SỰ THAY ĐỔI QUAN ĐIỂM VỀ CON ĐƯỜNG CÁCH MẠNG
VIỆT NAM TỪ CHÍNH CƯƠNG CỦA ĐẢNG LAO ĐỘNG VIỆT
NAM ĐẾN NGHỊ QUYẾT ĐẠI HỘI III VÀ IV
Nội dung bài viết trình bày nội dung căn bản Chính cương của Đảng
Lao động Việt Nam. Đồng thời trình bày những chuyển biến, thay đổi tư
tưởng về con đường cách mạng Việt Nam của Đảng Lao động Việt Nam
qua Nghị quyết Đại hội III và Đại hội IV, làm sáng tỏ tư duy của các Nghị
quyết này và đưa ra những nhận xét về con đường cách mạng Việt Nam
1. Đặt
vấn đề
Chính cương của Đảng Lao động Việt Nam là văn kiện hoàn thiện
nhất về lý luận con đường cách mạng Việt Nam, văn kiện này phản ánh
sâu sắc tư duy và quan điểm của Hồ Chí Minh, đã phản ánh đúng lại
những quan điểm mà Chánh cương vắn tắt và Sách lược vắn tắt mà
Người đã từng viết vào đầu năm 1930. Văn kiện này đã hoạch định đầy
đủ con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam phải trãi qua ba giai
đoạn chủ yếu.
Tuy nhiên đến văn kiện Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ III và lần thứ IV, những luận điểm chính trong Chính cương của Đảng
Lao động Việt Nam khơng cịn được phản ánh đúng, đầy đủ và cụ thể
nữa. Thay vào đó là lý luận về chun chính vơ sản và các hình thức
chun chính vơ sản nhằm cải tạo đưa miền Bắc Việt Nam đi lên Chủ
nghĩa xã hội (Đại hội III) và cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội (Đại hội IV).
Để làm rõ vì sao lại có sự chuyển biến như vậy về con đường cách
mạng Việt Nam, cho nên bài viết này sẽ tập trung làm rõ nguyên nhân của
sự chuyển biến đó và nó phản ánh như thế nào đến con đường cách mạng
Việt Nam.
2. Nội
dung cơ bản của Chính cương của Đảng Lao động Việt Nam
Chính cương của Đảng Lao động Việt Nam được xem là bản Cương
lĩnh hoàn chỉnh nhất về đường lối cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân
của Đảng Lao động Việt Nam. Giống như Cương lĩnh chính trị đầu tiên
và Luận cương chính trị, Chính cương của Đảng Lao động Việt Nam
cũng đầy đủ các bộ phận cấu thành gồm có cương lĩnh lý luận và cương
lĩnh thực tiễn của Đảng.
- Cương lĩnh lý luận
Nói đến đến nền tảng lý luận: Trong bản Chính cương của Đảng Lao
động Việt Nam, nền tảng lý luận không được đề cập đến. Thay vào đó,
Tun ngơn của Đảng Lao động Việt Nam và Điều lệ của Đảng lao động
Việt Nam đã đề cập đến. Và lần đầu tiên, trong Cương lĩnh chính trị của
Đảng đề cập trực tiếp đến nền tảng lý luận của Đảng.
Trong Tuyên ngôn của Đảng Lao động Việt Nam có viết: “Chủ
nghĩa của Đảng là chủ nghĩa Mác - Lê-nin” 1. Đồng thời, trong Điều lệ
của Đảng có viết: “Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Ăng-ghen - Lê-nin - Xtalin
và tư tưởng Mao Trạch Đông kết hợp với thực tiễn cách mạng Việt Nam
làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho mọi hành động của Đảng”2.
Có thể nói, ngay khi cách mạng Việt Nam bắt nhịp vào cách mạng quốc
tế, bắt nhịp vào hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa. Xu hướng tả đã bắt
đầu xâm nhập vào Đảng, và ngay khi thành lập Đảng Lao động Việt Nam,
xu hướng đó bắt đầu hiện rõ ngay cả trong Cương lĩnh chính trị của
Đảng, trước hết từ nền tảng tư tưởng của Đảng.
Nói đến tính chất và nhiệm vụ: được Chính cương của Đảng Lao
động Việt Nam đề cập ở chương II: Xã hội Việt Nam và cách mạng Việt
Nam. Trong đó, mục “Xã hội Việt Nam” đề cập chủ yếu tới tính chất xã
hội của Việt Nam. Trong đó, xã hội Việt Nam thực chất là xã hội thuộc
1 Văn kiện Đại hội Đảng, Tuyên ngôn của Đảng Lao động Việt Nam, báo điện tử Đảng cộng sản Việt Nam, 21-42018
2 Văn kiện Đại hội Đảng, Điều lệ Đảng Lao động Việt Nam, báo điện tử Đảng cộng sản Việt Nam, 18-4-2018
địa nửa phong kiến. Song nhưng lại có đến 3 tính chất, bên cạnh tính nửa
thuộc địa, nửa phong kiến và tính dân chủ nhân dân (vùng giải phóng).
Trong đấy, mâu thuẫn chủ yếu trong xã hội Việt Nam là mâu thuẫn giữa
tính dân chủ nhân dân với tính thuộc địa - tức là mâu thuẫn giữa nhân dân
Việt Nam và thực dân Pháp xâm lược và tay sai; mục “Cách mạng Việt
Nam” đề cập đến nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam. Trong đó Đảng Lao
động Việt Nam đặt nhiệm vụ căn bản nhất của cách mạng là đánh đuổi
bọn đế quốc xâm lược giành độc lập dân tộc, tới đó là đánh phong kiến và
xây dựng chế độ dân chủ nhân dân. Trong đó, nhiệm vụ giải phóng dân
tộc là nhiệm vụ chính trước mắt. Các bộ phận nhiệm vụ có mối quan hệ
khăng khít với nhau.
Có thể nói đây cũng là tính mới, tính phát triển trong vấn đề lý luận
cách mạng của Chính cương của Đảng Lao động Việt Nam so với Cương
lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng. Trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên của
Đảng, Nguyễn Ái Quốc đặt những nhiệm vụ cách mạng là riêng biệt,
trong đó xem cách mạng giải phóng dân tộc để giành độc lập tự do cho
dân tộc nằm riêng với cách mạng thổ địa, nhưng đó là Đảng ta vừa mới ra
đời, lại trong điều kiện thân phận của người mất nước, đặt ngọn gỉai
phóng dân tộc lên cao nhất và riêng biệt là để giành độc lập. Nhưng
ngược lại, trong Chính cương của Đảng Lao động, nhiệm vụ giải phóng
dân tộc vẫn được đặt lên hàng đầu, song lại xem cả ba nhiệm vụ cách đều
có mối liên hệ mật thiết với nhau chứ không riêng lẻ. Lý giải điều đó có
thể hiểu, trước hết vì Chính cương ra đời khi dân tộc Việt Nam đã giành
được độc lập sau Cách mạng tháng Tám, thân phận là Đảng lãnh đạo của
một nước thực tế đã độc lập; chúng ta đã có Chính phủ đại diện cho nhân
dân và tiến hành tổ chức kháng chiến; Đảng ta đã có một bề dày kinh
nghiệm và có được sự hậu thuẫn từ các nước xã hội chủ nghĩa. Cho nên,
sự thay đổi trong Chính cương Đảng Lao động Việt Nam so với Cương
lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng là do sự xuất phát từ sự thay đổi tương
quan giữa thế và lực của Đảng, sự phát triển cảu các điều kiện lịch sử, và
đặc điểm lịch sử bấy giờ.
- Cương lĩnh thực tiễn
Cương lĩnh thực tiễn tức là nói đến những chỉ đạo mang tính thực
tiễn nhằm cụ thể hóa những vấn đề căn bản của cương lĩnh lý luận. Trong
Chính cương của Đảng Lao động Việt Nam, Đảng ta đã trình bày đầy đủ
và chi tiết về cương lĩnh thực tiễn của mình.
Những nội dung căn bản của cương lĩnh thực tiễn thể hiện trong
chương III: Chính sách của Đảng Lao động Việt Nam. Nội dung chủ yếu
của chính sách được Đảng ta đề cập đến: kháng chiến; chính quyền nhân
dân; Mặt trận dân tộc thống nhất; Quân đội; kinh tế tài chính; Cải cách
ruộng đất; Văn hóa giáo dục; Tơn giáo; Chính sách dân tộc; Vùng tạm
chiếm; đối với Lào và Campuchia; ngoại kiều; cho nền hịa bình và dân
chủ thế giới; thi đua ái quốc.
Đồng thời, Chính cương của Đảng Lao động Việt Nam cũng bảo
đảm đầy đủ được cả 3 đặc điểm của cương lĩnh thực tiễn: phù hợp tính
giai đoạn, đáp ứng tính thời đại ; có tính hệ thống ; có tính khả thi.
Nói về phù hợp tính giai đoạn, đáp ứng tính thời đại. Con đường
phát triển cách mạng đã được Đảng Lao động Việt Nam đề cập rất cụ thể
trong Chính cương của mình. Đảng ta viết: “Nhiệm vụ cơ bản của cách
mạng Việt Nam hiện nay là đánh đuổi đế quốc xâm lược, giành độc lập
và thống nhất thực sự cho dân tộc, xóa bỏ tàn tích phong kiến và nửa
phong kiến, làm cho người cày có ruộng, phát triển chế độ dân chủ nhân
dân, gây cơ sở cho chủ nghĩa xã hội”3. Có thể thấy, so với Cương lĩnh
chính trị đầu tiên, Đảng Lao động Việt Nam đã phát triển toàn diện về
3 Văn kiện Đại hội Đảng, Chính cương của Đảng Lao động Việt Nam, báo điện tử đảng cộng sản Việt Nam, ngày
19-4-2018.
phương hướng chính trị cho cương lĩnh cách mạng dân tộc dân chủ.
Trong đó, xem con đường đi tới chủ nghĩa xã hội là con đường nền tảng
lâu dài, đó cũng là tính thời đại của Đảng ta. Nhưng đồng thời chia con
đường cách mạng Việt Nam thành nhiều giai đoạn: trước hết là cách
mạng giải phóng dân tộc nhằm làm cho nước nhà thực sự độc lập và
thống nhất; thực hành cách mạng ruộng đất và phát triển chế độ dân chủ
nhân dân, xem hai nhiệm vụ này có mối quan hệ chặt chẽ; đặt vấn đề xây
dựng cơ sở cho chủ nghĩa xã hội (thay cho tiến tới chủ nghĩa xã hội như
trước đây), đảm bảo cho sự nhận thức của Đảng về con đường từng bước
để đi lên chủ nghĩa xã hội. Trong đó con đường cách mạng này phải trãi
qua từng bước từng bước, không phải là con đường cách mạng liên tục
không ngừng như Luận cương chính trị đề cập. Điều trên đây cũng cho
thấy các nhiệm vụ cách mạng mang tính phù hợp với giai đoạn phát triển
cách mạng.
Nói về tính hệ thống. Có thể thấy tồn bộ Luận cương chính trị của
Đảng Cộng sản Đông Dương là một hệ thống lý luận thống nhất, đầy đủ,
toàn diện. Các văn kiện tuy độc lập, nhưng có mối quan hệ mật thiết, sâu
sắc lẫn nhau, văn kiện này phản ánh văn kiện kia, văn kiện này là sự cụ
thể hóa của văn kiện kia.
Nói về tính khả thi. Có thể nói, Chính cương của Đảng Lao động
Việt Nam đã phát triển khá đầy đủ và căn bản lý luận về con đường cách
mạng dân tộc dân chủ nhân dân cho nhân dân Việt Nam. Việc xác định
tính chất xã hội và nhiệm vụ chính xác tạo nên những điều kiện thuận lợi
để Đảng ta phát triển Đảng và tổ chức quân đội nhân dân từng bước từng
bước lớn mạnh để đi đến sự thắng lợi của Chiến dịch Điện Biên Phủ lịch
sử, giành lấy thắng lợi trong cuộc kháng chiến chống Pháp.
3. Những
điểm thay đổi của Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn
quốc của Đảng lần thứ III
Năm 1954, sau Hiệp định Geneva thì Miền Bắc đã hồn tồn được
giải phóng. Từ Hội nghị lần thứ 9 Ban chấp hành Trung ương khóa 2 năm
1956, Đảng ta đã đặt vấn đề chuyển dần Miền Bắc đi lên chủ nghĩa xã
hội. Cũng kể từ lúc này Đảng ta đã dần xác định lại con đường cách mạng
ở Việt Nam thơng q q trình khơi phục và phát triển nền kinh tế quốc
dân ở Miền Bắc. Những chuyển biến tư tưởng của Đảng trong Nghị quyết
Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng lần thứ III về con đường cách mạng
của cách mạng Việt Nam là kết quả của sự ảnh hưởng xu hướng tả trong
phong trào cách mạng quốc tế vào Việt Nam, cũng như là sự nhận thức
chưa đúng đắn về khả năng phát triển thực tế của cách mạng Việt Nam.
- Thay đổi nhận thức về đặc điểm xã hội
Sau Hiệp định Geneva tính chất xã hội Việt Nam có mặc dù chưa
thốt khỏi tình trạng nửa phong kiến nửa thuộc địa nhưng đã có những
thay đổi đáng kể lớn. Đặc biệt nhất là việc phân chia làm 2 vùng tập kết
được ngăn cách bởi vĩ tuyến 17 đồng thời đã làm xuất hiện tình trạng Việt
Nam bị phân chia làm 2 miền Nam Bắc.
Miền Bắc được giải phóng hồn tồn có tính chất dân chủ nhân dân,
có tính chất nửa phong kiến, trong đấy mâu thuẫn chủ yếu là chế độ dân
chủ nhân dân đối với tàn tích của chế độ phong kiến. Từ năm 1956 cho
đến Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III, Miền Bắc tiến hành đẩy nhanh
việc phát triển chế độ dân chủ nhân dân, chuyển dần sang việc tạo những
tiền đề cơ bản để tiến hành cải tạo xã hội chủ nghĩa, nhằm đưa miền Bắc
tiến lên con đường xã hội chủ nghĩa. Cho đến Đại hội toàn quốc lần thứ
III của Đảng ta, tính chất xã hội miền Bắc đã khác hẳn, mặc dù vẫn còn
lạc hậu và sót lại chút ít tàn dư phong kiến, song bộ mặt căn bản của miền
Bắc đã được tổ chức tạo thành tiền đề cho cách mạng xã hội chủ nghĩa
như4: hồn thành cải cách ruộng đất, xóa sổ giai cấp địa chủ, khôi phục và
4 Văn kiện Đại hội đảng, Nghị quyết của Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ III, báo điện tử Đảng cộng sản Việt
Nam, ngày 20-4-2018
tiến hành cải tạo xã hội chủ nghĩa trong kinh tế, kiện tồn chính quyền
dân chủ nhân dân để thực hiện nhiệm vụ chun chính vơ sản.
Cịn Miền Nam vẫn đang chịu sự quản lý của Pháp để chờ Tổng
tuyển cử hiệp thương chính trị. Song, ngay khi Pháp rút đi, thì đế quốc
Mỹ nhảy vào Miền Nam nhằm thay chân Pháp thiết lập chế độ thuộc địa
kiểu mới ở Miền Nam Việt Nam bằng cách lập nên chính quyền tay sai
Ngơ Đình Diệm. Tính chất xã hội Miền Nam vẫn là tính chất nửa thuộc
địa, nửa phong kiến, trong đấy mâu thuẫn chủ yếu là mâu thuẫn giữa
nhân dân Miền Nam đối với đế quốc Mỹ và tay sai5.
Những chuyển biến xã hội Việt Nam từ 1954-1960 đã làm cho
những đặc điểm xã hội Việt Nam thay đổi nhanh chóng, phức tạp: Miền
Bắc đã có những đặc điểm cơ bản để tiến hành cải tạo xã hội chủ nghĩa;
trong khi đấy Miền Nam tính thuộc địa, nửa phong kiến chưa chấm dứt.
Đây cũng chính là điểm thay đổi đáng kể so với nhận định về đặc điểm
xã hội Việt Nam trong Chính cương của Đảng Lao động Việt Nam.
- Thay đổi nhận thức về đặc điểm cách mạng
Cùng với sự thay đổi của đặc điểm xã hội Việt Nam, nhận thức về
đặc điểm cách mạng của Đảng Lao động Việt Nam cũng đã có sự thay đổi
căn bản. Về đặc điểm cách mạng, Đảng Lao động Việt Nam vẫn nhất
quán phương hướng trước đây đã được thông qua tại Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ hai của Đảng vào năm 1951: giai đoạn thứ nhất, nhiệm
vụ chủ yếu là hồn thành giải phóng dân tộc; giai đoạn thứ hai, nhiệm vụ
chủ yếu là xố bỏ những di tích phong kiến và nửa phong kiến, thực hiện
triệt để người cày có ruộng, phát triển kỹ nghệ, hồn chỉnh chế độ dân
chủ nhân dân; giai đoạn thứ ba, nhiệm vụ chủ yếu là xây dựng cơ sở cho
chủ nghĩa xã hội, tiến lên thực hiện chủ nghĩa xã hội.
5 Văn kiện Đại hội đảng, Nghị quyết của Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ III, báo điện tử Đảng cộng sản Việt
Nam, ngày 20-4-2018
Ở Miền Bắc, sau khi được giải phóng, cách mạng giải phóng dân
tộc đã hồn tồn thắng lợi, nhiệm vụ giai đoạn thứ nhất đã hoàn thành
thắng lợi. Đáng lẽ, miền Bắc bước vào giai đoạn thứ hai, thời kỳ xây
dựng chế độ dân chủ nhân dân trong một khoảng thời gian dài để tạo
những điều kiện tốt nhất để bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Tuy nhiên, Đảng ta tại Đại hội III lại có nhận định khác biệt so với Chính
cương của Đảng Lao động Việt Nam năm 1951, Nghị quyết Đai hội đại
biểu tồn quốc lần III có viết: “Từ khi hịa bình được lập lại, miền Bắc
nước ta đã bước vào thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội. Đại hội
nhận định rằng: miền Bắc nước ta có đủ điều kiện vượt qua giai đoạn
phát triển tư bản chủ nghĩa tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội. Luận điểm
ấy được đề ra trong bản Luận cương chính trị nǎm 1930, ngày nay đang
được thực tiễn chứng minh là đúng”6.
Sự nghiệp xây dựng chế độ dân chủ nhân dân được rút ngắn gọn lại
trong phạm vi thời kỳ khôi phục và phát triển chế độ kinh tế dân chủ nhân
dân trong giai đoạn 1955 - 1957. Kể từ 1958, khi Đảng ta bắt đầu triển
khai thực hiện chiến lược kinh tế 3 năm 1958-1960, đưa miền Bắc bước
vào thời kỳ cải tạo xã hội chủ nghĩa bằng việc sử dụng các biện pháp
chun chính vơ sản của Nhà nước dân chủ nhân dân cải tạo toàn bộ nền
kinh tế đất nước nhằm đưa miền Bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Việc xuất hiện sự “chệch” hướng nhận thức về đặc điểm cách mạng
Việt Nam có thể xuất phát từ sự ảnh hưởng những tư tưởng tả theo con
đường của “thời kỳ quá độ” ở Trung Quốc của Mao Trạch Đông. Trung
Quốc cũng từ bỏ lý thuyết phát triển chế độ dân chủ mới vào năm 1953
và đưa ra đường lối mới về thời kỳ quá độ, đưa Trung Quốc trong vòng
20 năm đưa Trung Quốc tiến lên chủ nghĩa xã hội xuất phát từ một nước
nông nghiệp nông thôn nghèo nàn lạc hậu.
6 Văn kiện Đại hội đảng, Nghị quyết của Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ III, báo điện tử Đảng cộng sản Việt
Nam, ngày 20-4-2018
Ở miền Bắc Việt Nam, luận điểm này cũng giống tương tự, việc xây
dựng chế độ dân chủ nhân dân cũng đã bị xóa bỏ, và xem rằng việc phục
hồi và phát triển nền kinh tế quốc dân từ 1955 - 1960 là một bộ phận của
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Xem thực chất của vấn đề phát triển
kinh tế thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là biến chế độ sở hữu kinh tế
xã hội chủ nghĩa trở thành nền tảng kinh tế duy nhất trong xã hội. Nghị
quyết Đại hội lần thứ III viết: “Muốn đạt mục tiêu ấy, phải sử dụng chính
quyền dân chủ nhân dân làm nhiệm vụ lịch sử của chun chính vơ sản
để thực hiện cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với nông nghiệp, thủ công
nghiệp, thương nghiệp nhỏ và công thương nghiệp tư bản chủ nghĩa tư
doanh; phát triển thành phần kinh tế quốc doanh, thực hiện cơng nghiệp
hóa xã hội chủ nghĩa bằng cách ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một
cách hợp lý, đồng thời ra sức phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ;
đẩy mạnh cách mạng xã hội chủ nghĩa về tư tưởng, vǎn hóa và kỹ thuật;
biến nước ta thành một nước xã hội chủ nghĩa có cơng nghiệp hiện đại,
nơng nghiệp hiện đại, vǎn hóa và khoa học tiên tiến”7.
Tại Đại Hội III, Đảng ta cũng đã làm rõ chặng đường quá độ lên chủ
nghĩa xã hội : “Cách mạng xã hội chủ nghĩa là một quá trình cải biến
cách mạng về mọi mặt, nhằm đưa miền Bắc nước ta từ nền kinh tế chủ
yếu dựa trên sở hữu cá thể về tư liệu sản xuất tiến lên nền kinh tế xã hội
chủ nghĩa dựa trên sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể, từ nền sản xuất
nhỏ tiến lên nền sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, từ tình trạng kinh tế rời
rạc và lạc hậu tiến lên một nền kinh tế cân đối và hiện đại”8.
Như vậy, sự chuyển biến tư tưởng của Đảng ta tại Đại hội III có thể
đúc kết như sau:
7 Văn kiện Đại hội đảng, Nghị quyết của Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ III, báo điện tử Đảng cộng sản Việt
Nam, ngày 20-4-2018
8 Văn kiện Đại hội đảng, Nghị quyết của Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ III, báo điện tử Đảng cộng sản Việt
Nam, ngày 20-4-2018
Thứ nhất, xem giai đoạn thứ hai, giai đoạn phát triển chế độ dân chủ
nhân dân không phải là một giai đoạn độc lập tất yếu; không xem giai
đoạn phát triển chế độ dân chủ nhân dân là giai đoạn chuẩn bị cho thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội, mà tiến lên quá độ trực tiếp.
Thứ hai, trật tự kinh tế và xã hội không phải là cơ cấu ổn định để
phát triển từng bước, mà là một trận tự kinh tế và xã hội chuyển động liên
tục, trong đó thu hẹp dần nhân tố tư bản chủ nghĩa, mở rộng nhân tố xã
hội chủ nghĩa.
Thứ ba, công nghiệp hóa khơng cịn được xem là điều kiện để bước
vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, mà xem là điều kiện để bước vào
xã hội xã hội chủ nghĩa. Cho nên, cơng nghiệp hóa phải là cơng nghiệp
hóa xã hội chủ nghĩa.
Sự thay đổi này có thể cho thấy trong quá trình giải quyết về con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Đảng Lao động Việt Nam đã
giải quyết vấn đề dựa trên cơ trên cơ sở cải tiến không ngừng quan hệ sản
xuất.
Ở Miền Nam, khi đế quốc Mỹ nhảy vào tiếp tục duy trì ách xâm
lược thì tính chất xã hội vẫn không thay đổi nước ta vẫn là thuộc địa nửa
phong kiến, chính vì thế đặc điểm cách mạng ở Miền Nam vẫn là cách
mạng dân tộc dân chủ nhân dân, nhằm đánh đổ ách thống trị của đế quốc
và lật đổ bọn tay sai. Đảng ta xem vấn đề cách mạng Miền Nam giống
như những vấn đề Chính cương của Đảng Lao động Việt Nam đã nêu từ
năm 1951.
Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần III của Đảng đã nhận
định: “Nhiệm vụ trước mắt của cách mạng miền Nam là: đoàn kết toàn
dân, kiên quyết đấu tranh chống đế quốc Mỹ xâm lược và gây chiến,
đánh đổ tập đồn thống trị độc tài Ngơ Đình Diệm tay sai của đế quốc
Mỹ, thành lập một chính quyền liên hợp dân tộc dân chủ ở miền Nam,
thực hiện độc lập dân tộc, các quyền tự do dân chủ, cải thiện đời sống
nhân dân, giữ vững hịa bình, thực hiện thống nhất nước nhà trên cơ sở
độc lập và dân chủ, tích cực góp phần bảo vệ hịa bình ở Đơng - Nam á
và thế giới”9.
Tuy nhiên, Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần III về đặc
điểm cách mạng miền Nam đã không chỉ rõ phương hướng phát triển sau
cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân. Tất nhiên, trên thực tế thì Cách
mạng Miền Nam sẽ nối tiếp con đường quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội
như ở Miền Bắc, không trãi qua việc xây dựng chế độ dân chủ nhân dân
nữa.
Sự phân chia làm hai miền, đã làm cho đặc điểm cách mạng Việt
Nam ở mỗi miền khác nhau, đồng thời cũng làm cho sự nhận thức về đặc
điểm cách mạng Việt Nam cũng có những thay đổi mới, trong đó đặc
điểm cách mạng miền Bắc có những thay đổi đáng kể, có xu hướng tả
ngày càng lớn, và chuyển dần việc xây dựng chế độ dân chủ nhân dân là
cơ sở cho nền dân chủ và pháp chế sang hình thức chế độ dân chủ nhân
dân là cơng cụ cho chun chính vô sản.
- Thay đổi nhận thức về tập hợp lực lượng cách mạng
Cũng như đặc điểm xã hội và đặc điểm cách mạng Việt Nam, con
đường cách mạng Việt Nam cũng bị phân làm hai miền, tùy theo điều
kiện của mỗi miền mà có con đường khác nhau.
Ở Miền Bắc, khi đã đặt nhận thức đặc điểm cách mạng Miền bắc
vào thời kỳ quá độ để đi lên chủ nghĩa xã hội, thì nhận thức về con đường
9 Văn kiện Đại hội đảng, Nghị quyết của Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ III, báo điện tử Đảng cộng sản Việt
Nam, ngày 20-4-2018
cách mạng Việt Nam cũng phải thay đổi. Nếu như trong Chính cương của
Đảng Lao động Việt Nam xem việc đoàn kết toàn dân tộc ở đây là bao
gồm hết thảy mọi tầng lớp nhân dân bất kể thành phần thì trong Nghị
quyết Đại hội đại biểu tồn quốc lần III, ý nghĩa toàn dân trong Nghị
quyết đã bị thu hẹp khi đất nước đã tiến hành Cải cách ruộng đất, cải tạo
xã hội chủ nghĩa trên cơ sở chính quyền dân chủ nhân dân thực hiện
chun chính vơ sản.
Nghị quyết có viết: “Muốn đạt mục tiêu ấy, phải sử dụng chính
quyền dân chủ nhân dân làm nhiệm vụ lịch sử của chun chính vơ sản
để thực hiện cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với nông nghiệp, thủ công
nghiệp, thương nghiệp nhỏ và công thương nghiệp tư bản chủ nghĩa tư
doanh”10.
Các phần tử phi chủ nghĩa xã hội mặc dù tồn tại nhưng ít ỏi và mất
tính chất về mặt giai cấp. Lực lượng chủ đạo vẫn là công nhân và nơng
dân, bên cạnh đó Đảng ta chủ trương phải đồn kết với thợ thủ cơng và
những người bn bán nhỏ.
Ở Miền Nam, trong khi vẫn tiếp tục tiến hành cách mạng giải phóng
dân tộc, quan điểm của Đảng ta vẫn tiếp tục thực thi giống như Chính
cương của Đảng Lao động Việt Nam, tức là đoàn kết toàn dân tộc, bao
gồm giai cấp công nhân, giai cấp nông dân, giai cấp tiểu tư sản, giai cấp
tư sản dân tộc, các tầng lớp và cá nhân yêu nước khác.
Nghị quyết có viết: “Để bảo đảm cho cuộc đấu tranh cách mạng ở
miền Nam giành được toàn thắng, đồng bào ta ở miền Nam cần ra sức
xây dựng khối công nông binh liên hợp và thực hiện một mặt trận dân tộc
thống nhất rộng rãi chống Mỹ - Diệm lấy liên minh công nông làm cơ sở.
Mặt trận này phải đoàn kết các giai cấp và các tầng lớp yêu nước, dân
tộc đa số, các dân tộc thiểu số, các đảng phái yêu nước và các tôn giáo,
10 Văn kiện Đại hội đảng, Nghị quyết của Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ III, báo điện tử Đảng cộng sản Việt
Nam, ngày 20-4-2018
và tất cả những người có khuynh hướng chống Mỹ - Diệm. Mục tiêu phấn
đấu của mặt trận này là hịa bình, độc lập dân tộc, tự do dân chủ, cải
thiện dân sinh, hịa bình thống nhất Tổ quốc. Cơng tác mặt trận phải
nhằm đoàn kết tất cả những lực lượng có thể đồn kết, tranh thủ bất cứ
lực lượng nào có thể tranh thủ, trung lập những thế lực cần phải trung
lập, thu hút đông đảo quần chúng nhân dân vào phong trào đấu tranh
chung chống Mỹ - Diệm nhằm giải phóng miền Nam, hịa bình thống
nhất Tổ quốc”11.
Có thể thấy, sự phân chia làm hai miền Nam Bắc cũng đã có những
ảnh hưởng đến sự nhận thức về tập hợp lực lượng cách mạng Việt Nam
của Đảng Lao động Việt Nam. Sự thay đổi này cũng cho thấy sự khác
biệt giữa Chính cương của Đảng Lao động Việt Nam và Nghị quyết
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III.
4. Những
điểm thay đổi của Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn
quốc của Đảng lần thứ IV so với Chính cương Đảng Lao động và
Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng lần thứ III.
Tháng 4 năm 1975, Miền Nam hồn tồn được giải phóng, chấm dứt
chặng đường 30 năm chiến tranh cách mạng nhằm giải phóng dân tộc,
thống nhất đất nước. Đứng trước tình hình mới của thế giới và của đất
nước ta sau ngày giải phóng, Đảng Cộng sản Việt Nam đã tiến hành Đại
hội đại biểu toàn quốc của Đảng lần thứ IV từ ngày 14 đến 20-12-1976.
Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ IV là một bước phát triển cao hơn nữa
nền chuyên chính vơ sản ở nước ta, nền chun chính vơ sản được tăng
cường và củng cố ở miền Bắc xã hội chủ nghĩa, đồng thời áp dụng cả ở
miền Nam nhằm đưa miền Nam bắt kịp với miền Bắc để cả nước cùng
tiến lên chủ nghĩa xã hội. So với Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc
lần III, Nghị quyết Đại hội đại biểu tồn quốc lần IV có những thay đổi:
11 Văn kiện Đại hội đảng, Nghị quyết của Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ III, báo điện tử Đảng cộng sản Việt
Nam, ngày 20-4-2018
- Thay đổi nhận thức về đặc điểm xã hội
Tính chất đặc điểm xã hội Việt Nam đã có những bước chuyển rất
lớn so với thời điểm Đại hội lần thứ III của Đảng ta vào năm 1960. Mặc
dù đất nước đã được thống nhất, non sông đã thu về một mối, song tình
hình đất nước vẫn cịn sự khác biệt, chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc căn bản
đã được xây dựng, cịn miền Nam thì mới bước vào thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội.
Miền Bắc sau hơn 20 năm bước vào thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa
xã hội đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng, trong đó chủ nghĩa xã hội
đã gần như là hình thức kinh tế chiếm tuyệt đối trong xã hội. Đặc điểm xã
hội ở miền Bắc là đã thanh tốn hồn tồn chế độ người bóc lột người, và
xây dựng hai chế độ sở hữu chủ yếu là toàn dân và tập thể.
Tuy nhiên, cơ sở vật chất của chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc vẫn còn
nhiều khuyết điểm, đặc biệt nền sản xuất vẫn còn kém phát triển, năng
suất lao động chưa cao, trình độ khoa học cơng nghệ phục vụ sản xuất
vẫn cịn chưa phát triển, cơ sở sản xuất cơng nghiệp nặng cịn q ít
khơng có khả năng cải tạo nơng nghiệp - để cơ giới hóa nơng nghiệp.
Đặc điểm chung của nền kinh tế là mặc dù đã chuyển sang hai hình
thức chủ yếu là toàn dân và tập thể, song chủ yếu vẫn là sản xuất nhỏ,
manh mún, chưa được cơ giới hóa đồng bộ. Cơng tác hợp tác hóa nhằm
tiến nền sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa không đạt hiệu quả, quan hệ sản
xuất tiến quá nhanh gây nhiều hậu quả chưa tốt, khơng có các hình thức
kinh tế q độ đúng đắn.
Ở Miền Nam, đặc điểm xã hội có những bước phát triển mới. Sau
ngày miền Nam hoàn toàn được giải phóng. Miền Nam đã bước vào thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Đặc điểm của xã hội miền Nam là vẫn
còn tàn dư của chủ nghĩa tư bản, quan hệ sở hữu ruộng đất và những hình
thức bóc lột kiểu phong kiến vẫn cịn tồn tại, cho nên Đảng ta đặt ra
những nhiệm vụ cải tạo xã hội nhằm đưa miền Nam xây dựng những cơ
sở vật chất của chủ nghĩa xã hội. Mâu thuẫn diễn ra chủ yếu giữa chế độ
dân chủ nhân dân đối với tàn dư của chủ nghĩa tư bản, cải tạo các doanh
nghiệp tư bản tư doanh theo hướng xã hội chủ nghĩa.
So với Nghị quyết Đại hội III, Nghị quyết Đại hội IV đã có những
khác biệt đáng kể. Xem cả nước đã bước vào thời kỳ quá độ là điểm khác
biệt quan trọng nhất. Khác với Nghị quyết Đại hội III, Nghị quyết Đại hội
IV nhấn mạnh đến đặc điểm miền Bắc đã chủ nghĩa xã hội đã chiếm vị trí
tuyệt đối trong xã hội. Nghị quyết Đại hội IV nhấn mạnh rằng đặc điểm
của xã hội Miền Nam là xã hội bước vào giai đoạn đầu của thời kỳ q
độ, giai đoạn của việc nền chun chính vơ sản sẽ cải tạo từng bước và
xây dựng những cơ sở vật chất cho chủ nghĩa xã hội.
- Thay đổi nhận thức về đặc điểm cách mạng
Đến Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng vào năm 1976,
đặc điểm của cách mạng Việt Nam đã chuyển hoàn toàn sang giai đoạn
thứ ba - giai đoạn xây dựng cơ sở vật chất cho chủ nghĩa xã hội, tức giai
đoạn bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Tuy nhiên, mặc dù ở
cùng giai đoạn thứ ba, song tính chất giữa hai miền vẫn có chút khác biệt.
Miền Bắc, đặc điểm cách mạng đã chuyển sang giai đoạn xây dựng
cơ sở vật chất của chủ nghĩa xã hội ở trình độ thấp. Trong khi đấy, ở miền
Nam chỉ mới bắt đầu chuyển sang giai đoạn cải tạo xã hội để tiến tới xây
dựng cơ sở vật chất của chủ nghĩa xã hội.
So với Nghị quyết Đại hội III, Nghị quyết Đại hội IV của Đảng ta
đã có những bước phát triển về việc nhận định đặc điểm cách mạng
Việt Nam. Trong đó, thay đổi căn bản nhất là xem rằng Việt Nam đã bước
vào giai đoạn cả nước bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội sau
khi miền Nam đã hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân. Trong
khi đó, Nghị quyết Đại hội III chỉ mới nhận định có miền Bắc mới bước
vào thời kỳ quá độ, còn miền Nam vẫn tiếp tục thực thi cách mạng dân
tộc dân chủ nhân dân. Cũng giống như Nghị quyết Đại hội III, Đại hội IV
cũng đã bỏ qua giai đoạn phát triển chế độ dân chủ nhân dân.
- Thay đổi nhận thức về tập hợp lực lượng cách mạng
Việc cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội, việc cả nước cùng bước vào
thời kỳ quá độ với việc đẩy mạnh nền chun chính vơ sản, cho nên hình
thức tập hợp lực lượng cách mạng cũng căn bản thay đổi, chủ yếu là ở
miền Nam khi cách mạng chuyển từ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân
sang cải tạo xã hội xã hội chủ nghĩa. Các hình thức tập hợp dân tộc trước
đây về tập hợp tư sản dân tộc, tiểu tư sản, trí thức, học sinh sinh viên,
bn bán nhỏ, ... đồn kết đấu tranh giải phóng dân tộc thì giờ đây chỉ
cịn liên minh công - nông, và các tầng lớp nhân dân lao động khác, các
giai cấp tầng lớp bóc lột đã từng bước được cải tạo theo chiều hướng xã
hội chủ nghĩa.
So với Nghị quyết Đại hội III, quan điểm về nhận thức tập hợp
lực lượng cách mạng ở Đại hội IV chỉ có khác biệt ở mặt phạm vi mà
thơi. Từ việc phạm vi chỉ ở miền Bắc, thì nay đã phạm vi cả nước. Nhưng
so với Chính cương của Đảng Lao động Việt Nam thì, vấn đề tập hợp lực
lượng cách mạng này đã bó hẹp lại hồn tồn, tuy nhiên, khơng giống
như Luận cương chính trị khi loại bỏ tất cả các giai cấp khác ra ngoài
khỏi cách mạng thì các Nghị quyết Đại hội III và IV nhấn mạnh đến việc
thu hẹp từng bước và thủ tiêu các nền tảng kinh tế của các giai cấp này
mới dẫn đến sự thủ tiêu về mặt giai cấp. Không phải là đánh đổ bằng các
vấn đề bạo lực như trước.
5. Kết
luận
Có thể thấy trong q trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng ta
đã có những sự tìm tịi, nghiên cứu và phát triển con đường cách mạng
Việt Nam. Xét về góc độ lý luận, đó là kết quả của một quá trình mong
muốn từng bước phát triển chế độ chun chính vơ sản ở Việt Nam nhằm
biến Việt Nam thành một nhà nước xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, trong
vấn đề nghiên cứu lý luận về Cương lĩnh, còn phải nói đến tính khả thi
của nó.
Những chuyển biến về quan điểm con đường cách mạng Việt Nam
từ Đại hội II đến Đại hội III và IV đã có những đóng góp to lớn và nhất
định vào sự nghiệp cách mạng nước nhà. Song, nói về tính khả thi thì có
lẽ những chuyển biến đó chưa phát huy được đầy đủ, thậm chí nó cịn là
trở ngại cho q trình phát triển kinh tế và xã hội. Thậm chí là tác động
ngược trở thành tác nhân gây nên sự khủng hoảng trầm trọng về kinh tế
được tổ chức theo lối kế hoạch hóa quan liêu bao cấp.
Theo em, cần thiết và nên duy trì con đường cách mạng Việt Nam
phải trãi qua ba giai đoạn, trong đó nhất định phải duy trì quan điểm: cần
phải có một thời gian dài xây dựng chế độ dân chủ nhân dân trong
khoảng thời gian lâu dài 10-20 năm nhằm củng cố những tiền đề kinh tế
xã hội để đất nước có thể bước vào thời kỳ quá độ. Vì căn bản, xã hội
Việt Nam là xã hội nơng nghiệp lạc hậu, cịn chịu tác động nặng nề bởi
chủ nghĩa tư bản và tàn tích của chế độ phong kiến, trình độ phát triển của
lực lượng sản xuất còn rất kém chưa đủ khả năng nắm và hoàn thành
những nhiệm vụ to lớn của chun chính vơ sản, Đảng cũng chưa được tổ
chức và thấm nhuần đầy đủ chủ nghĩa Mác - Lê-nin để có thể đáp ứng các
nhu cầu để lãnh đạo cơng cuộc cải tạo xã hội xã hội chủ nghĩa, chưa nắm
được các thức tổ chức các hình thức kinh tế quá độ. Tóm lại là chưa đủ
điều kiện để tiến hành thiết lập chun chính vơ sản và cải tạo xã hội chủ
nghĩa.
Đồng thời, trong thời kỳ xây dựng chế độ dân chủ nhân dân, chúng
ta hồn tồn có thể tổ chức nền kinh tế ngày càng phát triển, điều này
chúng ta đã thực hiện trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp nhưng ở quy
mô nhỏ hơn như là ở những vùng tự do, tuy cịn ít ỏi và lạc hậu như vùng
rừng núi, nhưng cũng đã cho ta thấy tính hiệu quả. Đồng thời cũng có thể
tranh thủ sự giúp đỡ của các nước xã hội chủ nghĩa anh em.
Tuy nhiên cũng khơng thể phủ nhận những tác động mang tính tả tác
động vào nội bộ Đảng Lao động Việt Nam từ phong trào cách mạng quốc
tế, làm phân hóa tư tưởng, tác động đến viề hình thành đường lối của
Đảng ta, làm đường lối đối của cách mạng Việt Nam đi vào con đường
chun chính vơ sản. Tất nhiên, đó là một sự phát triển về mặt lý luận
theo con đường chun chính vơ sản, tuy nhiên, việc chuyển biến tư
tưởng như trên đã gieo mầm cho những khuynh hướng tả trong Đảng phát
triển và dẫn đến một vài sai lầm, khuyết điểm trong sự lãnh đạo của Đảng
suốt trong một thời gian dài.
Đó cũng là một trong những nguyên nhân chủ yếu làm cho Đảng ta
đi đến việc phủ định về con đường phát triển chế độ dân chủ nhân dân,
giai đoạn quá độ để bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội để từng
bước tiến tới chủ nghĩa xã hội theo quan điểm của Hồ Chí Minh đã được
Chính cương của Đảng Lao động Việt Nam ghi nhận trước đó.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Văn kiện Đại hội Đảng, Chính cương của Đảng Lao động Việt
Nam, báo điện tử đảng cộng sản Việt Nam, ngày 19-4-2018
2. Văn kiện Đại hội Đảng, Điều lệ Đảng Lao động Việt Nam, báo
điện tử Đảng cộng sản Việt Nam, 18-4-2018
3. Văn kiện Đại hội đảng, Nghị quyết của Đại hội Đại biểu toàn
quốc lần thứ III, báo điện tử Đảng cộng sản Việt Nam, ngày 20-4-2018
4. Văn kiện Đại hội đảng, Nghị quyết của Đại hội Đại biểu toàn
quốc lần thứ IV, báo điện tử Đảng cộng sản Việt Nam, ngày 24-9-2015
5. Văn kiện Đại hội Đảng, Tuyên ngôn của Đảng Lao động Việt
Nam, báo điện tử Đảng cộng sản Việt Nam, 21-4-2018