Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

SỰ KHÁC BIỆT GIỮA CƯƠNG LĨNH CHÍNH TRỊ đầu TIÊN của ĐẢNG và LUẬN CƯƠNG CHÍNH TRỊ năm 1930

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (170.61 KB, 18 trang )

SỰ KHÁC BIỆT GIỮA CƯƠNG LĨNH CHÍNH TRỊ ĐẦU TIÊN
CỦA ĐẢNG VÀ LUẬN CƯƠNG CHÍNH TRỊ NĂM 1930

Bài viết trình bày những nội dung chủ yếu của Cương lĩnh chính trị
đầu tiên và Luận Cương chính trị, đồng thời cũng chỉ ra sự khác biệt giữa
2 cương lĩnh, và có một số nhận xét về con đường cách mạng Việt Nam
cũng như tính đúng đắn của Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng Cộng
sản Việt Nam.
1. Đặt vấn đề
Cương lĩnh chính trị bao gồm những nội dung cơ bản như sau:
cương lĩnh lý luận, cương lĩnh thực tiễn và cương lĩnh xây dựng Đảng.
Trong đó có thể nói cương lĩnh lý luận và cương lĩnh thực tiễn là quan
trọng bậc nhất, ngày nay chúng ta thường gọi đó là Cương lĩnh chính trị
của Đảng.
Khái niệm cương lĩnh lý luận và cương lĩnh thực tiễn là do Mác và
Ăng-ghen đã khái quát trong Lời đề tựa cuốn “Tuyên ngôn của Đảng
Cộng sản” bản tiếng Pháp năm 1872. Cương lĩnh lý luận được xem là nền
tảng chính của Cương lĩnh chính trị, còn Cương lĩnh thực tiễn được xem
là hạt nhân của Cương lĩnh chính trị. Cả hai nội dung trên của Cương lĩnh
chính trị đều có mối liên hệ với nhau, vừa có tính thống nhất, vừa có tính
bổ sung qua lại.
- Cương lĩnh lý luận
Nội dung chủ yếu của nó là đề cập đến nền tảng lý luận tư tưởng của
Đảng. Cương lĩnh lý luận của Đảng đề cập đến hai nội dung chủ yếu: thứ
nhất, đó là thế giới quan tư tưởng và phương pháp luận. Trong lời đề tựa
lần thứ 7 cho cuốn “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản”, Ăng-ghen đã nhiều
lần nhấn mạnh rằng: chủ nghĩa duy vật lịch sử “là tư tưởng cơ bản quán


triệt từ đầu đến cuối trong Tuyên ngôn”; thứ hai, đó là các vấn đề lý luận
về tình hình kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội của một quốc gia cụ thể


trong một thời gian cụ thể. Cũng trong tác phẩm “Tuyên ngôn của Đảng
Cộng sản”, Mác và Ăng-ghen qua những mục “người tư sản và vô sản”;
“người vô sản và người cộng sản” đã phân tích và trình bày lý luận về
tình hình mâu thuẫn cơ bản trong xã hội tư bản chủ nghĩa giai đoạn tự do
cạnh tranh và cơng nghiệp hóa, xu thế phát triển của giai cấp tư sản, bàn
về sự đấu tranh của giai cấp vơ sản chống tư sản, ...
Nói theo cách của các nhà lý luận cách mạng Việt Nam, có thể hiểu
cương lĩnh lý luận chính là nói đến tính chất, nhiệm vụ của một chính
Đảng đã đề ra, đó cũng chính là trung tâm của các vấn đề tranh luận trong
đảng để hình thành nên một Cương lĩnh chính trị.
- Cương lĩnh thực tiễn
Đúng với tên gọi của nó, nội dung đề cập đến những vấn đề thực tế,
những vấn mà chính Đảng phải hành động, là sự cụ thể hóa cương lĩnh lý
luận. Nói theo cách của các nhà lý luận cách mạng Việt Nam, cương lĩnh
thực tiễn có thể được hiểu bằng các thuật ngữ như: đường lối, chính sách,
phương châm, chiến lược, sách lược, .... Tất thảy các thuật ngữ ấy biểu
đạt nội hàm của cương lĩnh thực tiễn trong các nội dung khác nhau, tầm
vóc khác nhau.
Cương lĩnh thực tiễn có những đặc điểm sau: phù hợp tính giai
đoạn, đáp ứng tính thời đại ; có tính hệ thống ; có tính khả thi.
2. Nội dung căn bản của 2 bản Cương lĩnh
2.1 Cương lĩnh chính trị đầu tiên (2/1930)
Cuối những năm 20 thế kỷ XX, sự phát triển của các tổ chức cách
mạng và những chuyển biến tích cực trong phong trào yêu nước, phong
trào công nhân và các tầng lớp khác đã dẫn đến sự ra đời của 3 tổ chức


cộng sản là Đông Dương Cộng sản Đảng, An Nam Cộng sản Đảng và
Đơng Dương Cộng sản Liên đồn. Cả 3 tổ chức này hoạt động riêng lẻ và
tranh giành ảnh hưởng lẫn nhau, cho nên nhu cầu cấp thiết là phải thống

nhất 3 tổ chức này thành một chính đảng duy nhất của giai cấp công
nhân.
Trước những yêu cầu bức thiết của cách mạng Việt Nam, Nguyễn Ái
Quốc đã thực hiện sứ mệnh lịch sử khi hợp nhất 3 tổ chức cộng sản này
và thành lập nên chính đảng duy nhất cho cách mạng Việt Nam là Đảng
Cộng sản Việt Nam. Khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, đảng đã tiến
hành xác lập nên Cương lĩnh chính trị đầu tiên cho mình thơng qua các
văn kiện tiêu biểu: Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Điều lệ vắn
tắt; đã đặt những cơ sở, nền tảng vững chắc nhất cả về tư tưởng, chính trị
và tổ chức để phục vụ cho sự nghiệp đấu tranh giành độc lập, tự do cho
dân tộc Việt Nam.
Chính Người đã từng khẳng định ý nghĩa của Hội nghị hợp nhất 3 tổ
chức cộng sản để thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam: “Việc thành lập
Đảng là một bước ngoặt vô cùng quan trọng trong lịch sử cách mạng Việt
Nam ta, nó chứng tỏ giai cấp vô sản ta đã trưởng thành và đủ sức lãnh
đạo cách mạng”1.
- Cương lĩnh lý luận
Mặc dù không trực tiếp dùng thuật ngữ cương lĩnh lý luận, song
trong các văn kiện của Cương lĩnh chính trị đầu tiên của mình, Đảng
Cộng sản Việt Nam cũng đã nêu lên được đầy đủ những nội dung căn bản
của một cương lĩnh lý luận: thứ nhất, nói về nền tảng tư tưởng của đảng;
thứ hai, nói về tính chất và nhiệm vụ của chính đảng của mình.
Nói về nền tảng tư tưởng của Đảng: mặc dù Nguyễn Ái Quốc khi
soạn thảo các văn kiện Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Điều lệ
1 Hồ Chí Minh: Tồn tập, t.2, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995, tr.267-268.


tóm tắt cho Đảng Cộng sản Việt Nam khơng nhắc bất cứ lời nào đến tên
của các nhà lý luận chủ nghĩa cộng sản khoa học của Chủ nghĩa Mác Lê-nin, cũng khơng nhắc gì đến học thuyết, đến phương pháp luận của
chủ nghĩa Mác - Lê-nin, song chúng ta hồn tồn có thể hiểu được

Nguyễn Ái Quốc xác lập nền tảng tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam
là chủ nghĩa Mác - Lê-nin thông qua một cách gián tiếp khi nói đến các
vấn đề chủ đạo trong Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt và Điều lệ
vắn tắt của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Trong Chánh cương vắn tắt, Nguyễn Ái Quốc có viết: “để đi tới xã
hội cộng sản”2. Phấn đấu để đi tới mục tiêu xã hội cộng sản là ước
nguyện suốt đời của các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác - Lê-nin, đồng thời
đây cũng thể hiện là quan điểm “cương lĩnh tối đa” của một chính Đảng
theo đảng kiểu mới của Lê-nin.
Trong Chánh cương vắn tắt cịn viết: “e) Dựng chính phủ cơng nơng
binh; d) Tổ chức quân đội công nông”3. Về thực chất, đây là hình thức tổ
chức chính quyền và qn đội theo mơ hình Xơ viết đại biểu cơng - nơng
binh như ở nước Nga.
Trong Sách lược vắn tắt, Nguyễn Ái Quốc đã viết: “Đảng là đội tiên
phong của vô sản giai cấp”4. Đây là những nội dung chủ chốt theo lý luận
của Lê-nin về một đảng kiểu mới - Đảng của giai cấp vô sản.
Trong Điều lệ vắn tắt, mục Tơn chỉ, Nguyễn Ái Quốc có đề cập:
“Đảng Cộng sản Việt Nam tổ chức ra để lãnh đạo quần chúng lao khổ
làm giai cấp tranh đấu để tiêu trừ tư bản đế quốc chủ nghĩa, làm cho
thực hiện xã hội cộng sản”5. Trong đấy, Nguyễn Ái Quốc đã đề cập đến
2 Văn kiện Đảng tồn tập, t.2, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2002, tr.2
3 Văn kiện Đảng toàn tập, t.2, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2002, tr.2
4 Văn kiện Đảng tồn tập, t.2, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2002, tr.4
5 Văn kiện Đảng toàn tập, t.2, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2002, tr.7


nội dung cốt lõi của học thuyết Mác - đấu tranh giai cấp, và mục tiêu cuối
cùng là xây dựng xã hội cộng sản.
Trong Điều lệ vắn tắt, mục Lệ vào Đảng, Nguyễn Ái Quốc viết: “Ai
tin theo chủ nghĩa cộng sản, chương trình đảng và Quốc tế Cộng

sản,...”6. Điểm này chứng tỏ xác đáng nhất, Đảng Cộng sản Việt Nam lấy
chủ nghĩa Mác - Lê-nin làm nền tảng tư tưởng của mình.
Nói về tính chất, nhiệm vụ của Đảng: mặc dù là một văn kiện tóm
gọn. Song, trong Chánh cương vắn tắt, Nguyễn Ái Quốc đã trình bày khá
đầy đủ những vấn đề căn bản về tính chất và nhiệm vụ cho Đảng Cộng
sản Việt Nam.
Nói về tính chất cách mạng, Nguyễn Ái Quốc đã phân tích cụ thể
các vấn đề lý luận về tình hình kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội của Việt
Nam lúc bấy giờ: “Tư bản bản xứ đã thuộc tư bản Pháp, vì tư bản Pháp
hết sức ngăn trở sức sinh sản làm cho cơng nghệ bản xứ khơng thể mở
mang được. Cịn về nông nghệ một ngày tập trung đã phát sinh ra lắm
khủng hoảng, nông dân thất nghiệp nhiều. Vậy tư bản bản xứ khơng có
thế lực gì ta khơng nên nói họ về phe đế quốc được, chỉ bọn đại địa chủ
mới có thế lực và đứng hẳn về phe đế quốc chủ nghĩa ....”7. Từ những
phân tích trên Nguyễn Ái Quốc đã đi đến kết luận, cách mạng Việt Nam
phải trãi qua nhiều giai đoạn: trước là cách mạng tư sản dân quyền có tính
chất giải phóng, tiếp là thổ địa cách mạng để từ từ đi đến xã hội cộng sản.
Nguyễn Ái Quốc cũng đặt vấn đề cốt lõi là giải phóng dân tộc.
Nói về nhiệm vụ, Nguyễn Ái Quốc đã viết rất cụ thể những vấn đề
Đảng phải tranh đấu:
“A - Về phương diện xã hội thì:
a) Dân chúng được tự do tổ chức.
6 Văn kiện Đảng tồn tập, t.2, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2002, tr.7
7 Văn kiện Đảng tồn tập, t.2, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2002, tr.2


b) Nam nữ bình quyền,...
c) Phổ thơng giáo dục theo cơng nơng hóa
B - Về phương diện chính trị
a) Đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến

b) Làm cho nước Nam được hoàn toàn độc lập
c) Dựng chính phủ cơng nơng binh
d) Tổ chức ra qn đội công nông
C - Về phương diện kinh tế
a) Thủ tiêu hết các thứ quốc trái
b) Thâu hết sản nghiệp lớn (như công nghiệp, vận tải, ngân hàng, ...) của
tư bản đế quốc chủ nghĩa Pháp để giao cho Chính phủ công nông binh
quản lý
c) Thâu hết ruộng đất của đế quốc chủ nghĩa làm của công chia cho dân
cày nghèo
d) Bỏ sưu thuế cho dân cày nghèo
e) Mở mang công nghiệp và nông nghiệp

f) Thi hành luật ngày làm tám giờ”8.
Như vậy có thể thấy cương lĩnh lý luận của Đảng hoàn toàn được
thực hiện một cách đầy đủ trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng
do Nguyễn Ái Quốc chấp bút soạn thảo.
- Cương lĩnh thực tiễn
Như đã đề cập, cương lĩnh thực tiễn tức là nói đến những chỉ đạo
mang tính thực tiễn nhằm cụ thể hóa những vấn đề căn bản của cương
lĩnh lý luận. Trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt

8 Văn kiện Đảng tồn tập, t.2, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2002, tr.2-3.


Nam, Nguyễn Ái Quốc cũng đã trình bày khá đầy đủ và chi tiết về cương
lĩnh thực tiễn của Đảng.
Những nội dung căn bản của cương lĩnh thực tiễn thể hiện trong
Sách lược vắn tắt, Chương trình tóm tắt, tức những văn kiện có tính chất
chỉ thị các hoạt động thực tiễn của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Đồng thời, Cương lĩnh chính trị cũng bảo đảm đầy đủ được cả 3 đặc
điểm của cương lĩnh thực tiễn: phù hợp tính giai đoạn, đáp ứng tính thời
đại ; có tính hệ thống ; có tính khả thi.
Nói về phù hợp tính giai đoạn, đáp ứng tính thời đại. Theo cách
hiểu như quan điểm của Lê-nin, tức là nói đến “cương lĩnh tối thiểu” và
“cương lĩnh tối đa”. Lê-nin quan niệm rằng “cương lĩnh tối thiểu” của
những người cộng sản Nga là hướng tới những gì trước mắt, tức là một
cuộc cách mạng dân chủ tư sản kiểu mới do giai cấp vơ sản lãnh đạo để
lật đổ nền chun chính của chế độ Nga hồng, cịn “cương lĩnh tối đa”
tức là tiến tới chủ nghĩa xã hội. Nói theo cách nói của các nhà lý luận
cách mạng Việt Nam, có thể nói đến đó là phương hướng chính trị của
Đảng Cộng sản Việt Nam.
Trong Chánh cương vắn tắt, Nguyễn Ái Quốc đã đề cập đến phù
hợp tính giai đoạn, đáp ứng tính thời đại thơng qua kết luận: “nên chủ
trương làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới
xã hội cộng sản”9. Trong đó có thể hiểu, Nguyễn Ái Quốc xem cách
mạng Việt Nam theo khuynh hướng vô sản là một bộ phận của cách mạng
thế giới, đó là sự phù hợp với tính thời đại; nhưng đồng thời Nguyễn Ái
Quốc cũng xác định rằng con đường cách mạng Việt Nam phải trãi qua 3
giai đoạn khác biệt, trong đó giai đoạn đầu tiên là cách mạng tư sản dân
quyền có nhiệm vụ chủ yếu là giải phóng dân tộc; giai đoạn thứ hai là thổ
địa cách mạng (cách mạng ruộng đất) nằm trong giai đoạn phát triển chế
9 Văn kiện Đảng toàn tập, t.2, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2002, tr.2


độ dân chủ; và giai đoạn cuối là tiến tới chủ nghĩa xã hội. Vì những đặc
điểm và đặc thù của Việt Nam khác biệt so với nước Nga, cho nên tính
phù hợp giai đoạn cũng phải được xem xét và phân chia một cách phù
hợp cho tiến trình cách mạng ở Việt Nam, tiến trình cách mạng ở một
nước phong kiến nửa thuộc địa khơng thể giống với tình hình như nước

Nga đã từng trãi qua chủ nghĩa tư bản đế quốc.
Nói về tính hệ thống. Có thể thấy tồn bộ Cương lĩnh chính trị đầu
tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam là một hệ thống lý luận thống nhất, đầy
đủ, toàn diện. Các văn kiện tuy độc lập, nhưng có mối quan hệ mật thiết,
sâu sắc lẫn nhau, văn kiện này phản ánh văn kiện kia, văn kiện này là sự
cụ thể hóa của văn kiện kia.
Nói về tính khả thi. Có thể thấy Cương lĩnh chính trị đầu tiên của
Đảng Cộng sản Việt Nam là văn kiện có tính khả thi nhất. Nó phản ánh
đúng đắn về tính chất và nhiệm vụ của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với
hoàn cảnh đặc thù của riêng Việt Nam. Đồng thời nó cũng thể hiện đúng
đắn về phương hướng chính trị và sách lược chính trị của Đảng Cộng sản
Việt Nam khi xem xét dựa vào những điều kiện cụ thể của Việt Nam. Nếu
so với Luận cương chính trị, có thể cho thấy sự ưu việt và tính đúng đắn
của Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam, ngay cả
trên bình diện lý luận và trên thực tế lịch sử cách mạng Việt Nam.
2.2 Luận Cương chính trị (10/1930)
Sau Hội nghị thành lập Đảng, Cương lĩnh chính trị và Điều lệ của
Đảng được bí mật đưa vào phong trào cách mạng của quần chúng, phong
trào cách mạng phát triển mạnh mẽ và tiến dần lên cao trào. Ban chấp
hành Trung ương lâm thời vừa được thành lập đã phải bước vào cuộc thử
thách toàn diện trên cương vị đội tiền phong lãnh đạo cuộc đấu tranh mới
của dân tộc.


Tháng 4-1930, đồng chí Trần Phú được Quốc tế Cộng sản phái từ
Moskva về nước, đồng chí được bầu bổ sung vào Ban chấp hành Trung
ương Lâm thời và được phân công cùng với Ban Thường vụ chuẩn bị
soạn thảo bản Luận cương chính trị trình Hội nghị lần thứ nhất Ban chấp
hành Trung ương Đảng. Hội nghị lần thứ nhất của ban chấp hành Trung
ương Đảng đã quyết định thơng qua bản Luận cương chính trị của Trần

Phú và bầu Trần Phú làm Tổng bí thư. Hội nghị đã quyết định đổi tên
Đảng Cộng sản Việt Nam thành Đảng Cộng sản Đông Dương và ra Án
nghị quyết thủ tiêu Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt mà Nguyễn Ái
Quốc đã đề ra từ Hội nghị thành lập Đảng.
- Cương lĩnh lý luận
Mặc dù không trực tiếp dùng thuật ngữ cương lĩnh lý luận, song
trong các văn kiện của Luận cương chính trị tháng 10 của Tổng bí thư
Trần Phú, Đảng Cộng sản Đông Dương cũng đã nêu lên được đầy đủ
những nội dung căn bản của một cương lĩnh lý luận: thứ nhất, nói về nền
tảng tư tưởng của đảng; thứ hai, nói về tính chất và nhiệm vụ của chính
đảng của mình.
Nói về nền tảng tư tưởng của Đảng: Cũng giống như Cương lĩnh
chính trị, Luận cương không đề cập trực tiếp và cụ thể nhưng cũng gián
tiếp xác nhận lấy chủ nghĩa Mác - Lê-nin làm nền tảng tư tưởng thơng
qua bản Luận cương chính trị và thông qua Án nghị quyết của Hội nghị
lần thứ nhất Ban chấp hành Trung ương Đảng.
Trong Luận cương chính trị của Đảng, Trần Phú viết: “Tư sản dân
quyền cách mạng được thắng lợi, chánh phủ công nông đã dựng lên rồi,
thì cơng nghiệp trong nước được phát triển, các tổ vô sản được thêm
mạnh, quyền lãnh đạo của vô sản sẽ thêm kiên cố, sức mạnh giai cấp
tương đương sẽ nặng về vơ sản. Lúc đó sự tranh đấu sẽ thêm sâu, thêm
rộng, làm cho cách mạng tư sản dân quyền tiến lên con đường cách


mạng vô sản”10. Luận điểm này thực chất là áp dụng lại tiến trình cách
mạng dân chủ tư sản kiểu mới theo mơ hình cách mạng Nga của Lê-nin,
như đã xảy ra ở Cách mạng Nga 1905 và Cách mạng Nga tháng 2-1917,
dựa trên cơ sở của chủ nghĩa Mác - Lê-nin.
Trong Án nghị quyết của Hội nghị lần thứ nhất Ban chấp hành
Trung ương, trong mục Nhiệm vụ hiện thời của Đảng, điểm số 11, điểm

c, có viết “Đem Án nghị quyết của Quốc tế, chánh sách và kế hoạch của
Đảng mà thảo luận cho khắp trong Đảng, lấy đó làm căn bổn mà chỉnh
đốn nội bộ, làm cho Đảng Bơn-sơ-vích hóa”11.
Nói về tính chất, nhiệm vụ của Đảng: khác với Cương lĩnh chính trị
đầu tiên, đến Luận cương chính trị, đồng chí Trần Phú đã có thời giờ để
chuẩn bị, nghiên cứu và đề ra bản Cương lĩnh chính trị thứ hai cho Đảng
Cộng sản Đơng Dương, cho nên kết cấu trình bày tương đối tốt hơn. Trần
Phú đã trình bày tính chất và nhiệm vụ cách mạng Đơng Dương thành
một mục cụ thể.
Nói về tính chất cách mạng. Trần Phú đã phân tích thành 2 luận
điểm12. Vấn đề thứ nhất, cuộc cách mạng Đông Dương phải trãi qua 2 giai
đoạn đó là tư sản dân quyền cách mạng và xã hội cách mạng, trong đấy tư
sản dân quyền có tính chất là thổ địa và phản đế. Vấn đề thứ hai, Trần
Phú luận rằng cần phải đánh đổ địa chủ và xem đánh đổ địa chủ phong
kiến có mối quan hệ khăn khít với đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp.
Nói về nhiệm vụ cách mạng. Trần Phú viết:
“a) Đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp, phong kiến và địa chủ,
b) Lập chánh phủ công nông

10 Văn kiện Đảng tồn tập, t.2, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2002, tr.98
11 Văn kiện Đảng toàn tập, t.2, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2002, tr.119
12 Văn kiện Đảng tồn tập, t.2, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2002, tr.97-98.


c) Tịch ký hết thảy ruộng đất của bọn địa chủ ngoại quốc, bổn xứ và
các giáo hội; giao ruộng đất ấy cho trung và bần nông, quyền sở hữu
ruộng đất về chánh phủ công nông.
d) Sung công hết thảy các sản nghiệp lớn cảu bọn tư bổn ngoại
quốc,
đ) Bỏ các sưu thuế hiện thời, lập ra thuế lũy tiến,

e) Ngày làm công tám giờ, sửa đổi sự sanh hoạt cho thợ thuyền và
quần chúng lao khổ,
f) Xứ Đông Dương hoàn toàn độc lập, thừa nhận dân tộc tự quyết,
g) Lập qn đội cơng nơng
h) Nam nữ bình quyền
i) Ủng hộ Liên bang Xô viết, liên kết vô sản giai cấp toàn thế giới
và phong trào cách mạng thuộc địa và bán thuộc địa”13.
- Cương lĩnh thực tiễn
Cương lĩnh thực tiễn tức là nói đến những chỉ đạo mang tính thực
tiễn nhằm cụ thể hóa những vấn đề căn bản của cương lĩnh lý luận. Trong
Luận cương chính trị của Đảng Cộng sản Đơng Dương, Trần Phú đã trình
bày khá đầy đủ và chi tiết về cương lĩnh thực tiễn của Đảng.
Những nội dung căn bản của cương lĩnh thực tiễn thể hiện trong
điểm “Tánh chất và nhiệm vụ của cách mạng Đông Dương”, mục số 11:
Cách tranh đấu, mục số 12: Phản đối đế quốc chiến tranh, mục số 13:
Liên lạc với vô sản và dân tộc thuộc địa thế giới, đều thể hiện sự cụ thể
hóa các quan điểm mà Luận cương chính trị đề ra.

13 Văn kiện Đảng tồn tập, t.2, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2002, tr.99


Đồng thời, Cương lĩnh chính trị cũng bảo đảm đầy đủ được cả 3 đặc
điểm của cương lĩnh thực tiễn: phù hợp tính giai đoạn, đáp ứng tính thời
đại ; có tính hệ thống ; có tính khả thi.
Nói về phù hợp tính giai đoạn, đáp ứng tính thời đại. Luận cương
chính trị mơ phỏng các quan điểm của Đảng Cộng sản Bơn-sơ-vích Liên
Xơ và Quốc tế Cộng sản khi xác định “cương lĩnh tối thiểu” là cách mạng
dân tư sản dân quyền có tính chất thổ địa và phản đế, thực chất là cách
mạng dân chủ tư sản kiểu mới; xác định “cương lĩnh tối đa” là hướng tới
xã hội cách mạng.

Trong Luận cương chính trị, Trần Phú viết: “Tư sản dân quyền cách
mạng là thời kỳ dự bị để làm xã hội cách mạng” 14. Trong đó Trần Phú
xem cách mạng Việt Nam là cuộc cách mạng tư sản dân quyền làm hai
nhiệm vụ chiến lược song song, một mặt chống đế quốc chủ nghĩa Pháp
nhằm thực thi độc lập dân tộc, đồng thời chống chế độ phong kiến, địa
chủ nhằm thổ địa cách mạng để thúc đẩy quần chúng nơng dân tham gia
cách mạng. Xem đó là tính giai đoạn. Trần Phú cũng xem cách mạng Việt
Nam là một bộ phận cách mạng vô sản quốc tế, nhờ chun chính vơ sản
quốc tế mà đưa Việt Nam theo con đường Xơ viết cơng - nơng, xem đó là
tính thời đại. Tất nhiên, khi đề ra các vấn đề lý luận, xem rằng lý luận đó
phù hợp với tính thời đại và tính giai đoạn như vậy là chưa sát, thực tế,
trong quá trình thực tiễn của cách mạng thì sự khơng phù hợp mới thực
sự được được chứng thực.
Nói về tính hệ thống. Có thể thấy tồn bộ Luận cương chính trị của
Đảng Cộng sản Đơng Dương là một hệ thống lý luận thống nhất, đầy đủ,
toàn diện. Các văn kiện tuy độc lập, nhưng có mối quan hệ mật thiết, sâu
sắc lẫn nhau, văn kiện này phản ánh văn kiện kia, văn kiện này là sự cụ
thể hóa của văn kiện kia.
14 Văn kiện Đảng tồn tập, t.2, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2002, tr.97-98


Nói về tính khả thi. Có thể thấy Luận cương chính trị mặc dầu có
tính khả thi khi xét trên bình diện lý luận. Song sự vận động thực tế của
lịch sử lại cho thấy tính khả thi đó khơng đảm bảo, trên hết, lý luận đó
chưa sát với thực tế thực tiễn cách mạng Việt Nam lúc bấy giờ. Nó khơng
phản ánh đúng đắn về tính chất và nhiệm vụ của Đảng Cộng sản Đơng
Dương đối với hồn cảnh đặc thù của riêng Việt Nam. Đồng thời nó cũng
cho thấy phương hướng chính trị và cương lĩnh thực tiễn của Đảng Cộng
sản Đơng Dương khi đánh giá tình hình cách mạng Việt Nam là chưa sâu
sát. Nếu so với Cương lĩnh chính trị, có thể cho thấy sự yếu kém hơn về

cả sự nhạy bén chính trị, trình độ lý luận của Trần Phú khi đồng chí bắt
chước và mơ phỏng những chương trình của Quốc tế Cộng sản vào điều
kiện đặc thù riêng biệt của cách mạng Việt Nam.
3. Sự khác biệt giữa 2 bản Cương lĩnh
Sự ra đời của Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt
Nam là một đặc điểm vô cùng đặc biệt, hoàn toàn khác với với sự ra đời
Cương lĩnh chính trị của các đảng cộng sản anh em. Đảng Công nhân xã
hội dân chủ Nga do Lê-nin lãnh đạo ra đời năm 1898 nhưng đến năm
1903 mới có Cương lĩnh chính trị đầu tiên. Đảng Cộng sản Trung Quốc
thành lập năm 1921, nhưng mãi đến 1945 mới có Cương lĩnh chính trị
đầu tiên do Mao Trạch Đơng đề xuất. Có thể thấy, việc ra đời của Cương
lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng đồng thời cùng với sự ra đời của Đảng
Cộng sản Việt Nam cho thấy Đảng ta đã hồn tồn chín muồi về mặt tư
tưởng, đã có ngọn cờ tư tưởng trong tay. Tuy nhiên hạn chế của Hội nghị
lần thứ nhất Ban chấp hành Trung ương tháng 10 năm 1930 đã làm
Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng bị thủ tiêu, song, những tư tưởng
và quan điểm của Hội nghị hợp nhất Đảng tháng 2-1930 vẫn tồn tại duy
trì ở một số cơ sở đảng cấp dưới.


Chánh Cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt mặc dù ra đời trước Luận
cương chính trị, nhưng lại đánh giá tình hình và vấn đề của cách mạng
Việt Nam chính xác hơn, thực tế hơn và sâu sắc hơn. Chánh cương vắn
tắt, Sách lược vắn tắt về thực chất là Cương lĩnh cách mạng dân tộc dân
chủ nhân dân, mặc dù vẫn còn chưa được phát triển đầy đủ nhưng cũng
đã được đề cập một cách rõ rệt, có hệ thống hóa lý luận. Những đặc điểm
chủ yếu của Cương lĩnh cách mạng dân tộc dân chủ này cũng chính là sự
khác biệt, sự ưu việt hơn của Cương lĩnh chính trị đầu tiên đối với Luận
cương chính trị:
- Nhận thức về đặc điểm xã hội

Về xã hội Việt Nam. Khi chủ nghĩa thực dân Pháp tiến hành xâm
lược Việt Nam đã thúc đẩy sự xâm nhập của chủ nghĩa tư bản đã làm thay
đổi toàn bộ kết cấu xã hội. Nước Pháp khơng có ý định biến Việt Nam
thành một nước tư bản chủ nghĩa theo lối nghĩa khai phá văn minh, mà
thực chất biến Việt Nam thành thị trường tiêu thụ hàng hóa chính quốc và
khai thác tài nguyên khoáng sản, biến Việt Nam thành một thuộc địa nửa
phong kiến. Mâu thuẫn chủ đạo ở Việt Nam là mâu thuẫn giữa chủ nghĩa
đế quốc Pháp và nhân dân Việt Nam, mâu thuẫn giữa đại địa chủ, chế độ
phong kiến và nông dân Việt Nam.
Ách áp bức của chủ nghĩa đế quốc Pháp đè lên đầu mọi tầng lớp
nhân dân Việt Nam chỉ trừ bọn cấu kết với đế quốc Pháp, mà ở đây chính
là bọn tay sai, bọn đại địa chủ và tư sản mại bản. Còn hết thảy các giai
tầng cịn lại đều có tinh thần chống Pháp. Chính vì thế, khi Luận cương
chính trị đề cập đến thái độ từng giai cấp đã phủ nhận tính tích cực của
các giai tầng khác ngồi cơng nhân, nơng dân thì đó là một hạn chế.
Trong khi đó Cương lĩnh chính trị đã chỉ ra được những mâu thuẫn chủ
yếu của xã hội Việt Nam. Đó chính là sự khác biệt giữa Cương lĩnh
chính trị đầu tiên của Đảng và Luận cương chính trị, về đặc điểm xã


hội Việt Nam. Chính sự đúng đắn trong nhận thức đặc điểm xã hội Việt
Nam đã dẫn đến nhận thức đúng đắn về đặc điểm cách mạng và đặc điểm
con đường cách mạng của nhân dân Việt Nam.
- Nhận thức về đặc điểm cách mạng
Chính những đặc điểm của xã hội đã quyết định đến đặc điểm của
cách mạng Việt Nam. Với tính chất là một nước nửa thuộc địa, nửa phong
kiến có trình độ nơng nghiệp lạc hậu, nơng dân chiếm đa số đã dẫn đến
tính chất cách mạng Việt Nam phải là cách mạng tư sản dân quyền có
những đặc điểm mới, nó khơng mang tính đấu tranh giai cấp thuần thúy,
mà trước nhất phải mang tính giải phóng dân tộc. Do đó, cách mạng Việt

Nam phải là cuộc cách mạng dân tộc dân chủ - trong đó lãnh đạo cách
mạng là lực lượng của giai cấp vô sản, lực lượng là toàn dân tộc. Thực
hiện ba bước - bước thứ nhất đấu tranh giải phóng dân tộc (tư sản dân
quyền có tính chất giải phóng nhân dân), bước thứ hai xây dựng chế độ
dân chủ (làm thổ địa cách mạng); rồi từ từ đi tới chủ nghĩa cộng sản.
Luận cương chính trị đã đề cập đặc điểm cách mạng Việt Nam bằng
hai con đường “cương lĩnh tối thiểu” là cách mạng tư sản dân quyền có
tính chất phản đế và thổ địa, về mặt thuần thúy là cuộc đấu tranh có tính
chất giai cấp và “cương lĩnh tối đa” đó là cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Ngược lại Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng do Nguyễn Ái Quốc
soạn thảo lại đề cập đến nhiệm vụ trước tiên phải làm là “Làm cho nước
Nam hoàn toàn độc lập”, xem cách mạng giải phóng dân tộc là cơ sơ đầu
tiên đánh đổ chủ nghĩa thực dân Pháp xâm lược và tay sai, làm cho nước
nhà được độc lập; sau đó tiến hành xây dựng chế độ dân chủ, tiến hành
thổ địa cách mạng để phát huy chế độ dân chủ mang quyền lợi cho đại bộ
phận giai cấp nông dân; tạo những tiền đề, những nền tảng để từ từ tiến
tới chủ nghĩa xã hội. Nguyễn Ái Quốc xem việc đi đến chủ nghĩa xã hội
là một con đường lâu dài, phức tạp, từng bước. Còn Trần Phú thì xem


cách mạng Việt Nam là một con đường cách mạng liên tục, có sự giúp đỡ
của nền chun chính vơ sản các nước giúp sức mà tiến thẳng lên chủ
nghĩa xã hội.
Tất thảy những điểm trên chính là sự khác biệt giữa Cương lĩnh
chính trị đầu tiên và Luận cương chính trị về đặc điểm của cách mạng
Việt Nam. Và chính lịch sử cách mạng nước ta đã chứng minh tính đúng
đắn luận điểm của Nguyễn Ái Quốc.
- Nhận thức về tập hợp lực lượng cách mạng
Khi nhận thức đúng đắn những đặc điểm xã hội Việt Nam thì đồng
thời cũng xác định đúng đắn con đường cách mạng Việt Nam. Cách mạng

Việt Nam muốn thắng lợi, Đảng phải tranh thủ sự đồng tình và ủng hộ
của tồn thể dân tộc Việt Nam, trong đó nhất định phải liên minh vững
chắc với giai cấp nông dân, đồng thời phải giải phóng nơng dân khỏi ách
áp bức ở nơng thơn tức là phải đánh tan giai cấp đại địa chủ và phong
kiến tay sai những kẻ là thế lực chủ yếu đang bần cùng và áp bức nông
dân; nhưng đồng thời Đảng phải lôi kéo và trung lập trung tiểu địa chủ để
tạo điều kiện có lợi nhất cho cách mạng dân tộc giải phóng.
Muốn hình thành con đường cách mạng đúng đắn thì phải có thái độ
đúng đắn về các giai tầng trong xã hội Việt Nam. Cương lĩnh chính trị
đầu tiên của Đảng do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo đã xác định đúng đắn sự
cần thiết phải “liên lạc với tiểu tư sản, trí thức, trung nơng” 15 để kéo họ
vào đồng minh của cách mạng. Còn đối với “phú nông, trung, tiểu địa
chủ và tư bản An Nam mà chưa lộ mặt phản cách mạng thì phải

lợi

dụng, ít lâu mới làm cho họ đứng trung lập. Bộ phận nào đã ra mặt phản
cách mạng thì phải đánh đổ”16. Nguyễn Ái Quốc chủ trương tập hợp

15 Văn kiện Đảng tồn tập, t.2, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2002, tr.4
16 Văn kiện Đảng tồn tập, t.2, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2002, tr.4


đông đảo mọi tầng lớp nhân dân để thực hiện cách mạng giải phóng dân
tộc.
Cịn Luận cương chính trị của Trần Phú thì lại xem tư bản dân tộc,
tiểu tư sản là quốc gia cải lương, không đáng tin. Coi phú nông, đại trung
tiểu địa chủ là đối tượng cách mạng, cần phải đánh đổ, thâu hết tài sản để
chia cho dân cày nghèo. Như vậy, Luận cương chính trị xem việc đánh đổ
đế quốc Pháp là trách nhiệm chủ yếu của công nhân và đại bộ phận dân

cày nghèo và ra sức dùng thổ địa cách mạng để lôi kéo quần chúng nông
dân tham gia cách mạng. Qua cao trào 1930-1931 cùng với sự đàn áp dã
man của thực dân Pháp, có thể thấy quan điểm của Trần Phú đã khơng
chứng tỏ được tính thực tế, tự cơ lập quần chúng công nông, không tranh
thủ được sự tối đa của quần chúng yêu nước với Đảng. Quá trình Đảng
thay đổi quan điểm chiến lược cách mạng từ Hội nghị Trung ương lần thứ
6, lần thứ 7, lần thứ 8 khóa I, sự quay trở lại quan điểm và tư tưởng của
Nguyễn Ái Quốc trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên 2-1930 đã minh
chứng cho tính đúng đắn của Nguyễn Ái Quốc về đặc điểm con đường
cách mạng Việt Nam.
Đó cũng chính là sự khác biệt giữa Cương lĩnh chính trị đầu tiên
và Luận cương chính trị về đặc điểm con đường cách mạng Việt Nam.
4. Kết luận
Có thể thấy ngay từ khi Đảng ta ra đời, đảng đã được chuẩn bị một
cách rất kỹ càng. Cương lĩnh chính trị đầu tiên đã phản ánh sự chín muồi
của một đảng chính trị đã chuẩn bị đầy đủ cho mình về lý luận, về kinh
nghiệm thực tiễn và về khả năng tổ chức Đảng. Đảng Cộng sản Việt Nam
ngay từ khi ra đời đã sẵn sàng bước lên vũ đài chính trị, mặc dù đã phải
chịu nhiều sự đàn áp, khủng bố trắng đẫm máu nhưng Đảng vẫn kiên trì
vượt qua và phát triển tổ chức của mình ngày càng lớn mạnh.


Đặc biệt, mặc dù Cương lĩnh chính trị đầu tiên chưa phải là bản
Cương lĩnh chính trị hồn bị, đầy đủ, thậm chí một vài điểm cịn được
tiếp tục phát triển cho đến Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ 2 của Đảng
Lao động Việt Nam (2-1951), song, bản Cương lĩnh chính trị đầu tiên của
Đảng ta biểu thị cho sự nhạy bén của Nguyễn Ái Quốc, một tư duy trí tuệ
vơ cùng sâu sắc của Người về con đường cách mạng Việt Nam. Trong đó,
Nguyễn Ái Quốc đoạn tuyệt với mọi sự giáo điều, dập khn máy móc từ
những quan điểm Quốc tế Cộng sản. Chính chủ nghĩa yêu nước là hạt

nhân, là nhân tố quan trọng thúc đẩy Nguyễn Ái Quốc đi tìm chân lý của
cách mạng, đi tìm con đường để giải phóng cho đồng bào đang bị đọa đày
đau khổ dưới ách thống trị của chủ nghĩa thực dân.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Hồ Chí Minh: Tồn tập, t.2, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995
2. Văn kiện Đảng tồn tập, t.2, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2002



×