-------***-------
BÀI TẬP LỚN
MÔN: LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT
NAM
ĐỀ TÀI: ĐẠI HỢI ĐẠI BIỂU TỒN Q́C LẦN THỨ V CỦA
ĐẢNG VÀ BA BƯỚC ĐỘT PHÁ ĐỔI MỚI KINH TÊ
.
HÀ NỘI, NĂM 2022
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU
5
I. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V của Đảng
6
1. Bối cảnh của đại hội V
6
2. Nội dung Đại hội V
6
3. Kết quả Đại hội V
11
4. Những điểm hạn chế của Đại hội V
12
5. So sánh đại hội V và đại hội IV
14
II. Ba bước đột phá kinh tế mới
16
1. Bước đột phá kinh tế đầu tiên
16
2. Bước đột phá kinh tế lần thứ 2
18
3. Bước đột phá kinh tế lần thứ ba
20
4. Đánh giá về những bước đột phá kinh tế
21
LỜI KẾT
24
LỜI MỞ ĐẦU
Ngày 03/02/1930 Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh
sáng lập ra đời, đánh dấu bước ngoặt vĩ đại của cách mạng Việt Nam. Trong
suốt 92 năm qua, Đảng đã lãnh đạo nhân dân ta trải qua hai cuộc kháng chiến
trường kỳ, giành độc lập dân tộc, xây dựng một nước Việt Nam ngày càng phát
triển; chính trị, xã hội ổn định, độc lập, chủ quyền được giữ vững; vị thế và uy
tín của đất nước ngày càng được nâng cao trên trường quốc tế.
Trong những năm 1975-1985, cả nước bước vào kỷ nguyên xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Đất nước ta đã diễn ra nhiều sự
kiện lịch sử quan trọng, được ghi đậm nét vào lịch sử vẻ vang của Đảng và của
dân tộc. Tất cả vì Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, vì hạnh phúc của nhân dân, xã hội,
vực dậy nền kinh tế yếu kém sau những năm đầu xây dựng XHCN trên phạm vi
toàn quốc.
Đồng thời, trong khoảng thời gian từ năm 1979 – 1986, nền kinh tế nước
nhà cũng có những bước đột phá, tạo ra bước ngoặt cho sự chuyển đổi cơ cấu
nền kinh tế từ lạc hậu, nghèo nàn trở nên tiến bộ hơn.
I. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V của Đảng
1. Bối cảnh của đại hội V
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ 5 V diễn ra trong bối cảnh kinh tế đất
nước sau 5 năm Kháng chiến chống Mỹ đang gặp những trì trệ nghiêm trọng.
Bên cạnh đó Việt Nam đang đóng quân ở Campuchia sau Chiến tranh biên giới
Tây Nam từ năm 1979 và quan hệ Việt Nam – Trung Quốc bị đổ vỡ sau Chiến
tranh biên giới phía Bắc 1979. Trung Quốc tiến hành hoạt động phá hoại biên
giới trên bộ và trên biển thường xuyên.
Đây cũng chính là thời kỳ Đảng và nhân dân ta phải trải qua nhiều thách
thức nghiêm trọng. Công tác lãnh đạo và quản lý kinh tế, quản lý xã hội của
Đảng và Nhà nước phạm nhiều khuyết điểm. Xuất hiện tình hình khủng hoảng
kinh tế - xã hội. Thực trạng đất nước đòi hỏi Đảng phải kiểm điểm lại đường
lối, chủ trương, chính sách, đánh giá khách quan thành tựu và khuyết điểm,
định ra mục tiêu, nhiệm vụ, các biện pháp giải quyết đúng những vấn đề quan
trọng cấp bách trên tất cả các lĩnh vực đời sống xã hội nhằm tiếp tục đưa sự
nghiệp cách mạng nước ta tiến lên.
2. Nội dung Đại hội V
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V của Đảng, bước phát triển mới về
con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Đại hội lần thứ V của Đảng tiến hành từ ngày 27-3 đến ngày 31-3-1982
tại Thủ đô Hà Nội. Dự Đại hội có 1.033 đại biểu thay mặt cho hơn 1,7 triệu
đảng viên trong cả nước, có 47 đồn đại biểu các đảng cộng sản và công nhân,
các tổ chức cách mạng trên thế giới.
Đại hội đã thảo luận nhiệm vụ và mục tiêu chủ yếu về kinh tế-xã hội trong
5 năm 1981-1985 thông qua Báo cáo Chính trị, Báo cáo về phương hướng,
Báo cáo về xây dựng Đảng và bổ sung điều lệ Đảng, Bầu Ban Chấp hành Trung
ương khoá V gồm 116 ủy viên chính thức và 36 ủy viên dự khuyết. Hội nghị
lần thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương, khoá V đã bầu ra Ban Bí thư, Tổng Bí
thư và Ủy ban kiểm tra Trung ương. Đồng chí Lê Duẩn được bầu lại làm Tổng
Bí thư của Đảng.
Đồng chí Trường Chinh đọc lời khai mạc Đại hội. Đồng chí Lê Duẩn đọc
Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng. Đồng chí Phạm Văn
Đồng đọc Báo cáo về nhiệm vụ kinh tế - xã hội. Đồng chí Lê Đức Thọ đọc Báo
cáo về xây dựng Đảng. Nhiều đại biểu của Đại hội đã đọc tham luận, nhiều đại
biểu quốc tế và trong nước đọc lời chào mừng.
( chèn ảnh của Lê Duẩn, Phạm Văn Đồng, Lê Đức Thọ )
Nội dung cơ bản của báo cáo chính trị:
Báo cáo chính trị đã đánh giá toàn diện những thắng lợi mà Đảng và nhân
dân ta đã giành được trong công cuộc xây dựng, bảo vệ Tổ quốc từ sau đại
thắng mùa xuân 1975. Báo cáo chính trị đã nêu bật những thành tựu trên các
lĩnh vực. Trên mặt trận kinh tế chúng ta đã khắc phục những hậu quả nặng nề
do chiến tranh xâm lược và thiên tai gây ra, khôi phục và phát triển sản xuất,
phân bố lại lao động xã hội, củng cố quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa. Ở miền
Nam, công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa đạt được những kết quả bước đầu, giai
cấp tư sản mại bản bị xoá bỏ, một bộ phận công thương nghiệp tư bản đã được
cải tạo, nông dân ở nhiều nơi tham gia tập đoàn sản xuất kể cả vào làm ăn tập
thể. Trên mặt trận văn hoá, sự nghiệp giáo dục tiếp tục phát triển, nạn mù chữ
về cơ bản được thanh toán. Công cuộc xây dựng nền văn hoá mới được triển
khai trong cả nước. Sự nghiệp văn học nghệ thuật đạt được một số tiến bộ.
Cơng tác y tế, thể dục thể thao, có nhiều cố gắng vươn lên. Các ngành khoa
học, kỹ thuật đã đáp ứng tốt một số yêu cầu của kinh tế và quốc phòng.
Báo cáo chính trị cũng vạch rõ những khó khăn yếu kém của nước ta
trong quá trình phát triển. Về kinh tế, chưa thu hẹp được những mặt cân đối
nghiêm trọng của nền kinh tế quốc dân. kết quả thực hiện các kế hoạch kinh tế
trong 5 năm 1976-1980 Sản xuất phát triển rất chậm trong khi dân số tăng
nhanh, lương thực thực phẩm, hàng tiêu dùng không đủ đáp ứng nhu cầu thiết
yếu của đời sống xã hội. Đời sống nhân dân lao động gặp rất nhiều khó khăn
thiếu thốn. Mặt trận tư tưởng, văn hóa, giáo dục còn bị xem nhẹ, pháp chế xã
hội chủ nghĩa chậm được tăng cường, pháp luật, kỷ luật bị buông lỏng.
Báo cáo nêu rõ trong giai đoạn mới của cách mạng, Đảng phải lãnh đạo
nhân dân ta thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược: “Xây dựng thành công chủ
nghĩa xã hội và sẵn sàng chiến đấu, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội
chủ nghĩa”. Hai nhiệm vụ chiến lược đó quan hệ mật thiết với nhau. Xây dựng
chủ nghĩa xã hội làm cho đất nước lớn mạnh về mọi mặt thì mới có đủ sức
đánh thắng mọi cuộc chiến tranh xâm lược của địch, bảo vệ vững chắc Tổ
quốc. Ngược lại có tăng cường phịng thủ, bảo vệ vững chắc Tổ quốc mới có
điều kiện để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội. Xác định những nhiệm vụ
rõ ràng trong từng lĩnh vực
Báo cáo chính trị đã xác định những chính sách lớn về kinh tế - xã hội:
Đáp ứng những nhu cầu cấp bách và thiết yếu nhất, dần dần ổn định, tiến lên
cải thiện một bước đời sống vật chất và văn hoá của nhân dân. Tiếp tục xây
dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, chủ yếu nhằm thúc đẩy sản
xuất nông nghiệp, hàng tiêu dùng và xuất khẩu, đồng thời tăng thêm trang bị kỹ
thuật cho các ngành kinh tế khác, và chuẩn bị cho sự phát triển mạnh mẽ hơn
nữa của công nghiệp nặng trong chặng đường tiếp theo. Hồn thành cơng cuộc
cải tạo xã hội chủ nghĩa ở các tỉnh miền Nam, tiếp tục hoàn thiện quan hệ sản
xuất xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, củng cố quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa
trong cả nước. Đáp ứng các nhu cầu của công cuộc phòng thủ đất nước, củng
cố quốc phòng và giữ vững an ninh, trật tự.
Tăng cường Nhà nước xã hội chủ nghĩa, phát động phong trào cách mạng
của quần chúng, Báo cáo chính trị nêu rõ: Nhân dân lao động thực hiện quyền
làm chủ tập thể của mình chủ yếu bằng Nhà nước dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Tăng cường Nhà nước là vấn đề cấp bách để phát huy quyền làm chủ của nhân
dân. Đồng thời, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước, cải tiến
phương pháp lãnh đạo của các cấp uỷ đảng với chính quyền là điều kiện để
phát huy vai trò và hiệu lực của Nhà nước.
Nâng cao sức chiến đấu của Đảng, cơng tác xây dựng Đảng càng có vị trí
đặc biệt quan trọng. Nhiệm vụ then chốt của công tác xây dựng Đảng hiện nay
là tiếp tục nâng cao tính giai cấp công nhân, tính tiên phong của Đảng, xây
dựng Đảng mạnh mẽ về chính trị, tư tưởng và tổ chức nhằm bảo đảm thực hiện
thắng lợi đường lối của Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng đối với sự
nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc; làm cho Đảng ta luôn
luôn giữ vững bản chất cách mạng và khoa học, một đảng thật sự trong sạch, có
sức chiến đấu cao, gắn bó chặt chẽ với quần chúng.
Và còn các nhiệm vụ đối với văn hoá, xã hội, tăng cường quản lý xã hội
và với lĩnh vực công tác khoa giáo,...
Đại hội Đại biểu tồn quốc lần thứ V của Đảng đã có những nhận thức
mới về chủ nghĩa xã hội và con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Đại hội xác định nhiệm vụ cơ bản của công tác tư tưởng là: Vũ trang cho
toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta những kiến thức cơ bản về chủ nghĩa xã hội
khoa học, xây dựng ý thức kiên cường, quyết tâm sắt đá và trình độ hiểu biết
cần thiết để làm tròn cả hai nhiệm vụ chiến lược: xây dựng chủ nghĩa xã hội và
bảo vệ Tổ quốc. Về các nhiệm vụ cụ thể, trước hết là: làm quán triệt đường lối
các mạng xã hội chủ nghĩa, nâng cao lập trường giai cấp công nhân trong cuộc
đấu tranh giữa hai con đường.
Thứ nhất, Đại hội đưa ra quan niệm mới về chặng đường đầu tiên của
thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Theo quan điểm của Đại hội V, thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở
nước ta là khó khăn, phức tạp, lâu dài, phải trải qua nhiều chặng đường, hiện
nay nước ta đang ở chặng đường đầu tiên, đồng thời chỉ ra nội dung kinh tế,
chính trị, văn hoá, xã hội của chặng đường đầu. Đây chính là sự nhận thức và
vận dụng đúng đắn hơn quan điểm chủ nghĩa Mác-Lênin về thời kỳ quá độ và
sự phân kỳ thời kỳ quá độ vào điều kiện thực tiễn nước ta. Đại hội xác định:
Chặng đường trước mắt bao gồm thời kỳ 5 năm 1981-1985 và kéo dài đến
những năm 1990 là khoảng thời gian có tầm quan trọng đặc biệt.
Việc khẳng định trên thực tế cách mạng nước ta đang ở chặng đường nào
trên con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội có ý nghĩa quyết định việc tìm ra và
nắm vững quy luật khách quan và là cơ sở để cụ thể hoá đường lối, xác định
chủ trương, chính sách phù hợp với thực tiễn cách mạng; chống chủ quan, nơn
nóng, đốt cháy giai đoạn. Đại hội V chỉ rõ: “Kinh nghiệm của 5 năm 1976 1980 cho thấy phải cụ thể hoá đường lối của Đảng - đường lối chung của cách
mạng xã hội chủ nghĩa và đường lối xây dựng nền kinh tế xã hội chủ nghĩa ở
nước ta, vạch ra chiến lược kinh tế, xã hội cho chặng đường đầu tiên của quá
trình công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa”.
Thứ hai, Đại hội xác định cách mạng Việt Nam trong giai đoạn mới có
hai nhiệm vụ chiến lược: xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và sẵn sàng
chiến đấu, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Hai nhiệm vụ chiến lược có quan hệ mật thiết với nhau. Xây dựng chủ
nghĩa xã hội đạt những kết quả thiết thực làm cho đất nước ta mạnh lên về mọi
mặt và trong mọi hoàn cảnh thì mới có đủ sức đánh thắng mọi cuộc chiến tranh
xâm lược của địch, bảo vệ vững chắc Tổ quốc. Ngược lại, bảo vệ vững chắc Tổ
quốc thì mới có điều kiện để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội. Mỗi nhiệm
vụ chiến lược có vị trí riêng: “Trong khi khơng một phút lơi lỏng nhiệm vụ
củng cố quốc phịng, bảo vệ Tổ quốc, Đảng ta và nhân dân ta phải đặt lên hàng
đầu nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội”.
Thứ ba, Đại hội đã có những điều chỉnh về nội dung, bước đi, cách làm
của cơng nghiệp hố xã hội chủ nghĩa trong chặng đường đầu tiên.
Đại hội V xác định: Tập trung sức phát triển mạnhột bước lên sản xuất lớn
xã hội chủ nghĩa; ra sức đẩy mạnh sản xuất hàng tiêu dùng và tiếp tục xây dựng
một số ngành công nghiệp nặng quan trọng; kết hợp nông nghiệp, công nghiệp
hàng tiêu dùng và công nghiệp nặng trong một cơ cấu công-nông nghiệp hợp
lý.
3. Kết quả Đại hội V
Thứ nhất, Đại hội V đã đề ra đường lối chiến lược cho công cuộc xây
dựng đất nước. Đường lối này đã tạo điều kiện cho cơng cuộc cơng nghiệp hóa
– hiện đại hóa của nước ta phát triển, đặc biệt là nhân dân miền Nam. Đại bộ
phận nông dân Miền Nam đi vào con đường sản xuất tập thể, đồng bào các dân
tộc ở Tây Nguyên có tiến bộ trong sự nghiệp xây dựng cuộc sống mới, tạo
bước bắt kịp đà phát triển đối với Miền Bắc.
Thứ hai, không thể phủ nhận được sự phát triển kinh tế của nước ta trong
giai đoạn 1981-1985. Trong sản xuất nông nghiệp và công nghiệp, đã ngăn
chặn được đà giảm sút của những năm 1979-1980, từ năm 1981 đến nay, đạt
được nhiều tiến bộ rõ rệt. Điển hình như, Nông nghiệp tăng bình quân hằng
năm 4,9% so với 1,9% hằng năm của thời kỳ 1976-1980. Sản xuất công nghiệp
tăng bình quân hằng năm 8,9% so với thời kỳ 1976-1980. Thu nhập quốc dân
tăng bình quân hằng năm 6,4% so với 0,4% trong 5 năm trước.
Sự phát triển của nền kinh tế đã đáp ứng mục tiêu trong việc đảm bảo những
nhu cầu cấp bách và thiết yếu nhất dần dần ổn định, tiến tới cải thiện một bước
đời sống vật chất và văn hoá của nhân dân; Hồn thành cơng cuộc cải tạo xã
hội chủ nghĩa ở miền Nam, hoàn thiện quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa ở
miền Bắc.
Thứ ba, trong lĩnh vực văn hóa, chúng ta đã xây dựng được nền văn hóa
mới, con người mới theo đúng tư tưởng Hờ Chí Minh. Chúng ta đã từng bước
hoàn thiện nền giáo dục, nâng cao dân trí cho người dân. Hệ thống y tế, thể
dục, thể thao, nghệ thuật cũng được xây dựng và chú trọng phát triển. Tất cả
cùng đóng góp xây dựng nên một xã hội dân chủ.
Thứ tư, về xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật, trong 5 năm 1981-1985, đã
hồn thành nhiều cơng trình tương đối lớn và hàng nghìn công trình vừa và
nhỏ, trong đó có một số cơ sở quan trọng về điện, dầu khí, xi măng, cơ khí, dệt,
đường, thuỷ lợi, giao thông... Về năng lực sản xuất, tăng thêm rất nhiều, điển
hình như 456 nghìn kw điện; 2,5 triệu tấn than.... Các cơng trình thủy điện Hịa
Bình, Trị An cũng được xây dựng.
Thứ năm, về công cuộc chiến đấu, bảo vệ Tổ quốc, chúng ta tiếp tục giữ
vững nền độc lập dân tộc, đảm bảo an ninh chính trị. Đặc biệt, chúng ta đã làm
thất bại một bước chiến tranh phá hoại nhiều mặt của địch và bọn phản động
FULRO ở vùng Tây Nguyên. Đối với cách mạng thế giới, Quân và dân ta tiếp
tục thực hiện nghĩa vụ quốc tế, củng cố liên minh chiến lược đối với Lào và
Campuchia, tăng cường quan hệ đoàn kết và hợp tác tồn diện với Liên Xơ,
Lào, Campuchia.
Thứ sáu, về an ninh quốc phòng, Đảng đã xây dựng được một hệ thống
quân đội chính quy, hiện đại, sẵn sàng ứng phó với mọi kẻ thù xâm lược. Lực
lượng dân quân, tự vệ được tăng cường cả về số lượng và chất lượng. Việc kết
hợp kinh tế với quốc phòng đã đạt một số kết quả, nhất là xây dựng các công
trình công nghiệp và giao thông.
Như vậy, với những thành tựu kể trên, Đại hội V của Đảng đã mở ra
bước tiến mới cho con đường phát triển của dân tộc. Đảng được củng cố và
tăng cường sức mạnh, là nền tảng vững chắc cho cách mạng.
4. Những điểm hạn chế của Đại hội V
Bên cạnh những thành tựu mà Đại hội V đạt được thì cũng cịn tờn tại
những điểm hạn chế như sau:
Thứ nhất, về tình hình kinh tế, so với điều kiện của nước ta, mặc dù sản
xuất tuy có tăng, nhưng tăng chậm, các hoạt động sản xuất lương thực, than, xi
măng, gỗ, vải,… hàng xuất khẩu không đạt được như chỉ tiêu đề ra đặc biệt là
lương thực. Chính những vấn đề này gây ra mất cân đối giữa hoạt động cung và
cầu về lương thực, thực phẩm, hàng tiêu dùng, năng lượng, nguyên liệu, vận
tải..., giữa thu và chi, xuất khẩu và nhập khẩu chậm được thu hẹp, có mặt cịn
gay gắt hơn trước. Bên cạnh đó, các xí nghiệp khơng thể khơng nhắc đến việc
hiệu quả sản xuất và đầu tư thấp nói chung chỉ sử dụng được khoảng một nửa
công suất thiết kế, năng suất lao động giảm, chất lượng sản phẩm sút kém.
Thứ hai, về môi trường sinh thái, mặc dù nước ta rất giàu tài nguyên,
nhân lực có đủ nhưng việc khai thác lại chưa có kế hoạch tỉ mỉ dẫn đến nhiều
tình trạng sử dụng lãng phí, nhất là đất nông nghiệp và tài nguyên rừng; môi
trường sinh thái bị phá hoại. Đây là vấn đề quan trọng, môi trường sinh thái
gắn với sức khỏe con người. Môi trường bị ảnh hưởng khiến cho con người
cũng dễ bị ảnh hưởng theo chiều hướng tiêu cực.
Thứ ba, về thành phần của các nền kinh tế, mặc dù thời gian này đã
chứng kiến sự suy yếu của nền kinh tế quốc doanh, nhưng như vậy vẫn là chưa
đủ bởi nền kinh tế tư nhân hay nền kinh tế có vốn đầu tư nước ngồi chưa có
nhiều đất phát triển. Cơng cuộc cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước khơng
thể tốt nếu chúng ta không đề cao hai nền kinh tế nói trên đặc biệt là trong bối
cảnh phát triển của xu thế tồn cầu hóa.
Thứ tư, về cơ sở vật chất – kỹ thuật: Hệ thống điện – đường – trường –
trạm phát triển chậm. Giao thơng cịn nhiều hạn chế dẫn đến lưu thông không
thông suốt, phân phối rối ren
Thứ năm, đời sống của nhân dân, nhất là công nhân, viên chức cịn nhiều
khó khăn. Nhiều người lao động chưa có và chưa đủ việc làm. Nhiều nhu cầu
chính đáng tối thiểu của nhân dân về đời sống vật chất và văn hoá chưa được
bảo đảm. Nông thôn thiếu hàng tiêu dùng thông thường và thuốc men; nhà ở,
điều kiện vệ sinh, sinh hoạt văn hoá ở nhiều nơi còn thiếu thốn, nghèo nàn.
Thứ sáu, bộ máy Nhà nước còn nặng về quan liêu, bao cấp, tham nhũng
dẫn đến nhiều hiện tượng tiêu cực trong xã hội phát triển; Công bằng xã hội bị
vi phạm; Pháp luật, kỷ cương không nghiêm. Những hành vi lộng quyền, tham
nhũng của một số cán bộ và nhân viên nhà nước, những hoạt động của bọn làm
ăn phi pháp... chưa bị trừng trị nghiêm khắc và kịp thời.
Nguyên nhân của những hạn chế trên xuất phát từ việc chúng ta chưa
thực hiện được mục tiêu do Đại hội lần thứ V đề ra là về cơ bản ổn định tình
hình kinh tế - xã hội, ổn định đời sống của nhân dân. Đảng đánh giá tình hình
cụ thể về các mặt kinh tế, xã hội của đất nước, đã có nhiều thiếu sót.
Chúng ta vẫn duy trì ý chí chủ quan, muốn đốt cháy giai đoạn mà không
nhận thức hoặc nhận thức không đầy đủ rằng thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội là một quá trình lịch sử tương đối dài, phải trải qua nhiều chặng đường.
Trong khi chúng ta chậm đổi mới cơ chế quản lý kinh tế đã lỗi thời, lạc hậu.
Đại hội V đã chỉ ra rất nhiều nhiệm vụ trước mắt và lâu dài nhưng trong chỉ đạo
thực hiện đã không quán triệt những kết luận quan trọng nói trên, chưa kiên
quyết khắc phục tư tưởng nóng vội và bảo thủ thể hiện chủ yếu trong các chủ
trương về cơ cấu kinh tế, cải tạo xã hội chủ nghĩa và cơ chế quản lý kinh tế.
Trong việc bố trí cơ cấu kinh tế, Đảng chưa kết hợp chặt chẽ ngay từ đầu
công nghiệp với nông nghiệp thành một cơ cấu hợp lý, chưa sử dụng có hiệu
quả những khả năng mở rộng quan hệ kinh tế với nước ngồi. Nơng nghiệp
chưa thật sự được coi là mặt trận hàng đầu, không được bảo đảm những điều
kiện cần thiết để phát triển, nhất là vật tư, tiền vốn và các chính sách khuyến
khích. Công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng, kể cả tiểu công nghiệp, thủ công
nghiệp, vẫn bị coi nhẹ về tổ chức, đầu tư, chính sách. Công nghiệp nặng không
phục vụ kịp thời nơng nghiệp và cơng nghiệp nhẹ.
Mặc dù cịn những hạn chế nhất định, song những vấn đề hạn chế của đại
hội V đã được Đảng và Nhà nước kịp thời sửa đổi trong đại hội VI (t12-1986).
Sự lãnh đạo của Đảng vẫn là yếu tố tiên quyết cho mọi thắng lợi về sau của đất
nước.
5. So sánh đại hội V và đại hội IV
Giống nhau:
● Là những kỳ đại hội đầu tiên sau khi đất nước được thống nhất
● Đều đưa ra những đường lối, chủ trương nhằm phát triển nền kinh tế đất
nước, củng cố đời sống nhân dân, xác định đường lối phát triển đất nước
hướng tới việc xây dựng chủ nghĩa xã hội.
● Kế hoạch 5 năm của hai Đại hội IV và Đại hội V đều đạt được những
thành tựu nhất định ở các lĩnh vực nông nghiệp, khôi phục kinh tế, văn
hóa, giáo dục và y tế, những thành tựu quan trọng trong sự nghiệp xây
dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ được an ninh chính trị
● Đồng chí Lê Duẩn vẫn được bầu làm Tổng bí thư Trung ương Đảng
Khác nhau:
● Về nhiệm vụ chính, Đại hội IV chỉ rõ: hàn gắn vết thương chiến tranh,
từng bước khôi phục kinh tế ở miền Nam, tiếp tục đẩy mạnh sự nghiệp
xây dựng chủ nghĩa xã hội và quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa ở miền
Bắc, đồng thời tiến hành cải tạo và xây dựng xã hội chủ nghĩa ở miền
Nam. Đại hội V có nhiệm vụ chính là xây dựng thành công xã hội chủ
nghĩa và sẵn sàng chiến đấu bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
● Về quan niệm về chặng đường thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Đại
hội IV cho rằng thời gian để hoàn thành về cơ bản quá trình đưa nền
kinh tế từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn XHCN là trong 20 năm. Ngược
lại, Đại hội V khẳng định thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội là khó
khăn, phức tạp, lâu dài, phải trải qua nhiều chặng đường. Đồng thời đại
hội V cũng xác định được thực tế cách mạng nước ta chỉ đang ở chặng
đầu tiên của con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội
● Đại hội lần thứ IV nêu rõ: Đẩy mạnh cơng nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa
ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lí trên cơ sở phát triển
nông nghiệp và công nghiệp nhẹ. Trong khi đó, đại hội lần thứ V lại xác
định: Tập trung sức mạnh phát triển nông nghiệp, đưa nông nghiệp tiến
lên một bước sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa – nội dung này phù hợp với
thực tiễn nước ta, có thế mạnh về lao động, đất đai, ngành nghề,…
Có thể nói rằng, Đại hội V vẫn có những bước cải tiến mới, những tư
tưởng, quan điểm tiến bộ hơn so với Đại hội IV. Nhưng nhìn trên tổng thể, cả
hai kì đại hội này đều có những sai lầm, khuyết điểm chưa thể khắc phục được,
đặc biệt là trong lĩnh vực kinh tế. Nhiệm vụ mục tiêu không thể hoàn thành, đất
nước lâm vào khủng hoảng cuối những năm 70 và kéo dài trong nhiều năm.
II. Ba bước đột phá kinh tế mới
1. Bước đột phá kinh tế đầu tiên
Trước đổi mới, do áp lực gay gắt của tình hình trong nước và quốc tế buộc
chúng ta khơng cịn con đường nào khác phải tiến hành đổi mới. Hoạt động đầu
tiên để tiến hành đổi mới chính là đổi mới tư duy mà trước hết là tư duy kinh
tế.
Hội nghị Trung ương 6 (8/1979) là bước đột phá đầu tiên đổi mới kinh tế
của Đảng với chủ trương khắc phục những khuyết điểm, sai lầm trong quản lý
kinh tế và trong cải tạo xã hội chủ nghĩa, phá bỏ những rào cản để cho “sản
xuất bung ra” . Cuối cùng Hội nghị đã ra quyết định số 20 – NQ/TW ngày 20 –
9 – 1979 với tinh thần chính là:
● Hội nghị phủ định một số yếu tố của thể chế kinh tế tập trung quan liêu
bao cấp.
● Cho phép kết hợp kế hoạch hóa với cơ chế thị trường. Tuy nhiên, thị
trường vẫn được coi là thứ yếu và bổ sung cho kế hoạch.
● Nhận thấy sự cần thiết phải kết hợp nhiều loại lợi ích, huy động vai trò
của cá thể, tiểu thương, tiểu chủ... làm cho sản xuất bung ra. Sử dụng lại
kinh tế tư nhân bao gồm cả tư bản tư nhân dưới sự quản lý của Nhà
nước.
Về nông nghiệp:
● Chủ trương ổn định nghĩa vụ lương thực, khuyến khích tận dụng ao hồ,
ruộng đất hoang, đẩy mạnh chăn nuôi gia súc dưới mọi hình thức, sửa
lại thuế lương thực và giá, sửa lại cơ cấu phân phối nội bộ hợp tác xã
nông nghiệp để đẩy mạnh sản xuất…Sửa lại giá lương thực và giá các
nông sản khác theo hướng dựa đã thỏa thuận.
● Hội đồng Chính phủ ra quyết định (10 – 1979) về việc tận dụng đất đai
nông nghiệp để người dân khai hoang, được miễn thuế, trả thù lao và
được sử dụng toàn bộ sản phẩm.
● Trước hiện tượng “khoán chui” trong hợp tác xã nông nghiệp ở một số
địa phương, sau khi thí điểm. Ban Bí thư đã ban hành Chỉ thị số 100CT/TW (1-1981) về khoán sản phẩm đến nhóm và người lao động trong
các hợp tác xã nông nghiệp để giải quyết hiện tượng khoán chui. Theo
chỉ thị, mỗi xã viên nhận mức khoán theo diện tích đất và tự mình làm
các khâu cấy, chăm sóc, thu hoạch, nếu thu hoạch vượt mức thì được
hưởng và tự do mua bán.
Về công nghiệp:
● Trước các hiện tượng xé rào bù giá vào lương ở TP HCM và tỉnh Long
An, Chính phủ ban hành Quyết định số 25-CP (1-1981) về quyền chủ
động sản xuất kinh doanh và quyền tự chủ về tài chính của các xí nghiệp
quốc doanh, quyết định này cho phép áp dụng chế độ 3 kế hoạch.
● Quyết định số 26- CP (1981) về việc mở rộng hình thức trả lương khoán,
lương sản phẩm và vận dụng hình thức tiền thưởng trong các đơn vị sản
xuất kinh doanh của Nhà nước. Các Quyết định này nhằm giải phóng
sức sản xuất, góp phần làm giảm bớt sự tập trung quan liêu bao cấp
trong cơ chế quản lý nhà nước đối với các xí nghiệp, tăng tính tự chủ
của xí nghiệp và tạo thêm động lực cho xí nghiệp phát triển.
● Nhà nước khuyến khích phát triển công nghiệp hàng tiêu dùng và công
nghiệp địa phương, nhiệm vụ cơ bản là phục vụ đời sống nhân dân địa
phương, góp phần phục vụ nhu cầu của cả nước và xuất khẩu.
● Tận dụng các thành phần kinh tế quốc doanh, công tư hợp doanh, tập
thể, cá thể (kể cả tư sản được kinh doanh hợp pháp); kết hợp quy mô
lớn, vừa, nhỏ. Tận dụng mọi khả năng để sản xuất hàng tiêu dùng.
⇨ Những điều chỉnh này đã tạo ra hình thái song song tồn tại giữa kinh tế
cơng hữu kế hoạch hóa với phi cơng hữu và thị trường tự do. Đây là nét đặc
thù từ sau Hội nghị Trung ương 6. “Cộng sinh” và “xung đột” giữa hai loại
cơ chế thị trường , hai loại thị trường là đặc trưng cơ bản của thời kỳ manh
nha cho sự ra đời của thể chế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam.
Về thương nghiệp:
● Cho phép lưu thơng hàng hóa tự do, xóa bỏ “ngăn sông, cấm
chợ”.
● Cho phép xí nghiệp bán phần sản phẩm vượt kế hoạch cho Nhà
nước hoặc bán trên thị trường tự do.
● Xóa bỏ những trạm kiểm soát để người sản xuất có quyền tự do
đưa sản phẩm ra trao đổi ngoài thị trường.
● Cho phép địa phương tiến hành xuất nhập khẩu
2. Bước đột phá kinh tế lần thứ 2
HỘI NGHỊ TRUNG ƯƠNG 8 (6/1985)
Đây được coi là bước đột phá thứ hai trong quá trình đổi mới kinh tế của
Đảng. Tại Hội nghị này, Trung ương chủ trương xóa bỏ cơ chế tập trung quan
liêu hành chính bao cấp, lấy giá – lương – tiền là khâu đột phá để chuyển sang
cơ chế kinh doanh xã hội chủ nghĩa.
Hội nghị đã đề ra mục tiêu và các phương hướng giải quyết vấn đề giá –
lương – tiền
Việc giải quyết các vấn đề giá – lương – tiền phải nhằm đạt các mục tiêu
chủ yếu sau đây:
● Thúc đẩy sản xuất phát triển theo cơ cấu hợp lý (ngành, vùng, thành
phần), khai thác mọi tiềm năng => nhằm phát triển sản xuất với năng
suất lao động, chất lượng sản phẩm, hiệu quả kinh tế cao hơn.
● Ổn định đời sống nhân dân lao động, đời sống công nhân, viên chức.
Nhân dân làm chủ sản xuất, làm chủ thị trường và giá cả, từng bước cân
bằng ngân sách và tiền mặt.
● Góp phần tạo dần ng̀n tích lũy từ nội bộ nền kinh tế quốc dân để công
nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa, xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ
nghĩa xã hội.
● Góp phần tăng cường quốc phòng và an ninh, kiên quyết chống địch phá
hoại, đấu tranh có hiệu quả chống các hiện tượng tiêu cực.
● Xoá bỏ cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp trong giá và lương là yêu cầu
cấp bách, là khâu đột phá có tính quyết định để chuyển hẳn nền kinh tế
sang hạch toán, kinh doanh xã hội chủ nghĩa trên cơ sở kế hoạch hoá.
Nội dung xoá bỏ quan liêu, bao cấp trong giá - lương- tiền chủ yếu là:
● Tính đủ chi phí hợp lý trong giá thành sản phẩm. Thực hiện cơ chế một
giá trong toàn bộ hệ thống giá. Phân công, phân cấp hợp lý trong cơ chế
quản lý giá, tăng cường kỷ luật quản lý giá.
● Tiền lương thực tế phải thực sự bảo đảm cho người ăn lương sống chủ
yếu bằng tiền lương, tái sản xuất được sức lao động và phù hợp với khả
năng của nền kinh tế quốc dân.
● Gắn chặt tiền lương với năng suất, chất lượng và hiệu quả, thực ko hiện
phân phối theo lao động.
● Xác lập quyền tự chủ về tài chính của các ngành kinh tế - kỹ thuật.
Chuyển hẳn mọi hoạt động sản xuất, kinh doanh của các ngành, các địa
phương và đơn vị cơ sở sang cơ chế hạch toán, kinh doanh xã hội chủ
nghĩa. Các tổ chức kinh tế phải tự chịu trách nhiệm về kết quả kinh
doanh của mình, “lời ăn, lỗ chịu”
Một số sai lầm mắc phải
● Vội vàng đổi tiền
● Tổng điều chỉnh giá, lương trong tình hình chưa chuẩn bị đủ mọi mặt
⇨ Cuộc điều chỉnh giá, lương, tiền đã làm cho cuộc khủng hoảng kinh tế xã hội trầm trọng sâu sắc hơn
Hội nghị lần thứ 8 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá V là sự đổi mới tư
duy trên lĩnh vực lưu thông, phân phối. Hội nghị là một mốc đánh dấu bước
trưởng thành vượt bậc của Đảng và nhân dân ta trên mặt trận kinh tế, đưa nền
kinh tế vào quỹ đạo phù hợp trong chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
3. Bước đột phá kinh tế lần thứ ba
HỘI NGHỊ BỘ CHÍNH TRỊ KHĨA V (8/1986)
Trong quá trình chuẩn bị Dự thảo Báo cáo chính trị trình Đại hội VI, Bộ
Chính trị đã xem xét kỹ các vấn đề lớn, mang tính bao trùm trên lĩnh vực kinh
tế, từ đó, đưa ra Kết luận đối với một số vấn đề thuộc về quan điểm kinh tế:
Về cơ cấu sản xuất:
● Điều chỉnh cơ cấu sản xuất và cơ cấu đầu tư theo hướng lấy nông nghiệp
là mặt trận hàng đầu.
● Ra sức phát triển công nghiệp nhẹ. Phát triển công nghiệp nặng chú
trọng quy mô vừa và nhỏ, phát huy hiệu quả nhanh nhằm phục vụ đắc
lực yêu cầu phát triển nông nghiệp, công nghiệp nhẹ và xuất khẩu.
● Tập trung lực lượng, trước hết là vốn và vật tư, thực hiện 3 chương trình
quan trọng nhất về lương thực, thực phẩm, hàng tiêu dùng thiết yếu và
hàng xuất khẩu.
Về cải tạo xã hội chủ nghĩa:
● Lựa chọn bước đi và hình thức thích hợp trên quy mô cả nước cũng như
từng vùng, từng lĩnh vực, phải đi qua những bước trung gian, quá độ từ
thấp đến cao, từ quy mô nhỏ đến trung bình, rồi tiến lên quy mô lớn.
● Phải nhận thức đúng đắn đặc trưng của thời kỳ quá độ lên CNXH ở
nước ta là nền kinh tế có cơ cấu nhiều thành phần.
● Cải tạo XHCN không chỉ là sự thay đổi chế độ sở hữu mà còn thay đổi
cả chế độ quản lý, chế độ phân phối. Đó là một quá trình gắn liền với
mỗi bước phát triển của lực lượng sản xuất.
Về cơ chế quản lý kinh tế:
● Đổi mới kế hoạch hóa theo ngun tắc phát huy vai trị chủ đạo của các
quy luật kinh tế xã hội chủ nghĩa,
● Làm cho các đơn vị kinh tế có quyền tự chủ trong sản xuất, kinh doanh
● Dứt khoát xóa bỏ cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp; chính sách giá
phải vận dụng quy luật giá trị → thực hiện cơ chế một giá
● Phân công, phân cấp đảm bảo các quyền tập trung thống nhất của Trung
ương trong những khâu then chốt,
Ý nghĩa:
● Định hướng cho việc soạn thảo Báo cáo chính trị để trình ra Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng, thay cho bản Dự thảo Báo cáo
chính trị trước đó cịn nhiều quan điểm cũ khơng phù hợp.
● Đây là bước đột phá thứ ba về đổi mới tư duy kinh tế, có ý nghĩa lớn
trong đổi mới tư duy lý luận về chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
4. Đánh giá về những bước đột phá kinh tế
Bước đột phá kinh tế thứ nhất
Hội nghị Trung ương 6 (8/1979) đã đột phá vào khâu quan trọng nhất
của cơ chế kế hoạch hóa tập trung quan liêu bao cấp: Chế độ cơng hữu và kế
hoạch hóa trực tiếp. Tuy nhiên, kết quả nhìn chung đã không đạt chỉ tiêu do Đại
hội IV đề ra: lưu thông, phân phối rối ren, giá cả tăng vọt, nhập khẩu tăng gấp 4
- 5 lần xuất khẩu, đời sống của nhân dân, cán bộ, cơng nhân viên, lực lượng vũ
trang rất khó khăn.
Những khó khăn trên có ng̀n gốc sâu xa từ nền kinh tế thấp kém, thiên
tai nặng nề liên tiếp xảy ra, chiến tranh biên giới và chính sách cấm vận, bao
vây, cô lập của Mỹ và các thế lực thù địch. Những đòi hỏi của thực tiễn cuộc
sống cũng đã xuất hiện khuynh hướng muốn đổi mới mạnh mẽ hơn, tiếp tục
đẩy tới tư duy thừa nhận sản xuất hàng hoá và những quy luật của sản xuất
hàng hóa trong chủ nghĩa xã hội. Tuy nhiên, về chủ quan, do những khuyết
điểm, sai lầm của Đảng, Nhà nước về lãnh đạo và quản lý kinh tế, xã hội làm
trầm trọng thêm những khó khăn trên.
Bước đột phá kinh tế thứ 2
Tại Hội nghị Trung ương 8 (6/1985), Trung ương chủ chương xóa bỏ cơ
chế tập trung quan liêu hành chính bao cấp, lấy giá - lương - tiền là khâu đột
phá để chuyển sang cơ chế hạch toán, kinh doanh ở XHCN
. Tuy nhiên trong quá trình tổ chức thực hiện lại mắc những sai lầm như vội
vàng đổi tiền; tổng điều chỉnh giá, lương trong tình hình chưa chuẩn bị đủ mọi
mặt. Cuộc điều chỉnh giá, lương, tiền đã làm cho cuộc khủng hoảng kinh tế - xã
hội trầm trọng sâu sắc hơn.
Bước đột phá kinh tế thứ 3
Hội nghị Bộ Chính trị khoá V (8/1986) là bước đột phá thứ 3 về đổi mới
kinh tế, đồng thời cũng là bước quyết định cho sự ra đời của đường lối đổi mới
của Đảng. Những quan điểm mới được trình bày trong bản kết luận đã định
hướng cho việc soạn thảo Báo cáo chính trị để trình ra Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ VI của Đảng, thay cho bản Dự thảo Báo cáo chính trị được chuẩn
bị
⇨ Các bước đột phá trên phản ánh sự phát triển nhận thức từ quá trình khảo
nghiệm, tổng kết thực tiễn, từ sáng kiến và nguyện vọng của nhân dân để
hình thành đường lối đổi mới. Nhìn chung, qua ba bước đột phá trên chúng
ta đã mang lại được những thành tựu nhất định và đã có những chủ trương
đổi mới đúng đắn và phù hợp.
LỜI KẾT
Từ đó đến nay dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta tiến hành những
cuộc đấu tranh lâu dài, đầy gian khổ, hy sinh giành độc lập, thống nhất đất
nước, bảo vệ Tổ quốc và làm trịn nghĩa vụ quốc tế. Trong cơng cuộc đổi mới,
dưới sự lãnh đạo của Đảng, chúng ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý
nghĩa lịch sử, đưa đất nước đi lên chủ nghĩa xã hội. Vị trí, vai trò lãnh đạo của
Đảng Cộng sản Việt Nam không chỉ được xác lập trong thực tiễn đấu tranh
cách mạng của đất nước mà còn từng bước được ghi nhận trong các Hiến pháp
- Đạo luật có giá trị pháp lý cao nhất của nhà nước ta. Cùng với thành quả cách
mạng của dân tộc, theo chiều dài lịch sử, vị trí, vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng
Sản Việt Nam từng bước được khẳng định mang tính pháp lý ngày càng vững
chắc đồng thời xác định rõ trọng trách, nhiệm vụ của Đảng trong những giai
đoạn tiếp theo để xứng đáng niềm tự hào và sự tin cậy của Nhà nước và nhân
dân Việt Nam.