toàn bộ), giai đoạn rút quyết định truy tố và chủ
thể rút quyết định truy tố. Tuy vậy, trong quan điểm này căn cứ rút quyết định truy tố
chưa được đề cập. Bên cạnh đó, việc đồng nhất rút quyết định truy tố chính là rút cáo
trạng là chưa tồn diện bởi vì ngồi việc truy tố bị can ra trước Tịa án bằng bản cáo
trạng thì VKS còn ra quyết định truy tố (theo thủ tục rút gọn). Vì vậy, trong luật sử

dụng thuật ngữ “rút quyết định truy tố” chứ không dùng thuật ngữ “rút cáo trạng”.
Về mặt lơ gic của q trình nhận thức, để xây dựng khái niệm về một đối tượng
hoặc sự việc cụ thể thì cần dựa trên các dấu hiệu đặc trưng của chúng. Vì vậy, để xây
dựng khái niệm về rút quyết định truy tố tại phiên tịa thì cần dựa trên bản chất của
việc rút, chủ thể, phạm vi, căn cứ pháp lý, giai đoạn rút quyết định truy tố. Trên cơ
sở những dấu hiệu đặc trưng về rút quyết định truy tố tại phiên tòa, tác giả đưa ra khái
niệm như sau:
“Rút quyết định truy tố tại phiên tịa là việc Viện kiểm sát có thẩm quyền rút
một phần hoặc tồn bộ quyết định truy tố khi có các căn cứ luật định tại phiên tòa
xét xử sơ thẩm”.
Như vậy, rút quyết định truy tố là nhiệm vụ, quyền hạn của VKS khi thực hành
quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tố tụng hình sự.
Thực tiễn hoạt động truy tố của VKS ở một số địa phương cho thấy, với nhiều lý do
khác nhau như điều kiện về thời gian, năng lực, trình độ chun mơn nghiệp vụ, tinh
thần trách nhiệm, ... Do đó, việc thay đổi hay rút quyết định truy tố tại phiên tịa là
một hoạt động hồn tồn có khả năng xảy ra trong q trình giải quyết vụ án hình sự.

Trần Đình Thắng, “Rút quyết định truy tố theo quy định của BLTTHS năm 2015”,
[ (truy cập
ngày 10/6/2021).
4

11


1.2.

Đặc điểm của rút quyết định truy tố tại phiên tòa
Trên cơ sở khái niệm về rút quyết định truy tố tại phiên tịa đã được trình bày


trên, có thể rút ra các đặc điểm của rút quyết định truy tố tại phiên tòa, như sau:
- Về bản chất: rút quyết định truy tố tại phiên tòa phải là việc - là hoạt động
được thực hiện dưới dạng hành động. VKS không thể rút quyết định truy tố dưới dạng
không hành động. Về mặt nguyên tắc, đây là một hoạt động, hành vi tố tụng được
pháp luật tố tụng hình sự quy định. Vì vậy, việc rút quyết định truy tố là một hoạt
động mang tính chủ động, có mục đích của VKS được thực hiện dưới những hình
thức cụ thể.
- Về hình thức rút quyết định truy tố: rút quyết định truy tố là hoạt động mang
ý nghĩa đặc biệt, nếu như quyết định truy tố là cơ sở để truy tố một người hay nhiều
người về một hay nhiều hành vi phạm tội và là cơ sở để Tịa án có thẩm quyền đưa
vụ án ra xét xử thì rút quyết định truy tố là hoạt động mang ý nghĩa làm chấm dứt
việc truy tố trong phạm vi được rút và đồng nghĩa với việc chấm dứt yêu cầu xét xử
của VKS đối với một hay nhiều người về một hay nhiều hành vi phạm tội. Đây là một
trong những hoạt động tố tụng quan trọng của VKS tại phiên tịa nên phải được thực
hiện dưới một hình thức nhất định. Nếu như quyết định truy tố được thể hiện dưới
dạng văn bản chính thức của VKS là bản cáo trạng thì đối với rút quyết định truy tố
tùy vào thói quen trong cách làm việc cũng như mối quan hệ giữa các cơ quan Nhà
nước với nhau mà hoạt động rút quyết định truy tố có thể được thể hiện bằng văn bản
(Quyết định rút quyết định truy tố đối với giai đoạn trước khi mở phiên tịa) hoặc
bằng lời nói (thể hiện bằng lời nói trực tiếp tại phiên tòa).
- Thẩm quyền rút quyết định truy tố: VKS nhân dân là cơ quan hoạt động theo
chế độ thủ trưởng, người lãnh đạo cao nhất là Viện trưởng VKS. Viện trưởng VKS
là người đứng đầu, điều hành và chỉ đạo các hoạt động của cơ quan mình. Theo đó,
các quyết định tố tụng của VKS phải do Viện trưởng ban hành. Khi vắng mặt, Viện
trưởng có thể ủy quyền cho một Phó Viện trưởng thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của
Viện trưởng và Phó Viện trưởng được ủy quyền phải chịu trách nhiệm trước Viện
trưởng về nhiệm vụ được ủy quyền. Quyết định truy tố là quyết định tố tụng đặc trưng
12



của VKS, Viện trưởng, Phó Viện trưởng VKS là chủ thể có thẩm quyền ban hành. Để
đảm bảo nguyên tắc tập trung, thống nhất trong quản lý, điều hành cũng như để đảm
bảo tính đồng bộ trong hoạt động ban hành quyết định tố tụng thì về nguyên tắc quyết
định truy tố do chủ thể nào ban hành thì chủ thể đó mới có thẩm quyền rút quyết định
truy tố đó. Do đó, nếu như trong giai đoạn chuẩn bị xét xử việc rút quyết định truy tố
do Viện trưởng, Phó Viện trưởng VKS quyết định. Tuy nhiên, tại phiên tịa, khi thực
hành quyền cơng tố tại phiên tịa, nếu xét thấy có căn cứ rút quyết định truy tố thì
KSV là chủ thể có thẩm quyền rút quyết định truy tố, bởi lẽ, KSV là người đại diện
cho quyền lực Nhà nước, được sự phân công của Viện trưởng, Phó Viện trưởng VKS
thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của mình về việc giải quyết vụ án
tại phiên tòa. Đối với trường hợp vụ án do VKS cấp trên thực hành quyền công tố,
kiểm sát điều tra và truy tố, phân công VKS cấp dưới thực hành quyền công tố và
kiểm sát xét xử sơ thẩm, quyết định truy tố trong trường hợp này do VKS cấp trên
ban hành, phân công cho VKS cấp dưới thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử
tại phiên tịa. Do đó, nếu tại phiên tịa có căn cứ rút quyết định truy tố của VKS cấp
trên thì KSV của VKS cấp dưới không được quyền rút quyết định truy tố mà phải báo
cáo VKS cấp trên xem xét, quyết định.
- Cơ sở pháp lý điều chỉnh việc rút quyết định truy tố: rút quyết định là hoạt
động tố tụng được thực hiện bởi chủ thể có thẩm quyền trong quá trình tố tụng hình
sự. Vì vậy, hoạt động này được điều chỉnh bởi các quy định của Bộ luật Tố tụng hình
sự năm 2015 (sau đây gọi tắt là BLTTHS năm 2015). Bản chất của hoạt động tố tụng
hình sự là các cơ quan tư pháp nhân danh quyền lực Nhà nước thực hiện hoạt động
khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và xử lý trách nhiệm hình sự đối với một hoặc nhiều
người về hành vi vi phạm pháp luật hình sự của người đó. Cơ sở để điều tra, truy tố
và xét xử một người là hành vi phạm tội của người đó và hành vi đó phải được quy
định trong Bộ luật Hình sự. Theo đó, cơ sở để VKS ra quyết định truy tố đối với một
người là những căn cứ về hành vi bị coi là tội phạm được quy định trong Bộ luật Hình
sự. Nếu như cơ sở cho việc ra quyết định truy tố ban đầu khơng cịn thì VKS phải rút
lại quyết định truy tố ban đầu, có nghĩa là khơng cịn căn cứ để buộc tội đối với người


13


đó. Như vậy, nếu quyết định truy tố một người ra trước Tịa án của VKS phải có đủ
chứng cứ xác định người đó đã thực hiện hành vi phạm tội thì việc rút quyết định truy
tố của VKS cũng phải dựa trên những căn cứ pháp lý được pháp luật quy định cụ thể
để đảm bảo việc nhận thức và áp dụng thống nhất pháp luật.
- Thời điểm rút quyết định truy tố: việc rút quyết định truy tố của VKS tại phiên
tòa được thực hiện ở phiên tòa xét xử sơ thẩm và phải đảm bảo đúng thời điểm theo
quy định của pháp luật. Phiên tòa xét xử sơ thẩm trải qua nhiều bước khác nhau như
thủ tục bắt đầu, thủ tục tranh tụng, nghị án và tuyên án. Vì vậy, việc rút quyết định
truy tố phải được thực hiện ở một thời điểm hợp lý để đảm bảo tính hài hịa giữa các
hoạt động tố tụng và giá trị của việc rút quyết định truy tố. Chẳng hạn nếu cho phép
rút quyết định truy tố sau khi HĐXX đã nghị án và tun án thì khơng cịn ý nghĩa.
Một điều cần lưu ý là việc rút quyết định truy tố chỉ được tiến hành ở phiên tòa xét
xử sơ thẩm còn đối với phiên tòa xét xử phúc thẩm thì khơng đặt ra vấn đề rút quyết
định truy tố. Bởi vì phiên tịa xét xử sơ thẩm phát sinh trên cơ sở truy tố của VKS,
còn đối với phiên tịa xét xử phúc thẩm thì dựa trên cơ sở của kháng cáo hoặc kháng
nghị chứ không dựa trên cơ sở quyết định truy tố của VKS. Do đó, việc rút quyết định
truy tố chỉ phát sinh ở phiên tịa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự.
- Phạm vi rút quyết định truy tố: quyết định truy tố của VKS là nhằm yêu cầu
xử lý trách nhiệm hình sự đối với người có hành vi mà pháp luật hình sự quy định là
tội phạm. Do đó, nội dung quyết định truy tố của VKS bao gồm truy tố bị can và tội
danh. Khi rút quyết định truy tố thì VKS có thể rút tồn bộ quyết định truy tố hoặc
rút truy tố đối với một hay nhiều bị can trong vụ án nhiều bị can hoặc rút truy tố đối
với một hay nhiều tội danh trong vụ án có nhiều tội danh hoặc rút truy tố các tình tiết
tăng nặng trách nhiệm hình sự đã nêu trong bản cáo trạng.
1.3.

Cơ sở của việc quy định rút quyết định truy tố tại phiên tòa

- Việc rút quyết định truy tố tại phiên tòa xuất phát từ yêu cầu đảm bảo quyền

con người trong tố tụng hình sự. Quyền con người là vấn đề cốt lõi cần được bảo vệ
và tôn trọng trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Hệ thống pháp luật Việt Nam
nói chung và hệ thống pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam nói riêng ln đi theo

14


hướng xây dựng những quy phạm pháp luật nhằm bảo vệ tốt nhất quyền con người
của công dân mà các văn bản pháp luật quốc tế đã ghi nhận.
Với chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát tuân việc tuân theo pháp
luật trong suốt quá trình giải quyết vụ án hình sự, VKS có trách nhiệm đảm bảo việc
truy tố đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không để lọt tội phạm và người phạm
tội, không làm oan người vô tội và đảm bảo việc xét xử của Tòa án đúng pháp luật,
kịp thời và nghiêm minh.
Xuất phát từ ngun tắc “suy đốn vơ tội”, là ngun tắc cơ bản trong tố tụng
hình sự nhằm đảm bảo quyền lợi con người và hoạt động đúng đắn của các cơ quan
tiến hành tố tụng5. Suy đốn vơ tội là nguyên tắc hiến định và là một trong những
nguyên tắc cơ bản trong tố tụng hình sự, được quy định đầy đủ, cụ thể tại Điều
13 BLTTHS năm 2015. Với tư cách là văn bản có hiệu lực pháp lý cao nhất, là những
quy phạm pháp luật cơ bản và quan trọng nhất của hệ thống pháp luật quốc gia, Hiến
pháp 2013 quy định tại khoản 1 Điều 31: “Người bị buộc tội được coi là khơng có tội
cho đến khi được chứng minh theo trình tự luật định và có bản án kết tội của Tịa án
đã có hiệu lực pháp luật6”. Điều 14 Luật Tổ chức Toà án nhân dân năm 2014 cũng
có quy định tương tự. Nguyên tắc này thực ra không phải là mới bởi đã được Điều 9
Bản tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền năm 1791 của Pháp quy định: “Mọi người
đều được coi là vô tội cho đến khi bị tuyên bố phạm tội; nếu xét thấy cần thiết phải
bắt giữ thì mọi sự cưỡng bức vượt quá mức cần thiết cho việc bắt giữ đều bị pháp
luật xử phạt nghiêm khắc”. Điều 11 Bản tuyên ngôn thế giới về nhân quyền của Liên

hợp quốc năm 1948 cũng quy định: “Mỗi bị cáo dù đã bị buộc tội có quyền được coi
là vơ tội cho đến khi được chứng minh là tội phạm theo pháp luật tại một phiên tồ
xét xử cơng khai với mọi đảm bảo biện hộ cần thiết”.
Cụ thể hóa Hiến pháp năm 2013 và các tuyên ngôn về nhân quyền và dân
quyền của các nước tiến bộ trên thế giới, BLTTHS năm 2015 được xây dựng và thực
Tạp chí Tịa án, “Bàn về ngun tắc suy đốn vơ tội”, [ (truy cập ngày 17/5/2021).
6
Khoản 1 Điều 31 Hiếp pháp năm 2014
5

15


hiện theo 27 nguyên tắc cơ bản (từ Điều 7 đến Điều 33), bổ sung và quy định lần đầu
tiên ngun tắc suy đốn vơ tội tại Điều 13: “Người bị buộc tội được coi là khơng có
tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định và có
bản án kết tội của Tịa án đã có hiệu lực pháp luật. Khi không đủ và không thể làm
sáng tỏ căn cứ để buộc tội, kết tội theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định thì
cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải kết luận người bị buộc tội khơng
có tội7”.
Theo đó, cơ quan tiến hành tố tụng có nghĩa vụ chứng minh hành vi phạm tội
của người bị buộc tội bằng các hệ thống chứng cứ, tài liệu xác thực. Tại phiên tòa,
nếu các chứng cứ đã thu thập được không chứng minh được sự phạm tội của người
bị buộc tội thì đồng nghĩa với sự vơ tội của người đó đã được chứng minh. Do đó,
các quyết định tố tụng trước đó đối với người này khơng cịn giá trị áp dụng và phải
được thu hồi nhằm đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của người đó. Rút quyết định
truy tố là hoạt động tố tụng có ý nghĩa rút lại việc luận tội và u cầu xét xử trước
Tịa án có thẩm quyền đối với một hay nhiều bị cáo về một hay nhiều hành vi phạm
tội. Khi các chứng cứ không chứng minh được căn cứ của nội dung truy tố hoặc khi
thấy nội dung truy tố có những vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng thì VKS rút lại

quyết định truy tố đó và u cầu Tịa án đình chỉ việc xét xử, đây là hoạt động vừa là
quyền vừa là nghĩa vụ của VKS. Khi đó, mọi quyền và lợi ích của người bị buộc tội
phải được khơi phục và được đảm bảo như những cơng dân bình thường.
-

Việc rút quyết định truy tố của Viện kiểm sát xuất phát từ yêu cầu đảm bảo

khắc phục kịp thời những thiếu sót trong hoạt động thực hành quyền cơng tố, đảm
bảo việc giải quyết nhanh chóng, đúng đắn vụ án hình sự, tiết kiệm thời gian, cơng
sức và chi phí tố tụng. Những điều, khoản trong Bộ luật Hình sự là căn cứ pháp lý để
truy cứu trách nhiệm hình sự cũng như quyết định hình phạt đối với người phạm tội.
Việc áp dụng không đúng điều, khoản của Bộ luật Hình sự sẽ dẫn đến việc truy tố và
quyết định hình phạt khơng đúng với tính chất, mức độ cũng như hậu quả do hành vi

7

Điều 13 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015

16


phạm tội gây ra làm hạn chế hiệu quả của hoạt động giải quyết vụ án hình sự cũng
như hạn chế tác dụng giáo dục, răn đe và phòng ngừa tội phạm. Thực tiễn giải quyết
vụ án hình sự hiện nay cho thấy, nhiều KSV làm công tác thực hành quyền cơng tố
và kiểm sát vụ án hình sự cịn nhiều sai sót như: nghiên cứu hồ sơ chưa sâu, chưa
tồn diện, chưa đầy đủ các khía cạnh của vụ án, áp dụng chưa đúng các tình tiết tăng
nặng cũng như giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, … dẫn đến việc đưa ra nhận định sai
về vụ án. Trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, đặc biệt là tại phiên tịa, khó tránh
khỏi những trường hợp xuất hiện những tình tiết mới, những chứng cứ, đồ vật mới có
khả năng làm thay đổi cơ bản nội dung các quyết định tố tụng trước đó. Để sửa đổi,

loại bỏ những sai sót đó, các cơ quan tiến hành tố tụng phải sửa đổi, thay đổi hoặc rút
các quyết định tố tụng trước đó. Rút quyết định truy tố của VKS là một trong những
hoạt động có ý nghĩa nhằm khắc phục kịp thời những thiếu sót, sai lầm trong các giai
đoạn tố tụng hình sự trước đó, đặc biệt là trong q trình thực hành quyền cơng tố,
qua đó nhằm đảm bảo cho hoạt động tố tụng hình sự được khách quan, công bằng và
tránh trường hợp làm oan người vô tội hoặc bỏ lọt tội phạm và người phạm tội, đồng
thời góp phần giải quyết nhanh chóng, đúng đắn vụ án hình sự, tiết kiệm thời gian,
cơng sức và chi phí tố tụng.
1.4.

Lược sử quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về rút quyết định

truy tố tại phiên tòa
- Giai đoạn từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến trước khi có Bộ luật
Tố tụng hình sự năm 1988:
Lịch sử luật tố tụng hình sự Việt Nam hình thành và phát triển gắn liền với các
giai đoạn phát triển của cách mạng Việt Nam8. Trước thời kỳ này, đất nước ta hầu
như trong tình trạng chiến tranh và thời kì bao cấp. Các quy định về tố tụng hình sự
chủ yếu dựa trên các sắc lệnh và các pháp lệnh được ban hành một cách riêng lẻ, chưa
đầy đủ và thống nhất do tình hình kinh tế, chính trị, xã hội lúc này cịn nhiều bất ổn.

Nguyễn Diễm, “Tìm hiểu về Bộ luật Tố tụng hình sự”,[ (truy cập ngày 16/6/2021).
8

17


Do đó, những quy định về rút quyết định truy tố trong giai đoạn này cũng khơng nằm
ngồi sự phát triển nói trên.
Sau cách mạng tháng Tám năm 1945 thành cơng, Nhà nước Việt Nam Dân

Chủ Cộng Hịa ra đời đã ban hành hệ thống pháp luật mới để tổ chức bộ máy nhà
nước nhằm quản lý đất nước. Về tổ chức, hệ thống các cơ quan tư pháp có nhiều sắc
lệnh khác nhau, trong đó phải kể đến Sắc lệnh số 13 ngày 24/01/1946 thiết lập Tòa
án thường án có quy định “Tịa đệ nhị gồm có: 01 Chánh án, 01 Biện lý, 01 Dự
thẩm”; “Tại phiên tòa, Chánh án ngồi xử, Biện lý ngồi ghế Công tố viên”; “Ơng
Chưởng lý hồn tồn giữ quyền truy tố và hành động”. Sắc lệnh số 51 ngày 17/4/1946
xác định rõ vị trí của cơng tố, quy định cụ thể nhiệm vụ của Chưởng lý và Biện lý
“Ông Biện lý bắt buộc phải có mặt tại các phiên tịa hình sự”; “Khi cuộc thẩm vấn
tại các phiên tịa xong rồi, ơng Biện lý thay mặt xã hội buộc tội bị can”. Một số sắc
lệnh khác như Sắc lệnh số 131 ngày 20/7/1947, Sắc lệnh số 19 ngày 16/02/1947, theo
các sắc lệnh này thì ngạch Thẩm phán được chia làm hai loại: Thẩm phán xét xử và
Thẩm phán buộc tội (còn gọi là Cơng tố viên). Hệ thống cơng tố ở tịa thượng thẩm
và tòa đệ nhị cấp do một Viên chưởng lý đứng đầu. Các Cơng tố viên có nhiệm vụ:
Cảnh sát tư pháp, Thực hành quyền công tố, giám sát điều tra9. Thông qua các sắc
lệnh này cho thấy, các quy định về tố tụng hình sự chưa được quy định một cách độc
lập mà nằm rải rác trong các quy định ở nhiều lĩnh vực khác nhau. Mặc dù nằm trong
Tịa án nhưng Cơng tố viên thực hiện nhiệm vụ một cách độc lập và chịu sự giám sát,
lãnh đạo thống nhất của Viên chưởng lý. Các Công tố viên phải có nhiệm vụ thực
hành quyền cơng tố thơng qua việc truy tố bị can ra trước Tòa án. Quy định về rút
quyết định truy tố tại phiên tòa trong giai đoạn này chưa được ghi nhận một cách cụ
thể nhưng có thể hiểu rằng, quy định này nằm trong thẩm quyền thực hành quyền
công tố của Công tố viên thông qua các hoạt động thực hành quyền công tố tại phiên
tòa.

Viện kiểm sát nhân dân cấp cao, “Một số vấn đề nhận thức về quyền công tố của Viện kiểm sát nhân dân”,
[ (truy cập ngày 16/6/2021).
9

18



×