TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI
KHOA LỊCH SỬ
BÀI TIỂU LUẬN
MÔN HỌC: LÃNH THỔ, CHỦ QUYỀN LÃNH THỔ CỦA VIỆT NAM VÀ
VẤN ĐỀ BIỂN ĐƠNG
Q TRÌNH THỰC THI VÀ XÁC LẬP CHỦ QUYỀN ĐỐI
VỚI HOÀNG SA VÀ TRƯỜNG SA CỦA VIỆT NAM:
BẰNG CHỨNG LỊCH SỬ VÀ CƠ SỞ PHÁP LÝ
Sinh viên thực hiện: Đặng Minh Hải
Lớp: K69A
Mã sinh viên: 695602040
Hà Nội, tháng 12 năm 2021
XÁC NHẬN TURNITIN
MỤC LỤC
Mở đầu
Nội dung
1. Khái quát về quá trình thực thi và xác lập chủ quyền đối với Hoàng Sa và Trường Sa
của Việt Nam. ........................................................................................................................ 1
2. Quá trình thực thi và xác lập chủ quyền đối với Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam:
GIAI ĐOẠN TRƯỚC NĂM 1884 ........................................................................................ 2
2.1.
Nhóm sự kiện liên quan đến vẽ bản đồ .................................................................. 2
2.2.
Nhóm sự kiện thực thi và xác lập chủ quyền thể hiện hành động cụ thể .............. 3
3. Quá trình thực thi và xác lập chủ quyền đối với Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam:
GIAI ĐOẠN 1884 – 1945 ..................................................................................................... 5
3.1. Những thập kỉ cuối thế kỉ XIX ...................................................................................... 5
3.2. Từ 1909 đến 1939 ........................................................................................................ 6
3.3. Từ 1939 đến 1945 ........................................................................................................ 7
4. Quá trình thực thi và xác lập chủ quyền đối với Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam:
GIAI ĐOẠN 1945 – 1954 ..................................................................................................... 7
5. Quá trình thực thi và xác lập chủ quyền đối với Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam:
GIAI ĐOẠN 1954 - 1975 ...................................................................................................... 8
6. Quá trình thực thi và xác lập chủ quyền đối với Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam:
GIAI ĐOẠN 1975 - NAY ..................................................................................................... 8
Kết luận
MỞ ĐẦU
Quá trình thực thi và xác lập chủ quyền đối với Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam
là một chủ đề có ý nghĩa vơ cùng to lớn. Thật vậy, khi được tiếp cận với chủ đề này, ta có
thêm những chứng cứ lịch sử - pháp lý rõ ràng, chính xác, khẳng định chắc chắn chủ quyền
đối với hai quần đảo này của Việt Nam đã có từ rất lâu. Phân tích q trình thực thi và xác
lập chủ quyền trên từng giai đoạn, ta sẽ càng thấy rõ nhận thức của cộng đồng người Việt
về chủ quyền biển đảo.
Qua chủ đề này, ta có thể vận dụng những hiểu biết, tri thức đã học, đã tìm kiếm, tiếp
thu để áp dụng vào cuộc đấu tranh giữ gìn chủ quyền biển đảo trên bổn phận của chính mình.
Khơng những thế, qua chủ để này, ta sẽ thấy yêu thêm quê hương đất nước, yêu thêm những
người đã ngã xuống vì hịa bình hơm nay. Bên cạnh đó, kiến thức về chủ quyền biển đảo
vững vàng sẽ không khiến ta lung lay trước những luận điểm vô lý, bóp méo sự thật, có ý
đồ xâm chiếm của bất cứ quốc gia nào. Nhất là với âm mưu chiếm chọn Biển Đơng của
Trung Quốc, ta càng có cơ sở, căn cứ để khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với hai
quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Thực thi và xác lập chủ quyền đối với Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam là vấn
đề rộng nhưng nó cũng rất gần gũi với mỗi chúng ta. Quyền lợi của dân tộc, chủ quyền của
dân tộc mỗi cá nhân phải tự biết cách giữ vững và kiên quyết đấu tranh phản đối những hành
động xâm phạm lãnh thổ, chủ quyền lãnh thổ. Ngoài trau dồi cho bản thân, vấn đề này cũng
nên được đưa đến bạn bè quốc tế để sự thật về chủ quyền đối với Hoàng Sa và Trường Sa
của Việt Nam từ bao đời nay càng được sáng tỏ.
NỘI DUNG
1. Khái quát về quá trình thực thi và xác lập chủ quyền đối với Hoàng Sa và Trường
Sa của Việt Nam.
Qua những hành động biểu hiện cụ thể, thực thi và xác lập được thực hiện một cách
rõ ràng. Về vấn đề chủ quyền, thực thi có mối quan hệ khăng khít với xác lập. Mối quan hệ
ấy được vận dụng linh hoạt vào những thởi điểm cụ thể khác nhau. Thực thi chủ quyền đối
với Hoàng Sa và Trường Sa được biểu hiện qua những hành động khai thác nguồn lợi thủy
hải sản; hành động cử người ra tuần tra, cứu hộ, cứu nạn, bắt giặc biển; hành động tương
tác, bảo vệ biển đảo. Biểu hiện của xác lập chủ quyền cũng được thể hiện qua những sự kiện
tuyên bố chủ quyền vẽ bản đồ địa giới hành chính; lập đơn vị hành chính, sau những đơn vị
ấy trở thành một phần thống nhất trong lãnh thổ chung của quốc gia; hành động dựng bia,
khắc chữ, lập đền miếu; quy định hành động bằng văn bản hóa, hành chính hóa cả q trình
thực thi. Như vậy, quá trình thực thi và xác lập chủ quyền này thể hiện sự phát triển trong
nhận thức, ý thức về chủ quyền biển đảo của cộng đồng người Việt hay cụ thể là của các
vương triều quân chủ Việt Nam.
Quá trình hình thành và phát triển của các quốc gia phương Đông luôn gắn liền với
bảo vệ biển đảo. Việt Nam cũng như vậy, quá trình thực thi và xác lập chủ quyền biển đảo
đã có những hành động khẳng định chủ quyền từ rất sớm. Việt Nam với địa hình phía đơng
giáp biển đã khơng ít lần bị các thế lực ngoại xâm tấn công bằng đường biển. Vì vậy, cộng
đồng người Việt từ lâu đã hình thành được ý thức bảo vệ, giữ gìn các vùng biển. Do sống
gần biển, người Việt sớm đã có những biểu hiện thực thi thông qua hoạt động đánh bắt, khai
1
thác nguồn lợi thủy hải sản để duy trì đời sống của họ. Trong những trường hợp cụ thể thì
những hoạt động thực thi là tiền đề đánh dấu cho việc xác lập chủ quyền. Đối với hai quần
đảo Hoàng Sa và Trường Sa, thực thi và xác lập luôn tương tác qua lại với nhau.
Minh chứng của thực thi và xác lập chủ quyền được xác thực thông qua những kiểu
sau. Thứ nhất, minh chứng của xác lập chủ quyền thông qua hệ thống bản đồ: bản đồ địa
giới hành chính; bản đồ chỉ rõ tên cụ thể của Hoàng Sa, Trường Sa. Thứ hai là loại minh
chứng từ các tư liệu, đoạn trích dẫn về Hồng Sa, Trường Sa được ghi chép trong các tài
liệu của Việt Nam hay các nước khác. Trong tài liệu của các nhà sử gia Việt Nam đã xác
định được tên gọi, địa giới hành chính, cách thức tổ chức, khai thác đối với hai quần đảo
Trường Sa và Hồng Sa.
Q trình thực thi và xác lập chủ quyền đối với Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam
được chia ra thành 5 giai đoạn: trước năm 1884; giai đoạn 1884-1945; giai đoạn 1945-1954;
giai đoạn 1954-1975 và giai đoạn 1975 đến nay.
2. Quá trình thực thi và xác lập chủ quyền đối với Hoàng Sa và Trường Sa của Việt
Nam: GIAI ĐOẠN TRƯỚC NĂM 1884
2.1. Nhóm sự kiện liên quan đến vẽ bản đồ
Hệ thống bản đồ: là các bản đồ của các triều đại quân chủ Việt Nam, Trung Quốc,
các nước phương Tây. Từ giữa thế kỉ XV, nhận thức của người Đại Việt đã có sự phân biệt
giữa hai vùng biển Nam Hải và Đông Hải. Nam Hải (Biển Nam) là tên chung cho tồn bộ
vùng biển phía bắc của biển Chiêm Thành đã được hợp nhất vào lãnh hải của Đại Việt dưới
các triều đại Lý, Trần, Hồ, Lê Sơ. Cịn vùng biển phía Bắc – Biển Đơng truyền thống (Đông
Hải). 1438, dưới thời Lê Thái Tông, Nguyễn Trãi được vua giao cho viết “Dư địa chí” đã
xác định được rõ ràng vùng biển ứng với lãnh thổ bao đời của người Việt cho đến Quảng
Bình là Đơng Hải1 (Biển Đông) và vùng biển ở khu vực hợp nhất vào lãnh thổ Đại Việt từ
triều Lý đến đầu triều Lê Sơ là Nam Hải2 (Biển Nam).
1490, vua Lê Thánh Tông cho hoàn thành bản đồ toàn quốc tên gọi là bộ Hồng Đức
bản đồ toàn quốc gồm 13 xứ thừa tuyên, 52 phủ, 178 huyện, 50 châu… 3 Trên bản đồ ấy
xuất hiện cả vùng đất liền và biển đảo của lãnh thổ Đại Việt. Cũng là lần đầu tiên khi “tên
gọi Biển Đông hay Đông Hải được đánh dấu trên bản đồ thừa tuyên Thuận Hóa và thừa
tuyên Quảng Nam”. Vùng duyên hải của thừa tuyên Quảng Nam không dừng lại ở Quy
Nhơn mà còn đến tận Thạch Bi và mở rộng ra đến tận các quần đảo ở giữa Biển Đông.
Thế kỉ XVI đã xuất hiện nhiều bản đồ hải trình (bản đồ hàng hải) của các nước phương
Tây. Đặc biệt nhất, năm 1569, trong hệ thống bản đồ này phải kể đến bản đồ Thế giới của
người Hà Lan- Mercator vẽ, được xuất bản trong thời gian từ 1585 đến 1595 là bản đồ chính
xác nhất thời ấy. Trong tấm bản đồ ấy, đã “đánh dấu nhóm bãi cạn phía Tây Nam quần đảo
Hồng Sa (quần đảo được gọi chung là Pracel hay Paracels)” với những cái tên là Baxos de
Chapar (bãi ngầm Champa) hoặc Pulo Capaa (đảo của Champa) và có đề cập, phân biệt
được với địa danh Cù lao Ré. Dù rằng từ đầu thế kỷ XV, khu vực duyên hải và hải đảo này
của Champa đã từng bước được sáp nhập vào lãnh thổ Đại Việt. Nhưng đến cuối thế kỉ XVI,
nhiều bản đồ phương Tây đã vẽ chính xác và rõ ràng các quần đảo Hoàng Sa và đánh dấu
1
Nguyễn Trãi Toàn tập, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1976, tr. 218
Nguyễn Trãi Toàn tập, Sđd, tr. 234
3
Đại Việt sử ký toàn thư, tập II, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1993, tr.507.
2
2
khu vực địa giới hành chính của khu vực này tương đương với các tỉnh Quảng Nam, Quảng
Ngãi ngày nay với tên Costa da Pracel hay Costa de Pracel (Bờ biển Hoàng Sa). Điều ấy
được minh chứng rõ nhất qua hai tấm bản đồ là bản đồ của Bartholome (Bồ Đào Nha) năm
1592 và bản đồ của anh em Van Langren (Hà Lan) năm 1595 đánh dấu Isla de Pracel ngoài
khơi và Costa de Pracel vùng biển bên trong Pulo Catam (Cù lao Ré).4
Thế kỉ XVII, bản đồ của công ty Đơng Ấn Hà Lan vẽ vào khoảng 1658-1659 có đường
vĩ độ, tỉ lệ rõ ràng đã thể hiện sự khác biệt giữa quần đảo Hoàng Sa với cái dải cát và bãi đá
ngầm gần bờ. Cuối thế kỉ XVII, bản đồ Map of the coastline of Quina, Tonquin, CochinChina và Aynam vẽ năm 1695 càng cụ thể và rõ ràng hơn. Khi nó thể hiện được mối quan
hệ giữa Hoàng Sa với các đảo ven bờ, cửa biển duyên hải Việt Nam.
Bước vào thế kỉ XVIII, Hà Lan với cơng nghệ vẽ bản đồ tiên tiến hơn thời kì trước
đã từng bước phân chia rõ ràng Pracels và Baxios de Chapa ngoài khơi với các đảo ven bờ.
Bản đồ Carte des Costes COCHINCHINE, TUNQUIN et partie de celles de la Chine (Hà
Lan – 1747) nhìn chung giống với bản đồ của công ty Đông Ấn Hà Lan năm 1658-1659
nhưng kinh độ, vĩ độ đã chi tiết hơn. Và không thể chối bỏ việc Paracel và Paracelles nằm
trong lãnh thổ Cochinchine.
2.2. Nhóm sự kiện thực thi và xác lập chủ quyền thể hiện hành động cụ thể
2.2.1. Từ thế kỉ X đến thế kỉ XVI
Dưới thời Lý Anh Tông (1138-1175) theo Đại Việt sử ký toàn thư, Đại Việt đã liên
tục tiến hành các hoạt động trên biển: “xây dựng cơ sở quản lý, tổ chức các đội tàu thuyển ,
tiền hành kiểm tra, kiểm soát, xác định ranh giới trên biển và mở rộng quan hệ giao thương
buôn bán với nước ngoài”5. Tháng 10/ 1147, vua cho “dựng hành dinh ở trại Yên Hưng”6 –
là cơ quan quản lý của triều đình trung ương với cửa ngõ sơng biển quan trọng của cả nước.
Tháng 12/ 1149, vua cho “lập trang ở nơi hải đảo, gọi là Vân Đồn để mua bán hàng hóa quý,
dâng tiến sản vật địa phương”7 . Tháng 11/ 1161, Lý Anh Tông sai “Tô Hiến Thành làm Đơ
tướng, Đỗ An Di làm phó, đem 2 vạn quân đi tuần các nơi ven biển niềm Tây Nam để giữ
yên bờ cõi xa. Vua thân đi đưa đến cửa biển Thần Đầu huyện Đại An mới trở về.”8 Năm
1171-1172, nhà vua tích cực đi tuần ở các hải đảo, vẽ bản đồ ranh giới các vùng biển. Có
thể thấy, Lý Anh Tơng đã có những hành động khai thác, quản lý cụ thể biểu hiện sự sở hữu
rõ ràng của Đại Việt trên vùng biển này.
Đến triều Trần, chiến thắng trên sông Bạch Đằng 1288 là một trận thủy chiến vang
dội trong lịch sử chống ngoại xâm của nước ta. Khi nó đã làm cho vùng Đơng Bắc hay cịn
gọi là lộ Đơng Hải ở đây trở thành một hệ thống cảng lớn nhất Đại Việt. Đặc biệt, cửa biển
Bạch Đằng trở thành biểu tượng của sức sống Đại Việt.
Giữa thế kỉ XV, dưới triều đại Lê sơ, các vua Lê luôn ra sức củng cố, giữ gìn và bảo
vệ vùng biển này. Như đã kể trên, dấu mốc đặc biệt thời kì này thể hiện rõ nhất bằng việc
hoàn thành bộ Hồng Đức bản đồ dưới thời Lê Thánh Tông.
Nguyễn Quang Ngọc, Chủ quyền của Việt Nam ở Hoàng Sa, Trường Sa tư liệu và sự thật lịch sử, Nxb ĐHQGHN, 2016, tr.126
Chủ quyền của Việt Nam ở Hoàng Sa, Trường Sa tư liệu và sự thật lịch sử, Sđd, tr. 98
6
Đại Việt sử ký toàn thư, tập I, Sđd, tr. 316
7
Đại Việt sử ký toàn thư, tập I, Sđd, tr. 317
8
Đại Việt sử ký toàn thư, tập I, Sđd, tr. 323
4
5
3
Năm 1527, Mạc Đăng Dung lấy Hải Phòng “làm Dương Kinh, lập cung điện ở Cổ
Trai…”9. Một kinh đô mới với tầm nhìn hướng biển, tầm nhìn của sự phát triển kinh tế biển.
Dương Kinh như một làn gió mới, trở thành “cửa ngõ quốc tế cho toàn vùng châu thổ sơng
Hồng”10.
2.2.2. Thời chúa Nguyễn
Năm 1558, Nguyễn Hồng theo lệnh vua Lê vào trấn thủ đất Thuận Hóa. Đầu năm
1570, vua Lê cho Nguyễn Hoàng cai trị thêm vùng đất Quảng Nam. Có quyền cai quản cả
vùng Thuận Quảng “Chúa ở trấn hơn 10 năm, chính sự rộng rãi, quân lệnh nghiêm trang,
nhân dân đều yên cư lạc nghiệp, chợ khơng hai giá, khơng có trộm cướp. Thuyền bn các
nước đến nhiều. Trấn trở nên một nơi đô hội lớn”11.
Sự nghiệp của Nguyễn Hoàng được kế thừa bởi con trai là Nguyễn Phúc Nguyên khi
lãnh thổ Đại Việt ngày càng đẩy mạnh mở rộng về phía Nam, Nguyễn Phúc Nguyên càng
có ý thức sâu sắc hơn về vị trí đặc biệt quan trọng của các quần đảo giữa Biển Đông. Vậy
nên, chúa Sãi đã sớm đề ra các chủ trương nhằm khai chiếm các vùng biển này. Để biến chủ
trương đó thành hiện thực, chúa Nguyễn Phúc Nguyên quyết định đặt ra đội Hoàng Sa. Chúa
Nguyễn Phúc Nguyên xây dựng đội Hoàng Sa với chuyên trách khai thác và bảo vệ Biển
Đơng từ phía ngồi. Trong Phủ biên tạp lục, nhà bác học Lê Q Đơn đã viết: “Họ Nguyễn
có thiết lập đội Hoàng Sa gồm 70 suất. Đội Hoàng Sa chủ yếu là dân binh ở thôn An Vĩnh,
cửa biển Sa Kỳ trong đất liền và xóm An Vĩnh ở Cù Lao Ré. Mỗi năm tháng 2 nhận giấy
làm sai dịch, được cấp phát mỗi người sáu tháng lương đủ ăn, chèo năm chiếc thuyền câu
nhỏ ra ngoài biển, phải mất ba ngày ba đêm mới đến đảo.”12 Trong đoạn ghi chép trên, đội
Hoàng Sa sau khi trở về từ biển phải đi vào cửa Eo (nay cửa biển Thuận An - Thừa Thiên
Huế), để báo cáo và giao nộp sản vật, tài vật đã thu được trên đảo tại thành Phú Xuân. Việc
tận dụng kinh nghiệm đi biển của người dân địa phương đã tập hợp thành lực lượng qn
đội vừa duy trì được lợi ích kinh tế vừa đảm bảo an ninh biển đảo. Việc thành lập đội Hồng
Sa là “một hình thức xác lập và thực thi chủ quyền trên vùng biển đảo giữa Biển Đông dưới
danh nghĩa nhà nước lần đầu tiên, duy nhất trong lịch sử khu vực”13.
Nối gót đội Hồng Sa, chúa Nguyễn (Nguyễn Phúc Chu) lại đặt đội Bắc Hải sau khi
lập phủ Bình Thuận, “mộ dân thơn Tứ Chính hoặc xã Cảnh Dương – Bình Thuận sung vào,
sai đi thuyền nhỏ đến các xứ Bắc Hải, Cơn Lơn để tìm lượm hóa vật, cũng do đội Hồng Sa
kiểm quản.”14 Với sự phát triển mạnh mẽ về phía Nam trên cả hai mặt là lãnh thổ và lãnh
hải, đòi hỏi chúa Nguyễn phải lập ra một hải đội nữa để bao quát được các vùng biển đảo
giữa Biển Đông và Nam Biển Đơng là điều hiển nhiên. Có thể nói, việc nhận thức được tầm
quan trọng của biển để tăng cường tổ chức phòng thủ, khai thác biển dưới các đời chúa
Nguyễn ln là ngun tắc sống cịn của vương triều.
2.2.3. Thời kỳ nhà Nguyễn thế kỉ XIX
Tháng 7 năm Quý Hợi (1803), vua Gia Long đã cho lập lại các đội Hồng Sa, Bắc
hải. Đại Nam thực lục chính biên, đệ nhất kỷ, quyển 12 viết: “lấy Cai cơ Võ Văn Phú làm
Lê Q Đơn Tồn tập, tập III (Đại Việt thông sử), Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1978, tr. 265,266.
Chủ quyền của Việt Nam ở Hoàng Sa, Trường Sa tư liệu và sự thật lịch sử, Sđd, tr. 118
11
Quốc sử quấn triều Nguyễn: Đại Nam thực lục, tập I, Nxb Giáo dục, tr. 31
12
Lê Quý Đôn, Phủ biên tạp lục, tập I, Nxb Khoa học Xã hội, tr. 119-120
13
Chủ quyền của Việt Nam ở Hoàng Sa, Trường Sa tư liệu và sự thật lịch sử, Sđd, tr. 118
14
Quốc sử quán triều Nguyễn: Đại Nam thực lục, tập I, Sđd, tr. 164
9
10
4
Thủ ngự cửa biển Sa Kỳ, sai mộ dân ngoại tịch lập làm Đội Hoàng Sa”15 Dù lực lượng chủ
yếu của hai hải đội này vẫn là dân binh nhưng vua Gia Long đã chú trọng đến cải thiện tàu
thuyền, thiết bị,… phát triển tiềm năng quân sự biển. Năm 1815-1816, vua Gia Long thường
xuyên triển khai các hoạt động chủ quyền ở Hồng Sa, Trường Sa. Ơng liên kết đội Thủy
quân và đội Hoàng Sa nhiều lần ra đo đạc, thăm dị đường biển hay do thám thủy trình. Dần
dần việc hợp nhất đội Hoàng Sa, Bắc Hải đa phần là dân binh vào đội Thủy quân để trở
thành lực lượng quân đội chính quy với trách nhiệm thực thi và xác lập chủ quyền ở Hoàng
Sa, Trường Sa càng được xem là điều thiết yếu.
Sang thời vua Minh Mệnh, sự tích hợp hồn tồn của đội Hồng Sa, Bắc Hải vào đội
Thủy quân đã mang đến cho thời kì này những hoạt động chủ quyền ở Hồng Sa, Trường
Sa lên một bước tiến mới. Một thành tựu to lớn nhất dưới thời Minh Mệnh không thể không
kể đến việc đo vẽ bản đồ Hoàng Sa, Trường Sa. Đại Nam thực lục chính biên, Đệ nhị kỷ có
viết năm 1834: “Sai Giám thành đội tưởng Trương Phúc Sĩ cùng Thủy quân hơn 20 người
đi thuyền đến đảo Hoàng Sa vẽ bản đồ.”16 Vào khoảng 1838, bản đồ Đại Nam nhất thống
toàn đồ được hoàn thành, thể hiện sự chi tiết, rõ ràng và tương đối chính xác vùng chủ quyền
của triều Nguyễn bấy giờ theo phong cách vẽ bản đồ hiện đại của phương Tây. Bên cạnh
những hành động xác lập chủ quyền, thì những hành động thực thi chủ quyền đối với Hoàng
Sa, Trường Sa được thể hiện vô cùng quyết liệt. Hàng loạt hành động tuần tra, giám sát,
khai thác, tổ chức thu thuế, cứu hộ, cứu nạn, lập miếu, bia chủ quyền,… cho thấy dưới thời
Minh Mệnh vấn đề chủ quyền được ưu tiên và quan tâm rất lớn. Như GS. Phan Huy Lê đã
nhận xét: “Công việc quản lý và thực thi chủ quyền đã được nhà Nguyễn nâng lên cấp quốc
gia ở trình độ cao nhất là do nhà vua trực tiếp chỉ đạo và quyết định.”17
Vào thời vua Thiệu Trị, vua cũng cử người vẽ bản đồ gọi là Đại Nam toàn đồ. Trên
bản đồ này thể hiện phía ngồi Quảng Nam đã đánh dấu vị trí các đảo. Cuộc chiến tranh
xâm lược của Pháp đến gần cũng là lúc vua Tự Đức lên ngơi. Dưới hồn cảnh khó khăn là
vậy nhưng nhà vua vẫn quan tâm đến tuần tra, giám sát tại Hoàng Sa và Trường Sa. Dưới
tác động của một loạt hiệp ước: Giáp Tuất (1874), Harmand (1883), Patenotre (1884) đã
định đoạt số phận của triều Nguyễn sẽ rơi vào tay thực dân Pháp. Nhà Nguyễn khơng cịn
là một vương triều phong kiến độc lập nữa vậy nên chủ quyền của Hồng Sa, Trường Sa
cũng khơng thể tránh khỏi việc được chuyển sang tay Pháp.
3. Quá trình thực thi và xác lập chủ quyền đối với Hoàng Sa và Trường Sa của Việt
Nam: GIAI ĐOẠN 1884 – 1945
3.1.
Những thập kỉ cuối thế kỉ XIX
Ba năm sau Hiệp ước Patenotre (1884), Pháp kí với Trung Quốc Cơng ước hoạch
định biên giới giữa Bắc Kỳ và Trung Quốc. Bản Công ước này không hề đề cập đến các đảo
giữa Biển Đông. Vào năm 1894, sở Hải đồ hải quân Pháp cho ấn hành 2 tập sách chỉ dẫn
hàng hải nói rõ về hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Tại quần đảo Hoàng Sa, năm 18951896 xảy ra nhiều sự kiện đắm tàu. Trong đó, một tàu của Đức mua bảo hiểm của công ty
Anh nhưng cứu hộ thất bại. Người Trung Quốc đi thuyền đến chiếc tàu bị đắm đấy cướp
Quốc sử quán triều Nguyễn: Đại Nam thực lục, tập I, Sđd, tr. 566
Quốc sử quán triều Nguyễn: Đại Nam thực lục, tập IV, Sđd, tr. 120
17
Phan Huy Lê, “Châu bản triều Nguyễn – những chứng cứ lịch sử - pháp lý về chủ quyền của Việt Nam đối với Hoàng Sa,
Trường Sa”, Tạp chí Nghiên cứu lịch sử số 459, tr. 10
15
16
5
bóc, mang đồng về. Anh yêu cầu Trung Quốc chịu trách nhiệm nhưng Trung Quốc phản
đối, không nhận trách nhiệm vì Paracels khơng thuộc Trung Hoa.
Năm 1899, Paul Doumer- tồn quyền Đơng Dương ra lệnh xây hải đăng trên Hồng
Sa. Nhưng do yếu tố khách quan cơng trình xây hải đăng khơng được tiến hành. Pháp khơng
có nhiều quyền thực thi đối với Hồng Sa. Vì Pháp do dự nên đã tạo cho chính quyền Mãn
Thanh cơ hội cử người tới giám sát Hoàng Sa vào thời gian sau.
Như vậy, từ năm 1884 đến cuối thế kỉ XIX, dưới triều Nguyễn khơng có một vị vua
nào tun bố từ bỏ chủ quyền đối với Hoàng Sa và Trường Sa. Khi Pháp nằm tồn bộ quyền
hành, chi phối mọi chính sách về kinh tế, chính trị, xã hội, ngoại giao thì Pháp và Trung
Quốc trong giai đoạn này chưa có hành động cụ thể nào tác động trực tiếp đến Hoàng Sa và
Trường Sa.
Từ 1909 đến 1939
Tháng 3 năm 1909, chính quyền Quảng Đông, Trung Quốc cử một đội khảo sát đến
quần đảo Hồng Sa. Đơ đốc Lý Chuẩn cùng đội khai thác tới đây, tự ý đặt lại tên Hoàng Sa
hay Paracels là Tây Sa một cách vô lý. Tháng 6 cùng năm, Trung Quốc cắm cờ, tuyên bố
chủ quyền của họ đối với Hoàng Sa và kết thúc hoạt động của đội khai thác. Nhìn chung,
trước nguy trở thành miếng mồi ngon của chủ nghĩa tư bản, chính quyền Mãn Thanh phải
xác định ngay chủ trương kéo Hoàng Sa của Việt Nam vào lãnh thổ, lãnh hải của mình.
30/03/1921, Tổng đốc Lưỡng Quảng tuyên bố sáp nhập quần đảo Tây Sa (Hồng Sa)
vào Hải Nam nhưng Pháp khơng hề lên tiếng phản đối. Về sau đến 03/03/1925, nguyên Binh
bộ Thượng thư Thân Trọng Huề mới viết thư cho Khâm sứ Trung Kỳ rằng: “Các đảo nhỏ
đó (đảo Paracels hay Hoàng Sa) bao giờ cũng là sở hữu của nước An Nam, khơng có sự
tranh cãi về vấn đề này.”18 Năm 1927, Pháp đưa tàu De Lanessan ra khảo sát khoa học tại
quần đảo Trường Sa. Đến đầu năm 1930, Pháp ra thông báo hạm Malicieuse do thuyền
trưởng De Lattre điều khiển sẽ ra quần đảo Trường Sa theo chỉ thị của tồn quyền Đơng
Dương để dựng bia chủ quyền. Đến gần cuối năm, Phủ tồn quyền Đơng Dương thơng báo
với các nước trên thế giới rằng đã chiếm giữ được quần đảo Trường Sa. Cuối những năm
1930, sự xuất hiện của Nhật ở Hoàng Sa đã rất nhiều lần để Bộ trưởng Ngoại giao Pháp phải
thông báo với Nhật về quyền của An Nam và việc bảo hộ An Nam của Pháp.
Năm 1938, vua Bảo Đại ra chỉ dụ: “chuẩn tháp các cù lao Hoàng Sa vào địa hạt tỉnh
Thừa Thiên; về phương diện hành chính, các cù lào ấy thuộc dưới quyền quan Tỉnh hiện
tỉnh ấy”.19 Trên cơ sở ấy, chính phủ bảo hộ Pháp đã sáp nhập quần đảo Hoàng Sa vào tỉnh
Thừa Thiên nước An Nam. Để minh chứng cho sự kiện này, Pháp đã cho dựng bia chủ
quyền trên quần đảo Hoàng Sa với nội dung “Cộng hòa Pháp – Đế chế An Nam – Quần đảo
Hoàng Sa 1816 – Đảo Hoàng Sa 1938). Tấm bia khẳng định chủ quyền của Cộng hòa Pháp
và Vương quốc An Nam không chỉ ở mỗi năm 1938 mà còn trước đấy, thời nhà Nguyễn cụ
thể là năm 1816.
Thời kì này chủ yếu là những tranh chấp, tranh biện về chủ quyền của Trung Hoa và
Pháp. Chủ yếu là Cộng hòa Pháp và Vương quốc An Nam, thực hiện những hành động
chiếm hữu, thực thi chủ quyền trên hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa này. Tuy Trung Hoa
3.2.
Monique Chemiller-Gendreau: Chủ quyền trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2011,
tr. 224
19
Nam triều quốc ngữ báo công năm 1938, số 8
18
6
có tun bố chủ quyền nhưng họ khơng đưa ra được minh chứng lịch sử để xác thực cho
điều này. Trên thực tế, đến năm 1939, Trung Hoa vẫn chưa có động thái chiếm hữu nào đối
với Hồng Sa và Trường Sa.
Từ 1939 đến 1945
Tại Trung Quốc, Nhật chiếm được các đảo Đài Loan, Bành Hồ và khơng dễ gì bỏ qua
một “miếng mồi ngon” là hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Năm 1939, Nhật tuyên bố
chiếm Trường Sa đặt tên mới là Shinnan Gunto. Năm 1940 tuyên bố chiến cả hai quần đảo
Hoàng Sa và Trường Sa, Hoàng Sa bị đổi tên thành Hirata Gunto đặt dưới quyền kiểm sốt
của tồn quyền Nhật tại Đài Loan. Ngày 04/04 cùng năm, chính phủ Pháp gửi cơng hàm
phản đối quyết định trên của Nhật và tuyên bố bảo lưu các quyền của Pháp tại quần đảo
Hoàng Sa và Trường Sa. Tuyên cáo Cairo (1943) buộc Nhật phải rút và trao trả những vùng
Nhật đã chiếm của Trung Hoa Dân Quốc nhưng khơng hề đề cập đến Hồng Sa, Trường Sa.
15/08/1945, Nhật đầu hàng Đồng minh vô điều kiện, phải rút quân khỏi Đông Dương nhưng
quân Nhật đến năm 1946 mới rời khỏi quần đảo Hồng Sa.
Trong thời kì này, Trung Hoa Dân Quốc không đặc biệt chú ý đến khu vực Biển Đơng
này và việc tun bố có chủ quyền ở đây của Trung Hoa Dân Quốc cũng không được cộng
đồng quốc tế chấp thuận. Việc giải giáp quân Nhật trên vùng biển này của Tưởng Giới Thạch
cũng không hề có minh chứng.
3.3.
4. Q trình thực thi và xác lập chủ quyền đối với Hoàng Sa và Trường Sa của Việt
Nam: GIAI ĐOẠN 1945 – 1954
1946, lợi dụng việc giải giáp quân Nhật, quân Tưởng đã đem quân chiếm giữ đảo Phú
Lâm thuộc quần đảo Hoàng Sa. Tháng 12, “Vụ Biên giới và Lãnh thổ, Bộ Nội vụ Trung Hoa
Dân Quốc xuất bản bản đồ đường Lưỡi bò gồm 11 đoạn bao lấy phần lớn Biển Đông.”20
Tháng 8/1951, Chu Ân Lai – Bộ trưởng Ngoại giao CHND Trung Hoa tuyên bố chủ quyền
lâu đời của Trung Quốc trên hai quần đảo Nam Sa và Tây Sa dù khơng có bất kể minh chứng
lịch sử nào đáng tin cậy. Tại Hội nghị San Francisco, Bộ trưởng Ngoại giao Liên Xô đề nghị
việc Nhật bản công nhận chủ quyền của CHND Trung Hoa trên “các đảo Paracels và các
đảo khác về phía Nam” đã bị Hội nghị phủ quyết tuyệt đối.
Cuối năm 1947, Chính phủ Pháp lập chính quyền thân Pháp – Quốc gia Việt Nam,
Bảo Đại đứng đầu. Năm 1949, ngày 08/03, chính phủ Pháp kí với Quốc trưởng Quốc gia
Việt Nam hiệp đinh Hạ Long trả độc lập, thành lập quốc gia Việt Nam trong liên hiệp Pháp.
Nam Kỳ trong đó có Trường Sa được trao trả cho Việt Nam.. Tháng 10/1950, “Chính phủ
Pháp chính thức chuyển giao lại cho Chính phủ Bảo Đại quyền quản lý và bảo vệ quần đảo
Hoàng Sa”21 . Năm 1951, Trần Văn Hữu của đoàn đại biểu quốc gia VN phát biểu trong hội
nghị San Francisco gồm 50 nước tham gia: “Và cũng vì vậy cần phải thành thật lợi dụng tất
cả mọi cơ hội để dập tắt những mầm mống các tranh chấp sau này, chúng tơi xác nhận chủ
quyền đã có từ lâu đời của chúng tôi trên quần đảo Trường Sa và Hồng Sa. Hai quần đảo
này ln ln là một phần của Việt Nam”22 đều được các đoàn tán đồng. Hiệp định Geneva
( 1954) được kí kết, Việt Nam chia làm hai miền lấy vĩ tuyến 17 làm giới tuyến. Việc chia
Chủ quyền của Việt Nam ở Hoàng Sa, Trường Sa tư liệu và sự thật lịch sử, Sđd, tr. 294
Chủ quyền của Việt Nam ở Hoàng Sa, Trường Sa tư liệu và sự thật lịch sử, Sđd, tr. 300
22
Toàn văn Tuyên bố của Thủ tướng Trần Văn Hữu được in trong Tạp chí France – Asie số 66-67.
20
21
7
cắt như vậy khiến cho hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa nằm ở phía Nam Biển Đơng khơng
nằm trong quyền kiểm sốt của Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa mà cả hai quần đảo
này đều thuộc Khối Liên hiệp Pháp: Quốc gia Việt Nam sau là Việt Nam Cộng hịa.
5. Q trình thực thi và xác lập chủ quyền đối với Hoàng Sa và Trường Sa của Việt
Nam: GIAI ĐOẠN 1954 - 1975
Tháng 4 năm 1956, quân Pháp cuối cùng rút khỏi Hoàng Sa, Trường Sa, Hải qn
Việt Nam Cộng hịa đã vào chiếm giữ nhóm đảo Lưỡi Liềm. Qn đội Việt Nam Cộng Hịa
nhanh chóng tổ chức việc dựng mốc chủ quyền ở trên cả hai quần đảo. Cùng lúc đó, Trung
Quốc cho quân lên nhóm đảo An Vĩnh ( đảo Phú Lâm, Linh Côn) chiếm đến nhiều năm sau.
Đài Loan cũng đến chiếm đảo Ba Bình đến tận ngày nay. Thomas Cloma – người Philippines
cũng chiếm một số đảo thuộc quần đảo Trường Sa, tự đặt tên là “Đất tự do”. Trước tình hình
ấy, Bộ trưởng Ngoại giao Vũ Văn Mẫu tái tuyên bố khẳng định chủ quyền của Việt Nam
với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Tháng 8, tàu HQ.04 của Việt Nam Cộng Hòa đến
Trường Sa để nghiên cứu, đặt bia chủ quyền, cắm cờ bảo vệ.
Năm 1971 (13/7), tại Hội nghị ASPECT tại Manila ở Philippines, Bộ trưởng ngoại
giao Việt Nam Cộng hòa Trần Văn Lắm đã tuyên bố khẳng định quần đảo Hoàng Sa và
quần đảo Trường Sa thuộc chủ quyền của Việt Nam. Năm 1974 (30/3), tại kỳ họp lần thứ
30 của Hội đồng kinh tế LHQ về Châu Á và Viễn Đơng (ECAPE), tại Colombo, Phái đồn
Việt Nam Cộng hòa đã tuyên bố khẳng định quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa là
lãnh thổ của Việt Nam. Năm 1975 (14/2) Việt Nam Cộng hịa cơng bố Sách trắng về chủ
quyền Việt Nam đối với quần đảo Hồng Sa và Trường Sa.
Chính quyền VNCH cũng có những biện pháp nhằm bảo vệ chủ quyền ở hai quần đảo
Hoàng Sa và Trường Sa. Tháng 2/1959, lực lượng quân đội VNCH đã phá tan âm mưu xâm
chiếm các nhóm phía tây quần đảo Hồng Sa của qn đội Cộng hòa nhân dân Trung Hoa.
Ngày 21 tháng 2 năm 1959, CHND Trung Hoa cho một số lính đóng giả ngư dân bí mật đổ
bộ lên các đảo Hữu Nhật, Duy Mộng, Quang Hịa nhằm đánh chiếm nhóm phía Tây quần
đảo Hoàng Sa. Lực lượng quân đội Việt Nam Cộng hòa đã phá tan được âm mưu này, 82
“ngư dân” và 5 thuyền đánh cá vũ trang đã bị bắt giữ và bị áp giải về giam tại Đà Nẵng, sau
đó được trả cho Trung Quốc. Nổi cộm trong thời kì này là trận hải chiến Hồng Sa năm
1974, hai bên giao tranh quyết liệt, phía Trung Quốc vẫn chiếm giữ trái phép quần đảo
Hoàng Sa cho đến tận ngày nay.
6. Quá trình thực thi và xác lập chủ quyền đối với Hoàng Sa và Trường Sa của Việt
Nam: GIAI ĐOẠN 1975 - NAY
Ngày 12/5/1977, Chính phủ CHXHCN Việt Nam ra tuyên bố về các vùng biển và
thềm lục địa Việt Nam, trong đó đã khẳng định quần đảo Hồng Sa và quần đảo Trường Sa
của Việt Nam có các vùng biển và thềm lục địa riêng. Ngày 12/11/1982, Chính phủ nước
CHXHCN Việt Nam ra tuyên bố về hệ thống đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải
ven bờ lục địa Việt Nam. Năm 1988, Chính phủ CHXHCN Việt Nam đã gửi nhiều công
hàm phản đối Bắc Kinh lên Liên Hợp Quốc và đặc biệt là công hàm ngày 16, 17, 23/3/1988
đề nghị 2 bên thương lượng giải quyết vấn đề tranh chấp. Tuy nhiên Trung Quốc vẫn chiếm
giữ các bãi đá đã chiếm được và khước từ thương lượng. Hiến pháp Việt Nam năm 1992 đã
8
khẳng định lãnh thổ Việt Nam bao gồm đất liền, các đảo, vùng biển và vùng trời và “Tổ
quốc Việt Nam là thiêng liêng, bất khả xâm phạm”.
Ngày 23/6/1994, Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam thông qua nghị quyết phê chuẩn
công ước của Liên Hợp Quốc về Luật biển năm 1982. Khẳng định chủ quyền của Việt Nam
đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa và chủ trương giải quyết tranh chấp bằng
thương lượng hịa bình với các nước có liên quan. Quốc hội cịn nhấn mạnh việc tranh chấp
chủ quyền với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa với các vấn đề phân định vùng biển và
vùng thềm lục địa thuộc chủ quyền, quyền chủ quyền, và quyền tài phán quốc gia theo đúng
tiêu chuẩn của Pháp luật quốc tế. Cùng với Luật Biển Việt Nam ban hành năm 2013, Việt
Nam cũng đã ban hành hàng loạt văn bản quy phạm pháp luật nhằm thể chế hóa các chủ
trương về quản lý và bảo vệ chủ quyền biển, đảo.
Phân định chủ quyền Việt Nam đối với các nước láng giềng. Ngày 9/8/1997, tại
Bangkok, Việt Nam và Thái Lan đã ký hiệp định phân định ranh giới giữa hai nước trong
vịnh Thái Lan. Từ đó, hải quân hai nước đã tiến hành nhiều chuyến tuần tra chung để tăng
cường ổn định an ninh trên biển. Ngày 26 tháng 6 năm 2003, Việt Nam và Indonesia đã ký
hiệp định phân định thềm lục địa giữa hai nước. Việt Nam và Malaysia có vùng thềm lục
địa và vùng đặc quyền kinh tế chồng lấn. Diện tích vùng chồng lấn khơng lớn, nhưng có
tiềm năng dầu khí. Ngày 5/6/1992, chính phủ hai nước ký Thoả thuận hợp tác thăm dò khai
thác chung vùng chồng lấn như là giải pháp tạm thời trong khi chưa phân định dứt điểm
ranh giới. Việt Nam và Campuchia cần phải phân định ranh giới lãnh hải, vùng đặc quyền
kinh tế và thềm lục địa giữa hai nước trong Vịnh Thái Lan. Năm 1982, hai nước tuyên bố
ký hiệp định về vùng nước lịch sử giữa với các nội dung chính là: hai bên thỏa thuận sẽ cùng
tiến hành tuần tiễu, kiểm soát trong vùng nước lịch sử, việc đánh bắt hải sản của nhân dân
địa phương hai nước trong vùng biển này vẫn theo tập quán làm ăn từ trước tới nay, còn
việc khai thác tài nguyên thiên nhiên khác do hai bên cùng nhau thỏa thuận, nếu khơng có
thỏa thuận, khơng bên nào được đơn phương tiến hành.
Đặc biệt năm 2014, vấn đề chủ quyền biển đảo trở nên nóng bỏng hơn bao giờ hết
với sự kiện ngày 2/05/2014. Theo ủy ban biên giới quốc gia ngày 02/05/2014 Trung Quốc
ngang nhiên kéo giàn khoan Hải Dương 981 tới vị trí cách đảo Tri Tơn thuộc quần đảo
Hoàng Sa của Việt Nam 17 hải lý về phía nam, cách đảo Lý Sơn (tỉnh Quảng Ngãi, Việt
Nam) khoảng 120 hải lý về phía đơng. Đây là vị trí nằm hồn tồn trong vùng đặc quyền
kinh tế 200 hải lý của Việt Nam theo Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển. Để bảo vệ
quyền chủ quyền, quyền tài phán của mình trong vùng đặc quyền kinh tế theo đúng quy định
của luật pháp quốc tế, Việt Nam đã cử 29 tàu tới các khu vực gần giàn khoan Hải Dương
981 của Trung Quốc, khi nhận thấy giàn khoan này định "thiết lập vị trí cố định". Lực lượng
thực thi pháp luật của Việt Nam tích cực tuyên truyền, kêu gọi Trung Quốc chấm dứt ngay
hành vi vi phạm pháp luật quốc tế, rút giàn khoan ra khỏi vùng biển Việt Nam. Việt Nam tổ
chức họp báo, trong đó người phát ngơn Bộ Ngoại giao khẳng định mọi hoạt động của nước
ngoài trên các vùng biển của Việt Nam khi chưa được phép của Việt Nam đều là bất hợp
pháp và vô giá trị. Đáp lại, tàu Trung Quốc liên tục có những hành vi gây hấn, khiêu khích
như mở bạt che pháo để uy hiếp, sử dụng vịi rồng tấn cơng tàu của Việt Nam, sẵn sàng đâm
húc gây hư hỏng cho tàu Việt Nam và làm bị thương một số kiểm ngư viên.
9
Từ 1975 đến nay, các hoạt động trao cờ tổ quốc và ảnh Bác Hồ cho ngư dân được tổ
chức hàng năm nhằm động viên, khích lệ ngư dân tham gia bảo vệ vững chắc chủ quyền;
tích cực vươn khơi, bám biển. Năm 2021, Chương trình “Vì chủ quyền biển, đảo của Tổ
quốc” đã trao tặng 16.000 cờ Tổ quốc và 5.000 ảnh Bác Hồ cho ngư dân nhằm khuyến khích
cho các ngư dân tích cực vươn khơi bám biển, góp phần bảo vệ vững chắc chủ quyền biển
đảo của Tổ quốc.
KẾT LUẬN
Ngày nay, chủ quyền đối với Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam là một vấn đề
phức tạp, khơng những trong quan hệ khu vực mà cịn trong quan hệ quốc tế. Với những
bằng chứng lịch sử - pháp lý rõ ràng, chính xác khơng thể chối chủ quyền lâu đời của Việt
Nam đối với hai quần đảo này. Nhưng dưới sự dịm ngó, lăm le của những bên liên quan,
vấn đề này luôn diễn biến phức tạp và khó lường.
Đây khơng phải vấn đề có thể giải quyết dứt điểm trong tương lai vì nó chịu sự chi
phối của lịch sử., việc ảnh hưởng của các bên liên quan nhưng phải chung sống trên hịa
bình, giải quyết hài hịa với lợi ích của quốc gia dân tộc vẫn là trên hết, giữ vững toàn vẹn
lãnh thổ, tơn trọng lợi ích chủ quyền của quốc gia mình, cũng như các quốc gia khác. Quan
trọng là phải tuân thủ luật pháp quốc tế, giải quyết những vấn đề nảy sinh bằng con đường
hịa bình nhưng vẫn phải ln trong tâm thế sẵn sàng sử dụng vũ lực.
Là một sinh viên, việc nắm vững những tri thức về chủ quyền cịn cần phải có lịng
quyết tâm giữ vững chủ quyền của quốc gia mình, cũng cần phải biết tơn trọng lợi ích, chủ
quyền của các dân tộc khác và phải kiên quyết với những hành động xâm phạm chủ quyền.
10
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đào Duy Anh (1964), Đất nước qua các đời, NXB Khoa học Xã hội
2. Lê Quý Đôn (2007), Phủ biên tạp lục, NXB Khoa học Xã hội
3. Nguyễn Quang Ngọc (2016), Chủ quyền của Việt Nam ở Hoàng Sa, Trường Sa – Tư
liệu và sự thật lịch sử, NXB ĐHQGHN
4. Phan Huy Lê (2014), Châu bản triều Nguyễn: Những chứng cứ lịch sử – pháp lý về
chủ quyền của Việt Nam đối với Hoàng Sa – Trường Sa, Tạp chí Nghiên cứu Lịch
sử, số 8.
5. Quốc sử quán triều Nguyễn (2007), Đại Nam thực lục, NXB Giáo dục