Tải bản đầy đủ (.doc) (28 trang)

Thực trạng định kiến giới ở Việt Nam 123

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (153.63 KB, 28 trang )

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU..............................................................................................................1
CHƯƠNG 1. THỰC TRẠNG ĐỊNH KIẾN GIỚI Ở VIỆT NAM QUA MỘT
SỐ BÁO CHÍ ĐIỆN TỬ HIỆN NAY.................................................................4
1.1. Vấn đề định kiến giới nhìn từ chiều dài lịch lịch sử dân tộc............................4
1.2. Vấn đề định kiến giới ở Việt Nam qua khảo sát một số trang báo chí điện tử
....................................................................................................................................... 7

Chương 2. MỘT SỐ NGUYÊN NHÂN TỒN TẠI ĐỊNH KIẾN GIỚI VÀ
CÁC GIẢI PHÁP KHẮC PHỤC.....................................................................16
2.1. Nguyên nhân tồn tại định kiến giới..................................................................16
2.2. Một số giải pháp nhằm hạn chế định kiến giới và nâng cao hiệu quả thực
hiện bình đẳng giới ở Việt Nam trong giai đoạn tới...............................................20
KẾT LUẬN........................................................................................................26
TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................................................27


1

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong những năm qua, vấn đề thực hiện bình đẳng giới ở Việt Nam đang
ngày càng được chú trọng. Chiến lược Quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn
2011 - 2020 chỉ rõ: “Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới là một bộ phận cấu
thành quan trọng của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, là cơ sở
nền tảng của chiến lược phát triển con người của Đảng và Nhà nước”. Yêu cầu
lồng ghép giới trong luật pháp chính sách, chương trình, dự án phát triển đang
được Đảng, Nhà nước thực thi và từng bước kiện toàn qua Luật Bình đẳng giới
(2006), Pháp lệnh Dân số sửa đổi năm 2008, Luật Phịng chống bạo lực gia đình
được thơng qua năm 2009, Luật Hơn nhân và gia đình (2000, 2014), Luật ban
hành văn bản quy phạm pháp luật (sửa đổi năm 2015)... Dù đã đạt được nhiều


thành tựu quan trọng, song Đảng, Nhà nước vẫn luôn xem vấn đề bình đẳng giới
là cuộc cách mạng lớn, khó khăn và lâu dài bởi rất nhiều nguyên nhân, trong đó
nguyên nhân sâu xa nhất chính là sự tồn tại dai dẳng của định kiến giới trong xã
hội, tạo thành những lối mịn, thói quen trong nhận thức, thái độ và hành vi ứng
xử mà ngay cả người trong cuộc cũng khó nhận ra.
Để nâng cao hiệu quả việc thực hiện bình đẳng giới và xóa bỏ các định kiến
giới, Đảng, Nhà nước đã huy động nhiều nguồn lực khác nhau, trong đó phải kể
đến vai trị của các phương tiện truyền thơng và báo chí. Trong nỗ lực xố bỏ
định kiến giới, hướng đến bình đẳng giới dựa trên thế mạnh chuyển tải thơng tin
tới cơng chúng, vai trị của truyền thông đại chúng là vô cùng quan trọng, thiết
yếu. Truyền thông đã và đang cung cấp các thông tin cũng như định hướng dư
luận xã hội, từ đó tác động tích cực và thúc đẩy bình đẳng giới.
Trong hai thập niên vừa qua, đã có khá nhiều cơng trình, dự án nghiên cứu
về vai trị, khả năng của truyền thơng, báo chí đối với việc thực hiện bình đẳng
giới. Tuy nhiên, vẫn cịn đó những khoảng trống cần tiếp tục được đào sâu, tìm
hiểu và luận giải, nhất là vấn đề định kiến giới trên các trang báo chí. Từ vai trị
và thực tiễn phát triển của báo chí nói chung, báo điện tử nói riêng những năm
gần đây, hàng loạt vấn đề đặt ra cần phân tích, lí giải như: Vấn đề nữ giới trên


2

báo chí điện tử Việt Nam đang diễn ra như thế nào? Có tồn tại định kiến giới
trong nội dung tin tức trên báo chí điện tử hay khơng? Định kiến giới được biểu
hiện ra sao trong nội dung tin tức của báo chí điện tử? Làm thế nào để hạn chế,
tiến tới xóa bỏ tình trạng định kiến giới trên các trang báo này?...
Có thể nhận thấy rằng, việc nghiên cứu định kiến giới trên báo chí điện tử
là rất cần thiết trong bối cảnh “Việt Nam đang huy động tối đa mọi nguồn lực để
thực hiện có hiệu quả cơng tác bình đẳng giới”, và “chiến lược quốc gia về bình
đẳng giới là một bộ phận cấu thành quan trọng của chiến lược phát triển kinh tế xã hội của đất nước, là cơ sở nền tảng của chiến lược phát triển con người của

Đảng và Nhà nước”. Xuất phát từ những ý nghĩa và tầm quan trọng như vậy,
chúng tơi lựa chọn vấn đề: “Tìm hiểu định kiến giới ở Việt Nam hiện nay qua
một số trang báo chí và định hướng giải pháp” để làm đề tài tiểu luận, bộ môn:
Giới trong lãnh đạo, quản lý.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của đề tài là nhằm góp phần làm rõ thực trạng định
kiến giới ở Việt Nam hiện nay qua một số trang báo chí điện tử. Từ đó, lý giải
ngun nhân cũng như đề xuất một số giải pháp nhằm hạn chế định kiến giới và
nâng cao hiệu quả việc thực thi bình đẳng giới.
Để thực hiện được mục đích nghiên cứu nêu trên, đề tài sẽ tập trung giải
quyết các nhiệm vụ cơ bản như sau:
Thứ nhất, làm rõ thực trạng định kiến giới qua nội dung, hình thức của một
số trang báo chí điện tử ở Việt Nam hiện nay.
Thứ hai, phân tích là luận giải các nguyên nhân tác động đến sự tồn tại của
định kiến giới trên các trang báo chí điện tử.
Thứ ba, đề xuất một số giải pháp nhằm hạn chế định kiến giới trên báo chí
điện tử cũng như nâng cao hiệu quả thực thi chính sách bình đẳng giới của Đảng
và Nhà nước.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là vấn đề: “Tìm hiểu định kiến giới ở Việt
Nam hiện nay qua một số trang báo chí và định hướng giải pháp”.


3

Phạm vi nghiên cứu được giới hạn ở Việt Nam về mặt không gian và giai
đoạn hiện nay về mặt thời gian.
4. Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, đề tài sử dụng phương pháp lịch sử kết hợp với phương pháp logic là chủ

yếu. Ngoài ra, đề tài còn vận dụng linh hoạt các phương pháp nghiên cứu khác
như: Sưu tầm tài liệu, so sánh, đối chiếu, phân tích...
5. Đóng góp của đề tài
Thứ nhất, đề tài góp phần chỉ ra sự tồn tại của vấn đề định kiến giới ở một
số trang báo chí điện tử ở Việt Nam hiện nay.
Thứ hai, từ việc làm rõ thực trạng, đề tài sẽ tập trung phân tích và làm rõ
nguyên nhân tồn tại định kiến giới và từ đó đề xuất một số giải pháp nhằm nâng
cao hiệu quả thực hiện bình đẳng giới ở Việt Nam.
Thứ ba, xây dựng hệ thống tư liệu tham khảo liên quan đến vấn đề: “Định
kiến giới ở Việt Nam hiện nay”.
6. Bố cục của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, đề tại được cấu thành bởi
hai chương:
Chương 1, thực trạng định kiến giới ở Việt Nam qua một số báo chí điện tử
hiện nay.
Chương 2, một số nguyên nhân tồn tại định kiến giới và các giải pháp khắc
phục.


4

CHƯƠNG 1. THỰC TRẠNG ĐỊNH KIẾN GIỚI Ở VIỆT NAM QUA MỘT
SỐ BÁO CHÍ ĐIỆN TỬ HIỆN NAY
1.1. Vấn đề định kiến giới nhìn từ chiều dài lịch lịch sử dân tộc
Khác với nhiều xã hội cổ xưa, Việt Nam, khi chuyển dịch từ xã hội nguyên
thủy theo chế độ mẫu hệ sang xã hội có giai cấp theo chế độ phụ hệ, người phụ
nữ vẫn giữ vai trò quan trọng trong sinh hoạt xã hội. Trong gia đình, họ là người
mẹ, người vợ, có nhiệm vụ điều khiển hầu hết cơng việc trong nhà. Ngồi xã
hội, họ là lực lượng lao động nịng cốt đã góp phần xây dựng nên nền văn minh
lúa nước Việt Nam. Khơng chỉ có vai trị xây dựng nên xã hội, trong lịch sử,

khơng ít lần người phụ nữ đã hi sinh cả xương máu của mình trước sự tồn vong
dân tộc. “Giặc đến nhà, đàn bà cũng đánh”, những Hai Bà Trưng, Bà Triệu, Lê
Chân,... đã trở thành tấm gương tiêu biểu cho người phụ nữ Việt Nam anh hùng
trong sự nghiệp bảo vệ dân tộc, được nhân dân tôn vinh cho đến tận hôm nay.
Bên cạnh đời sống vật chất, cũng cần phải nhìn nhận vai trị của hình ảnh
người phụ nữ trong thế giới tinh thần. Chúng ta sẽ dễ dàng bắt gặp truyền thống
này qua nhiều nét văn hóa đặc trưng của dân tộc. Đó là tục thờ thánh Mẫu, thờ
các vị nữ tướng, nữ anh hùng (Bà chúa Liễu Hạnh, bà chúa Sứ, bà chúa Kho...),
hay những nghi thức thờ cúng người có cơng với dân làng mà khơng phân biệt là
nam hay nữ đến các nữ anh hùng được lưu danh trong sử sách như Bà Trưng, Bà
Triệu, Võ Thị Sáu...; rồi qua những câu ca dao, dân ca, tục ngữ, hò vè phản ánh
quan niệm nam nữ bình quyền, đề cao người phụ nữ như: “Ba xu một mớ đàn
ông/Chị bỏ vào lồng chị xách đi chơi; “Thuận vợ thuận chồng tất bể đông cũng
cạn”; “Lệnh ông khơng bằng cồng bà”... Trong một nền văn hóa nơng nghiệp
trọng gia đình, trọng nếp nhà, người phụ nữ Việt thực sự nắm giữ vai trò hết sức
quan trọng trong xã hội. Đó cũng là lý do trong suốt tiến trình lịch sử dân tộc,
dẫu Việt Nam chịu nhiều ảnh hưởng từ các nền văn hóa nam quyền, đặc biệt là
Trung Quốc, truyền thống tôn trọng phụ nữ vẫn luôn được ơng cha ta giữ gìn,
trở thành một bản sắc văn hóa tốt đẹp của nhân dân ta.


5

Tất nhiên, cũng cần phải nói thêm về những định chế của thể chế phong
kiến đã làm hạn chế rất nhiều vấn đề bình đẳng nam nữ. Trong xã hội phong
kiến, vai trị và vị trí của người phụ nữ khơng cịn được coi trọng và đề cao như
trong thời kỳ mẫu hệ, thậm chí tại một số nước người phụ nữ còn bị coi rẻ, bị
khinh thường hay bị chèn ép bằng những hủ tục phong kiến hà khắc. Đó là chiếc
khóa trinh tiết thời trung cổ, là tục bó chân của phong kiến Trung Hoa hay tục
cái chết danh dự của người Ấn Độ...Tư tưởng phân biệt nam nữ trên thực tế đã

diễn ra trong gần 10 thế kỷ của chế độ phong kiến Việt Nam. Tuy nhiên, người
Việt vẫn giữ được một nền văn hóa đặc sắc, mang đặc trưng riêng biệt của nền
văn minh lúa nước, như tơn kính tổ tiên, tơn trọng các giá trị cộng đồng và gia
đình, lao động cần cù và hiếu học. Chính vì vậy, người phụ nữ Việt Nam khơng
bị trói buộc bởi nhiều lễ giáo hà khắc, khơng bị truất bỏ mọi quyền hành trong
gia đình và xã hội như phụ nữ ở nhiều quốc gia phong kiến khác. Ở Việt Nam
người phụ nữ vẫn là người tham gia đầy đủ vào tất cả các khâu lao động trong
xã hội và gia đình. Người Việt dù bị ý thức hệ Nho giáo chi phối, song vẫn luôn
sống với tâm thức thờ Mẫu. Tức là dành tình cảm đặc biệt cho người phụ nữ người mẹ. Người Việt Nam nói “cơng cha” câu trước thì “nghĩa mẹ” là câu sau.
Đặt “thờ mẹ” trước cả “kính cha”...
Năm 1930, Đảng Cộng sản Việt Nam thành lập và đến tháng 10 cùng năm
Nghị quyết về Phụ nữ vận động đã được thông qua. Nghị quyết nhận định: “Lực
lượng cách mạng của phụ nữ là một cái lực lượng rất trọng yếu” đối với “thắng
lợi cách mạng”. Trên cơ sở đó, ngày 20/10/1930, với mục đích “mưu quyền cho
phụ nữ, làm cho phụ nữ triệt để giải phóng”, Phụ nữ Liên hiệp hội Đơng Dương
đã được thành lập. Kể từ đó đến năm 1945, hàng loạt các tổ chức, đoàn thể phụ
nữ đã được thành lập trên khắp cả nước, giữ nhiều vai trò quan trọng trong công
cuộc đi đến thắng lợi lịch sử 2/9/1945, mở ra một thời kỳ độc lập cho nước nhà.
Ngay trong bản Hiến pháp đầu tiên của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
năm 1946 (sửa đổi qua các năm 1960, 1980, 1992, 2013) đã khẳng định: “Phụ
nữ có quyền bình đẳng với nam giới về các mặt sinh hoạt chính trị, kinh tế, văn
hóa, xã hội và gia đình”.


6

Ngày 3/10/1946, trên cơ sở các tổ chức, đoàn thể phụ nữ được thành lập
trước đây, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam đã ra đời. Kể từ đó, Hội đã trở thành
tổ chức tối cao lãnh đạo phong trào phụ nữ trên toàn quốc. Dưới sự chỉ đạo của
Hội Liên hiệp Phụ nữ, phụ nữ Việt Nam đã tích cực tham gia công cuộc đấu

tranh bảo vệ nền độc lập nước nhà. Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và
chống Mỹ, họ đã trở thành lực lượng nòng cốt trong cả công tác trên tiền tuyến
lẫn hậu phương. Bất kể là trên mặt trận mịt mù bom đạn khói lửa, hay trên
những cánh đồng 5 tấn, không nơi nào là thiếu bóng dáng của người phụ nữ Việt
Nam. Những hình tượng “Đội qn tóc dài”, “Chị Hai năm tấn”, các nữ thanh
niên xung phong Ngã Ba Đồng Lộc cùng rất nhiều tấm gương khác chắc chắn sẽ
mãi mãi được lưu danh trong trang sử nước nhà...
Sau ngày 30/4/1975, Việt Nam bước vào kỷ ngun của hịa bình và thống
nhất. Cùng với công cuộc đổi mới đất nước, vấn đề nam nữ bình quyền tiếp tục
được Đảng, Nhà nước chú trọng. Các văn bản pháp quy đã ban hành trước đó
được nghiên cứu, đánh giá, bổ sung, phát triển để quyền bình đẳng nam nữ thực
sự đi vào cuộc sống. Kể từ sau năm 1986 đến nay, rất nhiều văn bản pháp luật
liên quan đến nữ giới đã được ban hành như: Luật hơn nhân và gia đình (1959,
1986, 2000), Luật Bình đẳng giới (2007); luật Lao động (1992, 2012); Luật
Phịng, chống bạo lực gia đình (2007); Luật đất đai (2013); Luật Phòng chống
mua, bán người (2011)... Đi cùng với văn bản pháp luật là các chỉ thị, hướng dẫn
cho từng giai đoạn, tiêu biểu gần đây nhất có thể kể đến: Quyết định số
2351/QĐ-TTg ngày 24/12/2010 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt “Chiến
lược quốc gia về bình đẳng giới, giai đoạn 2011-2020”; Quyết định số 1696/QĐTTg ngày 02/10/2015 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt “Chương trình hành
động quốc gia về bình đẳng giới, giai đoạn 2016-2020”; Quyết định số
1464/QĐ-TTg ngày 22/7/2016 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt “Đề án
phịng ngừa và ứng phó với bạo lực trên cơ sở giới giai đoạn 2016-2020, tầm
nhìn đến năm 2030”; Quyết định số 938/QĐ-TTg ngày 30/6/2017 của Thủ tướng
Chính phủ về phê duyệt Đề án “Tuyên truyền, giáo dục, vận động, hỗ trợ phụ nữ
tham gia giải quyết một số vấn đề xã hội liên quan đến phụ nữ, giai đoạn 2017 -


7

2027”; Quyết định số 939/QĐ-TTg ngày 30/6/2017 của Thủ tướng Chính phủ

phê duyệt Đề án “Hỗ trợ phụ nữ khởi nghiệp giai đoạn 2017-2025”... Trong các
văn bản hướng dẫn thực hiện luật pháp, chính sách này, vai trị của các hoạt
động truyền thông luôn được đề cập và nhấn mạnh, mục tiêu là nâng cao năng
lực tuyên truyền, xây dựng, phát triển mơ hình thí điểm về bình đẳng giới, nâng
cao nhận thức của người dân về các vấn đề liên quan... Quyết định Phê duyệt
Chiến lược Quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2011 - 2020 của Thủ tướng
Chính phủ cũng quy định rõ trong nội dung Tổ chức thực hiện đối với các tổ
chức, bộ ngành, trong đó nhấn mạnh: “Thơng tấn xã Việt Nam, Đài Tiếng nói
Việt Nam, Đài Truyền hình Việt Nam và các cơ quan thơng tin đại chúng khác
tăng thời lượng phát sóng, số lượng bài viết và nâng cao chất lượng tuyên truyền
về bình đẳng giới trong các chương trình, chuyên trang, chun mục”.
Có thể nói, trải qua q trình lịch sử, Việt Nam đã xây dựng được một
khung pháp lý khá hồn thiện và chặt chẽ về bình đẳng giới. Sự tiến bộ về mặt
thể chế đã tạo được môi trường pháp lý tơn trọng sự cơng bằng, khuyến khích sự
tham gia của cả hai giới trong các lĩnh vực của đời sống xã hội.
1.2. Vấn đề định kiến giới ở Việt Nam qua khảo sát một số trang báo chí
điện tử
Khi bàn về đề tài phụ nữ trên báo chí hiện nay, nhiều nhà nghiên cứu cho
rằng, báo chí đã và đang góp phần khẳng định, nâng cao vai trị, vị trí của phụ
nữ trong đời sống xã hội hiện đại. Nhờ sự tác động của báo chí mà hình ảnh phụ
nữ có những thay đổi tích cực và cũng chính những đề tài phụ nữ lại là chất liệu
tạo ra những sản phẩm báo chí sinh động và hấp dẫn. Các sản phẩm báo chí
truyền thơng ngày càng chú trọng lồng ghép vấn đề về bình đẳng giới, qua đó
góp phần định hướng và xóa bỏ định kiến giới. Báo chí viết về phụ nữ đã và
đang dần thốt khỏi khuôn mẫu người phụ nữ truyền thống chân yếu tay mềm,
cam chịu, phụ thuộc, gắn liền với công việc nội trợ, chăm sóc gia đình... Thay
vào đó, hình ảnh người phụ nữ hiện đại, năng động, sáng tạo, tự tin,... trở thành
đề tài được báo chí cập nhật, khai thác trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.
Báo chí cũng bắt đầu khai thác hình ảnh những nữ chính trị gia, nữ doanh nhân,



8

nữ nghệ sĩ, hay những phụ nữ thành đạt và quyền lực, có đóng góp quan trọng
vào sự phát triển của xã hội. Rõ ràng, báo chí có thể tác động tích cực đến dư
luận, chính sách, quan điểm xã hội về nữ giới, thúc đẩy bình đẳng giới và bảo
đảm quyền của phụ nữ. Báo chí hiện nay đã và đang góp phần khẳng định, tơn
vinh vai trị, vị trí của phụ nữ trong xã hội hiện đại, góp phần thực hiện tốt sứ
mệnh của một nền báo chí nhân văn, vì sự tiến bộ xã hội. Hãy cùng điểm qua
các báo như: giadinh.net.vn, phunuonline.com.vn, vnexpress.net, tuoitre.vn để
thấy rõ vấn đề này.
* Về đặc điểm ngoại hình: Hình thức được ví như “tấm giấy thơng hành”
của người phụ nữ trong các lĩnh vực nghề nghiệp vốn được xem là địa hạt của
nam giới. Ví dụ như nghề phi cơng. Rất khó tìm được bài viết nào về các nữ phi
cơng mà khơng đề cập đến ngoại hình của họ ngay từ tiêu đề: “Ba nữ phi công
Việt Nam nổi hơn hotgirl” (giadinh.net.vn, 16/9/2014), “Cơ duyên đưa những cô
gái xinh đẹp đến với nghề phi công” (giadinh.net.vn, 13/5/2015), “Đội phi công
chân dài Việt Nam (tuoitre.vn, 30/5/2014), “Nữ phi công Hàn Quốc xinh đẹp
trên đường bay Việt Nam” (vnexpress.net, 9/3/2015)... Trong lĩnh vực thể thao
cũng có hiện tượng tương tự. Bài viết: Eugenie Bouchard: Công chúa băng giá
của làng banh nỉ (vnexpress.net, 3/7/2014) nhấn mạnh: “Trước khi có được
chuỗi thành tích ấn tượng, Bouchard gây chú ý với người hâm mộ bởi vẻ ngồi
trong sáng và xinh đẹp. Cơ sớm lọt vào mắt xanh của hàng loạt thương hiệu thể
thao và thời trang”. Một bài viết khác về nữ vận động viên quần vợt này - Hoa
khôi quần vợt khoe sắc với váy mỏng (vnexpress.net, 3/1/2015) viết: “Bouchard
không chỉ thu hút giới hâm mộ bằng sắc đẹp mà còn bằng cả tài năng”. Sẽ ra sao
nếu tác giả thay đổi cách viết một chút, chẳng hạn như: “Không chỉ thuyết phục
người hâm mộ bằng chuỗi thành tích ấn tượng, Bouchard cịn gây chú ý bởi vẻ
ngoài trong sáng và xinh đẹp”; Hoặc: “Nữ vận động viên thu hút người hâm mộ
bằng tài năng và cả sắc đẹp của mình”? Chắc chắn, cách viết này sẽ không mang

đến cho người đọc cảm giác nếu khơng có sắc đẹp thì tài năng của nữ vận động
viên quần vợt kia có lẽ đã khơng tỏa sáng đến thế. Rõ ràng, diễn ngơn ln có
khả năng mang lại cho chúng ta những thông điệp vượt ra ngoài câu chữ, và


9

định kiến là vấn đề của cách nhìn, cách đánh giá. Cách viết của bài báo về nữ
vận động viên mang lại cảm giác thành tựu của cô ấy không hồn tồn do tài
năng mà có. Ngay cả tiêu đề: “Hoa khôi quần vợt khoe sắc với váy mỏng” cũng
hàm chứa những thông tin ngoại vi không phù hợp và khá nhạy cảm1.
Cách thức mơ tả ngoại hình người nổi tiếng trong các tin bài giải trí tồn tại
khá nhiều biểu hiện định kiến giới. Dễ dàng nhận ra một số chủ đề được ưa thích
của báo chí khi khai thác tin bài về ngoại hình của người nổi tiếng: Nếu không
phải là “bắt lỗi” người nổi tiếng trong cách ăn mặc, trang điểm thì sẽ là tập trung
mơ tả sự hở hang, gợi cảm; nếu không phải là “soi” việc người nổi tiếng sử dụng
hàng hiệu đắt tiền hay phẫu thuật thẩm mỹ, thì sẽ là “bóc phốt” dung nhan trong
quá khứ hoặc bóc mẽ chuyện đời tư của họ và người thân trong gia đình...
Trong các chủ đề này, nổi bật nhất có lẽ là việc tập trung mô tả sự hở hang,
gợi cảm của các sao nữ. Những cái tít như thế này dễ dàng được tìm thấy trên
trang đầu cũng như các chuyên mục giải trí của các trang báo chí: “Mỹ nhân
Việt nào khoe vịng một sexy nhất dịp đầu năm?” (giadinh.net.vn, 22/02/2016),
“Nữ ca sĩ gây sốc vì gần như khỏa thân trên thảm đỏ” (giadinh.net.vn,
03/6/2014), “Trào lưu “tự sướng” khoe vòng một nở rộ trong Vbiz”
(giadinh.net.vn, 02/6/2014), “Hà Anh diện bikini len khoe vẻ nóng bỏng chào
Giáng sinh” (vnexpress.net, 11/12/2015), “Dàn mẫu khơng mặc nội y trình diễn
váy voan mỏng” (vnexpress.net, 5/9/2016), Mốt khơng nội y hâm nóng đường
phố London, New York (vnexpress.net, 21/9/2016)... Những tin bài như thế này
xuất hiện với tần xuất dày đặc đi cùng với số lượng ảnh khổng lồ đặc tả khiến
cho người xem có cảm giác các nữ diễn viên, người mẫu, người dẫn chương

trình... hiện nay đang đua nhau ăn mặc hở hang, gợi cảm. Sẽ rất nguy hiểm nếu
“hở” và “hở bạo” được xem như là tiêu chí của cái đẹp, của sự xa hoa và nổi
tiếng. Nhất là khi một bộ phận không nhỏ giới trẻ coi những nhân vật nổi tiếng
như thần tượng, nhất cử nhất động của thần tượng đều trở thành khuôn mẫu để
họ làm theo. Và ở một khía cạnh đáng lo ngại hơn - các trang báo mạng dường
1

Nguyễn Thị Tuyết Minh (2011), “Định kiến giới trong các sản phẩm truyền thông trên các phương tiện truyền
thông đại chúng hiện nay”, Đề tài khoa học cấp Bộ, Học viện Báo chí và Tuyên truyền, Hà Nội, tr.14-16.


10

như đang trở thành sân khấu và các người đẹp vơ tình trở thành những nhân vật
phơ diễn hình thể để mua vui, để người ta bình phẩm, soi mói, chỉ trích đầy
khiếm nhã.
* Về đặc điểm tính cách, phẩm chất: Có một điểm khá thú vị khi khảo sát
về tính cách và giới được đề cập trên báo giadinh.net.vn, phunuonline.com.vn,
vnexpress.net, tuoitre.vn,... đó là hình ảnh người phụ nữ tự tin, biết kiềm chế
cảm xúc, tham vọng, quyết đoán đã xuất hiện nhiều hơn. Điều này cũng phần
nào phản ánh đúng thực tế cuộc sống hiện đại khi mà người phụ nữ ngày càng
tham gia nhiều công việc và vị trí quan trọng trong xã hội, ngày càng độc lập về
tài chính cũng như tự tin thể hiện bản thân. Tuy nhiên, so với các tính cách
truyền thống khác vẫn được “chia phe” rõ ràng cho hai giới thì biểu hiện này
vẫn khá mờ nhạt, nhất là trong các bài viết về hình ảnh những người phụ nữ tự
tin, táo bạo, quyết đoán ấy lại hàm chứa những chi tiết đầy định kiến. Chẳng hạn
như việc đề cập đến “cái giá phải trả” khi người phụ nữ tham gia các trọng trách
xã hội hoặc cái nhìn có phần kì thị của những người xung quanh dành cho người
phụ nữ tự tin, thành đạt...
Một điều dễ nhận thấy nữa là trong q trình duy trì các khn mẫu về tính

cách của nam và nữ, các tin bài trên báo giadinh.net.vn, phunuonline.com.vn,
vnexpress.net, tuoitre.vn lại xây dựng rất nhiều nhân vật “tiêu chuẩn kép” mang ưu điểm của giới này nhưng lại là nhược điểm của giới khác: Tham vọng,
độc lập, có năng lực lãnh đạo là các tố chất của nam nhưng lại là áp lực đối với
nữ; đảm đang, tình cảm, dịu dàng là tố chất của nữ nhưng lại không được cổ vũ
cho nam. Nam giới đào hoa thì được ngưỡng mộ, phụ nữ đào hoa lại là mối
nguy. Tiết kiệm, tằn tiện, vun vén đối với phụ nữ là những đức tính đáng q,
nhưng đối với đàn ơng thì lại trở thành nỗi ám ảnh, khiếp sợ của chị em2...
* Về vị trí, vai trị, năng lực của nam và nữ:
- Trong mối quan hệ gia đình, 300 bài viết đề cập đến công danh sự nghiệp
trên báo giadinh.net.vn, phunuonline.com.vn, vnexpress.net, tuoitre.vn, có tới
2

Xem thêm bài viết: Phương Nghi, Thanh Loan, “Lời khuyên gây sốt dành cho phụ nữ nhân ngày 20/10”,
Nguồn: , 20/10/2016;


11

134 bài mô tả nhân vật là nữ, 114 bài mô tả nhân vật là nam và 52 bài là cả hai
giới. Điều này đang phản ánh một thực tế của đời sống xã hội hiện đại - đó là
ngày càng nhiều phụ nữ tham gia đảm nhiệm các vị trí mà trước đây là địa hạt
riêng của nam giới, từ thương trường cho tới chính trường đều có sự góp mặt
ngày càng nhiều của những gương mặt nữ giới tự tin, độc lập. Tuy nhiên, chính
những bài viết này lại tồn tại những định kiến đối với giới nữ một cách khó nhận
biết nhưng lại mạnh mẽ và dai dẳng nhất.
Trong tất cả các bài viết về ly hôn, ngoại tình mà “người thứ ba” là nữ thì
mặc nhiên họ sẽ trở thành tội đồ. Tuy nhiên, nếu người thứ ba là nam thì cục
diện sẽ khác, vì người bị chỉ trích nặng nề lúc này khơng phải là người đàn ơng
mà lại chính là người phụ nữ chẳng may say nắng kia. Lí do là gì ư? Vẫn là
những “lẽ thường” đã trở thành chân lí mà ai cũng công nhận là hiển nhiên đúng

đắn như trong bài viết “Ngoại tình để dạy cho đàn ơng một bài học?”
(giadinh.net.vn, 20/11/2014): “Nhắc đến ngoại tình, người ta thường lên án đàn
ông dù số lượng quý bà gia nhập “sân chơi” này ngày càng nhộn nhịp, xôm tụ
chẳng kém quý ông. Tuy nhiên, hệ luỵ thường nghiêng về phía các chị em nếu
chuyện ngoại tình vỡ lỡ, cho dù lý do đưa đẩy họ đến với cuộc chơi này là gì
chăng nữa. Khơng chỉ xã hội lên án, người tình quay lưng, chồng trừng phạt, con
cái khơng cịn tơn trọng mà phụ nữ sau ngoại tình cịn đối diện với sự ê chề,
nhục nhã cũng như sự cắn rứt lương tâm không ngừng. Trái với đàn ông thường
tự hào về bề dày chiến tích, phụ nữ ln đau khổ nhiều hơn vì khi ngoại tình, họ
thường yêu đậm sâu chứ không đơn thuần chỉ là sự đổi trao xác thịt”... Và thật lạ
là ngay cả những người phụ nữ đứng ngồi cuộc trót lên tiếng bênh vực thì cũng
rất dễ có nguy cơ trở thành đối tượng bị chỉ trích, lên án vì thích thị phi, vì ghen
ăn tức ở, vì trăm ngàn những tật xấu mà chỉ cần nói ra là người ta gán ngay cho
“đàn bà”.
Bên cạnh việc đánh giá nhân vật nữ “đóng khung” trong khơng gian bếp
núc, công việc nội trợ, ca ngợi phẩm chất hy sinh như một thuộc tính dành riêng
cho nữ giới và coi đó như tiêu chuẩn để ghi nhận thành tích của họ, dường như
các tin bài trên báo chí cịn ngầm truyền tải thông điệp: Phụ nữ giỏi hơn chồng


12

là có tội. Về mặt bình đẳng giới, đây là một biểu hiện rất rõ ràng của định kiến
giới. Các trang báo không hiếm những tin bài kiểu như: “Làm gì khi vợ kiếm
tiền nhiều hơn chồng”, “Tổ ấm lung lay vì chồng lép vế vợ”, “Chồng thấp, vợ
cao”, “Nỗi khổ của những người vợ giỏi”, “Bi kịch gia đình vì chồng lép vế”,
“Tan tổ ấm vì vợ giỏi”, “Khó lấy chồng vì q thơng minh”... Những tin bài như
thế này ln được bạn đọc quan tâm, lượng bình luận khá lớn và quan điểm của
những người bình luận (kể cả nam và nữ) thường là ủng hộ việc phụ nữ phải biết
thua kém chồng và nên tỏ ra yếu đuối để gia đình được hạnh phúc. Rõ ràng, việc

đưa ra hiện tượng mà khơng phân tích thấu đáo của truyền thông đã khắc sâu
thêm định kiến giới. Người phụ nữ giỏi hơn chồng khơng hề có tội. Sự rạn nứt
gia đình có thể là do hai người chưa tìm được tiếng nói chung, người chồng cảm
thấy “nam quyền” bị uy hiếp nên có những phản ứng tiêu cực để bảo vệ vai trị
trụ cột của mình, cịn người vợ thì vừa phải tỏ ra thua kém chồng, vừa phải gồng
mình để làm tốt cả cơng việc cơ quan cả vai trị nội trợ nên về lâu dài khơng thể
đóng trịn vai. Đây là tình huống xã hội phức tạp cần sự tư vấn cặn kẽ của
chuyên gia, không thể phản ánh một cách dễ dãi trên các phương tiện thơng tin
đại chúng, khiến cho chính người phụ nữ cũng cảm thấy sự phấn đấu của mình
trong xã hội là nguyên nhân làm tan vỡ hạnh phúc gia đình3.
- Trong mối quan hệ xã hội: Nếu như trong mối quan hệ gia đình, hình ảnh
người phụ nữ được miêu tả trong nội dung tin tức vẫn theo những khuôn mẫu
truyền thống chứa đầy định kiến, thì trong mối quan hệ xã hội, những khuôn
mẫu mang định kiến này dường như vẫn đang được duy trì và cổ xúy trong các
bản tin. Việc xây dựng chân dung nữ lãnh đạo, quản lý vẫn dựa theo những môtip truyền thống “giỏi việc nước, đảm việc nhà”, “vừa hồng, vừa chuyên”. Theo
thống kê trên báo giadinh.net.vn, phunuonline.com.vn, vnexpress.net, tuoitre.vn,
trong số 1.325 tin bài đề cập đến hình ảnh lãnh đạo, quản lý, có tới 37.1% là nữ,
22,9 % là nam và 40% là cả hai giới. Đây thực sự là tín hiệu đáng mừng, vừa
phản ánh đúng thực tế đời sống xã hội với những đổi thay tích cực của một bộ
3

Xem thêm bài viết: Kim Vân, “Được và mất khi phụ nữ làm trụ cột gia đình, Nguồn: ,
07/3/2014; Vương Linh, “Lý do phụ nữ thông minh xinh đẹp vẫn độc thân”, Nguồn: ,
27/9/2015.


13

phận lớn chị em phụ nữ tự tin, năng động, tài năng, vừa thể hiện sự biến chuyển
trong nhận thức về giới của những người làm báo trong quá trình sản xuất tin

bài. Tuy nhiên, nhìn riêng số liệu của báo Tuổi trẻ - một chuyên trang về các vấn
đề thời sự, chính trị, kinh tế - thì tỷ lệ nữ trong vai trò lãnh đạo, quản lý nhỏ hơn
rất nhiều so với nam giới (22,6 % so với 36,2% trong tổng số 177 tin bài) 4. Các
trang còn lại chun về lĩnh vực văn hóa, giải trí, vì thế nhân vật lãnh đạo được
khai thác chủ yếu trong vai trò là trợ lý, người quản lý cho ca sĩ, người mẫu,
giám đốc các cơng ty giải trí, ơng/bà chủ các nhà hàng, cửa hàng thời trang, mỹ
phẩm... Nhìn chung, tần suất xuất hiện của nữ lãnh đạo trong các bài báo và bản
tin là rất thấp so với nam lãnh đạo, đặc biệt là trong khối các cơ quan nhà nước.
Điều này cho thấy hình ảnh lãnh đạo nữ đã không được phản ánh một cách đầy
đủ trong tin tức dù sự tham gia và cống hiến của họ vào lực lượng lao động rất
quan trọng. Sự thiếu vắng hình ảnh lãnh đạo nữ trong tin tức khơng những là
minh chứng cho việc tiếng nói và ý kiến của nữ giới không được thể hiện một
cách đầy đủ mà cịn gửi một thơng điệp ngầm tới cơng chúng rằng rằng lãnh đạo
nữ khơng có quyền lực, hoặc khơng có phẩm chất lãnh đạo để xứng đáng đưa
vào các bản tin5.
* Về cách thức phản ánh định kiến giới của báo chí:
- Về tần suất/chuyên mục phản ánh các nội dung liên quan đến định kiến
giới: Một điều đáng chú ý là trong số các bài liên quan đến nữ, đa số các tin bài
tập trung ở chuyên mục Văn hóa, Giải trí, chun mục Gia đình hoặc Tâm sự.
Trong khi đó, hình ảnh của nhân vật nữ vắng bóng hoặc rất mờ nhạt trong các
chuyên mục Chính trị, Xã hội hay Kinh tế, Quân sự. Tổng hợp kết quả khảo sát
từ các báo giadinh.net.vn, phunuonline.com.vn, vnexpress.net, tuoitre.vn cho
thấy, tin bài ở các chun mục Văn hóa, Giải trí thường mang tính chất giải trí
thuần túy, chú trọng cung cấp thơng tin “sốt dẻo” để thỏa mãn trí tị mị của độc
giả hơn là đi sâu phân tích tình huống. Chính vì thế, nhìn số lượng tin bài về nữ
4

Xem thêm bài viết: Đỗ Quyên, “39 tuổi liên tục sống giữa tin đồn "cơ nổ" về sự giàu có, Lý Nhã Kỳ thực sự có
bao nhiêu tài sản?”, Nguồn: , 11/7/2020; Kim Cương, “Anh Phúc ln dành tình u cho
con trai riêng của tôi”, Nguồn: , 23/11/2015.

5
Vũ Tiến Hồng và nhóm nghiên cứu (2016), Báo chí và định kiến giới đối với lãnh đạo nữ, Oxfam, Hà Nội,
tr.29-30.


14

so với tổng số có vẻ cao nhưng mục đích truyền thơng về giới khơng thực chất,
nếu khơng muốn nói là không được chú trọng. Số lượng và tần suất tin bài về
giới khá hạn chế, mức độ đăng tải tin bài phụ thuộc vào độ hấp dẫn của vấn đề,
sự quan tâm của công luận hoặc theo chủ kiến của nhà báo về tầm quan trọng
của thông tin mà không phải là theo kế hoạch dài hạn. Các báo chưa thực sự
quan tâm đến việc truyền thông về mảng đề tài này, vì vậy mà khơng thiết kế
chun mục, tiểu mục riêng cho mảng thông tin về giới, ngay cả với báo có tính
chất chun biệt như Báo Gia đình và xã hội...
- Về thể loại báo chí phản ánh nội dung định kiến giới: Chuyên mục Thời
sự, Xã hội, Văn hóa, Giải trí của các trang báo chí là những chuyên mục thích
hợp đăng tải các tin tức liên quan đến nữ giới. Những thông tin thời sự về các sự
vụ xảy ra hàng ngày trong đời sống gia đình và xã hội, các diễn biến liên quan
đến giới showbiz với “nhất cử nhất động” của người nổi tiếng - sự nghiệp, đời tư
của họ, hoặc những thông tin triển khai chủ trương, chính sách pháp luật của
Đảng, Nhà Nước về giới và bình đẳng giới..., tất cả đều được đăng tải nhanh
chóng, đầy đủ trên các trang giadinh.net.vn, phunuonline.com.vn, vnexpress.net,
tuoitre.vn. Thơng qua đó, các nhà truyền thơng thể hiện vai trị là cầu nối truyền
tải chính sách, pháp luật về thúc đẩy bình đẳng giới tới người dân. Tuy nhiên, để
các thơng điệp thúc đẩy bình đẳng giới trở nên chân thực, sâu sắc và lan tỏa
mạnh mẽ hơn nữa, chúng ta cần sự tham gia nhiều hơn của các thể loại báo chí
có yếu tố luận bình, lý giải, thể hiện chủ kiến của nhà báo trong q trình mơ tả
và luận giải.
Về ngơn ngữ, những từ/cụm từ đặc trưng mang tính so sánh, ẩn dụ được

báo chí sử dụng để ca ngợi nữ giới nhưng lại ẩn chứa định kiến một cách khó
nhận biết, ví dụ như: Nữ hoàng trong gian bếp, nội tướng, người giữ lửa, người
xây tổ ấm... Những cách diễn đạt này được các báo giadinh.net.vn,
phunuonline.com.vn, vnexpress.net, tuoitre.vn sử dụng với tần suất cao vơ hình
trung tạo hiệu ứng ngược “trói chặt” người phụ nữ vào bổn phận chăm sóc gia
đình. Các báo này cũng sử dụng các từ/cụm từ định danh mang tính định kiến,
mang nhiều nghĩa mới ám chỉ người phụ nữ với hàm ý tiêu cực, thiếu thiện cảm


15

như: Máy bay bà già, người đẹp dao kéo, yêu nữ hàng hiệu... Thêm vào đó, các
tít bài dài với các từ, cụm từ chỉ cảm xúc mang tính chất giật gân như: “Dân
mạng “dậy sóng” với bộ ảnh Thanh Lam mặc áo trắng toát đứng trên cầu Long
Biên” (giadinh.net.vn, 02/12/2016), “Bi hài “bùa phép” giữ chồng: Hôn nhân bế
tắc vì cho chồng uống bùa mê thuốc lú” (giadinh.net.vn, 27/10/2016), “Chết
lặng khi nghe lý do hủy hôn của nhà chồng tương lai” (giadinh.net.vn,
21/9/2016) cũng khiến người đọc khắc sâu thêm tâm lý bài xích nữ giới...
Tính chính xác của ngơn ngữ báo chí được ví như “cội nguồn của sự thuyết
phục”, vì nhờ đó “người đọc có thể kiểm chứng thông tin một cách dễ dàng” 6.
Việc sử dụng ngôn ngữ đòi hỏi người cầm bút phải thận trọng và chú tâm đến
từng từ ngữ. Bởi những gì nhà báo viết ra sẽ lan truyền thông điệp không phải
chỉ đến một vài người mà đôi khi là cả một thế hệ, làm thay đổi cả một nền văn
hóa. Theo Roumeen Isalam: “Văn hóa và sự kỳ vọng có thể thay đổi thông qua
thông tin do truyền thông cung cấp”. Văn hóa là cái tồn tại lâu dài, vơ cùng bền
vững và khó bị tác động cũng có thể biến đổi theo chiều hướng khắc họa của
truyền thông đại chúng7. Trong nỗ lực giảm thiểu tình trạng định kiến giới, bất
bình đẳng giới, những thông điệp khách quan, chân thực, khoa học mà vẫn đảm
bảo tính nhân văn, sự hiệu quả của truyền thơng đại chúng nói chung, báo chí
nói riêng sẽ giúp cộng đồng và xã hội có những nhận thức, thái độ đúng đắn và

hành vi chuẩn mực.

6

Hoàng Anh (2003), Một số vấn đề về sử dụng ngôn từ trên báo chí, Nxb Lao Động, Hà Nội, tr.20-21.
Phạm Hương Trà (2011), “Hiệu quả của các bài viết về bạo lực gia đình trên báo mạng điện tử Việt Nam hiện
nay”, Luận án Tiến sĩ Xã hội học, Viện Xã hội học, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, tr.164.
7


16

Chương 2. MỘT SỐ NGUYÊN NHÂN TỒN TẠI ĐỊNH KIẾN GIỚI VÀ
CÁC GIẢI PHÁP KHẮC PHỤC
2.1. Nguyên nhân tồn tại định kiến giới
Thứ nhất, thực tế của cuộc sống còn tồn tại nhiều biểu hiện, nhiều quan
điểm của định kiến giới. Kể từ khi đổi mới đất nước đến nay, Việt Nam đã và
đang đạt được nhiều thành tựu đáng khen ngợi trong thúc đẩy bình đẳng giới và
nâng cao vai trò của phụ nữ. Theo số liệu thống kê của Văn phịng Chính phủ,
tính đến năm 2017, tỷ lệ phụ nữ biết chữ của cả nước vượt 93%. Phụ nữ cũng
chiếm 48,5% tổng lực lượng lao động được trang bị kỹ năng. Trong Báo cáo
phát triển con người 2016, với tiêu đề “Phát triển con người cho tất cả mọi
người” được Chương trình Phát triển Liên hợp quốc cơng bố tại Hà Nội sáng
ngày 26/4/2017, Việt Nam với chỉ số bất bình đẳng giới là 0.337, xếp thứ 71/195
quốc gia, vùng lãnh thổ, tiếp tục nằm trong ba nước có thứ hạng tốt nhất tương
ứng với chỉ số bất bình đẳng thấp nhất trong các nước ASEAN. Với thành tựu
này, Liên hợp quốc đánh giá Việt Nam là điểm sáng trong việc thực hiện các
mục tiêu thiên niên kỷ, một trong những nước có thành tựu về bình đẳng giới
cao và được xếp vào nhóm nước có thành tựu bình đẳng giới tốt nhất khu vực
Đơng Nam Á.

Mặc dù vậy, Việt Nam vẫn đang phải đối mặt với những thách thức để đạt
được bình đẳng giới và nâng cao vị thế của phụ nữ. Báo cáo Quốc gia về Kết
quả 15 năm thực hiện các mục tiêu phát triển Thiên niên kỷ của Việt Nam cho
thấy: Vấn đề trọng nam khinh nữ vẫn còn phổ biến, thể hiện ở xu hướng gia tăng
tỷ số giới tính sinh qua các năm. Sự ưa thích con trai, việc lựa chọn giới tính khi
sinh làm gia tăng các quan ngại về bất bình đẳng giới, mất cân bằng giới tính
cũng như tình trạng bạo lực giới trở nên phổ biến và phức tạp. Thực tế này đã
ảnh hưởng tực tiếp tới thế giới quan, nhân sinh quan của người làm báo. Nhà
báo cũng giống như “người chép sử”, như “thư ký trung thành của thời đại”.
Nhiệm vụ của báo chí là phản ánh hơi thở của thời đại, bám sát những sự kiện
đời sống đang diễn ra từng ngày từng giờ để thông tin kịp thời đến bạn đọc.


17

Chính vì thế, vấn đề bình đẳng giới cũng như các vấn đề khác của đời sống kinh
tế, chính trị, văn hóa, xã hội được phản ánh chân thực trên báo chí. Thực tế là
chúng ta đã nỗ lực và đạt được nhiều kết quả đáng tự hào, Việt Nam đã được xếp
vào nhóm các nước có thành tựu bình đẳng giới tốt nhất khu vực Đông Nam Á.
Tuy nhiên con đường đến được với bình đẳng giới là con đường khơng dễ dàng,
địi hỏi sực kiên trì và nhiều nỗ lực hơn nữa trong việc thay đổi từ nhận thức của
mỗi người dân cho đến việc thay đổi chính sách, pháp luật hỗ trợ...
Thứ hai, sự tồn tại định kiến giới ngay trong chính bản thân người phụ nữ.
Định kiến giới vốn dĩ có thể nhắm vào cả hai giới, tuy nhiên phụ nữ với những
đặc điểm sinh học của mình nên ln là đối tượng chịu nhiều định kiến hơn.
Hơn nữa, trong xã hội còn chịu ảnh hưởng sâu sắc của quan niệm “trọng nam
khinh nữ” như Việt Nam, thì mỗi khi nhắc đến định kiến giới là chúng ta thường
nghĩ đến thân phận người phụ nữ. Một nghiên cứu quy mô quốc gia về quan hệ
giới trong gia đình Việt Nam của Viện Khoa học xã hội Việt Nam (2008) đã
cung cấp những số liệu đáng lưu ý: Về năng lực chăm sóc gia đình, hầu hết nam

giới và nữ giới đều cho rằng phụ nữ biết chăm sóc gia đình hơn so với nam giới.
Tuy nhiên, tỷ lệ phụ nữ đồng ý với nhận định này (92.8%) còn cao hơn so với
nam giới (88,3%). Về năng lực lo toan cơng việc gia đình cũng cho kết quả
tương tự, 82,3% phụ nữ và 68,6% nam giới đồng ý với nhận định phụ nữ biết lo
toan công việc gia đình hơn. Đến nhận định về việc “phụ nữ quyết định giữ
khơng khí hịa thuận trong gia đình”, tỷ lệ nữ giới đồng ý với nhận định này
(66,9%) vẫn cao hơn nam giới (54%)8. Điều này cho thấy quan điểm truyền
thống về năng lực của phụ nữ và nam giới vẫn đang được tiếp tục được số đơng
duy trì, trong đó phụ nữ lại chính là đối tượng duy trì những khn mẫu đó
nhiều hơn. Điều này gián tiếp quy định việc nam giới ít tham gia việc nhà hơn
phụ nữ, và trong các mâu thuẫn gia đình, nữ giới sẽ là người chịu trách nhiệm và
bị đổ lỗi nhiều hơn. Rõ ràng, định kiến giới với chính bản thân mình đang vơ
hình chung trở thành rào cản vơ hình ngăn người phụ nữ vươn lên thể hiện và
8

Trần Thị Vân Anh, Nguyễn Hữu Minh (2008), Bình đẳng giới ở Việt Nam (phân tích số liệu điều tra), Nxb
Khoa học Xã hội, Hà Nội, tr.392-396.


18

khẳng định bản thân. Và quan niệm này, thông điệp này được thể hiện, được
phản ánh trong các câu chuyện trên báo chí một cách hồn tồn tự nhiên, dẫn
đến nhiều trường hợp vấp phải định kiến giới mà có lẽ chính bản thân nhà báo
và độc giả cũng khơng nhận ra.
Thứ ba, các đơn vị truyền thông chưa coi trọng mục tiêu truyền thông
giới. Theo số liệu thống kê từ Ủy ban Kiểm tra Trung ương, tính đến hết năm
2020, Việt Nam có 779 cơ quan báo chí, trong đó có 142 báo (Trung ương: 68,
địa phương: 74, 112 báo có hoạt động báo điện tử); 612 tạp chí (Trung ương:
520, địa phương: 92, có 98 tạp chí có hoạt động tạp chí điện tử); 25 cơ quan báo

chí điện tử độc lập (9 báo điện tử và 16 Tạp chí điện tử). Cả nước có 72 cơ quan
có giấy phép hoạt động phát thanh truyền hình với 2 đài quốc gia (Đài THVN,
Đài TNVN), 1 đài kĩ thuật số, 64 đài địa phương, 5 đơn vị hoạt động truyền hình
(Truyền hình Nhân Dân, Thơng tấn, Quốc phịng Việt Nam, Công an Nhân dân,
Quốc hội) với tổng số 87 kênh phát thanh và 193 kênh truyền hình. Cả nước có
41.000 người hoạt động trong lĩnh vực báo chí, trong đó có 21.132 nhà báo và
15.768 người thuộc khối phát thanh truyền hình9. Tuy nhiên, khơng phải tịa
soạn nào cũng có chiến lược truyền thơng về giới. Đa số cơ quan báo chí sẽ có
các chun mục liên quan đến vấn đề giới, phản ánh các nội dung về tình u,
hơn nhân - gia đình như: “Tâm sự”, “Tổ ấm” (vnepress.net), “Dân số”, “Gia
đình” (Giadinh.net.vn), “Tình u - Giới tính” (dantri.com.vn), “Yêu”
(tuoitre.vn),... song hầu hết các tờ báo mạng đều khơng có chun mục riêng cho
truyền thơng về giới. Vì thế, hầu hết các chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà
nước về bình đẳng giới chỉ được tuyên truyền dưới hình thức đưa tin theo sự
kiện, kỳ cuộc, chưa có sự tập trung theo chủ đề, theo vệt, theo điểm một cách
quy mô và dài hạn.
Thứ tư, bản thân phóng viên, biên tập viên, người làm báo cũng là một
thành viên trong cộng đồng xã hội, trong họ cũng tồn tại định kiến giới, đa phần
cũng coi sự bất bình đẳng giới trong xã hội là hiện tượng tự nhiên, phù hợp với
9

Xem thêm: Hải Hà, “Hội nghị Báo chí tồn quốc tổng kết cơng tác năm 2020, triển khai nhiệm vụ năm 2021”,
Nguồn: 31/12/2020.


19

quy luật. Nghiên cứu của Oxfam về giới đối với các nhà báo nữ ở Việt Nam đã
chỉ ra rằng, rất nhiều phụ nữ làm báo chí nhưng trong cuộc sống gia đình thường
nhật họ vẫn duy trì cách phân chia trách nhiệm theo quan niệm giới tuyền thống.

Đó là phụ nữ có vai trị chính trong việc chăm sóc con cái và làm việc nhà.
Không phải các nhà báo không nhận ra sự bất công trong việc phân chia vai trò
như vậy, nhưng với họ “cả xã hội như vậy” hoặc “mình cũng chả làm gì khác
được” là thái độ khá phổ biến. Rõ ràng, tuy các nhà báo nhận thức rõ rằng nam
nữ cần được đối xử bình đẳng, khơng phân biệt cả trong gia đình và ngồi xã
hội, nhưng trên thực tế, định kiến giới vẫn chi phối các hoạt động trong gia đình
của các nhà báo. Hình ảnh nam giới làm việc nhà chưa bao giờ là những khuôn
mẫu trong xã hội Việt Nam. Việc phân cơng việc nhà theo vai trị giới truyền
thống đã hình thành, củng cố các định kiến giới, khiến cho những định kiến này
trở nên bình thường đến mức khó có thể nhìn ra chứ chưa kể đến việc có những
hành động cụ thể để thay đổi10.
Thứ năm, đội ngũ phóng viên và người làm báo chưa có điều kiện và cũng
chưa có nhu cầu cập nhật những kiến thức và kỹ năng truyền thơng giới.
Như trên đã nói, các vai trò giới truyền thống vẫn tồn tại trong tư duy của
các nhà báo, chính điều này chi phối họ trong quá trình khai thác nguồn tin,
khiến cho nhà báo nhìn nhận các vai trị giới bằng “lăng kính” của cá nhân mình,
các yếu tố định kiến giới bị “bình thường hóa” đi. Tình trạng định kiến giới vì
thế vẫn xuất hiện một cách rất tự nhiên đến mức khó nhận biết. Trong bối cảnh
đó, việc đào tạo, cung cấp kiến thức và rèn luyện kỹ năng khai thác và xử lý
thơng tin có nhạy cảm giới cho đội ngũ phóng viên, biên tập viên làm báo chưa
được triển khai một cách hệ thống, thường xuyên, chủ yếu là thực hiện theo kỳ
cuộc và lồng ghép trong các nội dung khác chính là một trong những nguyên
nhân quan trọng gây ra tình trạng định kiến giới trong nội dung tin tức.
Thứ sáu, đa phần các độc giả vẫn giữ thói quen tiếp nhận những câu
chuyện quen thuộc phù hợp với “lẽ thường”. Nhu cầu của công chúng là một
10

Vũ Tiến Hồng và nhóm nghiên cứu (2016), Báo chí và định kiến giới đối với lãnh đạo nữ, Oxfam, Hà Nội,
tr.36-37.



20

trong những yếu tố quan trọng quyết định xu hướng khai thác thông tin của
thông tin đại chúng. Ngày nay, thế hệ “cơng chúng thơng minh” nhiều khi cịn
gây áp lực cho báo chí, buộc báo chí phải thay đổi cách thức cũng như nội dung
truyền thông. Đối với các trang báo mạng, áp lực về lượng người đọc, lượt thích,
lượt chia sẻ, các phản hồi về bài viết là rất lớn. Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng,
độc giả vẫn giữ những tư duy, quan điểm, thái độ khá truyền thống trong việc
tiếp nhận và xử lí thơng tin, đặc biệt là đối với các câu chuyện về tình u, hơn
nhân - gia đình, về đời tư của người nổi tiếng... Điều này thể hiện khá rõ ở
những bình luận của độc giả dưới mỗi tin bài. Đồng thời, chuyên mục Tâm sự
trên báo VnExpress vốn là nơi đăng tải những bài viết, những câu chuyện, của
độc giả, do chính độc giả viết và gửi đến cho tịa soạn. Quan điểm của tác giả
trong các bài viết này phần nào thể hiện rõ thói quen tiếp nhận “lẽ thường”, dễ
đồng cảm với những câu chuyện mang tính chất truyền thống trong việc đánh
giá về đặc điểm, vị trí, vai trò của nam và nữ trong các mối quan hệ xã hội và
đời sống. Để thu hút độc giả, các trang báo dường như đang “chiều lịng” cơng
chúng của chính mình, khai thác những mảng nội dung, những khía cạnh đời
sống mà độc giả quan tâm, nhìn nhận, đánh giá vấn đề dựa trên các góc nhìn mà
độc giả thường dễ dàng đồng cảm và chấp nhận. Chính từ thói quen này mà định
kiến giới có cơ hội duy trì và tồn tại trong nội dung tin tức trên các trang báo.
2.2. Một số giải pháp nhằm hạn chế định kiến giới và nâng cao hiệu quả
thực hiện bình đẳng giới ở Việt Nam trong giai đoạn tới
Thứ nhất, cần hướng tới sự cân bằng tỷ lệ khi mô tả ngoại hình của nam và
nữ trong tin bài trên báo chí. Việc q chú trọng đến ngoại hình khi xây dựng
hình ảnh nhân vật nữ giới sẽ tạo áp lực cho họ, duy trì tâm lý ám ảnh, mặc cảm
ngoại hình. “Đàn bà xấu thì khơng có q” phải chăng chính là quan niệm được
sinh ra do áp lực về ngoại hình mà hiệu ứng từ truyền thơng mang lại? Hạn chế
việc sử dụng các từ khóa theo motip khi mơ tả ngoại hình của mỗi giới. Phụ nữ

đẹp lí tưởng khơng nhất thiết cứ phải da trắng, tóc dài, mắt to, khn mặt thanh
tú, vóc dáng cân đối mềm mại, gợi cảm... Nam giới hấp dẫn không nhất thiết cứ
phải cường tráng hay thư sinh, trán cao, miệng rộng, nước da rám nắng, mặt


21

vuông chữ điền... Tương tự như vậy, các khiếm khuyết về ngoại hình của giới
này khơng nhất thiết phải mơ tả bằng cách so sánh với đặc điểm mặc định của
giới kia. “Như đàn ông”, “như đàn bà” là cách tư duy áp đặt đầy định kiến. Việc
mô tả ngoại hình dựa theo các motip sẵn có khơng chỉ làm giảm sự sáng tạo của
ngơn ngữ mà cịn cản trở việc chấp nhận sự đa dạng và khác biệt của mỗi cá
nhân trong đời sống, tạo áp lực cho mỗi giới, đặc biệt là giới nữ trong cuộc sống.
Khi lựa chọn và mơ tả tính cách, phẩm chất của nam và nữ trong nội dung
tin tức, báo chí cần chú ý hạn chế việc áp dụng những khn mẫu tính cách
truyền thống cho mỗi giới. Hiệu ứng lan tỏa của các thơng điệp truyền thơng sẽ
góp phần trói chặt người phụ nữ trong khuôn khổ của những phẩm chất truyền
thống như dịu dàng, khéo léo, vị tha, hi sinh, “giữ lửa” hoặc mặc định những
khiếm khuyết tính cách của họ như yếu đuối, an phận, đào mỏ, thích bn
chuyện, lẳng lơ...; tương tự như vậy, nam giới sẽ chịu áp lực phải mạnh mẽ, hào
phóng, có cơng danh, sự nghiệp, khơng được phép “ẻo lả”, keo kiệt, khơng có
chí tiến thủ...
Khi mơ tả ngoại hình, tính cách, phẩm chất của người nổi tiếng trong các
tin bài giải trí, cần chú trọng hơn đến các biểu hiện tích cực hơn là việc “vạch lá
tìm sâu”, soi mói, bóc phốt các lối về cách ăn mặc, trang điểm hay các câu
chuyện về tình cảm, đời tư. Đặc biệt, yếu tố hở hang, gợi cảm của sao nữ cần
được khai thác có chừng mực để tránh những hiệu ứng phản cảm, ảnh hưởng
đến thị hiếu của công chúng, đặc biệt là giới trẻ. Tuyệt đối tránh thái độ phê
phán quá mức, giọng điệu miệt thị hay áp đặt quan điểm của một nhóm người để
phán xét, định tội danh cho người nổi tiếng mà chủ yếu là giới nữ trong các sự

cố về trang phục, trang điểm hay trong các câu chuyện đổ vỡ tình cảm, rắc rối
đời tư.
Thứ hai, báo chí cần tăng cường tin bài mô tả nam và nữ trong các vai trị,
vị trí đa dạng với góc nhìn cởi mở hơn về giới. Trong quan hệ gia đình, vợ giỏi
hơn chồng không phải là nguyên nhân tan vỡ hạnh phúc; phụ nữ thơng minh,
xinh đẹp khơng khó lấy chồng mà đàn ơng cần nỗ lực hơn nữa để có thể may
mắn chiếm được trái tim của những người phụ nữ vượt trội ấy; ngoại tình hay


22

những hành vi hung hăng, sách nhiễu tính dục cần bị lên án chứ không phải là
cảm thông, bao biện; trong các mối quan hệ tay ba hay các vụ đổ vỡ tình cảm,
trách nhiệm của mỗi bên cần được xem xét công bằng, đừng đổ lỗi cho phụ nữ;
phụ nữ khơng có sứ mệnh phải học cách chiều chồng và chăm sóc “tổ ấm”, đây
là cơng việc cần sự nỗ lực của cả hai bên... Trong quan hệ xã hội, cần hạn chế sự
thể hiện chênh lệch về vị thế giữa nam và nữ. Hình ảnh người phụ nữ xuất hiện
trong vai trò lãnh đạo nên được thể hiện cởi mở hơn, họ cần được ghi nhận và cổ
vũ việc thể hiện năng lực cá nhân thay vì bị buộc chặt vào tiêu chuẩn “vừa giỏi
việc nước, vừa đảm việc nhà”. Các bài viết về mua bán dâm, quấy rối tình dục,
hiếp dâm và xâm hại tình dục trên các trang báo cần được khai thác ở góc nhìn
nhân văn, có nhạy cảm giới hơn, tránh tình trạng cổ xúy cho những quan niệm
truyền thống gây tổn thương và bất lợi cho giới nữ như: phóng khống trong
chuyện tình dục là hư hỏng đối với phụ nữ nhưng lại là “bản chất tự nhiên” của
đàn ông; phụ nữ bị quấy rối tình dục là do khơng kín đáo, khơng biết giữ chừng
mực; “làm hoa cho người ta hái, làm gái cho người ta trêu”...
Thứ ba, cần mở rộng thêm sự hiện diện của nữ giới trên các chuyên mục
khác của báo chí như Chính trị, Kinh tế, Thời sự để nâng cao vị thế của phụ nữ
thay vì chỉ tập trung ở các chun mục Văn hóa, Giải trí, Gia đình, Tâm sự như
hiện nay. Những chuyên mục này thường mang tính chất giải trí, chú trọng cung

cấp thơng tin “sốt dẻo” để thỏa mãn trí tị mị của độc giả nên khơng đi sâu phân
tích, luận giải. Bên cạnh đó, lĩnh vực được đề cập trong các tin bài của các
chuyên mục này thường là thời trang, sắc đẹp, thẩm mỹ, nghệ thuật, giải trí, đời
sống hơn nhân, gia đình... Điều này càng củng cố quan niệm của số đơng rằng
phụ nữ khơng thích hợp trở thành nguồn tin trong các vấn đề quan trọng như
chính trị, kinh tế, ngoại giao, họ chỉ thích hợp làm hậu phương, làm người “giữ
lửa” cho căn bếp, ngôi nhà để người đàn ông của họ yên tâm làm “trụ cột”, bất
kể anh ta có đủ năng lực và có tâm nguyện làm “trụ cột” hay không. Để hạn chế
định kiến giới, cần thay đổi từ góc nhìn của chính nhà báo khi lựa chọn và khai
thác nguồn tin là như vậy. Việc giải phóng phụ nữ ra khỏi khơng gian bếp núc,
đưa họ đến những không gian mới - nơi những người vợ, người mẹ, người chị


23

có cơ hội thể hiện và phát huy phẩm chất, năng lực cá nhân như nam giới, được
tự do tìm kiếm và thực hiện mọi ước mơ mà không bị kiềm tỏa bởi những tư duy
cũ kỹ, hà khắc là một trong những bước đi đầu tiên truyền thông cần làm để
hướng tới bình đẳng giới thực sự.
Mỗi trang báo cần có chun mục riêng để truyền thơng về giới, đồng thời
việc duy trì người phụ trách chuyên mục hoặc phụ trách chung vấn đề truyền
thông về giới là hết sức cần thiết. Sự hiện diện của các chuyên mục, tiểu mục,
chuyên trang với người phụ trách riêng cho mảng truyền thơng về giới và bình
đẳng giới có vai trị như “người gác cổng” giúp các trang báo tránh được các
nguy cơ định kiến giới trong nội dung tin tức, đồng thời nhắc nhở mỗi nhà báo,
mỗi bộ phận sản xuất và xuất bản tin bài sự cẩn trọng cần có trong q trình tìm
kiếm, lựa chọn, khai thác và xử lí nguồn tin.
Thứ tư, báo chí cần tăng cường xuất bản các tin bài mang chủ đề giới và
bình đẳng giới thuộc các thể loại tường thuật, chân dung, phóng sự, chun luận,
xã luận. Các thơng điệp thúc đẩy bình đẳng giới sẽ trở nên chân thực, có sức lan

tỏa mạnh mẽ và sâu sắc hơn khi có sự tham gia của nhiều thể loại có yếu bình
luận, phân tích, lý giải, thể hiện rõ nét tầm nhìn, tư tưởng, quan niệm đậm chất
nhân văn của tác giả. Cuộc sống hiện thực ngổn ngang nhưng cũng đầy màu sắc
và đầy sức sống, lựa chọn điều gì và thể hiện như thế nào để chạm đến trái tim
công chúng, giúp báo chí thực hiện tốt sứ mệnh định hướng, chức năng tư tưởng
của mình - điều này hồn tồn phụ thuộc và tài năng, tâm huyết, phẩm chất nghề
nghiệp của người làm báo. Với đặc thù là tính thời sự, cập nhật liên tục, nhanh
chóng các thơng tin về đời sống, xã hội, các trang báo hiện nay đang tập trung
vào thể loại tin vì dễ dàng đáp ứng được các yêu cầu về sự cập nhật tức thì, ngắn
gọn, xúc tích, dễ nhớ, dễ thuộc. Tuy nhiên, thể loại này thiếu tính luận giải vì thế
dễ vướng phải định kiến giới trong các chi tiết nhỏ mà bản thân nhà báo và độc
giả cũng khó nhận ra. Đặc biệt, việc sử dụng quá nhiều thể loại tin ảnh trong
chuyên mục giải trí khi thể hiện đời sống của người nổi tiếng sẽ khiến các trang
báo rất dễ sa vào tình trạng phơ diễn, lạm dụng cơ thể người phụ nữ, duy trì và


24

củng cố những nhận thức sai lệch về giới nghệ sỹ biểu diễn cũng như thái độ kì
thị với những nữ nghệ sỹ trẻ trong quá trình phấn đấu xây dựng sự nghiệp.
Thứ năm, cần chú trọng đến mặt diễn ngơn của báo chí. Tác phẩm báo chí
khơng chỉ đơn thuần là “vật” chứa đựng thông tin của nhà báo chuyển tải đến xã
hội mà còn thể hiện quan điểm chính trị, lập trường cơng dân, năng lực nghề
nghiệp và thị hiếu thẩm mỹ của tác giả. Trong quá trình lao động sáng tạo văn
bản tác phẩm báo chí, tài năng của cá nhân nhà báo quy định khả năng tổ chức
thực hiện đề tài, xử lý các tài liệu, thơng tin, sự lựa chọn các tình tiết, kiểu kết
cấu thích ứng, ngơn ngữ và giọng điệu phù hợp. Ngơn ngữ là yếu tố hình thức
đặc biệt quan trọng, khơng thể tách rời các thành tố nội dung của một tác phẩm
báo chí. Chính vì lẽ đó, việc sử dụng ngôn ngữ tiềm ẩn định kiến giới là nguy cơ
lớn nhất khiến một tác phẩm báo chí trở thành “vật chủ” truyền tải những thơng

điệp bất bình đẳng giới.
Những cách diễn đạt củng cố quan niệm rập khuôn về giới với hàm ý coi
thường giới nữ, khắc họa sự mờ nhạt, vơ hình, phụ thuộc của phụ nữ đối với
nam giới như “đàn bà biết gì”, “đúng là đàn bà”... cần được loại bỏ trong ngôn
ngữ tin bài trên các trang báo. Những cụm từ đặc trưng bao hàm nghĩa ẩn dụ,
gọi người phụ nữ là “nữ hoàng trong gian bếp”, “nội tướng”, “người xây tổ ấm”,
“hậu phương vững chắc”... khơng nên sử dụng thường xun để tránh tình trạng
tạo “hiệu ứng ngược” - tưởng chừng ca ngợi, tôn vinh phụ nữ nhưng thực ra lại
đang gây áp lực, cột chặt họ vào bổn phận chăm sóc gia đình, chu tồn việc nội
trợ, hy sinh những sở thích và hồi bão của bản thân. Ngoài ra, những từ, cụm từ
định danh hàm nghĩa kì thị, thiếu thiện cảm đối với giới nữ cần được sử dụng
thận trọng hơn trong tin bài để tránh tình trạng định kiến giới như: bình hoa di
động, yêu nữ hàng hiệu, nữ hoàng dao kéo, “rau sạch”, trà xanh, tiểu tam, gà già,
bò già, máy bay bà già,...
Đặc biệt, các trang báo cần chú ý cách đặt câu hỏi trong các bài phỏng vấn
nhân vật. Việc vận dụng “lẽ thường” để đặt câu hỏi vốn dĩ là phương pháp
thường được sử dụng để khai thác thông tin, phát triển nội dung câu chuyện
trong bài phỏng vấn. Tuy nhiên, nếu thiếu nhạy cảm giới, thiếu kiến thức, kỹ


×