Tải bản đầy đủ (.docx) (24 trang)

TIỂU LUẬN CAO câp lý LUẬN CHÍNH TRỊ môn CHÍNH TRỊ học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (136.85 KB, 24 trang )

MỤC LỤC


2

MỞ ĐẦU
Ở đâu có quyền lực thì ở đó có u cầu kiểm sốt quyền lực với vai trị
như một công cụ điều tiết, bảo đảm cho quyền lực được sử dụng hợp lý, hiệu
quả; không bị lạm dụng, sử dụng sai mục đích, dẫn đến hậu quả tiêu cực. Trong
lĩnh vực chính trị, vấn đề kiểm sốt quyền lực có ý nghĩa đặc biệt quan trọng,
liên quan đến lợi ích sống còn của một dân tộc, sự bền vững của một quốc gia,
sự tồn vong của một chế độ. Chính vì vậy, việc nghiên cứu, tổng kết thực tiễn
vấn đề kiểm sốt quyền lực chính trị ở nước ta hiện nay là một nhiệm vụ quan
trọng và cấp thiết. Đó chính là lý do học viên xin chọn vấn đề “Kiểm sốt quyền
lực chính trị ở Việt Nam hiện nay” làm bài thu hoạch kết thúc mơn Chính trị
học trong chương trình đào tạo Cao cấp lý luận chính trị của Học viện chính trị
quốc gia Hồ Chí Minh.


3

NỘI DUNG
1. Các khái niệm chung
1.1. Khái niệm quyền lực
Quyền lực là mối quan hệ diễn ra phổ biến trong đời sống xã hội. Mọi tổ
chức, kể cả tổ chức phi chính phủ đều có thể coi là một tổ chức quyền lực với
phương thức hoạt động riêng (bao gồm cách thức ra quyết định và thi hành
quyết định). Có nhiều cách tiếp cận khác nhau về quyền lực, tùy cách tiếp cận
mà các nhà nghiên cứu đưa ra những định nghĩa khác nhau.
Nhà nghiên cứu chính trị Robert Dahl cho rằng: Quyền lực là cái được
hiểu: A có quyền lực đối với B khi mà A có thể bắt B làm điều gì đó theo ý


mình, ngày cả khi B không muốn làm.
Theo Max Weber (1864 – 1920), quyền lực là khả năng của một chủ thể
buộc chủ thể khác phải hành động theo ý muốn của mình bất kể sự kháng cự.
Một phạm trù khác có liên quan chặt chẽ với khái niệm quyền lực là
quyền uy. Trong tác phẩm “Bàn về quyền uy”, Ăngghen quan niệm: “quyền uy
nói ở đây, có nghĩa là ý chí của người khác mà người ta buộc chúng ta phải tiếp
thu; mặt khác, quyền uy lấy sự phục tùng làm tiền đề”.
Dù các định nghĩa về quyền lực đều hàm chứa và phản ánh các phương
diện khác nhau, nhưng ý tưởng căn bản là: Quyền lực là năng lực của một chủ
thể, buộc chủ thể khác phải hành động theo ý chí của mình.
1.2. Khái niệm về quyền lực chính trị
Trong các nghiên cứu về chính trị, khái niệm quyền lực chính trị được
hiểu theo nhiều nghĩa tùy cách tiếp cận nghiên cứu.
Theo chủ nghĩa Mác-Lênin: Quyền lực chính trị là quyền lực của một giai
cấp hay liên minh giai cấp nhằm thực hiện sự thống trị chính trị; là năng lực áp
đặt và thực thi các giải pháp phân bổ giá trị xã hội có lợi cho giai cấp mình – chủ
yếu thông qua đấu tranh, giành và giữ và thực thi quyền lực nhà nước. Quyền
lực chính trị là bạo lực có tổ chức của một giai cấp để trấn áp các giai cấp khác.
Từ cách tiếp cận hành vi có thể hiểu: Quyền lực chính trị là năng lực của
một chủ thể chính trị buộc chủ thể chính khác phải hành động theo cách mà chủ


4

thể ra lệnh mong muốn.
Cách tiếp cận này chủ yếu quan tâm đến sự thay đổi hành vi, đến mục
đích của việc sử dụng quyền lực trong quan hệ giữa các chủ thể.
Mặc dù có những cách quan niệm khác nhau, có thể đưa ra định nghĩa về
quyền lực chính trị như sau: Quyền lực chính trị là năng lực của một chủ thể
chính trị (giai cấp, lực lượng xã hội,…) trong việc áp đặt mục tiêu chính trị của

mình đối với các chủ thể khác trong xã hội nhằm hiện thực hóa lợi ích của bản
thân.
Quyền lực chính trị xuất hiện khi xã hội phân chia thành các giai cấp khác
nhau. Nó là quyền lực của các giai cấp, các nhóm trong xã hội. Các giai cấp này
đấu tranh với nhau nhằm giành, giữ và thực thi quyền lực cơng.
2. Kiểm sốt quyền lực chính trị ở Việt Nam hiện nay
2.1. Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về kiểm sốt quyền lực
chính trị
Trong suốt q trình lãnh đạo cách mạng, cơng tác xây dựng Đảng và
chính quyền nhà nước, trong đó có vấn đề kiểm sốt quyền lực ln ln được
Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam chú trọng. Đặc biệt, từ sau
khi Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, Nhà nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa ra đời, Đảng ta trở thành Đảng cầm quyền, vấn đề kiểm soát quyền
lực nhằm xây dựng Đảng, Nhà nước và hệ thống chính trị trong sạch, vững
mạnh, bảo đảm cho sự bền vững của chế độ và sự thắng lợi của công cuộc xây
dựng, phát triển đất nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội càng được chú trọng hơn,
bắt đầu từ nhận thức về sự cần thiết, ý nghĩa, yêu cầu và phương pháp, cách tiếp
cận vấn đề kiểm sốt quyền lực chính trị.
Tháng 2-1947, chính quyền dân chủ nhân dân non trẻ mới trải qua hơn
một năm trong khi đất nước ngổn ngang những khó khăn, thiếu thốn, phức tạp.
Ngay từ thời điểm đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cảnh báo và phê bình nghiêm
khắc tình trạng “quân phiệt quan liêu”, “óc địa vị”, “tính kiêu ngạo” trong hàng
ngũ cán bộ Đảng, Nhà nước ở một số địa phương. Trong hai bức thư gửi các
đồng chí Bắc Bộ và gửi các đồng chí Trung Bộ, Người thẳng thắn chỉ ra những


5

khuyết điểm, những biểu hiện tiêu cực trong hàng ngũ cán bộ. Đó là tình trạng:
“Khi phụ trách ở một vùng nào thì như một ơng vua con ở đấy, tha hồ hách dịch,

hoạnh họe. Đối với cấp trên thì xem thường, đối với cấp dưới thì cậy quyền lấn
áp. Đối với quần chúng ra vẻ quan cách làm cho quần chúng sợ hãi. Cái đầu óc
“ơng tướng, bà tướng” ấy đã gây ra bao ác cảm, bao chia rẽ, làm cho cấp trên xa
cấp dưới, đoàn thể xa nhân dân”. Hoặc, “có những đồng chí cịn giữ óc địa vị, cố
tranh làm cho được ủy viên này, chủ tịch kia. Cịn có những đồng chí chỉ lo ăn
ngon, mặc đẹp, lo phát tài, lo chiếm của công làm của tư, đạo đức cách mệnh thế
nào, dư luận chê bai thế nào cũng mặc”. Đó là biểu hiện của thói quan liêu, đồng
thời cũng phản ánh tình trạng bng lỏng, chưa có cơ chế, giải pháp kiểm sốt
quyền lực trong các cơ quan của chính quyền cách mạng lúc đó. Nhận thấy
những biểu hiện tiêu cực ấy sẽ ảnh hưởng xấu đến sự đoàn kết nội bộ, mối quan
hệ giữa Đảng, Nhà nước với Nhân dân, làm cho tổ chức đảng và chính quyền
suy yếu, khơng đủ năng lực hồn thành nhiệm vụ cách mạng nặng nề và vẻ
vang, Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu các tổ chức đảng và chính quyền ở các địa
phương trong cả nước phải “mang toàn bộ tinh thần cách mạng” mà sửa chữa,
khắc phục những khuyết điểm, hạn chế đó. Người chỉ rõ, một trong những nội
dung phải thực hiện nhằm khắc phục những khuyết điểm, hạn chế đó là: “Trong
các cơ quan chỉ huy, chọn người phải đích đáng, quyền hạn phải phân minh, liên
lạc phải mật thiết, hợp tác phải chặt chẽ, phải tuyệt đối tránh cái lối lạm quyền,
bao biện, xung đột, phù diện và suy tỵ, không phụ trách”.
Đặc biệt, trong tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc”, tháng 10-1947, Chủ tịch
Hồ Chí Minh nhấn mạnh một cách cụ thể yêu cầu về công tác kiểm tra đối với
cán bộ và kiểm soát trong lãnh đạo. Theo Người, việc kiểm tra công tác đối với
cán bộ là “một trong năm cách đối với cán bộ”, tức là 5 phương pháp bồi dưỡng,
quản lý cán bộ của Đảng. Người viết: “Kiểm tra - Không phải ngày nào cũng
kiểm tra. Nhưng thường thường kiểm tra để giúp họ rút kinh nghiệm, sửa chữa
khuyết điểm, phát triển ưu điểm”. Đó là cơng việc nội bộ trong tổ chức, hàng
ngũ của Đảng. Song với trách nhiệm là người lãnh đạo xã hội, lãnh đạo nhân
dân tổ chức thực hiện các nhiệm vụ cách mạng, thì phải dựa vào nhân dân để



6

làm tốt cơng việc kiểm sốt hiệu quả lãnh đạo, đồng thời cũng là kiểm soát
quyền lực của tổ chức đảng và các cán bộ, đảng viên. Vì thế, Chủ tịch Hồ Chí
Minh cho rằng, lãnh đạo đúng là cùng với việc “phải quyết định mọi vấn đề cho
đúng”, “phải tổ chức sự thi hành cho đúng”, còn “phải tổ chức sự kiểm sốt, mà
muốn kiểm sốt đúng thì cũng phải có quần chúng giúp mới được”. Có nghĩa là
phải dựa vào dân, lấy dân làm lực lượng để thực hiện cơng việc kiểm sốt mới
có thể mang lại hiệu quả như mong muốn.
Nhất quán với nhận thức về những tác hại của chủ nghĩa cá nhân dẫn đến
“phạm nhiều sai lầm”, trong đó có sai lầm, khuyết điểm về lạm dụng quyền lực,
mưu lợi cá nhân, Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu, cùng với giáo dục đạo đức cho
cán bộ, đảng viên: “Phải thực hành phê bình và tự phê bình nghiêm chỉnh trong
Đảng. Phải hoan nghênh và khuyến khích quần chúng thật thà phê bình cán bộ,
đảng viên. Chế độ sinh hoạt của chi bộ phải nghiêm túc. Kỷ luật Đảng phải
nghiêm minh. Công tác kiểm tra của Đảng phải chặt chẽ”. Những yêu cầu trên
đây thuộc trong số các giải pháp, nguyên tắc xây dựng Đảng, kiểm soát những
biểu hiện lạm dụng quyền lực trong tổ chức đảng và đảng viên. Trong bản Di
chúc để lại trước lúc đi xa, Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn: “Các đồng chí từ
Trung ương đến các chi bộ cần phải giữ gìn sự đồn kết nhất trí của Đảng như
giữ gìn con ngươi của mắt mình”; “trong Đảng phải thực hành dân chủ rộng rãi,
thường xuyên và nghiêm chỉnh tự phê bình và phê bình là cách tốt nhất để củng
cố và phát triển sự đoàn kết và thống nhất của Đảng”.
Tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về kiểm soát quyền lực được thể
hiện nhất quán trong nhận thức lý luận cũng như trong các chủ trương, đường lối
của Đảng về lãnh đạo xây dựng hệ thống chính trị. Báo cáo chính trị tại Đại hội
VI của Đảng (tháng 12-1986), nhấn mạnh: “Chúng ta đã xác định mối quan
hệ Đảng lãnh đạo, nhân dân làm chủ, Nhà nước quản lý thành cơ chế chung
trong quản lý tồn bộ xã hội”. Báo cáo chính trị nhấn mạnh, u cầu mọi người
bình đẳng trước pháp luật, phải tơn trọng và chấp hành pháp luật nghiêm chỉnh:

“Trong điều kiện đảng cầm quyền, mọi cán bộ, bất cứ ở cương vị nào, đều phải
sống và làm việc theo pháp luật, gương mẫu trong việc tôn trọng pháp luật.


7

Không cho phép bất cứ ai dựa vào quyền thế để làm trái pháp luật. Mọi vi phạm
đều phải được xử lý. Bất cứ ai phạm pháp đều phải đưa ra xét xử theo pháp luật,
không được giữ lại để xử lý “nội bộ”. Không làm theo kiểu phong kiến: dân thì
chịu hình pháp, quan thì xử theo “lễ”. Hiến pháp quy định: “Khi xét xử, thẩm
phán và hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật”. Có thể nói, yêu
cầu trên đã làm rõ nhận thức của Đảng về vấn đề tôn trọng, thực thi pháp luật
trong xã hội - nội dung cốt lõi của nhà nước pháp quyền, lấy pháp luật là cơ sở
tối cao trong quản lý và điều chỉnh mọi hoạt động trong xã hội. Mặt khác, cịn
thể hiện thái độ khơng khoan nhượng đối với những hành vi vi phạm pháp luật
nói chung và kiên quyết đấu tranh nhằm loại bỏ sự lạm dụng quyền lực trong bộ
máy, tổ chức Đảng và Nhà nước nói riêng, vì mục đích cá nhân vụ lợi, góp phần
xây dựng tổ chức đảng trong sạch, vững mạnh, xây dựng Nhà nước của nhân
dân, do nhân dân và vì nhân dân.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội (năm 1991) xác định đường lối chung của Đảng về xây dựng, phát triển đất
nước, đồng thời cũng chỉ ra phương hướng, nguyên tắc chung về xây dựng
Đảng, xây dựng hệ thống chính trị đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ chính trị trong
giai đoạn mới. Cương lĩnh năm 1991 chỉ rõ vai trị, tính chất của Đảng, đồng
thời nhấn mạnh các ngun tắc xây dựng Đảng: “lấy tập trung dân chủ làm
nguyên tắc tổ chức cơ bản”, “liên hệ mật thiết với nhân dân, chịu sự giám sát
của nhân dân”, “hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật” và “tự phê
bình và phê bình, đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa cơ hội và mọi
hành động chia rẽ, bè phái”. Đối với bộ máy nhà nước, Cương lĩnh năm 1991
xác định: “Tổ chức và hoạt động của bộ máy quản lý nhà nước theo nguyên tắc

tập trung dân chủ, thống nhất quyền lực, có sự phân cơng, phân cấp, đồng thời
bảo đảm sự chỉ đạo thống nhất của Trung ương”. Đặc biệt, Cương lĩnh năm
1991 xác định cơ chế vận hành và kiểm soát quyền lực nhà nước, theo đó, “Nhà
nước Việt Nam thống nhất ba quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp, với
sự phân công rành mạch ba quyền đó”.
Như vậy, đến Cương lĩnh năm 1991, trong nhận thức lý luận, Đảng ta đã


8

đề cập trực tiếp nhiều vấn đề liên quan đến yêu cầu, nội dung, phương thức kiểm
soát quyền lực trong Đảng, trong hệ thống tổ chức bộ máy của Nhà
nước. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội (Bổ sung, phát triển năm 2011) xác định mối quan hệ giữa “Đảng lãnh đạo,
Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ” là một trong số những mối quan hệ lớn
cần phải nắm vững và giải quyết trong quá trình thực hiện phương hướng xây
dựng, phát triển đất nước. Việc giải quyết mối quan hệ này, thực chất cũng là
thực hiện cơ chế tổng thể về quản lý xã hội, giám sát quyền lực chính trị, nhằm
mục đích bảo đảm sự phát triển bền vững của chế độ xã hội. Đặc biệt, khái
niệm kiểm soát lần đầu tiên được đưa vào Cương lĩnh năm 2011 với ý nghĩa
là kiểm soát lẫn nhau giữa các quyền lực trong cơ chế vận hành của bộ máy Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Cương lĩnh năm 2011 xác định:
“Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân
dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là
liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức, do
Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Quyền lực Nhà nước là thống nhất; có sự
phân cơng, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện các
quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Nhà nước ban hành pháp luật; tổ chức,
quản lý xã hội bằng pháp luật và không ngừng tăng cường pháp chế xã hội chủ
nghĩa”. Như vậy, mối quan hệ giữa các cơ quan thực hiện ba quyền lập pháp,

hành pháp, tư pháp trong bộ máy tổ chức Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Việt Nam không chỉ là thống nhất, phân cơng và phối hợp thực hiện, mà cịn
phải kiểm sốt lẫn nhau. Việc chính thức hóa u cầu kiểm soát lẫn nhau giữa
các cơ quan thực thi các quyền lực cơ bản của Nhà nước không chỉ nhận thức rõ
hơn đặc trưng của mơ hình Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam,
mà còn mở đường cho việc tăng cường kiểm soát quyền lực nhà nước, thể hiện
rõ hơn tính chất Nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân.
2.2. Cơ chế, thể chế về thực hiện giám sát quyền lực chính trị ở Việt
Nam hiện nay
Trên cơ sở nhận thức về sự cần thiết, nội dung, vai trò, ý nghĩa của vấn đề


9

kiểm sốt quyền lực chính trị trong q trình lãnh đạo cách mạng, xây dựng,
phát triển đất nước, Đảng, Nhà nước ta đã khơng ngừng xây dựng và hồn thiện
cơ chế, chính sách nhằm kiểm sốt quyền lực chính trị dưới các cấp độ, hình
thức khác nhau.
Trong điều kiện cụ thể của nước ta, Đảng xác định cơ chế tổng thể quản lý
đất nước, quản lý xã hội là “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm
chủ”. Đây cũng đồng thời là sự xác định vị trí, vai trị các yếu tố trong hệ thống
quyền lực chính trị của đất nước, của chế độ. Trong hệ thống đó, Đảng Cộng sản
Việt Nam với vai trị là đảng chính trị duy nhất cầm quyền, đồng thời cũng là
“lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội”, là yếu tố quyền lực chính trị quan
trọng nhất, có ý nghĩa quyết định. Vì thế, việc kiểm sốt quyền lực chính trị của
Đảng không chỉ là một nội dung, giải pháp quan trọng, góp phần bảo đảm cho
Đảng thực sự trong sạch, vững mạnh, đủ năng lực lãnh đạo Nhà nước và xã hội,
mà còn là điều kiện hàng đầu bảo đảm cho sự kiểm soát một cách hiệu quả
quyền lực Nhà nước, bảo đảm cho sự bền vững của chế độ.
Trên thực tế, cơ chế, thể chế kiểm soát quyền lực của Đảng đã được bao

hàm trong các nguyên tắc tổ chức, hoạt động của Đảng, được bổ sung, hoàn
thiện trong quá trình Đảng lãnh đạo cách mạng và từ những bài học cụ thể rút ra
từ thực tế công tác xây dựng Đảng. Do vai trò đặc biệt của Đảng Cộng sản Việt
Nam là lãnh đạo Nhà nước và xã hội, nên hầu như mọi cơ chế, chính sách kiểm
sốt quyền lực trong nội bộ Đảng cũng đồng thời liên quan đến sự kiểm sốt
quyền lực chính trị trên phạm vi tồn xã hội. Về cơ bản, việc kiểm sốt quyền
lực của Đảng hiện nay được thực hiện theo các cơ chế, thể chế sau:
Thứ nhất, các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Đảng, như tập trung
dân chủ; tập thể lãnh đạo - cá nhân phụ trách; kỷ luật nghiêm minh; nêu cao tính
tiền phong gương mẫu của đảng viên; tự phê bình và phê bình; gắn bó mật thiết
với nhân dân và được nhân dân giám sát; hoạt động trong khuôn khổ thể chế,
pháp luật được thực hiện nghiêm túc. Tùy theo tình hình thực tiễn và yêu cầu
của công tác xây dựng Đảng trong mỗi giai đoạn, một số nguyên tắc về tổ chức,
hoạt động của Đảng được triển khai thành những quy định cụ thể, như Quy định


10

số 55-QĐ/TW, ngày 19-12-2016, của Bộ Chính trị, “Về một số việc cần làm
ngay để tăng cường vai trò nêu gương của cán bộ, đảng viên”; Quy định số 08QĐi/TW, ngày 25-10-2018, của Ban Chấp hành Trung ương, về “Trách nhiệm
nêu gương của cán bộ, đảng viên, trước hết là Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên
Ban Bí thư, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương”,...
Thứ hai, đại hội đảng, chế độ bầu cử cấp ủy, ủy ban kiểm tra và chế độ
sinh hoạt đảng theo định kỳ là những cơ chế, chế độ tổ chức, hoạt động của
Đảng, đồng thời cũng là cơ chế kiểm soát quyền lực trong Đảng. Mỗi kỳ đại hội
các tổ chức đảng và đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng là một lần sàng lọc,
đánh giá lại vai trò, trách nhiệm, tiêu chuẩn cán bộ tham gia cấp ủy. Điều này có
ý nghĩa như sự giám sát quyền lực của cấp ủy và các đảng viên tham gia cấp ủy,
bảo đảm những tiêu chuẩn, yêu cầu cần và đủ để tiếp tục chịu trách nhiệm trước
tổ chức đảng, gánh vác những nhiệm vụ cơng tác - thực thi quyền lực chính trị

được giao. Đặc biệt, trong những năm qua, các tiêu chuẩn, quy định về bầu cử
trong Đảng được bổ sung, hoàn thiện không ngừng theo hướng ngày càng phát
huy dân chủ, dựa vào nhân dân, mở rộng quyền lựa chọn trực tiếp của đại hội và
của tập thể các tổ chức đảng.
Thứ ba, công tác kiểm tra, giám sát của các cấp ủy và ủy ban kiểm tra
đảng đối với đảng viên và các tổ chức đảng được thực hiện theo những quy
định, quy trình chặt chẽ trong Điều lệ Đảng, những quy định thống nhất của các
tổ chức đảng. Công việc này là yếu tố cơ bản bảo đảm tính kỷ luật chặt chẽ,
nghiêm minh trong Đảng, cũng là một cơ chế góp phần quan trọng trong việc
giám sát quyền lực, bảo đảm sự dân chủ, trong sạch, vững mạnh và năng lực
lãnh đạo trong nội bộ Đảng. Đặc biệt, Bộ Chính trị đã ban hành Quy định số
205-QĐ/TW, ngày 23-9-2019, “Về việc kiểm sốt quyền lực trong cơng tác cán
bộ và chống chạy chức, chạy quyền”, trong đó xác định yêu cầu: “Sử dụng cơ
chế, biện pháp nhằm thực hiện nghiêm túc các quy định về cơng tác cán bộ;
phịng ngừa, ngăn chặn, phát hiện, xử lý các hành vi vi phạm các quy định của
Đảng, Nhà nước, nhất là các hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn, lạm quyền,
lộng quyền hoặc không thực hiện đầy đủ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và


11

những việc phải làm trên cương vị được giao trong công tác cán bộ”.
Thứ tư, tổ chức đảng và đảng viên của Đảng hoạt động trong khuôn khổ
Hiến pháp và pháp luật, chịu trách nhiệm về mọi hoạt động của mình trước pháp
luật như mọi cơng dân trong xã hội. Cùng với những quy định của pháp luật,
trong Đảng còn có những quy định chặt chẽ, nghiêm khắc hơn để kiểm soát
hành vi của đảng viên, bảo đảm sự trong sáng và uy tín của Đảng, như Quy định
số 37-QĐ/TW ngày 25/10/2021 của Ban Chấp hành Trung ương “về những điều
đảng viên không được làm” (thay thế cho Quy định số 47-QĐ/TW, ngày 1-112011).
Thứ năm, vai trò của nhân dân với tính chất là lực lượng giám sát và tham

gia trực tiếp vào công tác xây dựng Đảng. Cương lĩnh năm 2011 (Bổ sung, phát
triển) khẳng định: “Đảng gắn bó mật thiết với nhân dân, tôn trọng và phát huy
quyền làm chủ của nhân dân, dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng, chịu sự giám
sát của nhân dân”. Quan điểm ấy của Đảng được hiến định trong Điều 4, Hiến
pháp năm 2013: “Đảng Cộng sản Việt Nam gắn bó mật thiết với Nhân dân, phục
vụ Nhân dân, chịu sự giám sát của Nhân dân, chịu trách nhiệm trước Nhân dân
về những quyết định của mình”. Sự giám sát và tham gia của nhân dân góp phần
xây dựng Đảng đó thể hiện tính chất của Đảng là “đội tiên phong của giai cấp
công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của toàn dân
tộc Việt Nam, đại biểu trung thành cho lợi ích của giai cấp cơng nhân, nhân dân
lao động và của tồn dân tộc”. Đồng thời, đó cũng là cơ chế giám sát quyền lực
thiết thực, cụ thể và có hiệu quả. Cơ chế giám sát, phản biện của nhân dân đã
được cụ thể hóa trong những quy định của Đảng, như: “Quy chế giám sát và
phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đồn thể chính trị - xã
hội” ban hành theo Quyết định số 217-QĐ/TW, ngày 12-12-2013, của Bộ Chính
trị.
Đối với Nhà nước Việt Nam, kiểm sốt quyền lực chính trị được thực hiện
thơng qua các cơ chế, thể chế sau đây:
Một là, sự kiểm soát lẫn nhau giữa các cơ quan nhà nước thực hiện các
quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp được chế định trong Hiến pháp và hệ


12

thống các văn bản quy phạm pháp luật. Tại Điều 70, Hiến pháp năm 2013 quy
định, Quốc hội “Thực hiện quyền giám sát tối cao việc tuân theo Hiến pháp, luật
và nghị quyết của Quốc hội; xét báo cáo công tác của Chủ tịch nước, Ủy ban
Thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Tịa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân
dân tối cao, Hội đồng bầu cử quốc gia, Kiểm toán nhà nước và cơ quan khác do
Quốc hội thành lập”.

Hai là, kiểm soát quyền lực bằng các chế định về bầu cử, bổ nhiệm, miễn
nhiệm theo nhiệm kỳ hoặc không theo nhiệm kỳ theo quy định của pháp luật.
Bầu cử, bổ nhiệm, miễn nhiệm vừa là phương thức tổ chức bộ máy nhà nước,
bảo đảm việc lựa chọn đúng người, đúng việc, vừa là uy tín của cán bộ, tổ chức
và ý chí, nguyện vọng của nhân dân và tập thể tổ chức. Đồng thời, đó cũng là
phương thức để kiểm sốt quyền lực chính trị, bảo đảm quyền lực được thực thi
đúng đắn, hiệu quả, ngăn chặn, đề phịng sự lạm dụng quyền lực vì mục đích cá
nhân hoặc hạn chế hiệu quả sử dụng quyền lực vì hạn chế về năng lực.
Ba là, kiểm sốt quyền lực bằng Hiến pháp, hệ thống văn bản quy phạm
pháp luật và chế độ tư pháp, bảo đảm cho các tổ chức, cá nhân hoạt động theo
đúng các quy định của Hiến pháp và pháp luật. Một khi các chế định trong Hiến
pháp, pháp luật và pháp chế nói chung đúng đắn, cơng bằng, thì việc thực thi
nghiêm chỉnh Hiến pháp, pháp luật và các chế độ tư pháp cũng chính là điều
kiện để bảo đảm quyền lực chính trị được sử dụng đúng đắn, không bị lạm dụng
hoặc sử dụng sai mục đích.
Bốn là, kiểm sốt quyền lực chính trị bằng việc thực hiện vai trò làm chủ,
sự giám sát, phản biện của nhân dân một cách trực tiếp hoặc thông qua Mặt trận
Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội. Cũng như đối với tổ chức đảng và
đảng viên, các cơ quan, tổ chức nhà nước và các cá nhân nắm giữ các trọng
trách trong bộ máy nhà nước phải chịu sự giám sát, kiểm soát của nhân dân.
Theo các quy định của pháp luật, người dân có quyền kiểm sốt, giám sát, phản
ánh tâm tư, nguyện vọng của mình đối với các cơ quan, tổ chức và các cán bộ,
công chức, viên chức nhà nước trong việc thi hành công vụ.
Như vậy, các cơ chế, thể chế kiểm soát quyền lực trong nội bộ Đảng, Nhà


13

nước hay trong toàn xã hội đều gắn liền, đan xen hoặc bao hàm trong các
nguyên tắc, chế độ tổ chức hoạt động của các thành tố tạo thành hệ thống chính

trị ở nước ta. Trong mối quan hệ “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân
làm chủ”, các cơ chế, thể chế kiểm soát quyền lực của mỗi thành tố trong hệ
thống chính trị của nước ta phần lớn đều liên quan hoặc đồng thời tác động đến
các thành tố khác. Trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước, nhất là trong
thời kỳ đổi mới, các cơ chế, thể chế về kiểm sốt quyền lực chính trị ở nước ta
khơng ngừng được hồn thiện, được chế định ngày càng đầy đủ trong hệ thống
các văn bản quy phạm pháp luật và có tác động tích cực đến q trình xây dựng
Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh.
2.3. Thực trạng kiểm soát quyền lực chính trị ở Việt Nam hiện nay
2.3.1. Những kết quả đạt được
Trên cơ sở nhận thức ngày càng rõ về vai trị, vị trí, ý nghĩa và phương
pháp kiểm sốt quyền lực chính trị, sự hồn thiện ngày một đầy đủ, tồn diện
các cơ chế, thể chế nhằm kiểm sốt quyền lực chính trị, trong thời gian vừa qua,
việc kiểm sốt quyền lực trong hệ thống chính trị đã có nhiều biến chuyển, thu
được nhiều kết quả quan trọng trên thực tế. Những kết quả đó là một bộ phận
gắn bó hữu cơ khơng thể chia tách với những kết quả chung của công tác xây
dựng Đảng và hệ thống chính trị.
Thứ nhất, “Cơng tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị
được đẩy mạnh tồn diện, đồng bộ, quyết liệt, có hiệu quả rõ rệt” đã tạo ra
những chuyển biến tích cực trong kiểm sốt quyền lực của Đảng và hệ thống
chính trị nói chung. Cơng tác xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng, đạo đức đã
nâng cao nhận thức của cán bộ, đảng viên về ý thức, trách nhiệm chính trị trong
việc thực thi các nhiệm vụ công tác của Đảng. Công tác xây dựng Đảng về tổ
chức đã tập trung kiện toàn, “đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống
chính trị; năng lực, chất lượng lãnh đạo, hiệu quả hoạt động của tổ chức cơ sở
đảng và chất lượng đảng viên được nâng cao”. Công tác cán bộ được đổi mới
mạnh mẽ theo tinh thần Nghị quyết số 26-NQ/TW, ngày 19-5-2018, của Hội
nghị lần thứ bảy, Ban Chấp hành Trung ương khóa XII, “Về tập trung xây dựng



14

đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược, đủ phẩm chất, năng lực và uy tín,
ngang tầm nhiệm vụ”, đã tạo được những chuyển biến tích cực. Công tác kiểm
tra, giám sát, kỷ luật đảng được tăng cường, có nhiều đổi mới, thực hiện tồn
diện, đồng bộ, có hiệu lực, hiệu quả, nhất là ở cấp Trung ương. Cơng tác phịng,
chống tham nhũng “được lãnh đạo, chỉ đạo và thực hiện quyết liệt,... với quyết
tâm chính trị rất cao, khơng có vùng cấm”, được “nhân dân đồng tình, ủng hộ”,
đã từng bước “kiềm chế, ngăn chặn” tham nhũng.
Thứ hai, phương thức lãnh đạo của Đảng tiếp tục được đổi mới theo
hướng giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng, đề cao nguyên tắc pháp quyền, phát
huy tính chủ động, sáng tạo và trách nhiệm của các cơ quan nhà nước, Mặt trận
Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội. Phong cách, lề lối làm việc của các cơ
quan lãnh đạo của Đảng được đổi mới; vai trò trách nhiệm của cấp ủy, người
đứng đầu cấp ủy, tổ chức đảng được chú trọng.
Thứ ba, “Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa có nhiều tiến
bộ, hoạt động hiệu lực và hiệu quả hơn; tổ chức bộ máy nhà nước tiếp tục được
hoàn thiện, hoạt động hiệu lực, hiệu quả hơn, bảo đảm thực hiện đồng bộ các
quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp”. Vai trò của pháp luật được đề cao; cơ
chế phân cơng, phối hợp và kiểm sốt quyền lực giữa các cơ quan nhà nước
trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp ngày càng rành
mạch. Hoạt động của Quốc hội được đổi mới, có hiệu quả hơn trong xây dựng
pháp luật, giám sát tối cao và quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước.
Hoạt động của Chính phủ và các bộ, ngành đổi mới theo hướng kiến tạo, tập
trung vào điều hành vĩ mô, tháo gỡ rào cản, hỗ trợ phát triển. Tổ chức, hoạt động
của các cơ quan tư pháp tiếp tục được kiện tồn, có tiến bộ về chất lượng hoạt
động, về bảo vệ lợi ích hợp pháp và quyền con người của cơng dân. Tổ chức bộ
máy của chính quyền địa phương được sắp xếp lại, tinh gọn, hoạt động hiệu lực,
hiệu quả.
Hiệu quả tổng hợp của những kết quả trên là những thành tựu quan

trọng, nhiều dấu ấn nổi bật của công cuộc xây dựng, phát triển đất nước trong
thời gian qua, nhất là trong nhiệm kỳ Đại hội XII của Đảng. Trong bối cảnh thế


15

giới và trong nước có nhiều khó khăn, thách thức, tác động tiêu cực của dịch
bệnh và thiên tai, song nền kinh tế nước ta vẫn phát triển, xã hội ổn định, đời
sống của nhân dân được bảo đảm cơ bản, uy tín của đất nước trên trường quốc tế
được nâng lên, tiềm lực quốc phòng, an ninh được tăng cường. Để đạt được
những thành tựu quan trọng đó là sự tổng hợp của nhiều yếu tố, trong đó có
những đổi mới tích cực trong kiểm sốt quyền lực chính trị góp phần xây dựng
Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh.
2.3.2. Những hạn chế, khuyết điểm
Bên cạnh những kết quả đạt được, trong kiểm soát quyền lực chính trị vẫn
cịn một số hạn chế, khuyết điểm. Nghị quyết số 18-NQ/TW, ngày 25-10-2017,
của Hội nghị lần thứ sáu, Ban Chấp hành Trung ương khóa XII, về “Một số vấn
đề về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn,
hoạt động hiệu lực, hiệu quả” chỉ rõ: “Cơ chế kiểm soát quyền lực hiệu quả chưa
cao; việc công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình cịn hạn chế”. Trong
Báo cáo chính trị tại Đại hội XIII của Đảng cũng đánh giá: “Phương thức lãnh
đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị cịn chậm đổi mới, có mặt cịn lúng
túng. Cơ chế kiểm soát quyền lực trong Đảng và Nhà nước chưa đầy đủ, đồng
bộ; hiệu lực, hiệu quả chưa cao”.
Nhìn một cách tổng thể, những hạn chế, khuyết điểm trên là một trong
những nguyên nhân làm hạn chế hiệu lực, hiệu quả lãnh đạo của Đảng, quản lý
của Nhà nước; dẫn đến tình trạng “tham nhũng, lãng phí trên một số lĩnh vực,
địa bàn còn nghiêm trọng, phức tạp, với những biểu hiện ngày càng tinh vi, gây
bức xúc trong xã hội. Tham nhũng vẫn còn là một trong những nguy cơ đe dọa
sự tồn vong của Đảng và chế độ ta”; “tình trạng suy thối về tư tưởng chính trị,

đạo đức, lối sống, chủ nghĩa cá nhân, “lợi ích nhóm”, bệnh lãng phí, vơ cảm,
bệnh thành tích ở một bộ phận cán bộ, đảng viên chưa bị đẩy lùi”. Hệ quả của tất
cả những hạn chế, tiêu cực đó là niềm tin của cán bộ, đảng viên và nhân dân vào
Đảng, chế độ có mặt bị giảm sút; trở thành nguy cơ đe dọa sự tồn vong của
Đảng và chế độ ta. Với ý nghĩa ấy, việc tiếp tục nghiên cứu, tổng kết thực tiễn,
làm rõ thực trạng, ngun nhân, các yếu tố tác động, từ đó tìm ra những giải


16

pháp đúng đắn, hợp lý nhằm kiểm soát chặt chẽ quyền lực chính trị là một
nhiệm vụ quan trọng của Đảng ta trong sự nghiệp xây dựng và phát triển đất
nước giai đoạn mới.
3. Liên hệ thực tiễn
Trong những năm qua, để thực hiện tốt việc kiểm soát quyền lực chính trị,
tỉnh Thanh Hóa đã có nhiều giải pháp, đồng thời đạt được một số kết quả trên
các lĩnh vực, cụ thể như sau:
Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh đã thể hiện rõ trách nhiệm, tích cực tham gia
các hoạt động của Quốc hội, đặc biệt là thảo luận, đóng góp ý kiến xây dựng
pháp luật và xem xét quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước tại các kỳ
họp Quốc hội. Đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả các cuộc tiếp xúc cử tri,
tổng hợp đầy đủ ý kiến của cử tri và nhân dân trong tỉnh để báo cáo tại các kỳ
họp Quốc hội, kiến nghị với các cơ quan Trung ương, địa phương xem xét giải
quyết. Thường xuyên giám sát việc thực hiện các nghị quyết của Quốc hội, tổ
chức giám sát chuyên đề tại các ngành, địa phương, đơn vị có vấn đề bức xúc,
nổi cộm, cử tri và nhân dân quan tâm.
Hội đồng nhân dân tỉnh và Hội đồng nhân dân các cấp thực hiện tốt chức
năng, nhiệm vụ theo quy định của pháp luật, thể hiện rõ vai trò cơ quan quyền
lực Nhà nước ở địa phương. Đã có nhiều đổi mới trong cách thức tổ chức các kỳ
họp, các hội nghị tiếp xúc cử tri và hoạt động giám sát, góp phần làm rõ thêm

những mặt tích cực, các hạn chế, yếu kém, bất cập trong công tác quản lý, điều
hành trên các lĩnh vực để có biện pháp giải quyết, khắc phục. Tăng cường giám
sát, đôn đốc thực hiện các nghị quyết của Hội đồng nhân dân tỉnh và Hội đồng
nhân dân các cấp, giải quyết các kiến nghị của cử tri. Chất lượng hoạt động của
đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp có chuyển biến tích cực.
Ủy ban nhân dân tỉnh và Ủy ban nhân dân các cấp tập trung chỉ đạo, điều
hành, triển khai thực hiện quyết liệt, đồng bộ các nhiệm vụ, giải pháp phát triển
kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng - an ninh. Xây dựng, hoàn chỉnh hệ thống
thể chế, cơ chế, chính sách, tạo điều kiện, mơi trường thuận lợi cho kinh tế - xã
hội phát triển. Đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, kịp thời tháo gỡ khó khăn,


17

vướng mắc trong hoạt động sản xuất, kinh doanh; đẩy mạnh xúc tiến đầu tư, thu
hút các nguồn vốn cho đầu tư phát triển. Tập trung giải quyết các vấn đề xã hội
bức xúc, phát triển giáo dục, y tế, thực hiện cơng tác giảm nghèo. Rà sốt, sắp
xếp tổ chức bộ máy khối hành chính và khối sự nghiệp; tăng cường kỷ luật, kỷ
cương hành chính, nâng cao trách nhiệm, chất lượng thực hiện nhiệm vụ của đội
ngũ cán bộ, công chức, viên chức.
Mặt trận tổ quốc và các đoàn thể tập trung đổi mới nội dung, phương thức
hoạt động; thực hiện tốt chức năng tập hợp, tuyên truyền, vận động đoàn viên,
hội viên và nhân dân; tham gia giải quyết các vấn đề nổi cộm, bức xúc ở cơ sở.
Tổ chức có hiệu quả các phong trào thi đua tham gia xây dựng nông thôn mới,
bảo vệ môi trường, bảo đảm trật tự an tồn giao thơng; chủ động thực hiện các
cơng trình, phần việc tham gia phát triển kinh tế - xã hội. Tổ chức các hoạt động
giám sát và phản biện xã hội; từ năm 2016 đến nay, Mặt trận tổ quốc và các
đoàn thể đã tổ chức 5.968 cuộc giám sát, 498 hội nghị phản biện vào dự thảo các
Nghị quyết của Hội đồng nhân dân, các chương trình, đề án, dự án, kế hoạch của
Ủy ban nhân dân tỉnh các cấp. Tích cực tổ chức các hoạt động hỗ trợ đoàn viên,

hội viên và nhân dân khắc phục hậu quả thiên tai, phát triển sản xuất, nâng cao
thu nhập, giảm nghèo bền vững, góp phần bảo đảm an sinh xã hội trên địa bàn.
Chăm lo xây dựng, củng cố tổ chức, phát triển đoàn viên, hội viên và các tổ
chức đoàn thể trong các doanh nghiệp ngoài Nhà nước; tỷ lệ tập hợp đoàn viên,
hội viên được nâng lên: Hội cựu chiến binh đạt 98%, hội Liên hiệp phụ nữ đạt
80,98%, hội nông dân đạt 100%, đoàn thanh niên đạt 71,4%, liên đoàn lao động
đạt 84%; từ năm 2016 đến nay, thành lập mới 345 tổ chức đoàn thể trong các
doanh nghiệp ngoài Nhà nước.
Kết quả thực hiện 5 chương trình trọng tâm
Một là, chương trình phát triển nơng nghiệp và xây dựng nơng thơn mới
đạt kết quả tích cực, các chỉ tiêu chủ yếu của chương trình như: Giá trị sản xuất
nơng, lâm, thủy sản tăng bình quân hàng năm; tỷ lệ che phủ rừng; tỷ lệ dân số
nông thôn sử dụng nước hợp vệ sinh; tỷ lệ lao động nông nghiệp trong tổng lao
động xã hội, đều đạt và vượt kế hoạch. Cơ cấu trong nội bộ ngành nông nghiệp


18

chuyển dịch tích cực, tỷ trọng chăn ni, lâm nghiệp, thủy sản ngày càng tăng;
các hình thức tổ chức sản xuất tiên tiến, hiệu quả được nhân rộng; thu hút doanh
nghiệp đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn đạt kết quả tích cực, đã thu hút được
một số dự án quy mô lớn sản xuất theo chuỗi giá trị; ứng dụng khoa học - kỹ
thuật vào sản xuất được đẩy mạnh; hình thành các vùng sản xuất chuyên canh,
cung cấp nguyên liệu cho công nghiệp chế biến. Xây dựng nông thơn mới đạt
kết quả cao; đến nay, tồn tỉnh có 6 đơn vị cấp huyện, 376 xã và 950 thôn, bản
hồn thành xây dựng nơng thơn mới (tăng 6 đơn vị cấp huyện, 263 xã so với
năm 2015); tỷ lệ xã đạt chuẩn nông thôn mới đạt 64,46%, vượt mục tiêu Đại hội;
bình qn đạt 17,5 tiêu chí/xã, tăng 5,2 tiêu chí so với năm 2015; đời sống vật
chất và tinh thần của người dân ở khu vực nông thôn được nâng lên rõ rệt.
Hai là, chương trình phát triển Khu Kinh tế Nghi Sơn và các Khu công

nghiệp đạt nhiều kết quả quan trọng, đóng góp lớn cho tăng trưởng kinh tế của
tỉnh: Khu Kinh tế Nghi Sơn đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt quy hoạch
mở rộng lên 106.000ha. Hệ thống hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội trong Khu
Kinh tế Nghi Sơn và các Khu cơng nghiệp được quan tâm đầu tư, từng bước
hồn thiện. Từ năm 2016 đến nay, đã thu hút được 249 dự án (35 dự án FDI) với
tổng vốn đầu tư đăng ký 47.427 tỷ đồng và 3.300 triệu USD, nâng tổng số dự án
thu hút vào Khu Kinh tế Nghi Sơn và các Khu công nghiệp lên 606 dự án (57 dự
án FDI) với tổng vốn đăng ký 147.459 tỷ đồng và 13.246 triệu USD. Đến nay,
đã có 411 dự án hồn thành và đi vào hoạt động, trong đó có một số dự án trọng
điểm, có tác động lan tỏa, đóng góp lớn cho tăng trưởng kinh tế của tỉnh, như:
Liên hợp Lọc hóa dầu Nghi Sơn, Nhà máy Nhiệt điện Nghi Sơn 1, Xi măng
Nghi Sơn, Xi măng Công Thanh, các dự án may mặc, da giày. Giai đoạn 2016 2020, tổng giá trị sản xuất công nghiệp, dịch vụ, thương mại của các doanh
nghiệp tại Khu Kinh tế Nghi Sơn và các Khu công nghiệp dự kiến đạt 577.034
tỷ đồng, vượt 30,8% kế hoạch; tổng giá trị xuất khẩu đạt 8.576 triệu USD, vượt
39% kế hoạch; nộp ngân sách Nhà nước đạt 56.379 tỷ đồng; giải quyết việc làm
cho 104.000 lao động.
Ba là, chương trình giảm nghèo nhanh và bền vững đạt kết quả rõ nét, góp


19

phần bảo đảm an sinh xã hội trên địa bàn: Sản xuất có bước phát triển, giải quyết
việc làm, thu nhập, đời sống của hộ nghèo, hộ cận nghèo, hộ mới thốt nghèo
chuyển biến rõ nét; thu nhập bình qn của hộ nghèo năm 2020 dự kiến đạt 1,71
triệu đồng/người/tháng, gấp 2,5 lần năm 2015, đạt kế hoạch. Các hạ tầng thiết
yếu phục vụ sản xuất và đời sống ở các huyện nghèo, xã nghèo, xã bãi ngang,
vùng đồng bào dân tộc thiểu số được quan tâm đầu tư; các chính sách về giáo
dục, y tế, nhà ở, nước sạch và vệ sinh môi trường, tiếp cận thông tin được triển
khai thực hiện hiệu quả. Tỷ lệ hộ nghèo giảm nhanh, từ 13,51% năm 2016
xuống cịn 3,27% năm 2019, bình quân hàng năm giảm 2,56%/năm, đạt kế

hoạch. Đã có 1 huyện thoát khỏi huyện nghèo theo Nghị quyết 30a của Chính
phủ; 11 xã bãi ngang ven biển, 5 xã và 127 thơn, bản khu vực miền núi thốt
khỏi tình trạng đặc biệt khó khăn; 39 xã đặc biệt khó khăn đạt chuẩn nơng thơn
mới.
Bốn là, chương trình phát triển du lịch đạt nhiều kết quả, làm thay đổi
diện mạo du lịch của tỉnh: Tỉnh quan tâm thu hút đầu tư phát triển du lịch trở
thành ngành kinh tế mũi nhọn trong kinh tế dịch vụ; hạ tầng các điểm du lịch
được đầu tư nâng cấp theo hướng hiện đại; nhiều cơng trình có quy mơ lớn đã
hồn thành và đưa vào sử dụng, góp phần thay đổi mạnh mẽ du lịch của tỉnh,
như: Khu đô thị du lịch sinh thái FLC (GĐ 1), các dự án khu nghỉ dưỡng, khách
sạn tại Sầm Sơn, Hải Tiến, Hải Hòa. Du lịch sinh thái ở khu vực miền núi được
quan tâm đầu tư, khai thác. Cơng tác kiểm sốt giá, vệ sinh mơi trường, bảo đảm
an toàn thực phẩm, an ninh trật tự được tăng cường; chất lượng dịch vụ du lịch,
văn hóa du lịch có chuyển biến tích cực, diện mạo và vị thế du lịch của tỉnh
được nâng cao, sức hấp dẫn du khách ngày càng tăng. Giai đoạn 2016 - 2020, dự
kiến ngành du lịch đón 42,58 triệu lượt khách, vượt 0,7% kế hoạch (khách quốc
tế 1,28 triệu lượt người, vượt 1,6% kế hoạch); tổng doanh thu đạt 59.946 tỷ
đồng, vượt 0,2% kế hoạch.
Năm là, chương trình đào tạo và sử dụng nguồn nhân lực: Trong giai đoạn
2016 - 2020, toàn tỉnh đào tạo, cung ứng cho thị trường 410.600 lao động, vượt
3,7% kế hoạch, trong đó các cơ sở giáo dục đại học đào tạo 18.000 người, các cơ


20

sở giáo dục nghề nghiệp đào tạo 392.600 người. Tỷ lệ lao động qua đào tạo tăng
từ 55% năm 2015 dự kiến lên 70% năm 2020, đạt kế hoạch. Chất lượng đội ngũ
cán bộ, công chức, viên chức các cấp có chuyển biến rõ rệt; 100% cán bộ, cơng
chức cấp tỉnh, cấp huyện, 96% cán bộ công chức cấp xã và 99,5% viên chức đạt
chuẩn về trình độ theo quy định. Các ngành chức năng đã tổ chức đào tạo, bồi

dưỡng kiến thức về khởi sự doanh nghiệp và quản trị doanh nghiệp cho 72.600
người, trong đó có 28.500 doanh nhân đang lãnh đạo, quản lý, điều hành các
doanh nghiệp. Nguồn nhân lực được bố trí, sử dụng hợp lý phục vụ phát triển
kinh tế - xã hội của tỉnh và các địa phương.
Kết quả thực hiện 4 khâu đột phá
Một là, khâu đột phá về phát triển nhanh, đồng bộ hệ thống kết cấu hạ
tầng kinh tế - xã hội: Tỉnh đã tập trung rà soát, bổ sung, xây dựng các quy
hoạch, cơ chế, chính sách, danh mục dự án kêu gọi đầu tư giai đoạn 2016 - 2020
để vận động, kêu gọi các nhà đầu tư trong và ngoài nước tham gia đầu tư phát
triển hạ tầng kinh tế - xã hội; ưu tiên bố trí vốn ngân sách để đầu tư các cơng
trình hạ tầng quan trọng, thiết yếu. Trong giai đoạn 2016 - 2020, có 68 dự án hạ
tầng lớn thuộc các lĩnh vực giao thông, thủy lợi, cấp điện, công nghệ thông tin,
giáo dục, y tế, văn hóa được đầu tư xây dựng, với tổng vốn đầu tư 71.900 tỷ
đồng. Đến nay, nhiều cơng trình hạ tầng có vai trị quan trọng đối với sự phát
triển kinh tế - xã hội của tỉnh đã được đầu tư, đưa vào sử dụng30; đồng thời
đang triển khai thực hiện một số dự án lớn (31).
Hai là, khâu đột phá về nâng cao năng lực nghiên cứu, ứng dụng và
chuyển giao tiến bộ khoa học - kỹ thuật phục vụ phát triển kinh tế - xã hội: Đã
thành lập Viện Nơng nghiệp Thanh Hóa, Trung tâm Đào tạo chuyển giao cơng
nghệ thơng tin; các phịng thí nghiệm, thử nghiệm của cơ quan Nhà nước, doanh
nghiệp được đầu tư nâng cấp. Đã chuyển giao và ứng dụng thành công nhiều
quy trình cơng nghệ tiên tiến, hiện đại vào sản xuất nông nghiệp, công nghiệp,
các kỹ thuật mới, phức tạp trong khám, chữa bệnh tại các bệnh viện tuyến tỉnh.
Số lượng nhiệm vụ khoa học công nghệ được triển khai tăng mạnh, trong đó có
33 nhiệm vụ cấp quốc gia, gấp 2 lần giai đoạn 2011 - 2015. Đã có 44 sản phẩm


21

của tỉnh được xây dựng tiêu chuẩn và được bảo hộ về sở hữu trí tuệ; 100% dự án

đầu tư có nguy cơ tác động xấu đến mơi trường được thẩm định công nghệ theo
quy định. Nguồn nhân lực khoa học công nghệ tăng về số lượng, chất lượng
được nâng cao; xây dựng được 4 nhóm chuyên gia khoa học công nghệ trên các
lĩnh vực nông nghiệp, y học, công nghệ thơng tin; tồn tỉnh hiện có 3.116 cán bộ
tham gia nghiên cứu khoa học, tăng 8% so với năm 2015. Kinh phí từ ngân sách
đầu tư cho khoa học công nghệ trong giai đoạn 2016 - 2020 gấp 1,4 lần giai
đoạn 2011 - 2015.
Ba là, khâu đột phá về đẩy mạnh cải cách hành chính, cải thiện mơi
trường đầu tư kinh doanh: Đã thành lập, đưa vào hoạt động Trung tâm Phục vụ
hành chính cơng tỉnh Thanh Hóa và các trung tâm hành chính cơng cấp huyện.
Đưa vào sử dụng, cung cấp 100% các dịch vụ công trực tuyến mức độ 2; 623
dịch vụ công trực tuyến mức độ 3 và 177 dịch vụ công trực tuyến mức độ 4 cấp
tỉnh, cấp huyện. Các chỉ tiêu quan trọng trong cải cách hành chính được cải
thiện; thời gian thực hiện các thủ tục hành chính được rút ngắn so với quy định
của Trung ương, góp phần giảm thời gian và tiết kiệm chi phí cho doanh nghiệp
(32).
Bốn là, khâu đột phá về nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của
các tổ chức cơ sở đảng; phát huy vai trò tiền phong gương mẫu của đảng viên;
tạo chuyển biến mạnh mẽ trong công tác cán bộ: Các cấp ủy đảng đã rà soát,
củng cố các tổ chức đảng yếu kém; tập trung cụ thể hóa và triển khai thực hiện
nghiêm túc, hiệu quả Kết luận số 38-KL/TW ngày 13-11-2018 của Bộ Chính trị
về “Nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng và chất
lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên”; tỷ lệ tổ chức cơ sở đảng trong sạch, vững
mạnh hàng năm đạt trên 45%, đạt mục tiêu Đại hội. Chú trọng rà soát, sửa đổi,
bổ sung ban hành các quy chế, quy định về phân công, phân cấp quản lý tổ chức
bộ máy và cán bộ, về bổ nhiệm cán bộ và giới thiệu cán bộ ứng cử, để đổi mới,
nâng cao chất lượng công tác cán bộ; mở 3 lớp bồi dưỡng cán bộ dự nguồn Ban
Chấp hành Đảng bộ tỉnh và các chức danh lãnh đạo chủ chốt của tỉnh nhiệm kỳ
2020 - 2025 và 2021 - 2026; 100% huyện, thị xã, thành phố đã mở các lớp bồi



22

dưỡng cán bộ dự nguồn Ban Chấp hành Đảng bộ nhiệm kỳ 2020 - 2025. Triển
khai thực hiện nghiêm túc quy định về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng
viên, đặc biệt là cán bộ chủ chốt các cấp.


23

KẾT LUẬN
Để kiểm sốt quyền lực chính trị cần kết hợp tính nghiêm minh của kỷ
luật Đảng, pháp luật của Nhà nước với sức mạnh của dư luận xã hội và sự thức
tỉnh lương tâm của người đứng đầu tập thể, của những người có chức, có quyền
thơng qua tự phê bình và phê bình nghiêm túc. Tăng cường cơ chế chất vấn, giải
trình trong các cuộc họp, hội nghị giữa nhà quản lý với cấp dưới. Tăng cường
vai trò của truyền thông và dư luận xã hội khi phản ánh kịp thời, khách quan,
trung thực liên quan đến các vấn đề kiểm soát quyền lực đối với nhà lãnh đạo,
quản lý các cấp.
Kiểm sốt quyền lực chính trị, quyền lực nhà nước là một cuộc đấu tranh
khó khăn, phức tạp, thường xuyên và lâu dài: đấu tranh trong chính bản thân
mỗi cán bộ, đảng viên, trong nội bộ mỗi tổ chức, cơ quan, đơn vị để tự kiểm sốt
mình; đấu tranh với đồng chí mình, với các bộ phận khác trong cơ quan của
mình, với các cơ quan, tổ chức khác để bảo đảm cho quyền lực chính trị, quyền
lực nhà nước được thực hiện hiệu lực và hiệu quả nhất vì lợi ích, quốc gia, dân
tộc, vì một đất nước phồn vinh, hạnh phúc./.


24


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.

Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh: Giáo trình Chính trị học,
Nxb.Lý luận chính trị, H.2021.

2.

Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ
XIII, Nxb.Chính trị quốc gia Sự thật, H.2021.

3.

Trịnh Thị Xuyến: Kiểm soát quyền lực nhà nước – Một số vấn đề lý
luận và thực tiễn ở Việt Nam hiện nay, Nxb.Chính trị quốc gia Sự thật,

4.

H.2008.
Đảng bộ tỉnh Thanh Hóa: Văn kiện Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XIX,

5.

Thanh Hóa 2020.
Một số bài viết trên internet.



×