Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

Biểu tượng văn hóa trong thần thoại Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (469.71 KB, 7 trang )

KỶ YẾU HỘI NGHỊ KHOA HỌC SINH VIÊN NĂM HỌC 2018-2019

BIỂU TƯỢNG VĂN HÓA TRONG THẦN THOẠI VIỆT NAM
BÙI KHÁNH NHƯ
Khoa Ngữ văn
Email:
Tóm tắt: Với mối quan tâm dành cho hệ thống biểu tượng văn hóa trong thần
thoại Việt Nam, trong bài viết này, chúng tôi tiến hành đối chiếu mối tương
quan gữa văn hóa và thần thoại dựa trên hệ thống biểu tượng, để đưa ra câu
trả lời khả dĩ cho vấn đề: bản chất văn hóa trong hệ thần thoại. Đó là những
đặc trưng văn hóa của đất nước Việt Nam đã quy định nên hệ thống thần thoại
của người Việt, những nét biểu trưng của của văn hóa đời sống con người đã
tác động vào hệ tư duy của cộng đồng để vẽ nên thế giới của thần thoại; hay
là hệ thống các biểu tượng cùng với hệ tư duy thần thoại đã tác động lên lối
sống, lối nghĩ, phong tục, tín ngưỡng để rồi trở thành thành phần cấu thành
nên văn hóa theo nhiều phương cách khác nhau. Điều đó cho thấy rằng, thần
thoại và văn hóa có mối liên kết sâu sắc với nhau, từ đó, khi phân tích những
biểu tượng trong thần thoại Việt Nam, chúng ta có thể lí giải được nét văn hóa
cổ sơ nhất của dân tộc, tiếp xúc được với phần chìm của tảng băng trơi trong
tiếp cận văn hóa nói chung cũng như Folklore nói riêng. Thơng qua hệ thống
biểu tượng văn hóa, bài viết muốn hướng đến một cái nhìn chân xác hơn,
khách quan hơn về thần thoại Việt Nam cũng như diện hình văn hóa độc đáo
của dân tộc.
Từ khóa: Biểu tượng văn hóa, Thần thoại Việt Nam, Văn hóa cổ sơ.

Thần thoại chưa bao giờ chỉ đơn thuần là một thể loại văn bản tự sự xây dựng bằng trí
tưởng tượng của con người. Thần thoại là một phần của văn hóa, một phần đặc biệt quan
trọng đến mức nếu khơng có thần thoại thì khơng có sự tồn tại của cộng đồng văn hóa. Vì
có cội rễ từ văn hóa nên thần thoại khơng thể được giải mã bởi ngôn ngữ kể chuyện, mà
cần phải sử dụng biểu tượng văn hóa- hệ thống kí hiệu phi ngôn ngữ để diễn giải và tiếp
cận. Như vậy, khi nhìn vào thần thoại, ta nhìn vào những biểu tượng ẩn sâu trong lớp vỏ


ngơn từ để bóc tách ra nhân văn hóa, chính lúc đó ta mới chạm được vào vô thức tập thể
của con người thời xa xưa.
1. KHÁI LƯỢC VỀ VẤN ĐỀ BIỂU TƯỢNG VĂN HĨA
Lí thuyết biểu tượng tức là những nghiên cứu xung quanh đối tượng chính là biểu tượng.
“Biểu tượng” hay “kí hiệu” là một hình ảnh, một kí tự hay bất cứ một thứ gì ở thực tế
khách quan lẫn tư duy chủ quan của con người đại diện cho một ý tưởng, một thực thể
vật chất hoặc một quá trình với mục đích là để truyền tải thơng tin một cách nhanh chóng,
ngắn gọn. Biểu tượng rất khác với ngơn ngữ (ở đây chúng tôi xin dùng từ ‘biểu tượng”
để gọi “ngôn ngữ biểu tượng” và “ngôn ngữ” để chỉ “ngơn ngữ nói” hoặc “ngơn ngữ
viết”) bởi lẽ biểu trượng khơng có một hệ thống kết cấu chặt chẽ cho từng cộng đồng như
ngơn ngữ. Biểu tượng mang tính phi quốc gia, và có thể được sử dụng trong nhiều nền
văn minh khác nhau. Trong khi ngôn ngữ giúp chúng ta tri nhận thông tin một cách trực
13


TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM, ĐẠI HỌC HUẾ

tiếp bang giác quan thì kí hiệu với đặc thù của nó là tính thơng tin và giao tiếp thơng qua
hệ thống kí hiệu, bằng kí hiệu, con người có thể giao tiếp vượt thời gian và không gian,
hiểu được con người sống ở những nền văn minh cổ xưa cách chúng ta hàng nghìn năm
thơng qua những di vật văn hóa mà họ để lại.Mặc khác, kí hiệu mang bản chất văn hóa
mạnh mẽ hơn so với ngơn ngữ vì để sáng tạo kí hiệu, con người phải sử dụng những hình
tượng gần gũi thân quen nhất đối với họ trong cuộc sống hàng ngày, đó là những thực thể
khách quan có sẵn, tồn tại gắn liền với ý nghĩa biểu chứa của nó. Chính vì thế, khi nhìn
biểu tượng, ta dù khơng thuộc văn minh đó, khơng hiểu nền văn hóa đó thì chỉ dựa vào
vốn sống căn bản ta vẫn có thể đốn được phần nào ý nghĩa của biểu tượng. Ví dụ như
hình ảnh mặt trời trên các kim tự tháp Ai Cập, có thể nền văn minh đó cách chúng ta hàng
thế kỉ nhưng ta khi thấy hình ảnh mặt trời thì vẫn hiểu được họ muốn biểu đạt một điều
gì đó liên quan đến ánh sáng, sức nóng hoặc thời gian, nhưng nếu chúng ta khơng biết
văn hóa, ngơn ngữ của một quốc gia, giả như ta khơng biết tiếng Anh thì chuỗi kí tự “sun”

khơng thể khiến ta liên tưởng đến hình tượng mặt trời được, thậm chí trong ngơn ngữ
tượng hình thì sự liên tưởng đó vẫn cực kì khó khăn khi có sự hạn chế về văn hóa.
Mặc dù biểu tượng cho con người có thể hiểu được ở nhiều nền văn minh khác nhau, tuy
nhiên, biểu tượng lại mang đậm bản chất của văn hóa. Mỗi nền văn hóa khác nhau thì ý
nghĩa của biểu tượng cũng sẽ khác nhau. Nói cách khác, ý nghĩa một biểu tượng phụ
thuộc vào nền văn hóa sản sinh ra nó, phụ thuộc vào bối cảnh thời đại hình thành nó, và
đi kèm là mục đích sử dụng của nó cũng trở nên khác biệt. Chính vì vậy, khi nghiên cứu
một biểu tượng văn hóa của một nền văn hóa nhất định, ta có thể nhận ra những đặc trưng
rất riêng của nền văn hóa đó, quá trình hình thành phát triển của nền văn hóa đó. Biểu
tượng trở thành con đường dẫn dắt ta thâm nhập sâu vào nghiên cứu văn hóa. Cho nên ý
nghĩa của việc nghiên cứu biểu tượng chính là bản sắc, đặc tính văn hóa được thể hiện
trong “ngơn ngữ biểu tượng”.
Mối liên hệ giữa văn hóa và biểu tượng là một mối liên hệ đặc biệt. Biểu tượng diễn đạt
văn hóa bằng hệ thong những kí hiệu của mình, như vậy, biểu tượng là một thành phần
của văn hóa. Về bản chất, biểu tượng cũng mang đặc tính của văn hóa nhưng mặc khác,
biểu tượng lại có khả năng lí giải những thành phần khác của văn hóa. Trong hệ thống
biểu tượng, chúng ta nhận thấy sự ghi chép về văn hóa một cách hữu cơ tức nó là phương
tiện lưu trữ, chúng ta cũng có thể giải thích văn hóa qua biểu tượng nên nó trở thành
phương tiện truyền thơng tin, và chính trong biểu tượng chúng ta cũng nhận thấy phủ lên
nó đặc điểm của mỗi vùng văn hóa sinh ra nó nên nó cũng chính là văn hóa. Như vậy,
nghiên cứu biểu tượng chính là nghiên cứu văn hóa thơng qua biểu tượng mà con người
tạo ra hay nói cách khác, nghiên cứu biểu tượng là ngành khoa học giải mã các thành tố
văn hóa được sản sinh trong đời sống con người.
Vì biểu tượng cũng là một dạng ngơn ngữ, nên nó cũng mang những đặc tính của ngơn
ngữ, khơng những thế, đặc tính về tính đa nghĩa và tính trừu tượng cịn mạnh hơn so với
ngơn ngữ thông thường. Cũng do vậy, ý nghĩa của biểu tượng mang tính khơng ổn định,
nó khơng chỉ phụ thuộc vào nền văn hóa, nó cịn phụ thuộc vào khơng thời gian, sự ra đời
và tồn tại của nó, mục đích sử dụng và vơ số những yếu tố khác. Cho nên để hiểu biết một
14



KỶ YẾU HỘI NGHỊ KHOA HỌC SINH VIÊN NĂM HỌC 2018-2019

cách chân xác ý nghĩa của một biểu tượng ta phải khai thác từ chính chủ thể tạo ra nó và
mơi trường tồn tại của nó. Khi nghiên cứu những biểu tượng văn hóa sâu xa nhất, gắn bó
nhất với vô thức tập thể, chúng ta nhận ra một môi trường gần như hoàn hảo cho sự tồn
tại của biểu tượng: Môi trường thần thoại. Về chủ thể, thần thoại là sản phẩm đầu tiên của
tư duy con người, chứa đựng trong đó là thế giới cảm nghĩ, nhận thức cách sống của con
người thời xa xưa. Về môi trường, thần thoại tái hiện tất cả những hoạt động sống, những
nghi lễ, tín ngưỡng, tâm linh của người xưa. Nghiên cứu và giải thích những biểu tượng
trong thần thoại, chúng ta có thể tiến gần hơn đến bức màn văn hóa đã cản trở con người
bằng khoảng cách của thời gian. Bằng biểu tượng, những tư duy thần thoại tái hiện, những
ẩn tích văn hóa được khai quật, những mã số phức tạp nhất của tư duy cổ sơ được nhìn
thấy. Và rồi, con người nhìn nhận lại về con người, về dân tộc, về cộng đồng và về chính
bản thân mình. Đó là những đặc điểm riêng biệt của con người quy định trong chính
chúng ta bởi “gen văn hóa”.
2. NHỮNG BIỂU TƯỢNG TIÊU BIỂU TRONG THẦN THOẠI VIỆT NAM
Có thể nói thần thoại khơng được tạo thành bởi ngơn ngữ thơng thường, thần thoại là một
bản mã hóa các biểu tượng văn hóa từ xa xưa. Chính vì vậy, khi đề cập đến biểu tượng
văn hóa trong thần thoại, ta có thể liệt kê với số lượng khổng lồ bao trùm các mặt của đời
sống xã hội. Ở đậy, tôi chỉ xin đề cập đến một vài biểu tượng văn hóa tiêu biểu nhằm nhìn
nhận một cách khá xác đáng về những dấu tích văn hóa Việt Nam được thể hiện trong
thần thoại.
Biểu tượng nhân thần và nhiên thần
Biểu tượng nhân thần và nhiên thần là biểu tượng phản ánh rõ ràng nhất hệ tư duy thần
thoại. Đã gọi là thần thoại thì trong chính bản chất thể loại phải có sự hiện hữu của hình
tượng các vị thần. Từ đời sống cổ xưa, con người nhận thức thế giới xung quanh bằng cái
nhìn của thần thoại, con người phản ánh, giải thích tất cả đời sống của cá nhân lẫn cộng
đồng bằng “thuyết vật linh”, con người tin tưởng rằng tất cả những sự vật, hiện tượng
diễn ra xung quanh đều có “linh hồn” mà cái “linh hồn” đó được hình tượng hóa bằng

một vị thần cụ thể. Bắt nguồn từ tín ngưỡng ấy, con người tơn thờ và sung bái các loài
vật linh, các nguyên tố linh, các sự vật linh,… của đời sống, tạo nên một hệ biểu tượng
các nhiên thần vô cùng phong phú trong thần thoại. Theo dòng chảy lịch sử, các cộng
đồng người lại khoác lên cho những vị thần này một lớp vỏ thân thế để trở thành nhân
thần. Tuy nhiên, về bản chất, biểu tượng nhân thần và nhiên thần vẫn tác động mạnh mẽ
và chi phối đời sống của con người nguyên thủy, là căn nguyên của thần thoại. E. B. Tylor
cho rằng “Ngay cả những ranh giới của nền văn minh cao, con người vẫn hành động
dường như theo lối nửa tin vào linh hồn của các vật”[4]. Như vậy, giải mã hệ biểu tượng
nhân thần và nhiên thần, chúng ta khơng chỉ phát hiện được dấu tích đời sống văn hóa cổ
xưa mà cịn chạm vào “vơ thức tập thể” của cộng đồng, lí giải được phần nào tư duy, lối
sống của con người trong mỗi cộng đồng dưới sự tác động ảnh hưởng của “gen văn hóa”

15


TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM, ĐẠI HỌC HUẾ

Biểu tượng nước
Nước là một nguyên tố cơ bản để cấu thành sự sống. Trong tất cả các nền văn hóa, nước
ln là biểu tượng được tôn sùng hàng đầu và được thiêng liêng hóa một cách tối cao.
Nhưng, đối với Việt Nam-một dân tộc bắt nguồn từ nền văn minh lúa nước thì hình tượng
nước đối với văn hóa có vị trí gần như là chí tơn. Biểu tượng nước trong thần thoại được
xuất hiện một cách thường xuyên với tần xuất khá cao. Các dạng thức của nước cũng rất
đa dạng. Dạng thức đó có thể là hình ảnh các vị thần hoặc linh vật điều khiển hoặc gắn
liền với nước như long vương, thần Kim Quy, Thủy Tinh, cũng có những hình thức
nguyên bản với nước như ao hồ, biển suối, và cũng có những hình dạng mang tính biểu
tượng liên văn hóa như trận hồng thủy. Biểu tượng nước trong văn hóa thường được liên
hệ với nhiều hiện tượng, sự vật gắn bó mật thiết với đời sống, nước là biểu trưng của sự
sống, sự sinh sản, sự tẩy rửa. Từ xa xưa, người Việt đã sùng bái và coi trọng đặt biệt đến
biểu tượng nước, từ các nghi lễ, kiến trúc, trang phục,… Dẫu vậy, biểu tượng nước lại

mang một tính siêu hình, đa hình, biểu tượng này khơng có hình dáng cụ thể mà biến hóa
theo sự biến hóa của các hệ tư duy về nước, nên nó khơng mang hình dáng rõ ràng trên
các di vật mà con người xưa đã để lại, nó tiến vào trong thần thoại và được lưu trữ những
giá trị nguyên sơ nhất để khi tiến vào tìm hiểu chúng ta có thể nhận ra cả thế giới văn hóa
rộng lớn ẩn sau biểu tượng văn hóa này.
Biểu tượng người mẹ
Nền văn hóa Việt Nam có tín ngưỡng gốc là tín ngưỡng “thờ mẫu”, là “Thờ mẫu” chứ
không phải “thờ nữ”. Mặc dù, xét về mặt ngôn ngữ, “mẫu” thường dùng để chỉ tính nữ
hoặc âm tính, nhưng chúng ta dường như quên mất tương quan của “mẫu tính” trong tổng
thể văn hóa. Đã có mẫu tính thì phải nằm trong hệ đối chiếu nam-nữ, âm-dương. Tức là
chất âm tính nữ bản chất của nền văn hóa Việt Nam chính là nữ tính trong hệ đối chiếu
với nam tính, như người nữ phải trải qua hơn phối và sinh sản thì mới thành “mẫu” được.
Chính vì vậy, biểu tượng người mẹ là biểu tượng nên được chọn để đào sâu về văn hóa
Việt, nền văn hóa mang đặc trưng “mẫu” cực kì cao. Biểu tượng người mẹ khơng xuất
hiện nhiều trong thần thoại Việt Nam dưới dạng nhân vật chính, nhưng lại xuất hiện với
tần số rất cao. Người mẹ thường gắn với sự sinh sản, sự dưỡng dục, không những vậy,
người mẹ cịn được hóa thân trong những hình tượng yêu ma quỷ quái là rào cản trong
sự trưởng thành của người con. Biểu tượng người mẹ mang đậm chất âm tính, trầm lặng,
gắn liền với đất và nước. Biểu tượng này là đặc trưng cho tính chất của dân tộc Việt với
nền văn minh nông nghiệp gắn chặt với ruộng đồng, với làng q, tính tình ít muốn phong
ba, khó khăn mà thường muốn bình n cố định như mong muốn ở mãi trong sự bảo bọc
của người mẹ.
3. GIẢI MÃ CÁC BIỂU TƯỢNG VĂN HÓA TRONG THẦN THOẠI
Biểu tượng nhân thần và nhiên thần trong thần thoại Việt Nam cũng giống như nhiều thần
thoại trên thế giới, trước hết chúng phản ánh thành tố đặc biệt quan trọng trong văn hóa
là tơn giáo và tín ngưỡng. Đinh Hồng Hải nhận định: “...tơn giáo, tín ngưỡng là một phần
quan trọng của văn hóa nhân loại nên sẽ khơng bao giờ mất đi. Vì vậy, sự tồn tại của tơn
16



KỶ YẾU HỘI NGHỊ KHOA HỌC SINH VIÊN NĂM HỌC 2018-2019

giáo, tín ngưỡng trong xã hội văn minh vừa mang tính tự nhiên vừa là một nhu cầu thiết
yếu đối với đời sống tinh thần của con người” [3]. Biểu tượng nhân thần thiên thần phản
ánh niềm tin của nhân dân và qua đó vẽ nên đời sống xưa của con người Việt. Cuộc sống
sinh hoạt với đầy đủ các khía cạnh hiện lên trong hình ảnh của “Tứ bất tử”: Cơng cuộc
đấu tranh chống ngoại xâm trong hình tượng Thánh Gióng, Cơng cuộc chống lại thiên tai,
bảo vệ cuộc sống cho cộng đồng qua hình tượng Sơn Tinh, Quá trình lao động, sản xuất,
trao đổi bn bán với hình tượng Chử Đồng Tử và đời sống văn hóa, văn nghệ ở hình
tượng Bà Chúa Liễu Hạnh. Đó là bốn khía cạnh hồn chỉnh trong đời sống người Việt và
là ước vọng vĩnh cửu của nhân dân bao đời nay.
Mặc khác, Các vị thần thể hiện tính chất văn hóa Việt từ xưa đến nay. Người Việt Nam
xem trọng gia đình và địa vị của người phụ nữ trong gia đình, thế là hình ảnh Ơng Táo
trở thành vị thần quan trọng, được thờ cúng nhiều ở các gia đình. Người Việt Nam sống
phụ thuộc vào nơng nghiệp vì thế Thổ Công trở thành vị thần quan trọng trong văn hóa
Việt. Thần đất đai ln ln được sự tơn sung, thờ cúng của con người dù là xưa hay nay.
Đặc điểm lớn nhất khi đến biểu tượng nhân thần và nhiên thần chính là lao động. Nếu
như xem xét ở thần thoại Hy Lạp, các vị thần thường biến hóa hoặc hóa thân thành thế
giới tự nhiên, thì Việt Nam hoàn toàn khác, Cho dù là con người hay thần linh thì cũng
phải lao động mới tạo ra vật chất. Thần Trụ Trời đắp cột chống trời, Ông Chày Bà Chày
giã gạo để phân tách trời và đất, Ông Đùng Bà Đùng bê đá xây cầu cho nhân dân. Chỉ khi
có lao động, thì thần linh mới được sự cơng nhận của con người. Dưới đặc tính là nước
nơng nghiệp, con người cần phải lao động miệt mài để có được nguồn sống. Đối với nhân
dân, lao động không chỉ mang tính duy trì cuộc sống, đó là yếu tố to lớn để cấu thành sự
sống, để tạo nên cộng đồng. Với người Việt, lao động chính là vinh quang và con người
nhìn nhận dù là thần linh cũng chỉ khi có sự hiên diện của lao động thì mới đáng quý,
đáng trân trọng. Điều này cũng thể hiện rất rõ tư duy của người Việt, đa phần họ sẽ khơng
trơng chờ điều kì diệu sẽ đến hay chỉ cần một chút phép màu của thần linh là đủ cho họ
sinh sống, họ tin tưởng hơn ở chính mình, tin vào “có sức người sỏi đá cũng thành cơm”.
Dù là niêu cơm Thạch Sanh thì trước hết cũng cần thổi gạo nấu cơm, khơng làm việc thì

phép màu cũng khơng thể đến với con người.
Biểu tượng nước trong văn hóa Việt luôn được đề cao. Nước là đại diện cho tính chất văn
hóa Việt, là thành phần thiết yếu điều hịa âm dương. Chính vì lí do đó nước ln là biểu
tượng của sự sống và sinh sản. Có thể nói hình tượng nước thì mn hình vạn trạng,
nhưng ở đây, chúng ta chỉ đề cập và lí giải hai loại hình thái của nước thoạt nhìn như đối
lập hồn toàn với nhận định về biểu tượng nước của con người Việt đó là biển cả và nạn
hồng thủy.
Nếu nói biển cả, xét trước về địa lí, Việt Nam dường như biển nhiều hơn đất liền, Biển
đóng một vai trị lớn trong văn hóa của người Việt. Chúng ta thấy hình tượng biển thường
gắn với các nhân vật quen thuộc trong thần thoại Việt Nam như Lạc Long Quân, Thủy
Tinh,… Tuy nhiên, nếu xét về một nền văn minh lúa nước thì biển cả lại mang ý nghĩa
rất khác với nguồn nước đơn thuần. Trong tư duy của người Việt, biển luôn là điểm yếu
của cộng đồng, mặc dù người Việt tôn sùng nước nhưng biển lại không nằm trong hệ đó.
17


TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM, ĐẠI HỌC HUẾ

Điều đó được lí giải rất rõ ràng trong thần thoại. Tại sao Vua Hùng là một trong những
người con theo mẹ Âu Cơ lên rừng chứ không phải trong những đứa con theo Cha Rồng
xuống biển? Tại sao Thủy Tinh luôn thua bởi Sơn Tinh? Tại sao Mai An Tiêm bị đày ra
đảo hoang mà vấn sống bằng nghề trồng trọt. Tất cả điều bởi tâm lí ái ngại biển của người
Việt, và đó cũng là nết đặc hữu trong tư duy cổ xưa. Như đã nói ở trên, người Việt “bài
ngoại”, họ ái ngại trước sự khám phá những thứ mới mẻ, họ ái ngại việc rời khỏi địa bàn
sinh sống. Biển luôn là biểu tượng của sự khám phá, rộng mở, nên biểu tượng biển cả
trong thần thoại Việt Nam thể hiện một hướng mới của văn hóa dân tộc đó là tính coi
trọng sự ổn định, ngại di chuyển, ngại đổi thay.
Một biểu hiện khác của nước chúng ta đề cập đến là nạn hồng thủy. Dường như tất cả các
dân tộc trên thế giới điều có thần thoại về nạn hồng thủy. Nhưng, phải nói rằng, thần thoại
của Việt Nam viết về nạn hồng thủy khá khác biệt. Hồng thủy luôn là biểu tượng của sự

tẩy rửa và trừng phạt. Như trong thần thoại Hy Lạp đó là sự trừng phạt của Zeur đối với
con người đầy rẫy những thói xấu từ chiếc hộp Pandora, Trong Kinh Thánh, đó là sự
trừng phạt của Chúa Trời do tội lỗi của loài người xuất phát từ tội nguyên tổ. Nhưng,
trong thần thoại Việt Nam, nạn hồng thủy không phải là sự trừng phạt hay tẩy rửa gì cả,
đó chỉ là một tai họa của thiên nhiên, khơng có vị thần nào tạo nên hồng thủy cả, tai họa
đó đến tự nhiên và bất ngờ mà người được chỉ bảo trước thì tránh khỏi. Có thể nói, hồng
thủy trong thần thoại Việt Nam mang nhiều ý nghĩa về sự sinh sôi hơn, vì chính sau cơn
hồng thủy đó là sự sinh sản ra các tộc người, là sự nảy nở của giống lồi. Hồng thủy đối
với văn hóa Việt mang giá trị chứng minh, chứng minh về sự chiến thắng tự nhiên, về sức
sống kiên cường của con người trước những tai họa tưởng như làm tận diệt cộng đồng,
thể hiện niềm tin của người xưa rằng sau những khó khăn, con người sẽ tìm về đời sống
yên bình.
Biểu tượng người mẹ, như đã nói ở trên là một biểu hiện của tính “mẫu” trong nền văn
hóa Việt Nam. Là nền văn minh nông nghiệp, Việt Nam thờ phượng sự sinh sản và tôn
trọng người quyết đinh sinh sản là người mẹ. Ý nghĩa của biểu tượng người mẹ ta có thể
nhận thấy ở nhiều khía cạnh, nhưng trong bài này tơi chỉ xin đề cập đến khía cạnh về sự
sinh sản đó là: Sự sinh nở thần kì.
Trong mơ-típ sự sinh nở thần kì, vai trị của người mẹ được đề cao. Rà soát trong thần
thoại, truyện viết về biểu tượng người mẹ không nhiều, nhưng gần như truyện nào cũng
có dáng dấp của người mẹ, đặc biệt là thần thoại về các người anh hùng. Đối với thần
thoại Việt Nam, một người phi thường có thể được sinh ra một cách bình thường nhưng
một người sinh ra một cách đặc biệt thì chắc chắn là người phi thường. Đa phần, cái đặc
biệt đó là những đứa trẻ được sinh ra khơng có cha, có thể do người mẹ đi vào rừng, uống
nước ở cái sọ dừa mà sinh ra đứa con (Sọ Dừa), có thể là người mẹ nhìn thấy dấu chân
khổng lồ ướm thử vào mà có con (Thạch Sanh), và những đứa trẻ này đa phần điều được
sinh ra khi được hoài thai một thời gian dài. Điều này, âu cũng thể hiện dân tộc Việt rất
có tính lí tính, bởi lẽ, khoa học đã kiểm chứng, những lồi vật càng to lớn, càng mạnh mẽ
thì thời gian phát triển càng chậm, ngay từ xa xưa, người Việt đã ý thức được điều đó và
đưa nó vào thần thoại. Lại nói, những đứa con khơng có cha mang dấu tích của một xã
18



KỶ YẾU HỘI NGHỊ KHOA HỌC SINH VIÊN NĂM HỌC 2018-2019

hội thị tộc mẫu hệ, khi những đứa trẻ được sinh ra chỉ biết mẹ chứ không biết cha là ai.
Điều này thể hiện rõ địa vị của nữ giới trong cộng đồng, trong xã hội. Qua biểu tượng
người mẹ, chúng ta nhận thấy chứng tích văn hóa của người Việt xưa đó là tín ngưỡng
thờ mẫu, tơn trọng và đề cao địa vị của người phụ nữ, dù qua thời gian, bị xâm lấn bởi tư
tưởng phong kiến nam quyền nhưng tinh thần này vẫn ấp ủ và biểu hiện ra ở các mặt của
đời sống nhất là trong gia đình.
4. KẾT LUẬN
Thơng qua lí giải các hệ thống biểu tượng văn hóa trong thần thoại Việt Nam, ta có thể
bóc tách được những thành tố văn hóa Việt Nam ẩn sâu trong lớp bụi mờ của thời gian.
Ta nhận ra được rằng, Việt Nam là một đất nước có nền văn hóa riêng biệt, độc đáo. Qua
đó tìm ra những điểm mạnh điểm yếu trong tính cách con người Việt và chỉnh sửa những
định kiến sai lầm về truyền thống dân tộc. Qua các biểu tượng văn hóa con người cũng
tự lí giải để tìm ra cái “gen văn hóa” của bản thân để rồi tự soi chiếu chính bản thân mình
tự tìm ra con đường kiện tồn chính mình. Bất cứ nền văn hóa nào cũng mang vai trò qua
trọng đối với trước hết là ở cộng đồng văn hóa đó, chỉ khi tìm hiểu được cội nguồn văn
hóa thì một cộng đồng, một dân tộc mới hiểu được chính mình để phát triển mình đi lên.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]

[2]
[3]
[4]
[5]
[6]

Đinh Hồng Hải (2014). Khóa bài giảng về lí thuyết biểu tượng nhân học biểu tượng và

các tiếp cận lí thuyết trong nghiên cứ biểu tượng. Ngày truy cập: 3/11/2018,
/>_c%E1%BB%A9u_bi%E1%BB%83u_t%C6%B0%E1%BB%A3ng_Theories_in_the_S
tudy_of_Symbols_.
Đinh Hồng Hải (2014). Nghiên cứu biểu tượng một số hướng tiếp cận lí thuyết. NXB Thế
giới, Hà Nội.
Đinh Hồng Hải (2015). Những biểu tượng đặc trưng trong văn hóa truyền thống Việt
Nam Tập hai: Các vị Thần, NXB Thế giới, Hà Nội.
E.B Tylor (2001). Văn hóa nguyên thủy, Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật, Hà Nội, tr. 583.
Nguyễn Huy Bỉnh, Từ nhiên thần đến nhân thần và vấn đề truyền thuyết hóa thần thoại,
Tạp chí Văn hóa nghệ thuật, số 399, tháng 9-2017.
Nguyễn Thị Huế (2008). Thần thoại các dân tộc Việt Nam, thể loại và bản chất. Tạp chí
Nghiên cứu Văn học, số 2/2008.

19



×