Đề tài giữa kỳ: Nghị quyết Hội nghị lần thứ 7 BCHTW khóa X về xây dựng
đội ngũ trí thức trong thời kỳ đẩy mạnh CNH-HDH đất nước ngày (6/8/2008) đánh
giá một số hạn chế của đội ngũ trí thức hiện nay như sau: “Một bộ phận trí thức, kể
cả người có trình độ học vấn cao, cịn thiếu tự tin, e ngại, sợ bị quy kết về quan
điểm, né tránh những vấn đề có liên quan đến chính trị. Một số giảm sút đạo đức
nghề nghiệp, thiếu ý thức trách nhiệm và lịng tự trọng, có biểu hiện chạy theo
bằng cấp, thiếu trung thực và tinh thần hợp tác”.
Hãy bình luận về nhận định trên đây, bằng những sự kiện lịch sử liên quan đến
trí thức trong thời kỳ Đổi mới.
Bài làm
Tóm tắt
Bài viết trình bày những quan điểm, suy tư, đánh giá cá nhân của nhóm về
vấn đề trí thức và sự nhận định đối với trí thức của Đảng Cộng sản Việt Nam qua
văn kiện Nghị quyết Hội nghị lần 7 BCHTW khóa X về xây dựng trí thức trong
thời kỳ đẩy mạnh CNH - HDH đất nước ngày (6/8/2008). Đồng thời cũng trình bày
những suy nghĩ và đề ra những cách thức đối xử đối với trí thức hiện nay.
1. Trí thức và đặc trưng trí thức thời hiện đại ở nước ta.
1.1 Trí thức
Đề cập đến thuật ngữ trí thức bắt nguồn từ cách gọi “tầng lớp trí thức” một
thuật ngữ xuất hiện đầu tiên ở nước Nga thế kỷ 19, sau đó đến Cơng xã Pari (1871)
thì thuật ngữ “người trí thức” (intellectuel) xuất hiện ở Pháp. Các thuật ngữ này
đều đề cập đến những con người có trình độ học vấn cao, trình độ chun mơn cao,
đồng thời là những người có mối quan tâm, có chính kiến của mình trước các vấn
đề chính trị - xã hội.
Các Mác quan niệm rằng trí thức phải là những người phải có mối quan tâm
và chính kiến đối với các vấn đề xã hội “Trí thức là người nói sự thật, phê bình
khơng nhân nhượng về những gì hiện hữu. Không nhân nhượng với nghĩa rằng họ
không lùi bước trước kết luận của chính mình, hoặc xung đột với quyền lực, bất cứ
quyền lực nào”1. Cái “những gì đang hiện hữu” là toàn bộ những thực tế trong xã
hội, chứ khơng phải cái gì hợp lý thì khen, khơng hợp lý thì im lặng bỏ qua. Người
trí thức có năng lực phê phán và có tầm nhìn xa nên thường hay tỏ sự bất bình
trước sự trì trệ và bất hợp lý một cách công khai và thẳng thắn.
Như vậy, có thể hiểu nơm na rằng, tầng lớp trí thức theo góc độ nghiên cứu
của các học giả phương Tây có thể hiểu là những người: Tiếp thu và truyền bá tri
thức dưới dạng văn hóa và khoa học; Sáng tạo ra tri thức mới từ nguồn văn hóa và
khoa học ngày càng được tích lũy; Quan tâm và có chính kiến của mình đối với các
biến động của xã hội và đề xuất các biện pháp giải quyết dựa trên tinh thần trách
nhiệm cá nhân; Dự báo và định hướng cho dư luận xã hội.
Các quan điểm này khá phổ biến ở các nước phương Tây, nhưng đối với nền
văn minh phương Đơng nói chung, của đất nước ta nói riêng thì cịn nhiều mới mẻ.
Trí thức ở nước ta từ xưa đến nay có thể được hiểu nơm na là “người có học”, tuy
1 GS. Tương Lai, Trao đổi thêm về việc nên có Ngày trí thức Việt Nam, báo Tuổi trẻ, 7/2009.
nhiên cách hiểu này khơng gắn với “có chính kiến của mình trước các vấn đề
chính trị-xã hội”. Sau khi giành độc lập vào năm 939, qua các triều đại phong kiến
ngày càng gắn với Nho giáo, nó đã trở thành một hệ tư tưởng xã hội của chế độ
phong kiến. “Người có học” lúc này được gọi là nho sĩ, những người tinh thông tri
thức trong hệ thống giáo dục về Nho giáo, các nho sĩ đỗ đạt trong các kỳ thi sẽ
được làm quan trong triều đình phong kiến, kẻ rớt về quê ôn tập chờ ngày thi lại
hoặc chuyển sang dạy học làm kế sinh nhai.
Hệ thống quan lại thời phong kiến trong lịch sử Việt Nam đã tạo nên sự lệ
thuộc của tầng lớp trí thức nho học vào hệ thống quyền lực nhà nước lúc bấy giờ.
Dù giỏi cỡ nào, thì tầng lớp trí thức nho học này chỉ mang một nhiệm vụ duy nhất
đó là phò tá vua – giúp vua các việc triều chính. Tầng lớp trí thức này khơng mang
bản chất đúng nghĩa của trí thức.
Đến giữa thế kỷ 19, cuộc xâm lược của thực dân Pháp mang theo sự ảnh
hưởng của nền văn minh phương Tây ồ ạt vào nước ta. Tầng lớp nho sĩ đã bắt đầu
có sự phân hóa sâu sắc và xuất hiện các nhóm sĩ phu tiến bộ - có chính kiến riêng
của bản thân mình trước thời cuộc và vận mệnh của dân tộc. Đây là tiền thân của
những nhóm trí thức đúng nghĩa của dân tộc ta vào đầu thế kỷ 20, những nhân vật
chịu sự phân hóa này có thể kể đến là: Vũ Tông Phan, Nguyễn Trường Tộ, Nguyễn
Lộ Trạch, Nguyễn Tư Giản, Phạm Phú Thứ,… Đây là những sĩ phu có đầu óc canh
tân đất nước, là nguồn gốc chủ yếu cho các phong trào đấu tranh dân tộc theo xu
hướng bạo lực như Cần Vương, Đông Du; hay tiến hành cải cách văn hóa như Duy
Tân, Đơng Kinh nghĩa thục.
Bước vào đầu thế kỷ 20, cùng với chính sách khai thác thuộc địa cũng như
những biến cố lịch sử trên phạm vi thế giới. ảnh hưởng của tư tưởng dân chủ tư sản
đã xâm nhập vào xã hội Việt Nam theo nhiều con đường khác nhau. Trong bối
cảnh đấy, phong trào Duy Tân và Đông kinh nghĩa thục đã tập hợp cho mình một
đội ngũ đơng đảo các trí thức – đúng nghĩa, là tầng lớp tinh hoa của dân tộc trong
bối cảnh phức tạp ấy: Huỳnh Thúc Kháng, Trần Quý Cáp, Đào Nguyên Phổ,
Trương Vĩnh Ký, Phan Khôi, Nguyễn Văn Vĩnh, Phạm Quỳnh, Nguyễn Văn Tố,…
Đấy là đội ngũ trí thức – đúng nghĩa đầu tiên của dân tộc ta.
Khác với tầng lớp “người có học” trong lịch sử chế độ phong kiến, tầng lớp trí
thức nước ta lúc bấy giờ trong chịu cảnh nơ lệ đã có – thái độ chính kiến rất rõ ràng
trước thời cuộc và vận mệnh lịch sử của dân tộc ta. Cái nghề làm quan khơng cịn
được coi trọng nữa, giờ đây họ có thể làm bất cứ thứ nghề gì để có thể kiếm ăn,
sống cuộc sống tự do tự tại, họ có thể là: bác sĩ, kỹ sư, thầy giáo, nhà báo, nhà văn,
nghệ sĩ,…Những phần tử ưu tú đó là tầng lớp trí thức mới – đúng nghĩa, phần đa
họ là những người con người có uy tín, nhiều người đóng vai trị nịng cốt trong
các tổ chức cơng khai, bán công khai trong cuộc vận động đấu tranh giành độc lập
tự do, quyền dân sinh, dân chủ cho dân tộc.
Khi Cách mạng tháng Tám thành cơng 1945, chính phủ của Hồ Chủ tịch đã
quy tụ bên mình một đội ngũ trí thức có trình độ học vấn cao, đầy uy tín, và có
chính kiến riêng của mình. Những tấm gương như Huỳnh Thúc Kháng, Nguyễn
Văn Tố, Phạm Khắc Hịe, Vũ Đình Hịe, Tạ Quang Bửu, Trần Đăng Khoa, Tôn
Thất Tùng, Trần Đại Nghĩa, … luôn là các tấm gương sáng ngời về người trí thức.
1.2 Đặc trưng đội ngũ trí thức thời hiện đại
Gắn liền với hai cuộc trường kỳ kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, cũng
như các biến động của thời cuộc, của các nhân tố ảnh hưởng từ bên ngồi vào nước
ta, trí thức Việt Nam trong thời kỳ hiện đại đã có những phát triển tương đối đặc
biệt, nhất là giai đoạn kể từ năm 1950-1965 khi ý thức đấu tranh giai cấp được tiêm
nhiễm phương pháp cách mạng của Maoist vào Việt Nam qua các phong trào chỉnh
huấn, cải cách ruộng đất, chống chủ nghĩa xét lại, …
Người trí thức lúc này khơng cịn đúng nghĩa là trí thức theo lời K. Marx nữa,
tầng lớp trí thức bị đè nặng bởi tư tưởng đấu tranh giai cấp bị tiêm nhiễm phương
pháp có phần bạo lực của chủ nghĩa Mao, có khi người trí thức (cương vị lãnh đạo)
rơi vào trạng thái cực đoan hoặc chính họ (người trí thức khơng làm lãnh đạo) là
nạn nhân. Bên cạnh đó vẫn cịn tồn tại một số người trí thức XHCN – đúng nghĩa
như Trần Văn Giàu, mặc dù là trí thức XHCN, nhưng rõ ràng nội lực của một trí
thức sâu thẩm trong con người ơng mạnh mẽ hơn bao giờ hết, điều đó làm cho
chúng ta thấy một cách xử trí rất tuyệt vời của một người trí thức – một người cộng
sản có chính kiến rõ rệt và có thái độ quyết đốn với chính kiến của mình trên tình
thần đấu tranh hết mình vì sự nghiệp giải phóng dân tộc, vì sự nghiệp xây dựng chế
độ xã hội chủ nghĩa.
Nếu như trước 1945, hầu hết trí thức được định nghĩa là những người có trình
độ học vấn từ cấp trung học, tiểu học trở lên thì càng ngày càng về sau “trí thức
XHCN” được coi là trí thức khi họ có các bằng cấp từ cao đẳng, đại học trở lên.
Lực lượng này được đào tạo một cách đông đảo và phần lớn nằm trong diện nhà
nước quản lý, trong các cơ quan Đảng và Nhà nước, rồi đến các lực lượng vũ
trang, các bệnh viện, trường học, các tổ chức xã hội, …
Nét đặc trưng của tầng lớp “trí thức XHCN” bên cạnh những tính tích cực
như: Trung thành với tổ quốc, với Đảng, với chế độ XHCN, với nhân dân; cần cù,
thông minh, sáng tạo; khơng ngại khó khăn gian khổ;… Tuy nhiên trí thức trong
giai đoạn đất nước lâm vào khủng hoảng khơng phát huy được đúng các chức năng
vốn có của nó, những đặc trưng có tính tiêu cực có thể kể đến như2:
2 GS. Chu Hảo, Sỹ phu, trí thức và tầng lớp “có học” xưa và nay, Nxb Tri Thức và Quỹ văn hóa Phan Châu Trinh
- Hời hợt trong tư duy và thiếu nghiêm túc trong nghiên cứu.
- Tính cơ hội, vụ lợi, thực dụng trong cách hành xử.
- Ham danh lợi, chức vụ, dễ thõa hiệp.
- Thiết tinh thần hợp tác và đặt nặng hơn thua, thiếu bao dung.
Nguyên nhân của việc phát sinh những đặc trưng có tính tiêu cực như thế là
do sự mất dân chủ trong sinh hoạt tư tưởng ở trong Đảng, trong hệ thống quyền lực
của nước ta, rồi sau đó đến mất dân chủ trong xã hội. Sự du nhập của tư tưởng và
phương pháp cách mạng của chủ nghĩa Mao những năm 50 của thế kỷ trước đã có
một tác động khơng nhỏ đến đơng đảo “trí thức XHCN” của chúng ta lúc bấy giờ,
mãi đến 1986 thì phần nào cơng cuộc Đổi mới đã cởi trói cho tầng lớp trí thức, tuy
nhiên những diễn biến bất lợi của tình hình thế giới khi Liên Xơ và các nước
XHCN lâm vào thoái trào đã làm chủ trương này rơi vào chủ đề nhạy cảm và mãi
đến Hội nghị lần thứ 7 Ban chấp hành Trung ương khóa X, Nghị quyết 27-NQ/TW
ngày 6 tháng 8 năm 2008 “về xây dựng đội ngũ trí thức trong thời kỳ đẩy mạnh
cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” mới nhắc lại. Tuy nhiên, việc đề cập đến
lần này cũng chưa phần nào thõa mãn cho sự “cởi trói” cho trí thức nước nhà.
2. Nhận định về đoạn trích […] trong Nghị quyết 27-NQ/TW “về xây
dựng đội ngũ trí thức trong thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước”.
2.1 Quan điểm chỉ đạo, mục tiêu xây dựng đội ngũ trí thức của Đảng hiện
nay.
Xác định tầm quan trọng của khoa học và công nghệ là động lực của sự
nghiệp Đổi mới, trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội theo định hướng
XHCN, Đảng Cộng sản Việt Nam cũng đã có những nhận thức mới về vị trí, vai
trị của những người trí thức. Trong Nghị quyết Đại hội VI (1986) đến nay, đặc biệt
là Nghị quyết 26 của Bộ Chính trị (1991), các Nghị quyết Đại hội VII (1991), Đại
hội VIII (1996), Đại hội IX (2001), Đại hội X (2006) và Nghị quyết Hội nghị
BCHTW lần thứ hai (khóa VIII), lần thứ bảy (khóa X) đã thể hiện tinh thần đổi
mới trong cách nhìn nhận, đánh giá đối với trí thức và những vấn đề liên quan đến
khoa học, kỹ thuật và công nghệ.
Quan điểm hiện nay của Đảng đối với trí thức là coi đây là vốn trí tuệ của dân
tộc, là động lực trong cơng cuộc phát triển đất nước, trong sự nghiệp CNH-HDH.
Nhiều văn kiện Đảng đã khẳng định: trí thức là lực lượng tiêu biểu cho trình độ trí
tuệ của Đảng, của Nhà nước và của dân tộc.
Quan điểm đổi mới của Đảng về trí thức được biểu hiện rõ trong Cương lĩnh
xây dựng đất nước thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam được thông qua
tại Đại hội VII (6-1991):
“Xây dựng Nhà nước xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân, lấy liên
minh giai cấp cơng nhân với giai cấp nơng dân và tầng lớp trí thức làm nền tảng
do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo”3. Quan điểm này được thể chế hóa thành
điều 2 Hiến pháp 1992.
Vấn đề liên minh giai cấp công nhân, nông dân với trí thức vốn đã được đề
cập trong nhiều văn kiện trước đây. Tuy nhiên, đặt trí thức là một chủ thể ngang
hàng với công – nông, là yếu tố cấu thành nền tảng của chế độ XHCN thì đây là
lần đầu tiên. Đội ngũ trí thức ngày càng có vị trí và vai trị to lớn là do những địi
hỏi của công cuộc Đổi mới, do sự gắn kết giữa trí thức với các tầng lớp lao động
khác, do ảnh hưởng của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật đang phát triển mạnh
mẽ.
Đồng thời Đảng cũng coi trọng việc trí thức hóa cơng – nơng, văn kiện Đại
hội VII cũng nhấn mạnh: “Trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, vai trị của
trí thức đã quan trọng, trong xây dựng chế độ xã hội chủ nghĩa, vai trò của giới trí
thức ngày càng quan trọng. Giai cơng nhân nếu khơng có đội ngũ trí thức của
mình và bản thân công – nông không nâng cao kiến thức, không dần được trí thức
hóa thì khơng thể xây dựng chủ nghĩa xã hội được”4.
Quan điểm này có ảnh hưởng lớn trong việc tạo lập các chính sách của Đảng.
Vì thế trong hai Hội nghị lần thứ sáu và thứ bảy BCHTW khóa X, Đảng đã liên
tiếp ban hành ba nghị quyết: Nghị quyết 20-NQ/TW 28/1/2008 “về tiếp tục xây
dựng giai cấp cơng nhân thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước”, Nghị quyết 26-NQ/TW “về nơng nghiệp, nơng dân và nông thôn” và Nghị
quyết 27-NQ/TW “về xây dựng đội ngũ trí thức trong thời kỳ đẩy mạnh cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”.
3 Đảng Cộng sản Việt Nam, Cương lĩnh xây dựng đất nước thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Nxb Sự
thật, Hà Nội, tr.11
4 Đảng Cộng sản Việt Nam, Cương lĩnh xây dựng đất nước thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Nxb Sự
thật, Hà Nội, tr.70
Nghị quyết số 27-NQ/TW “về xây dựng đội ngũ trí thức trong thời kỳ đẩy
mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” là nghị quyết đầu tiên nhấn mạnh
đến tầm quan trọng của trí thức và vai trị ngang hàng của trí thức như cơng nhân,
nơng dân trong thực tiễn xã hội. Nghị quyết đã xác định ba quan điểm chỉ đạo về
đội ngũ trí thức như sau:
- Về vị trí, vai trị của trí thức và cơng tác xây dựng đội ngũ trí thức
Đảng nhấn mạnh rằng trí thức là lực lượng lao động sáng tạo đặc biệt quan
trọng trong tiến trình đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập
quốc tế, xây dựng kinh tế tri thức, phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm
đà bản sắc dân tộc. Xây dựng đội ngũ trí thức vững mạnh, đồng thời góp phần
nâng cao trí tuệ của dân tộc, sức mạnh của đất nước, nâng cao năng lực lãnh đạo
của Đảng và hoạt động của hệ thống chính trị.
- Về trách nhiệm xây dựng đội ngũ trí thức
Xây dựng đội ngũ trí thức là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, của xã hội,
trong đó trách nhiệm của Đảng và Nhà nước giữ vai trị quyết định. Trí thức cũng
có trách nhiệm trước Tổ quốc và dân tộc, không ngừng phấn đấu, nâng cao phẩm
chất và năng lực chính trị, đạo đức,
- Về phương hướng và xây dựng và phát triển đội ngũ trí thức
Thực hành dân chủ, tơn trọng và phát huy tự do tư tưởng trong hoạt động
nghiên cứu, sáng tạo của trí thức vì mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ văn minh. Tạo môi trường và điều kiện hoạt động nghề nghiệp cho
trí thức. Trọng dụng trí thức và có chính sách đúng đắn.
2.2 Nhận định đoạn trích […] trong Nghị quyết 27-NQ/TW.
Trong phần đánh giá về những hạn chế, yếu kém và nguyên nhân của trí thức
trong Nghị quyết 27-NQ/TW, Đảng Cộng sản Việt Nam đã có một nhận xét:
“Một bộ phận trí thức, kể cả người có trình độ học vấn cao, còn thiếu tự tin, e
ngại, sợ bị quy kết về quan điểm, né tránh những vấn đề có liên quan đến chính trị.
Một số giảm sút đạo đức nghề nghiệp, thiếu ý thức trách nhiệm và lịng tự trọng,
có biểu hiện chạy theo bằng cấp, thiếu trung thực và tinh thần hợp tác. Một số trí
thức khơng thường xun học hỏi, tìm tịi, trau dồi chun mơn nghiệp vụ, thiếu
chí khí và hồi bão. Nhiều trí thức trẻ có tâm trạng thiếu phấn khởi, chạy theo lợi
ích trước mắt, thiếu ý chí phấn đấu vươn lên về chun mơn.”5
Có thể thấy, đoạn trích của Nghị quyết của Đảng nhấn mạnh đến một số vấn
đề về trí thức như: trách nhiệm của trí thức, phẩm chất của trí thức, mơi trường
hoạt động của trí thức và đạo đức của trí thức.
- Về trách nhiệm của trí thức
Trí thức nước ta hiện nay chưa làm tròn bổn phận của bản thân mình, trong đó
họ chưa nhận thức được đúng đắn về vai trò phản biện xã hội của tầng lớp trí thức
– một chức năng quan trọng của trí thức. Biểu hiện e ngại, né tránh những vấn đề
liên quan đến chính trị, những vấn đề có sự nhạy cảm, những vấn đề khơng có lợi
là những biểu hiện của việc thiếu trách nhiệm của người trí thức.
Đặt trong hoàn cảnh đất nước găp một vài sự kiện, vấn đề nghiêm trọng có thể
ảnh hưởng đến an ninh quốc gia, hoặc là các sự kiện gây xôn xao dư luận thì một
bộ phận trí thức khơng tham gia vào công tác phản biện, hoặc bao biện bảo vệ
những lý lẽ sai đó. Ví dụ đơn cử, vụ boxit Tây Nguyên – Ngay từ khi đề án này
được Chính phủ ký quyết định 167 “về phê dyệt quy hoạch phân vùng, thăm dò,
khai thác, chế biến và sử dụng quặng bơ xít từ giai đoạn 2007-2015, có xem xét
đến năm 2025” ngày 1/11/2007 thì dư luận xã hội, một số trí thức đã lên tiếng phản
đối dự án này vì có thể gây nên nhiều hiểm họa khơn lường cho đất nước và dân
5 Nghị quyết Hội nghị lần 7 BCHTW số 27-NQ/TW ngày 6/8/2008 “Về xây dựng đội ngũ trí thức trong thời kỳ đẩy
mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”.
tộc: trước hết là hiểm họa ô nhiễm môi trường (sự kiện vỡ đê hồ thải quặng dự án
Tân Rai làm đổ 5.000m3 nước và bùn đỏ 8/10/2014; việc vỡ đường ống dẫn có
chứa nước súc độc hại của nhà máy alumin Tân Rai chảy ra ngoài 13/2/2016), ảnh
hưởng an ninh quốc gia (hàng ngàn công nhân Trung Quốc đến sống và làm việc
tại địa bàn), hiệu quả kinh tế kém và gây lỗ (mức thiệt hại hiện nay là 40 triệu $/
năm), ảnh hưởng sức khỏe và công ăn việc làm của nhân dân vùng (bụi bơ xít phát
tán, bùn đỏ chảy vào sông, dân nhường đất trồng cà phê làm dự án), tác động đến
nguồn điện năng (Nhà máy thủy điện Đồng Nai 5 chỉ cung cấp điện cho mỗi dự án
bơ xít).
Ngày 5/10/2010, sự kiện vỡ hồ chứa bùn đỏ Hungary đã gây nên những thảm
họa khôn lường đối với quốc gia này. Khi bị chất vấn về khả năng thảm họa nếu hồ
chứa quặng ở Tây Nguyên cũng bị vỡ như ở Hungary, đại diện cho Tập đồn Thankhống sản Việt Nam, những người lãnh đạo đã bao biện “Ta theo mơ hình của
Brazil và Úc chứ khơng theo mơ hình Hungary”, trong khi trên thực tế cơng nghệ
xử lý của Việt Nam hồn tồn giống cơng nghệ đang triển khai ở Hungary. Những
người trí thức đại diện cho cơ quan công quyền như lãnh đạo Tập đồn Than –
khống sản Việt Nam là điển hình cho việc yếu kém phản biện xã hội, đồng thời
không làm trịn bổn phận của người trí thức, bao che và bao biện cho những nguy
cơ đang hiện hữu của dự án, thiếu trách nhiệm trong công việc và tinh thần trách
của bản thân đối với sức khỏe của nhân dân, an ninh quốc gia và ngành nghề của
bản thân. Thực tế là các sự kiện vỡ đê hồ thải quặng dự án Tân Rai làm đổ
5.000m3 nước và bùn đỏ 8/10/2014; việc vỡ đường ống dẫn có chứa nước súc độc
hại của nhà máy alumin Tân Rai chảy ra ngoài 13/2/2016 đã minh chứng cho việc
tất trách và thiếu trách nhiệm của một bộ phận trí thức, hiện, đã, đang là những
người tham gia quản lý các dự án này.
Tuy nhiên, nhóm em cho rằng quan điểm này của Đảng ta khơng có tính tồn
diện, nặng tính chủ quan, duy ý chí. Chúng ta cũng cần phải nhìn rõ vào thực tế
của vấn đề này. Đó là cần phải nhận thức rằng trách nhiệm của Đảng trong việc đã
làm hạn chế khả năng phát huy tính “trách nhiệm” của một bộ phận trí thức khác –
tức là hạn chế vai trị phản biện xã hội của tầng lớp trí thức.
Thực tế trong vụ bơ xít Tây Ngun, lực lượng đi đầu trong dư luận xã hội lên
tiếng phản đối đó lại là tầng lớp trí thức. Những kiến nghị đã gửi lên tất cả các cấp
cao nhất từ Bộ Chính trị, Chính phủ, Quốc Hội, … nhưng vẫn khơng được lắng
nghe thấu đáo. Có thể điểm một số trường hợp như sau:
Đại tướng Võ Nguyên Giáp, bên cạnh là một nhà qn sự, ơng cịn là một trí
thức lớn. Trong bức thư gửi Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, ông có viết: “Cần nhắc
lại rằng, đầu những năm 1980 Chính phủ đã đưa chương trình khảo sát khai thác
bơ-xít trên Tây Nguyên vào chương trình hợp tác đa biên với khối COMECON.
Tôi được phân công trực tiếp theo dõi chỉ đạo chương trình này. Sau khảo sát
đánh giá hiệu quả tổng hợp của các chuyên gia Liên Xô, khối COMECON đã
khuyến nghị Chính phủ ta khơng nên khai thác bơ-xít trên Tây Nguyên do những
nguy cơ gây tác hại sinh thái lâu dài rất nghiêm trọng, không thể khắc phục được
đối với dân cư chẳng những tại chỗ mà còn cả dân cư và vùng đồng bằng Nam
Trung Bộ. Chính phủ khi đó đã quyết định khơng khai thác bơ-xít mà gìn giữ thảm
rừng và phát triển cây cơng nghiệp (cao su, cà phê, chè...) trên Tây Nguyên”6.
Hay bà Nguyễn Thị Bình – ngun phó chủ tịch nước, cùng nhiều nhà lãnh
đạo khác cũng như là giới trí thức có tâm đã gửi đơn thỉnh nguyện gửi Bộ Chính
trị, Thủ tướng và Quốc hội xem xét việc dừng lại dự án bơ xít Tây Ngun: “Thưa
các vị lãnh đạo Đảng và Nhà nước, Chúng tôi hiểu thực hiện lời thỉnh cầu khẩn
thiết này có nghĩa là phải thực hiện một quyết định rất đau đớn chưa hề có trong
6 Báo Dân trí, Thủ tướng bày tỏ quan điểm về vấn đề khai thác bơ xít ở Tây Ngun, ngày 5/2/2009
lịch sử kinh tế nước ta và sẽ là một tổn thất lớn mà nền kinh tế nước ta phải chịu
đựng – nhất là Nhà máy chế biến alumina Tân Rai đã hoàn thành được một phần
lớn và đã làm được nhiều việc quan trọng trong triển khai dự án Nhà máy Nhân
Cơ. Chỉ có lịng dũng cảm và ý thức trách nhiệm tuyệt đối đối với vận mệnh quốc
gia của các vị cùng với sự thông cảm của đồng bào cả nước mới đủ sức đi tới thực
hiện quyết định khó khăn này. Song thà chịu như vậy cịn hơn để lại hậu họa khơn
lường cho mai sau!”.
Ngồi ra cịn có 150 trí thức đã đưa ra bản kiến nghị kêu gọi Đảng và Chính
phủ Việt Nam hãy ngừng lại dự án bơ xít này, trong đó có GS. Nguyễn Huệ Chi.
Ngồi ra cịn có 12 nhà khoa học gửi Thủ tướng kiến nghị về chương trình bơ
xít Tây Nguyên trong đó cũng kêu gọi việc ngừng thực hiện dự án này nhằm tránh
những hậu quả nghiêm trọng.
Như tất cả chúng ta đều biết, những phản biện này đã khơng được lắng nghe
một cách đầy đủ. Vai trị phản biện của giới trí thức bị lờ đi. Các chỉ đạo của chính
phủ đề nghị Bộ Cơng thương và Tập đồn Cơng nghiệp than khống sản Việt Nam
báo cáo nhưng chỉ là hình thức, khơng giải quyết gốc rễ vấn đề.
Vì thế, theo quan điểm của nhóm em, thiếu sót này, cần phải được Đảng ta
nhìn nhận một cách đúng đắn và sửa chữa.
- Về phẩm chất của trí thức
Những nhận xét về trí thức như: thiếu tự tin, thiếu tinh thần hợp tác, thiếu tinh
thần học hỏi, trau dồi chun mơn nghiệp vụ, thiếu chí khí, hồi bão, thiếu ý chí
phấn đấu vươn lên về chun mơn. Có thể nói đây là một trong những biểu hiện
khá rõ nét về lực lượng trí thức hiện nay. Tuy nhiên, dưới góc độ tiếp cận của
nhóm em, chúng em cho rằng thuật ngữ trí thức khơng thể được hiểu đơn giản rằng
đó là những người có trình độ học vấn. Tức là trí thức trong cách thức định nghĩa
đó khơng làm bật lên được nội hàm đúng đắn về vai trị, phẩm chất và năng lực của
người trí thức, cũng khơng thể hình dung ra rằng người trí thức có đặc điểm gì
khác với người lao động trí óc bình thường. Giả sử như đối với chuyện hiện nay
khá phổ biến tình trạng những người đã học qua các trường lớp như đại học, thạc
sĩ, vẫn cất bằng đi vào nhà máy làm công nhân như bao công nhân trình độ 12/12
khác. Vậy thì liệu có thể gọi họ là người trí thức ư? Theo nhóm em nghĩ điều đó là
khơng nên.
Tất cả các nước văn minh, tiến bộ, người ta dùng thuật ngữ “trí thức” đề cập
đến những trí thức là nhóm người tinh hoa, đại diện cho một trình độ nhận thức cao
nhất của một dân tộc, tinh hoa trong hàng ngũ của những người lao động bằng trí
óc, tức những người vừa có trình độ học vấn cao, chun mơn giỏi, mà cịn có
những phẩm chất – họ tập hợp lại thành một bộ máy nhận thức của xã hội.
Phổ quát rộng hơn, thì theo những quan điểm của GS. Chu Hảo, đó là7:
1) Có khả năng tiếp thu và truyền bá tri thức khoa học-cơng nghệ hoăc/và văn
hóa-nghệ thuật
2) Có năng lực sáng tạo ra các giá trị mới của tri thức khoa học-công nghệ
hoặc/và văn hóa-nghệ thuật.
3) Có chính kiến rõ ràng trước những vấn đề nóng bỏng của thời cuộc và sẵn
sàng bảo vệ quan điểm của mình.
4) Đề xuất, tư vấn, phản biện và giám sát một cách độc lập các chủ trương,
chính sách và biện pháp giải quyết các vấn đề của xã hội.
5) Dự báo và định hướng dư luận xã hội.
- Về mơi trường hoạt động của trí thức
7 GS. Chu Hảo, “Là trí thức, cần nhận thức đầy đủ trách nhiệm trước vận mệnh của dân tộc”, Tạp chí văn hóa Nghệ
An, 25/1/2013.
Mặc dù trong nghị quyết 27-NQ/TW “về xây dựng đội ngũ trí thức trong thời
kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”, Đảng ta chưa đề cập một
cách cụ thể đến vấn đề tạo môi trường hoạt động cho trí thức. Tuy nhiên, việc nhắc
“nhẹ” một biểu hiện căn bản của bất cập trong việc tạo ra mơi trường hoạt động
của trí thức là “sợ bị quy kết quan điểm”, điều này cũng cho thấy rằng Đảng ta đã
bước đầu nhận thức đúng về những thiếu sót, khuyết điểm của chính mình, mặc dù
là chưa trực tiếp.
Vấn đề này được Đảng ta đề cập cụ thể là vào Nghị quyết 20-NQ/TW “về
phát triển khoa học và công nghệ phục vụ sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại
hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập
quốc tế”. Trong nghị quyết ấy, Đảng ta đã chỉ rõ một số hạn chế và nguyên nhân
đối với việc công tác nghiên cứu khoa học và cơng nghệ của đội ngũ trí thức ở
nước ta còn kém, chưa đạt được hiệu quả cao, là do “Chưa tạo được môi trường
minh bạch trong hoạt động khoa học và công nghệ; thiếu quy định về dân chủ
trong nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn”8.
Nguyên nhân chủ yếu và cốt lõi của vấn đề mất dân chủ trong nghiên cứu là
xuất phát từ quan điểm chủ trương, chỉ đạo của Đảng và Nhà nước ta đối với việc
tạo lập mơi trường dân chủ cho trí thức hoạt động. Do sự trù dập, sự quy chụp đối
với các trí thức – đặc biệt là các trí thức thường xuyên làm chức năng phản biện xã
hội, các trí thức hoạt động nghiên cứu độc lập. Nhân danh chống “diễn biến hịa
bình”, nhân danh “bảo vệ Đảng” khơng ít kẻ đã “chính trị hóa” trong các lĩnh vực
nghiên cứu khoa học, một bộ phận trí thức chạy theo việc tơ hồng các thành tích,
xoa nhẹ các sai lầm là chủ yếu chứ khơng phải là những cơng trình chất lượng,
đóng góp thiết thực, làm trịn bổn phận của người trí thức đó là: có năng lực sáng
8 Đảng Cộng sản Việt Nam, Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 6 khóa XI về phát triển khoa học và cơng nghệ
phục vụ sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và
hội nhập quốc tế, ngày 31/10/2012.
tạo ra giá trị tri thức mới, có chính kiến, có sự phản biện và dự báo dư luận cho xã
hội.
Đối với trường hợp của GS. Chu Hảo, mặc dù trong thực tế nhóm em khơng
ủng hộ quan điểm, cách làm của ông trên cương vị là một đảng viên, nhưng với
góc độ tiếp cận là trí thức phần nào – nhóm em đồng cảm với cách suy nghĩ, nỗi
lịng của một người trí thức muốn đóng góp một phần nào đó, muốn tháo gỡ những
bất cập đang tồn tại hiện hữu trong xã hội Việt Nam hiện nay.
Một số hoạt động ngược đường lối Đảng và Nhà nước của GS. Chu Hảo như
tham gia ký vào các thư kiến nghị, thư ngỏ và có nhiều bài viết trên báo chí trong
và ngồi nước, mạng xã hội như: “Kiến nghị về sửa đổi Hiến pháp 1992” nêu lên 7
kiến nghị tập trung vào ba vấn đề cốt lõi: (1) Đòi bỏ Điều 4, Hiến pháp; (2) Yêu
cầu đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập; (3) Địi phi chính trị đối với lực lượng vũ
trang;… Ngoài ra GS. Chu Hảo cịn tham gia các hội, các nhóm có hoạt động
truyền bá tư tưởng tư sản, những phần tử chống Nhà nước, tham gia các tổ chức
chính trị xã hội trái với qui định của Đảng, … Do những hoạt động đó mà Ủy ban
Kiểm tra Trung ương Đảng đã tiến hành xử lý khai trừ Đảng đối với ông Chu Hảo.
Thật sự để đánh giá thì, việc lựa chọn hệ tư tưởng và truyền bá hệ tư tưởng đó là
lựa chọn tự do của mỗi người, tuy nhiên, khi đã tham gia vào tổ chức Đảng, việc
đầu tiên của các đảng viên đó là tuân thủ các Nghị quyết của Đảng, tuân thủ
nguyên tắc dân chủ tập trung điều căn bản hàng đầu của các đảng viên. GS. Chu
Hảo hoàn tồn có thể bày tỏ quan điểm trái chiều của mình, tuy nhiên ơng cũng cần
phải tơn trọng ngun tắc và điều lệ của Đảng. Hoặc khi khơng cịn cảm thấy tin
tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, ơng hồn tồn có thể ra khỏi Đảng và đóng góp
trí tuệ của mình bằng các hình thức khác.
Ngược lại, khơng phải đánh giá nhận xét nào của Ban Tuyên giáo về GS. Chu
Hảo cũng đúng, hoặc có thể đúng khi đặt dưới góc độ bảo vệ thể chế chính trị. Việc
GS. Chu Hảo khi còn trên cương vị là Tổng biên tập, Giám đốc Nhà xuất bản Tri
thức đã cho xuất bản một số đầu sách có khuynh hướng tư sản mặc dù là một điều
“cấm”, tuy nhiên dưới góc độ trí thức, việc đó khơng sai. Trí thức khơng thể và
không phải là những người chỉ biết nhại đi nhại lại tồn bộ những gì người khác
cho phép, thẩm định – huống hồ không phải tất cả những tri thức phương Tây đều
là không thể tận dụng, đôi khi có thể tiếp thu học hỏi, đơi khi là tài liệu để chúng ta
thực hành phản biện với những luận điệu sai trái, phi khoa học của họ. Không thể
tuyệt đối hóa rằng các tài liệu chỉ trích, phê phán chế độ chính trị chúng ta là
những thứ có hại, cơ lập trí thức khỏi hiện thực thực tế và “chính trị hóa” trí thức
bằng sự giáo điều. Chúng ta cần phải liên tục kiểm điểm lại chính bản thân mình,
đó là phương pháp sửa đổi nhanh chóng và hiệu quả nhất (Những khuyết điểm
được người khác chỉ ra là một bài học tốt). Điều đó thực sự gây cho chúng ta
những tổn thất về đội ngũ trí thức – những người có quan điểm chính kiến của
chính mình, đội ngũ những người có thể đóng góp vào sự nghiệp chung của dân
tộc, của đất nước.
Thiết nghĩ rằng, cần phải tạo lập một môi trường dân chủ cho sự hoạt động
của các trí thức như ơng Chu Hảo, tuy nhiên, môi trường này vừa là diễn đàn để
chúng ta học hỏi những cái hay cái đẹp, cái có thể tiếp thu được qua lăng kính của
một trí thức cấp tiến, nhưng đồng thời đây cũng là diễn đàn để chúng ta đấu tranh
chống những cái chưa hay, chưa đẹp của một trí thức dưới tác động của các khuynh
hướng chính trị khác. Sỡ dĩ điều này thực tế, bởi vì chúng ta đang ở trong thời kỳ
quá độ, ở trong giai đoạn mà đất nước hội nhập ngày càng sâu rộng vào thị trường
tư bản toàn cầu. Muốn chiến thắng chủ nghĩa tư bản, không phải bắt đầu từ sự cô
lập, phân ranh giới tư sản vô sản như thời kỳ đối đầu ý thức hệ trước đây, mà phải
bắt nguồn từ việc học hỏi và kế thừa những tư tưởng, giá trị cốt lõi của xã hội tư
bản, để làm nền tảng xây dựng xã hội mới, phát triển lên. Do đó, thay vì giáo điều,
tả khuynh, đặt nặng ý thức hệ đến mức cực đoan, Đảng ta cần có một chính sách cụ
thể và phù hợp đối với trí thức – thơng qua đó động viên đội ngũ trí thức hoạt động
khoa học nghiên cứu đúng nghĩa đứng vào hàng ngũ của Đảng; hoặc chí ít là tranh
thủ và phân hóa đội ngũ trí thức cấp tiến – không đối lập mà động viên họ đóng
góp hết mình cho sự nghiệp phát triển chung của dân tộc.
- Về đạo đức của trí thức
Ở nước ta, lâu nay có một hiện tượng khá phổ biến, những người có học hàm
học vị tách rời bản thân mình khỏi nghiên cứu khoa học và chạy theo các chức vụ
làm công tác quản lý, hoặc nhiều người muốn leo cao, đi sâu, ngồi vững nên cố tìm
cho mình một tấm bằng để có thể an tâm. Hiện tượng này đi đồng với việc chất
lượng và hàm lượng tri thức khoa học dựa trên các sáng kiến, các nghiên cứu khoa
học đang ngày càng đi xuống (nước ta có hàng ngàn giáo sư, tiến sĩ, nhưng lại
thuộc top nước có cơng trình nghiên cứu khoa học thấp trong khu vực).
Tháng 8/2017, Thanh tra Bộ Giáo dục và Đào tạo phát hiện “lò đào tạo tiến
sĩ” tại Học viện Khoa học xã hội thuộc Viện hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam.
Với 16 tín chỉ, đó là cấu trúc của chương trình học tại Học viện này. Các ngành
nghề khác nhau nhưng lại học chung cùng một chương trình, điển hình là chương
trình đào tạo 5 chuyên ngành: Lý luận và Lịch sử Nhà nước và Pháp luật; Luật
Hiến pháp và Luật Hành chính; Luật Hình sự và tố tụng hình sự; Tội phạm học và
phịng ngừa tội phạm; Luật kinh tế có học phần về kiến thức chung và kiến thức
chun ngành có nội dung hồn tồn giống nhau. Hay một giáo sư có thể hướng
dẫn đến 44 thạc sĩ, cụ thể, gồm 29 học viên ngành Luật, 10 học viên ngành Chính
sách cơng, 5 học viên ngành Công tác xã hội), quá quy định 33 người, gấp hơn 6
lần số lượng cho phép. Phó giáo sư Hồ Sỹ S. hướng dẫn 18 học viên, Tiến sỹ Đỗ
Phú H. hướng dẫn 11 học viên…
Tất thảy những biểu hiện trên là hệ quả của q trình suy thối về đạo đức
nghề nghiệp của người trí thức, nếu hàng ngàn trí thức dởm được sản xuất ra từ các
lò đào tạo kém chất lượng như thế, đó là thảm họa cho cả dân tộc chứ khơng phải
mỗi tầng lớp trí thức đúng nghĩa.
KẾT LUẬN
Khi nhân dân chưa đạt đến trình độ nhận thức cao thì việc nhận thức, đánh giá
trình độ phát triển của dân tộc ấy phải bằng bộ phận tiên tiến nhất của nhân dân là
lực lượng trí thức. Tức là, họ là bộ não, là đội tiên phong của dân tộc; nhiệm vụ
của trí thức là nhận thức đúng đắn vai trò và trách nhiệm của họ trước vận mệnh
của dân tộc.
Sự có ích nhất của trí thức đó là thơng qua trí tuệ của họ, họ có thể động viên
toàn bộ nguồn lực của xã hội vào một mục tiêu to lớn. Trí thức phải đi cùng với
nhân dân, phải trở thành bộ phân tiên tiến của nhân dân nhằm thúc đẩy xã hội và
trình độ phát triển của quần chúng nhân dân lên ngày càng cao. Vấn đề là cơ chế
nào để giới trí thức đi cùng nhân dân đấu tranh cho sự nghiệp của nhân dân, cho
hạnh phúc của nhân dân?
Trong lịch sử phát triển của nhiều dân tộc, khơng phải lúc nào giới trí thức
cũng đi cùng nhân dân mà luôn luôn đi cùng lực lượng lãnh đạo xã hội, vì chỉ
thơng qua lực lượng lãnh đạo xã hội thì mới có thể tạo điều kiện cho những nhà trí
thức có chỗ đứng trong xã hội và họ được hưởng những đặc quyền, đặc lợi mà họ
có thể hưởng. Nhưng lịch sử hiện đại hồn tồn khác, bước vào xã hội hiện đại –
người trí thức hồn tồn có thể có vị trí đứng trong xã hội không phải dựa vào lực
lượng nắm quyền mà đến từ việc trí thức đó đóng góp to lớn cho nhân dân.
Trí thức là đồng thời cũng là một trong những nguồn lực quan trọng mà bất kỳ
nhà cầm quyền nào cũng phải tranh thủ, lôi kéo. Khi nhà cầm quyền gắn liền với
nhân dân thì người trí thức tự nhiên có ích cho nhân. Khi nhà cầm quyền trở thành
kẻ cai trị nhân dân (như trong xã hội phong kiến, tư bản), đi ngược lại quyền lợi
của nhân dân thì giới trí thức cũng đi theo, tức là, giới trí thức, cùng với nhà cầm
quyền, trở thành kẻ phản bội trong quan hệ với nhân dân, nói cách khác, sự tha hóa
của giới trí thức gắn với sự tha hóa của quyền lực..
Vì thế, giới trí thức chỉ có ích cho dân tộc khi họ bảo vệ lợi ích cho nhân dân.
Mà muốn tuyệt đối hóa khả năng đó, trước mắt là cần một thể chế dân chủ.
Chúng ta phải tin rằng giới trí thức khơng phải là mối nguy hại đối với thể chế
chính trị, nhưng cũng khơng phải là những nhân viên – những cỗ máy chỉ biết răm
rắp làm theo chỉ đạo bên trên.
Chúng ta khơng được biến trí thức thành những kẻ kiêu ngạo, thích hưởng thụ
và cậy vào những “đặc ân” mà chính quyền giao phó cho họ, nhưng chính họ cũng
khơng phải là đối tượng để chính quyền xem xét là mối hiểm họa (như trước kia –
đánh đồng là tư sản). Chúng ta phải tin rằng trí thức là những cơng dân có tinh thần
trách nhiệm, người có bổn phận trước đất nước và dân tộc, trước vận lịch sử của
dân tộc. Và khi họ được trao cơ hội để được phát triển tới một trình độ cao về học
thuật, sẵn sàng trở thành tấm gương về năng lực, trí tuệ và đạo đức.
Trí thức cống hiến cho lợi ích chung của cộng đồng theo phẩm giá, uy tín, sự
trung thực và tầm nhìn xa trông rộng, cùng với những tri thức, sự hiểu biết và ý
thức hướng tới công lý. Chúng ta phải tin rằng tri thức chính là cội nguồn của năng
lực và sự thơng thái, thay vì là cơng cụ cho quyền lực; là động lực thúc đẩy văn
hóa thay vì những giá trị vật chất, và phụng sự cho cộng đồng thay vì cho lợi ích cá
nhân.
Hiện nay, rất cần có một lực lượng trí thức có tính độc lập cao, để có nhiều
suy nghĩ mới, táo bạo, mở đường, sáng tạo… Yêu cầu cao nhất của người trí thức
chân chính là được làm việc, được cống hiến tất cả tài năng, sức lực và trí tuệ của
mình cho đất nước. Do đó Đảng muốn tranh thủ lực lượng trí thức, trước hết cần
phải có thái độ đúng đắn đối với trí thức.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Báo Dân trí, Thủ tướng bày tỏ quan điểm về vấn đề khai thác bơ xít ở Tây
Ngun, ngày 5/2/2009
2. Đảng Cộng sản Việt Nam, Cương lĩnh xây dựng đất nước thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Nxb Sự thật, Hà Nội
3. Đảng Cộng sản Việt Nam, Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 6 khóa XI
về phát triển khoa học và cơng nghệ phục vụ sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện
đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội
nhập quốc tế, ngày 31/10/2012.
4. GS. Chu Hảo, “Là trí thức, cần nhận thức đầy đủ trách nhiệm trước vận mệnh
của dân tộc”, Tạp chí văn hóa Nghệ An, 25/1/2013.
5. GS. Chu Hảo, Sỹ phu, trí thức và tầng lớp “có học” xưa và nay, Nxb Tri Thức
và Quỹ văn hóa Phan Châu Trinh
6. GS. Tương Lai, Trao đổi thêm về việc nên có Ngày trí thức Việt Nam, báo Tuổi
trẻ, 7/2009.
7.
Nghị quyết Hội nghị lần 7 BCHTW số 27-NQ/TW ngày 6/8/2008 “Về xây
dựng đội ngũ trí thức trong thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước”