QUÁ TRÌNH XÂY DỰNG ĐƯỜNG LỐI CHUNG CỦA THỜI KỲ
QUÁ ĐỘ VÀ CƯƠNG LĨNH THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ
NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM TỪ ĐẠI HỘI II ĐẾN ĐẠI HỘI VII
CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
Nội dung bài viết trình bày lý luận về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội và
tiến trình định hình phương hướng, xây dựng đường lối chung và cương lĩnh của
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Qua đó có thể thấy những hình thức
của thời kỳ q độ, tính hiệu quả của từng loại hình thức và quan điểm đúng đắn
của Hồ Chí Minh về hình thức quá độ khi Người áp dụng vào thực tiễn cách mạng
Việt Nam.
1. Đặt vấn đề
Theo lý luận của chủ nghĩa Mác – Lê-nin, con đường quá độ đi lên chủ
nghĩa xã hội gồm có 3 hình thức: hình thức trực tiếp, hình thức nửa trực tiếp và
hình thức gián tiếp.
Hình thức trực tiếp: là hình thức quá độ cao nhất, trên thực tế chưa có nước
nào thực hiện ngay lập tức hình thức này, vì lúc bấy giờ các nhà kinh điển của chủ
nghĩa Mác – Lê-nin ở thế kỷ XIX xem rằng chỉ có các nước tư bản tiền tiến như
nước Anh mới có đủ khả năng để tiến tới xã hội hóa tồn bộ tư liệu sản xuất, trực
tiếp đi xây dựng chủ nghĩa xã hội. Mà từ khi cách mạng xã hội chủ nghĩa tháng
Mười đến nay, chưa có nước nào thực hành việc quá độ một cách trực tiếp lên chủ
nghĩa xã hội.
Hình thức nửa trực tiếp: hình thức này tồn tại ở các nước có bước phát triển
rất thấp, chưa trãi qua giai đoạn tư bản chủ nghĩa, được sự giúp đỡ trực tiếp từ các
nước xã hội chủ nghĩa anh em mà xây dựng cơ sở vật chất kinh tế - xã hội, khơng
ngừng phát triển để xóa bỏ đói nghèo, lạc hậu để tiến lên con đường quá độ trực
tiếp đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội. Cơ sở vật chất tiền đề phụ thuộc chủ yếu vào
các nước bên ngồi hỗ trợ.
Hình thức gián tiếp: là hình thức quá độ bỏ qua chế độ Nhà nước tư bản chủ
nghĩa (chứ không phải giai đoạn tư bản chủ nghĩa), là hình thức sử dụng Nhà nước
và cơng cụ chun chính vơ sản trong một quốc gia mà khơng cần sự hỗ trợ bên
ngoài, để điều tiết nền kinh tế nhiều thành phần nhằm xây dựng những cơ sở vật
chất kinh tế - xã hội, để bước vào thời kỳ quá độ trực tiếp. Trong đó kinh tế tư bản
chủ nghĩa được xem là động lực để phát triển lực lượng sản xuất, q trình phát
triển đó được đặt dưới sự kiểm soát và đảm bảo của nhà nước xã hội chủ nghĩa.
Liên Xô là nước đầu tiên bước vào thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội,
dưới sự lãnh đạo của Lê-nin, hình thức quá độ gián tiếp (1917-1928) đã được thực
hiện nhằm xây dựng những cơ sở vật chất của nước Nga để đạt đến trình độ cao, có
thể chuyển sang thời kỳ q độ trực tiếp (1928 – 1936) để đi lên xây dựng chủ
nghĩa xã hội. Đối với các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu, Trung Quốc, Triều Tiên,
Việt Nam, … sau này phần lớn chủ yếu là hình thức quá độ nửa trực tiếp có sự
giúp đỡ của các nước xã hội chủ nghĩa khác.
Tuy nhiên, ở Việt Nam lại có một chút đặc biệt, ngay lúc ban đầu, đường lối
quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta là đường lối q độ gián tiếp, đặc biệt,
cịn có thời kỳ chuẩn bị tiền đề cơ sở vật chất để bước vào thời kỳ quá độ. Những
sáng tạo đó in những dấu ấn đặc biệt của Hồ Chí Minh. Tuy nhiên, việc ứng dụng
hình thức đó khơng lâu dài, gặp cả nguyên nhân chủ quan lẫn khách quan.
Sau khi chế độ xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu và Liên Xơ lâm vào thối trào
và sụp đổ, Đảng Cộng sản Việt Nam đã từng bước xác lập lại tư tưởng Hồ Chí
Minh về thời kỳ quá độ để đi lên xây dựng chủ nghĩa
2. Nhận thức thời kỳ quá độ ở Việt Nam
2.1 Thời kỳ xác định và xây dựng hình thức quá độ gián tiếp
Tại Hội nghị lần thứ nhất BCH TW tháng 10 năm 1930, lần đầu tiên đề cập
đến lý luận thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội, Tổng bí thư Trần Phú viết trong
Luận cương chính trị tháng 10 có viết: “xứ Đơng Dương sẽ nhờ vô sản giai cấp
chuyên chánh các nước giúp sức cho mà phát triển, bỏ qua thời kỳ tư bổn mà
tranh đấu thẳng lên con đường xã hội chủ nghĩa”1.
Như vậy, Tổng bí thư Trần Phú đã đặt tiền đề của thời kỳ quá độ đi lên chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam là hình thức quá độ nửa trực tiếp, tức là đặt cách mạng
Việt Nam trong khuôn khổ có được sự giúp đỡ và hỗ trợ của Liên Xô để xây dựng
chủ nghĩa xã hội, bỏ qua giai đoạn tư bản chủ nghĩa.
Đến Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ hai của Đảng Lao động Việt Nam
(2/1951) thì lý luận thời kỳ q độ đã khơng được Đảng ta đề cập đến trong Chính
cương của Đảng Lao động Việt Nam, trong đó khơng nêu rằng sau khi hoàn thành
cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, Việt Nam sẽ được các nước xã hội chủ nghĩa
giúp sức mà quá độ nửa trực tiếp lên chủ nghĩa xã hội.
Chính cương của Đảng Lao động Việt Nam có viết: “Cách mạng dân tộc
dân chủ nhân dân Việt Nam nhất định sẽ đưa Việt Nam tiến tới chủ nghĩa xã hội.
Do giai cấp công nhân lãnh đạo, liên minh chặt chẽ với nơng dân và lao động trí
óc, lại được Liên Xô và các nước dân chủ nhân dân, nhất là Trung Quốc, cách
mạng Việt Nam không thể đi con đường nào khác ngoài con đường tiến lên chủ
nghĩa xã hội”2.
Chính cương chỉ xác định chặng đường cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân
Việt Nam sẽ nhận được sự giúp đỡ to lớn của Liên Xô và các nước dân chủ nhân
dân. Nhưng lại không đề cập đến thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội có được
1 Văn kiện Đảng tồn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, t.2, 2002, tr.98.
2 Văn kiện Đại hội Đảng, Chính cương của Đảng Lao động Việt Nam, báo điện tử đảng cộng sản Việt Nam, ngày 194-2018
chun chính vơ sản của các nước xã hội chủ nghĩa và các nước dân chủ nhân dân
giúp đỡ.
Qua văn kiện, Đảng ta cũng chưa xác định hình thức quá độ ở nước ta có
phải là hình thức nửa trực tiếp hay gián tiếp mà “phải tùy theo điều kiện cụ thể của
tình hình trong và ngồi nước khi đó mà quyết định”3.
Tuy nhiên, việc xác định rõ ràng 3 giai đoạn của con đường cách mạng Việt
Nam, đã thể hiện rằng Đảng ta xác lập đường lối quá độ gián tiếp (không phụ
thuộc trực tiếp vào quốc tế): “giai đoạn thứ nhất, nhiệm vụ chủ yếu là hoàn thành
giải phóng dân tộc; giai đoạn thứ hai, nhiệm vụ chủ yếu là xóa bỏ các di tích
phong kiến và nửa phong kiến, thực hiện triệt để người cày có ruộng, phát triển kỹ
nghệ, hoàn chỉnh chế độ dân chủ nhân dân; giai đoạn thứ ba, nhiệm vụ chủ yếu là
xây dựng cơ sở cho chủ nghĩa xã hội, tiến lên thực hiện chủ nghĩa xã hội”4.
Trong đấy, Đảng ta xác định tồn tại giai đoạn chuyển tiếp giữa thời kỳ cách
mạng dân tộc giải phóng và thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội là thời kỳ xây dựng
chế độ dân chủ nhân dân. Đây không được xem là một bộ phận của thời kỳ quá độ,
mà được xem là một giai đoạn chuyển tiếp, chuẩn bị những điều kiện cơ sở vật
chất để nước ta bước vào thời kỳ q độ.
Có thể thấy, trong Chính cương của Đảng Lao động Việt Nam còn xác định
những nhân sĩ (địa chủ) u nước và tiến bộ, tồn thể nơng dân (bao gồm cả phú
nông và trung nông) là động lực của cách mạng. Xem nhiệm vụ chủ yếu của giai
đoạn thứ hai là giải quyết triệt để người cày có ruộng nhưng không đề cập đến việc
thủ tiêu giai cấp địa chủ, cịn cơng tác cải cách ruộng đất trước hết nhắm đến các
3 Văn kiện Đại hội Đảng, Chính cương của Đảng Lao động Việt Nam, báo điện tử đảng cộng sản Việt Nam, ngày 194-2018
4 Văn kiện Đại hội Đảng, Chính cương của Đảng Lao động Việt Nam, báo điện tử đảng cộng sản Việt Nam, ngày 194-2018
hình thức giảm tơ giảm tức nhằm khuyến khích cải thiện đời sống nhân dân và gia
tăng sản xuất và tịch thu ruộng đất của thực dân và tay sai bán nước mà thơi.
Mặc dù chưa hồn chỉnh trong việc xây dựng đường lối chung của thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Song, tư duy chính trị của Đảng ta trong Chính cương
của Đảng Lao động Việt Nam – Cương lĩnh thấm đâm tư duy của Hồ Chí Minh –
là một cương lĩnh sáng tạo, phù hợp và đầy tính cách mạng.
Sau khi hịa bình được lập lại ở miền Bắc, Nghị quyết của Bộ Chính trị họp
từ ngày 5 đến ngày 7 tháng 9 năm 1954 đã xác định lại một cách rõ rệt tính chất
của giai đoạn thứ hai – giai đoạn xây dựng chế độ dân chủ nhân dân – đã được nêu
trong Chính cương của Đảng Lao động Việt Nam. Nghị quyết của Bộ Chính trị có
viết: “Chế độ xã hội của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa chúng ta thuộc hàng
các nước dân chủ nhân dân. Chính quyền của nước ta là chính quyền do giai cấp
cơng nhân lãnh đạo, lấy cơng nơng liên minh làm nền tảng, có Mặt trận dân tộc
thống nhất bao gồm cả giai cấp tư sản và nhân sĩ dân chủ, thân sĩ (địa chủ-TG)
yêu nước. Nhưng vì Nam Bắc tạm thời chia làm hai vùng, vì phải chiếu cố tới miền
Nam, vì cần tranh thủ rộng rãi các tầng lớp nhân dân, vì quy định của Hiệp định
đình chiến, vì trình độ phát triển của cơng nghiệp, vì quan hệ cụ thể của các lực
lượng giai cấp trong nước, nên về thành phần giai cấp, trình độ hịa hỗn của
chính sách, tốc độ phát triển của chính sách, chính quyền dân chủ nhân dân Việt
Nam khơng những khác với chính quyền các nước dân chủ nhân dân ở Đơng Âu,
mà cịn khác với chính quyền nước Cộng hịa nhân dân Trung Hoa. Nói chung
chính sách của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hịa so với chính sách của nước
Cộng hòa nhân dân Trung Hoa mới hồi kiến quốc năm 1949 thì ơn hịa hơn một
chút, thành phần tham gia chính quyền rộng rãi hơn một chút, tốc độ phát triển
của chính sách tiến chậm hơn một chút. Chế độ chính trị của nước ta, về nội dung
là dân chủ nhân dân, nhưng về hình thức thì về mặt nào đó cịn cần áp dụng chủ
nghĩa dân chủ cũ”5.
Có thể thấy, chính quyền dân chủ nhân dân mà Đảng Lao động Việt Nam
hướng tới có khác biệt với các chính quyền dân chủ nhân dân có khuynh hướng
chun chính vơ sản như ở Đơng Âu, hay chun chính liên hiệp bốn giai cấp như
chủ nghĩa dân chủ mới ở Trung Quốc. Vì Đảng ta xác định chúng ta đang ở giai
đoạn thấp, tình hình sau Hiệp định Geneva tương đối phức tạp, ngay lúc này việc
cần kíp là củng cố và phát triển chế độ dân chủ nhân dân ở miền Bắc và tiếp tục
thực hiện cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam. Trong q trình đó,
cách mạng miền Bắc cần phải tiến những bước đi chậm, tránh việc các lực lượng,
giai cấp bóc lột cũ chạy từ miền Bắc vào Nam hỗ trợ cho chính quyền tay sai của
Mỹ.
Tại Hội nghị lần thứ 8 Ban chấp hành Trung ương khóa II, họp từ ngày 13
đến ngày 20 tháng 8 năm 1955, nội dung của việc xây dựng chế độ dân chủ nhân
dân được Đảng ta tiếp tục phát triển thông qua báo cáo của Tổng bí thư Trường
Chinh, trong đó chủ yếu là nội dung thi hành chế độ dân chủ nhân dân ở miền Nam
sau khi Tổng tuyển cử thống nhất nước nhà được thực hiện. Báo cáo của đồng chí
Tổng bí thư Trường Chinh có viết: “Theo cương lĩnh chung của Mặt trận dân tộc
thống nhất tóm tắt trên đây, nước Việt Nam sau khi tổng tuyển cử mới thống nhất
bước đầu hoặc thống nhất một phần, chưa hoàn toàn thống nhất. Miền Bắc giữ
nguyên chế độ dân chủ mới (song nội dung dân chủ mới mà hình thức thì về một
mặt nào đó cịn áp dụng chủ nghĩa dân chủ cũ). Cịn ở miền Nam thì khơng những
hình thức mà nội dung của chế độ chính trị trong thời kỳ cịn nhiều tính chất dân
chủ cũ; thành phần dân chủ mới sẽ phát triển dần dần. Và sau đó một thời gian
nhất định hai miền mới có thể hồn toàn thống nhất về mọi mặt”6.
5 Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, t.15, 2002, tr288-289.
6 Văn kiện Đảng tồn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, t.16, 2002, tr.489.
Cũng tại Hội nghị lần thứ 8 Ban chấp hành Trung ương khóa II, lần đầu tiên
ta xác định rõ vai trò “sự giúp đỡ của bạn” cho sự nghiệp cách mạng Việt Nam.
Báo cáo có viết: “Tự lực cánh sinh là chính, sự giúp đỡ của các nước bạn là phụ.
Các nước bạn giúp ta như thêm vốn cho ta, giúp ta có thêm điều kiện để tự lực tự
cường. Ta tuyệt đối không nên ỷ lại”7. Điểm này có phần khác so với Luận cương
chính trị của Đảng ta khi xác nhận tính phụ thuộc vào sự giúp đỡ của các nước xã
hội chủ nghĩa anh em, để tiến tới quá độ nửa trực tiếp lên chủ nghĩa xã hội. Đồng
thời, Báo cáo cũng xác định Đảng ta chuẩn bị những điều kiện để tiến hành quá độ
gián tiếp, đó là việc xác lập năm 1957 là mốc đi vào xây dựng nền kinh tế có kế
hoạch hóa (tự lực) thay vì được hỗ trợ tồn bộ như quá độ nửa trực tiếp.
2.2 Thời kỳ xây dựng và thực hiện hình thức quá độ nửa trực tiếp
Đến Hội nghị lần thứ 11 mở rộng của BCH TW Đảng Lao động Việt Nam
khóa 2 (12/1956), Nghị quyết số 02/NQ/TW lần đầu tiên đã đề cập Đảng cần thiết
xác định đường lối chung cho thời kỳ quá độ ở miền Bắc. Quá trình miền Bắc tiến
vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội đã được xác nhận tại Hội nghị lần thứ 12
của BCH TW khóa II (3/1957) và báo cáo về Kế hoạch Nhà nước năm 1957. Đảng
ta xác nhận, từ cuối năm 1956 đã tiến hành chuẩn bị cho kế hoạch hóa nền kinh tế
cho năm 1957 và tại Hội nghị lần thứ 12 của BCH TW khóa II Đảng Lao động Việt
Nam đã chính thức thơng qua kế hoạch hóa phát triển kinh tế quốc dân. Trong
nhiệm vụ phát triển kinh tế năm 1957, một mặt Đảng ta ra sức hồn thành cơng
cuộc khơi phục kinh tế quốc dân để đạt mức trước chiến tranh thế giới 1939, một
mặt Đảng ta tiến hành chủ trương cải tạo kinh tế, đặc biệt kinh tế xã hội chủ nghĩa
trong cơng nghiệp khi quốc hữu hóa các xí nghiệp tư bản Pháp thành các xí nghiệp
quốc doanh xã hội chủ nghĩa. Đồng thời bên cạnh hoàn thành cải cách ruộng đất
vào năm 1956, đã đánh đổ phần lớn giai cấp địa chủ, thực hiện người cày có ruộng,
7 Văn kiện Đảng tồn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, t.16, 2002, tr.503
Đảng ta tiến hành đường xã hội chủ nghĩa trong nơng nghiệp, khuyến khích nơng
dân thực hiện lối làm ăn tập thể.
Căn cứ trên báo cáo của Hội nghị lần thứ 14 BCH TW khóa II về “Tình hình
thế giới và nhiệm vụ của chúng ta” và Báo cáo “Về nhiệm vụ kế hoạch ba năm
(1958-1960) phát triển và cải tạo kinh tế quốc dân” căn bản đã xác định rõ tính
chất cách mạng ở miền Bắc là đã bước vào thời kỳ quá độ đi lên xây dựng chủ
nghĩa xã hội, nội dung căn bản phù hợp với hình thức quá độ gián tiếp, trong đó tập
trung nói đến việc Đảng và Chính phủ cần phải quan tâm đến công cuộc phát triển
kinh tế - xã hội nhằm xây dựng những cơ sở vật chất – xã hội cho thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội.
Tại Hội nghị lần thứ 15 BCH TW khóa II năm 1959 và tại Đại hội đại biểu
toàn quốc của Đảng Lao động Việt Nam lần thứ III vào năm 1960, Đảng ta đã từng
bước kiện toàn con đường đi quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc. Về mặt
phương hướng, Đảng ta xác định phương hướng căn bản là hình thức q độ nửa
trực tiếp, có thể “vượt qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa tiến thẳng lên chủ
nghĩa xã hội”8. Lần đầu tiên kể từ Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ II, Đảng ta tái
xác định phương hướng của thời kỳ quá độ được nêu trong Luận cương chính trị là
đúng đắn. Trước mắt, Đảng ta đặt ra nhiệm vụ cải tạo xã hội bằng hình thức quá độ
trực tiếp đối với những cơ sở vật chất kỹ thuật đang sẵn có, sử chính quyền dân
chủ nhân dân đã được kiện toàn như là cơng cụ của nền chun chính vơ sản nhằm
cải tạo xã hội chủ nghĩa. Nhưng đồng thời tận dụng sự giúp đỡ về vật chất của các
nước xã hội chủ nghĩa mà rút ngắn lại thời gian xây dựng cơ sở vật chất – xã hội
cho thời kỳ quá độ ở nước ta.
Cũng tại Đại hội, lần đầu tiên Đảng ta đã đề ra đường lối chung của thời thời
kỳ quá độ đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội. Một mặt, Đảng ta chủ trương thực
8 Văn kiện Đại hội đảng, Nghị quyết của Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ III, báo điện tử Đảng cộng sản Việt Nam,
ngày 20-4-2018
hiện đường lối quá độ trực tiếp : “Muốn đạt mục tiêu ấy, phải sử dụng chính quyền
dân chủ nhân dân làm nhiệm vụ lịch sử của chun chính vơ sản để thực hiện cải
tạo xã hội chủ nghĩa đối với nông nghiệp, thủ công nghiệp, thương nghiệp nhỏ và
công thương nghiệp tư bản chủ nghĩa tư doanh; phát triển thành phần kinh tế quốc
doanh, thực hiện cơng nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa bằng cách ưu tiên phát triển
công nghiệp nặng một cách hợp lý, đồng thời ra sức phát triển nông nghiệp và
công nghiệp nhẹ; đẩy mạnh cách mạng xã hội chủ nghĩa về tư tưởng, vǎn hóa và
kỹ thuật; biến nước ta thành một nước xã hội chủ nghĩa có cơng nghiệp hiện đại,
nơng nghiệp hiện đại, vǎn hóa và khoa học tiên tiến”9.
Một mặt, Đảng ta từng tranh thủ đường lối quá độ nửa trực tiếp bằng tận
dụng sự những thuận lợi khi có sự giúp đỡ ngày càng to lớn của các nước xã hội
chủ nghĩa: “Đoàn kết toàn dân, phát huy tinh thần yêu nước nồng nàn, truyền
thống phấn đấu anh dũng và lao động cần cù của nhân dân ta, đồng thời tǎng
cường đoàn kết với các nước xã hội chủ nghĩa anh em do Liên Xô đứng đầu, để
đưa miền Bắc tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội, xây
dựng đời sống ấm no, hạnh phúc ở miền Bắc và củng cố miền Bắc thành cơ sở
vững mạnh cho cuộc đấu tranh thực hiện hịa bình thống nhất nước nhà, góp phần
tǎng cường phe xã hội chủ nghĩa, bảo vệ hịa bình ở Đơng - Nam á và thế giới”10.
Đây cũng là một trong những đặc điểm tương đối đặc biệt của việc xác lập ở
đường lối chung của thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc nước ta.
Đặc điểm này xuất phát từ việc: thứ nhất, Đảng ta có phần vội vã trong việc đưa
miền Bắc bước vào con đường quá độ trực tiếp (thu hẹp phạm vi và thời gian quá
độ gián tiếp) khi thời kỳ quá độ gián tiếp chỉ thực hiện được mỗi Kế hoạch phát
triển kinh tế 3 năm (1958-1960). Lẽ ra, thời kỳ quá độ gián tiếp lên chủ nghĩa xã
9 Văn kiện Đại hội đảng, Nghị quyết của Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ III, báo điện tử Đảng cộng sản Việt Nam,
ngày 20-4-2018
10 Văn kiện Đại hội đảng, Nghị quyết của Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ III, báo điện tử Đảng cộng sản Việt
Nam, ngày 20-4-2018
hội phải được xem là lâu dài, từng bước, còn cần phát triển nền kinh tế nhiều thành
phần để phát triển lực lượng sản xuất, đặc biệt đối với nước có trình độ phát triển
thấp như Việt Nam, nền kinh tế còn lạc hậu, chưa trãi qua sự phát triển của chủ
nghĩa tư bản; thứ hai, chính nhờ mối quan hệ ngày càng gắn chặt hơn giữa các
nước xã hội chủ nghĩa và các nước dân chủ nhân dân đối với Việt Nam, cho nên
Đảng ta cũng từng bước nhận thức những thuận lợi của con đường quá độ nửa trực
tiếp, có thể thơng qua sự giúp đỡ của các nước xã hội chủ nghĩa mà thu hẹp được
thời gian xây dựng những cơ sở vật chất – xã hội, có thể đẩy nhanh q trình miền
Bắc tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc trên con đường quá độ đi lên chủ nghĩa
xã hội, thậm chí có thể cho rằng sẽ khắc phục được những thiếu sót, khó khăn của
tình hình kinh tế xã hội nước ta. Tuy nhiên, nhược điểm của hình thức quá độ nửa
trực tiếp này là xu hướng tả tăng nhanh trong Đảng, hình thức tổ chức và quản lý
của Nhà nước nhanh chóng được cải tiến theo hình thức tăng dần quan hệ sản xuất
– vượt trước cả lực lượng sản xuất, phụ thuộc rất lớn vào khối xã hội chủ nghĩa.
Nếu như khối xã hội chủ nghĩa lâm vào khủng hoảng kinh tế hoặc không đủ điều
kiện hỗ trợ Việt Nam quá độ nửa trực tiếp, thì vơ hình chung sẽ phá nát tồn bộ cơ
cấu kinh tế xã hội của nước ta.
Cũng tại Đại hội toàn quốc lần thứ III của Đảng Lao động Việt Nam, việc
xác lập về mặt thời gian của thời kỳ quá độ đã được tiến hành: “Từ khi hịa bình
lập lại, miền Bắc nước ta trong thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội”11. Điều
này cũng dẫn đến việc phủ định tính 3 giai đoạn mà Đại hội toàn quốc lần thứ II
của Đảng ta đề ra từ 1951, xem thời kỳ xây dựng chế độ dân chủ nhân dân là giai
đoạn thuộc thời kỳ quá độ, cụ thể là quá độ gián tiếp. Điều này cũng tạo tiền lệ cho
việc sau khi hoàn thành cách mạng giải phóng miền Nam khỏi ách xâm lược của
đế quốc Mỹ, mơ hình chế độ dân chủ nhân dân sẽ không được thực hiện mà miền
11 Văn kiện Đại hội đảng, Nghị quyết của Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ III, báo điện tử Đảng cộng sản Việt
Nam, ngày 20-4-2018
Nam sẽ tiến thẳng vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa theo hình thức trực tiếp theo đà
kế hoạch phát triển kinh tế 1976-1980 và với sự giúp đỡ của hệ thống xã hội chủ
nghĩa nói chung. Xu hướng tả căn bản đã chiếm chủ yếu trong hệ thống chính trị
của Đảng ta.
Thực vậy, sau khi cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam đã hoàn
toàn thắng lợi, non sông đất nước đã được thống nhất. Hội nghị lần thứ 24 của
BCHTW Đảng Lao động Việt Nam về nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam trong
giai đoạn mới đã thông qua Nghị quyết số 247-NQ/TW, ngày 29/9/1975. Nghị
quyết đã xác định phương hướng của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội trong
toàn quốc tiếp tục là hình thức nửa trực tiếp, Đảng ta tiếp tục xác định: “Cả nước
đang ở trong quá trình tổ chức lại nền sản xuất xã hội, từ sản xuất nhỏ lên sản
xuất lớn xã hội chủ nghĩa vượt qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa”12.
Đường lối chung từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III tiếp tục được xác định là
cơ sở cho việc cải tạo xã hội chủ nghĩa ở miền Nam.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng Cộng sản Việt Nam (1976)
đã tiếp tục khẳng định lại những nội dung căn bản của Hội nghị lần thứ 24
BCHTW khóa III. Đảng ta đồng thời cũng xác nhận những đặc điểm lớn của thời
kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta là: thứ nhất, phương hướng thời kỳ quá
độ là tiếp tục quá độ nửa trực tiếp bỏ qua giai đoạn tư bản chủ nghĩa; thứ hai, tiếp
tục thực hiện đường lối chung của thời kỳ quá độ được nêu từ Đại hội III, cụ thể:
miền Bắc tiếp tục xây dựng cơ sở vật chất xã hội chủ nghĩa bởi đường lối quá độ
nửa trực tiếp; miền Nam vừa thực hiện đường lối quá độ trực tiếp từ việc cải tạo xã
hội chủ nghĩa những cơ sở xã hội sẵn có vừa quá độ nửa trực tiếp từ nguồn viện trợ
vật chất kinh tế bên ngoài để rút ngắn thời kỳ quá độ lên xã hội chủ nghĩa.
12 Văn kiện Hội nghị BCHTW Đảng, Nghị quyết số 247-NQ/TW, ngày 29/9/1975 Hội nghị lần thứ 24 BCHTW Đảng
Lao động Việt Nam về nhiệm vụ cách mạng Việt Nam trong giai đoạn mới, báo điện tử Đảng cộng sản Việt Nam,
ngày 16/6/2018.
Tuy nhiên, cũng phải nói rằng mặc dù đường lối chung của thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam bao gồm 2 nhiệm vụ là trực tiếp và nửa trực tiếp.
Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện ở miền Bắc từ 1960 – 1976, đường lối nửa
trực tiếp được sử dụng là chủ yếu và phụ thuộc rất lớn và các nước xã hội chủ
nghĩa. Sỡ dĩ như thế là vì: thứ nhất, sự nghiệp quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở một
nước có trình độ phát triển rất thấp như Việt Nam không thể tiến nhanh được, vì
thế muốn tiến nhanh, muốn tiến vững chỉ có thể trơng trờ trực tiếp vào viện trợ của
các nước xã hội chủ nghĩa; thứ hai, quy mô và cơ sở vật chất của con đường quá
độ trực tiếp khá là nhỏ so với nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội chủ nghĩa, thời kỳ
Đảng ta chủ trương xây dựng chính quyền dân chủ nhân dân tương đối còn ngắn,
cơ sở vật chất xã hội chưa được chuẩn bị đầy đủ, do đó muốn cải tạo xã hội chủ
nghĩa cũng chỉ có thể trơng chờ vào viện trợ vật chất kinh tế; thứ ba, muốn đẩy
mạnh chiến tranh giải phóng ở miền Nam phải tranh thủ sự ủng hộ của các nước xã
hội chủ nghĩa anh em trên tinh thần chủ nghĩa quốc tế vô sản.
Kể từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng Cộng sản Việt Nam,
đường lối quá độ ở Việt Nam vẫn tiếp tục chủ yếu là đường lối nửa trực tiếp, không
thông qua giai đoạn chủ nghĩa tư bản mà tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội. Đồng
thời từ năm 1980 Đảng ta đã bắt đầu kiện toàn Nhà nước Xã hội chủ nghĩa trên
phạm vi cả nước cùng với sự ra đời của Hiến pháp xã hội chủ nghĩa. Mặc dù đã
xây dựng căn bản cơ sở vật chất của chủ nghĩa xã hội bước đầu và thiết lập quan hệ
sản xuất xã hội chủ nghĩa. Song, nền kinh tế vẫn còn lạc hậu, cơ sở vật chất kinh tế
xã hội còn lạc hậu, kém phát triển. Thời kỳ quá độ nửa trực tiếp càng gặp nhiều
khó khăn hơn khi sự trợ giúp từ các nước xã hội chủ nghĩa ngày càng ít, nguyên
nhân là: thứ nhất, Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu đang lâm vào
cơn khủng hoảng kinh tế ngày càng trầm trọng, nguồn viện trợ từ các nước này
ngày càng ít đi; thứ hai, sự mâu thuẫn giữa Trung – Xô căng thẳng từ cuối thập
niên 50 đến thập niên 80 đã phần nào làm giảm một phần sự viện trợ cho Việt
Nam, chủ yếu là đến từ Trung Quốc; thứ ba, mâu thuẫn Việt – Trung từ sau 1975
đã dẫn đến việc chấm dứt hoàn toàn viện trợ cho Việt Nam. Những tác động trên
đã ảnh hưởng rất tiêu cực đến đường lối thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam. Công tác cải tạo và xây dựng chủ nghĩa xã hội trên phạm vi cả nước
ngày càng trì trệ và lâm vào khủng hoảng, cơ sở vật chất kinh tế và xã hội của Việt
Nam chưa đủ khả năng để đáp ứng những quan hệ sản xuất đã được cải tạo, lực
lượng sản xuất vẫn còn kém phát triển, nền kinh tế sản xuất hàng hóa tương đối
nghèo nàn, đất nước rơi vào khủng hoảng trầm trọng. Đó là hệ quả của sự phụ
thuộc vào khối Hiệp ước tương trợ của khối xã hội chủ nghĩa, trên thực tế chủ yếu
là Liên Xơ – hay nói chính xác là phụ thuộc vào đường lối thời kỳ quá độ đi lên
chủ nghĩa xã hội ở hình thức quá độ nửa trực tiếp.
2.3 Thời kỳ tái lập hình thức quá độ gián tiếp và xây dựng Cương lĩnh
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội theo hình thức gián tiếp
Cuộc khủng hoảng kinh tế xã hội những năm 80 đã đưa đất nước vào tình
trạng kiệt quệ. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI (1986) đã trở thành một bước
ngoặt đối với sự nghiệp cách mạng Việt Nam. Công cuộc Đổi mới tư duy đối với
công cuộc xây dựng và phát triển kinh tế xã hội nước nhà đã mang lại nhiều thành
quả tốt đẹp. Nói về đường lối thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, tại Đại hội VI,
Đảng ta không trực tiếp đề cập, tuy nhiên, nội dung của nhiệm vụ xây dựng chủ
nghĩa xã hội được nêu tại đại hội cũng đã cho thấy Đảng ta bắt đầu có sự nhận thức
mới về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, từng bước, từng bước thảo
bỏ xu hướng tả trong tư duy lý luận của Đảng.
Đại hội lần thứ VI của Đảng ta đã nhấn mạnh đến trọng tâm của nhiệm vụ
xây dựng chủ nghĩa trong giai đoạn mới là củng cố, xây dựng những tiền đề cần
thiết để đẩy mạnh cơng nghiệp hóa ở chặng đường kế tiếp (thời kỳ quá độ trực
tiếp); thực hiện đa thành phần kinh tế, trong đó phát triển kinh tế tư nhân để không
ngừng nân cao lực lượng sản xuất; bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, thực hiện
quyền lực và kiểm soát của Nhà nước xã hội chủ nghĩa. Căn bản, tại Đại hội VI,
Đảng ta đã đặt ra những nhiệm vụ nhằm xây dựng những cơ sở vật chất, tiền đề
của thời kỳ quá độ gián tiếp.
Bên cạnh đó, Đảng ta vẫn chủ trương tăng cường sự hợp tác tồn diện với
Liên Xơ và Hội đồng tương trợ nhằm tranh thủ sự giúp đỡ của các nước xã hội chủ
nghĩa anh em, điều này góp phần củng cố cho nền kinh tế và cơ sở vật chất hiện tại
của nước ta. Mặc dù, chưa từ bỏ đường lối chung thời kỳ quá độ được xác lập tại
Đại hội III đã được tiếp tục xác lập tại Đại hội IV, Đại hội V, tuy nhiên đường lối
chung thời kỳ quá độ ở nước ta căn bản đã thay đổi về chất.
Cho đến Hội nghị Trung ương 9 khóa VI của Đảng Cộng sản Việt Nam
(8/1990), Đảng ta vẫn xác định phương hướng quá độ là bỏ qua giai đoạn phát
triển tư bản chủ nghĩa. Tuy nhiên, trong thực tế: đường lối quá độ nửa trực tiếp đã
khơng cịn chiếm chủ yếu, đường lối q độ gián tiếp đang càng ngày được củng
cố bởi mô hình quản lý kinh tế mới – đa thành phần kinh tế, cơ sở vật chất và quan
hệ sản xuất mới được thiết lập kể từ sau Đại hội VI, khơng ngừng được củng cố.
Có thể nhận thấy, kể từ Đại hội VI cho đến Đại hội VII, hình thức quá độ gián tiếp
ngày càng chiếm ưu thế và trở thành chủ yếu.
Năm 1991, Liên Xô và khối xã hội chủ nghĩa Đơng Âu đã lâm vào thối trào
và sụp đổ. Đảng Cộng sản Việt Nam buộc phải nhìn lại và nhận thức rõ ràng về
đường lối quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của
Đảng cộng sản Việt Nam (1991) lần đầu tiên Đảng ta đã đề ra và hoàn chỉnh một
Cương lĩnh có tính chất dẫn dắt cho tồn Đảng, toàn dân bước vào sự nghiệp quá
độ để đi lên chủ nghĩa xã hội.
Cương lĩnh 1991 đã xác nhận lại đường lối quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở
nước ta thông qua hình thức q độ gián tiếp. Cương lĩnh có viết: “Nước ta quá độ
lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản, từ một xã hội vốn là thuộc địa, nửa
phong kiến, lượng lượng sản xuất rất thấp”13. Sự quay lại phương hướng thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội thơng qua hình thức gián tiếp, là sự quay trở lại với tư
tưởng Hồ Chí Minh về con đường quá độ đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội đã được
xác định đúng đắn kể từ Đại hội II của Đảng ta.
Đường lối này tiếp tục được Hội nghị Trung ương 8 khóa VII (1/1995) tái
khẳng định và không ngừng được bổ sung, phát triển tại Đại hội lần thứ XI tại
Cương lĩnh xây dựng đất nước thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát
triển năm 2011).
3. Kết luận
Quá trình xây dựng đường lối chung của thời kỳ quá độ và xây dựng cương
lĩnh thời kỳ quá độ ở nước ta là một thời kỳ lâu dài, phức tạp, trãi qua nhiều thăng
trầm. Trong tiến trình cách mạng ấy, tư tưởng Hồ Chí Minh về thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội như là một kim chỉ bàn đúng đắn cho cách mạng Việt Nam. Mặc
dù có lúc tư tưởng đó bị xu hướng tả và tả khuynh lấn át, lái chệch đi. Song, chính
q trình lịch sử đã minh chứng cho rằng tư tưởng đó là cái chân lý soi đường cho
Đảng ta trên con đường quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội.
Thứ nhất, tư tưởng Hồ Chí Minh về con đường quá độ đi lên chủ nghĩa xã
hội đã xác định một cách đúng đắn những giai đoạn phát triển của cách mạng Việt
Nam trên cơ sở nhận thức đúng đắn đặc điểm xã hội, đặc điểm cách mạng và con
đường cách mạng Việt Nam. Con đường quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
trong nửa đầu thế kỷ XX nhất thiết phải cần thời kỳ dự bị, thời kỳ chuẩn bị những
13 Văn kiện Đại hội Đảng, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, báo điện tử
Đảng cộng sản Việt Nam, ngày 22/2/2017.
cơ sở vật chất căn bản để tạo những tiền đề cho nước ta tiến vào thời kỳ quá độ đi
lên chủ nghĩa xã hội. Chế độ dân chủ nhân dân theo chủ nghĩa dân chủ mới có tính
sáng tạo so với chế độ dân chủ nhân dân ở Đông Âu và Trung Quốc, đã trở thành
thời kỳ dự bị để Đảng ta không ngừng củng cố cơ sở kinh tế - vật chất xã hội ở
miền Bắc, đồng thời chuẩn bị tiền đề cho cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân
dân ở miền Nam những cơ sở hình thức và tổ chức.
Thứ hai, tư tưởng Hồ Chí Minh về con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội
xác định đúng đắn hình thức quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội là hình thức gián tiếp.
Rằng sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa suy cho cùng là sự nghiệp của chính
mình, sự giúp đỡ của bạn là tốt nhưng tuyệt đối không ỷ lại. Đường lối chung thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội theo lối nửa trực tiếp được xác lập tại Đại hội đại
biểu tồn quốc lần thứ III của Đảng ta, có nhiều nguyên nhân, trong đó: thứ nhất,
biểu hiện của xu hướng tả ngày càng chiếm ưu thế trong Đảng; thứ hai, để thực
hiện nhiệm vụ giải phóng hồn tồn dân tộc, thống nhất nước nhà, miền Bắc nhất
thiết phải trở thành hậu phương lớn cho chiến trường miền Nam, nhất định phải
cần sự tranh thủ của các nước xã hội chủ nghĩa anh em trên tinh thần quốc tế vô
sản; thứ ba, để hồn thành nhanh chóng cơng cuộc cải tạo xã hội ở miền Bắc, miền
Bắc rất cần sự hỗ trợ về vật chất khoa học kỹ thuật để rút gọn thời kỳ quá độ,
không ngừng xây dựng cơ sở vật chất kinh tế cho đất nước. Có thể thấy thời kỳ tiến
hành hai nhiệm vụ chiến lược, tư tưởng Hồ Chí Minh về con đường quá độ lên chủ
nghĩa xã hội đã tạm thời bị lu mờ, nhận thức của Đảng về khả năng xây dựng chủ
nghĩa xã hội đã bị phóng đại, tư tưởng tả khuynh chiếm ưu thế.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội xác định
một cách đúng đắn khả năng của hình thức quá độ gián tiếp. Đối với một nước có
trình độ phát triển thấp, chưa trãi qua giai đoạn chủ nghĩa tư bản, lực lượng sản
xuất còn kém phát triển. Mà con đường quá độ bằng hình thức nửa trực tiếp tuy có
thể rút gọn thời kỳ quá độ, và không ngừng nâng cao đời sống vật chất của nhân
dân, song hình thức đó có nhiều khuyết điểm, tiềm ẩn rủi ro cao, mà lực lượng sản
xuất và cơ sở xã hội ở một nước có trình độ rất thấp như Việt Nam phải mất rất
nhiều thời gian mới có thể được cải tạo được, lại trãi qua liên tục mấy cuộc chiến
tranh cho nên hình thức này đã trở nên kém hiệu quả, vơ hình chung lại tác động
ngược lại khi ta khơng cịn nhận được nhiều sự viện trợ của các nước xã hội chủ
nghĩa nữa, quan hệ sản xuất ngay lập tức không phù hợp với lực lượng sản xuất, cơ
cấu tổ chức và quan lý kinh tế ngay lập tức khơng phù hợp với trình độ kinh tế đã
làm hệ thống kinh tế Việt Nam lâm vào khủng hoảng trầm trọng. Ngược lại, hình
thức quá độ gián tiếp lấy cơ sở kinh tế là đa thành phần kinh tế, đa chế độ sở hữu,
ưu tiên phát triển kinh tế tư nhân nhằm không ngừng nâng cao và phát triển lực
lượng sản xuất, đồng thời nhà nước cũng kiểm soát và định hướng theo chủ nghĩa
xã hội, chủ trương quan hệ sản xuất phải phù hợp với lực lượng sản xuất và không
phát triển khoa học kỹ thuật, nhằm từng bước đưa nước ta thốt khỏi tình trạng lạc
hậu về kinh tế, nghèo nàn về văn hóa. Qua thực tiễn của sự nghiệp Đổi mới, hình
thức quá độ gián tiếp đã cho thấy sức sống và sự hiệu quả của nó đối với sự nghiệp
phát triển kinh tế-văn hóa-xã hội, đồng thời minh chứng cho quan điểm và tư duy
của Hồ Chí Minh về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là đúng đắn,
đầy sức sống.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Văn kiện Đại hội Đảng, Chính cương của Đảng Lao động Việt Nam, báo
điện tử đảng cộng sản Việt Nam, ngày 19-4-2018
2. Văn kiện Đại hội Đảng, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội, báo điện tử Đảng cộng sản Việt Nam, ngày 22/2/2017.
3. Văn kiện Đại hội đảng, Nghị quyết của Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ
III, báo điện tử Đảng cộng sản Việt Nam, ngày 20-4-2018
4. Văn kiện Đại hội đảng, Nghị quyết của Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ
IV, báo điện tử Đảng cộng sản Việt Nam, ngày 24-9-2015.
5. Văn kiện Đại hội đảng, Nghị quyết của Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ
VI, báo điện tử Đảng cộng sản Việt Nam, ngày 24-2-2017.
6. Văn kiện Hội nghị BCHTW Đảng, Nghị quyết số 247-NQ/TW, ngày
29/9/1975 Hội nghị lần thứ 24 BCHTW Đảng Lao động Việt Nam về nhiệm vụ
cách mạng Việt Nam trong giai đoạn mới, báo điện tử Đảng cộng sản Việt Nam,
ngày 16/6/2018
7. Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, t.2, 2002
8. Văn kiện Đảng tồn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, t.15, 2002
9. Văn kiện Đảng tồn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, t.16, 2002