Tải bản đầy đủ (.pdf) (23 trang)

Tìm hiểu sự vận dụng quan điểm của chủ nghĩa mác – lênin trong việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (5.2 MB, 23 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT TP.HCM
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

TIỂU LUẬN CUỐI KÌ
Mơn: Chủ nghĩa xã hội khoa học
Đề tài
TÌM HIỂU SỰ VẬN DỤNG QUAN ĐIỂM CỦA
CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN TRONG VIỆC XÂY DỰNG
NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

GVHD: GS.TS Trần Thị Thảo
LHP: LLCT120405_03
Nhóm thực hiện: 05
HỌC KÌ 2 – NĂM HỌC 2020 - 2021

THÀNH PHỐ THỦ ĐỨC, tháng 4 năm 2021


MỤC LỤC
A. PHẦN MỞ ĐẦU .......................................................................................... 5
1. Lý do chọn đề tài ...................................................................................... 5
2. M ục tiêu nghiên c ứu ................................................................................. 5
3. Phương pháp nghiên cứu ......................................................................... 6
4. B ố cục đề tài.............................................................................................. 6
B. PHẦN NỘI DUNG....................................................................................... 7
CHƯƠNG 1: QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN VỀ NHÀ
NƯỚC XÃ HỘI CHỦ NGHĨA ........................................................................ 7
1.1. Sự ra đời, bản chất, chức năng của nhà nước xã hội chủ nghĩa.......... 7
1.1.1. Sự ra đời của nhà nước xã hội chủ nghĩa ...................................... 7
1.1.2. B ản chất của nhà nước xã hội chủ nghĩa ....................................... 8


1.1.3. Chức năng của nhà nước xã hội chủ nghĩa ................................... 9
1.2. M ối quan hệ giữa dân chủ xã hội nhà nước chủ nghĩa và nhà nước xã
hội chủ nghĩa .............................................................................................. 11
CHƯƠNG 2: XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ
NGHĨA Ở VIỆT NAM HIỆN NAY ............................................................... 13
2.1. Quan niệm và đặc trưng nhà nước pháp quyề n xã hội chủ nghĩa ở
Việt Nam ..................................................................................................... 13
2.1.1. Quan niệm nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam 13
2.1.2. Đặc trưng nhà nước pháp quyề n xã hội chủ nghĩa ở Việ t Nam . 13
2.2. Tính tất yếu của việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam........................................................................................ 14
2.2.1. Thuận lợi ....................................................................................... 14
2.2.2. Khó khăn ....................................................................................... 15
2.2.3. Cơ sở xây dựng nhà nước pháp quyề n xã hội chủ nghĩa ở Việt
Nam ......................................................................................................... 15
2.3. M ột số giải pháp xây dựng nhà nước pháp quyề n xã hội chủ nghĩa ở
Việt Nam ..................................................................................................... 16


2.3.1. Trên lĩnh vực kinh tế .................................................................... 16
2.3.2. Trên lĩnh vực chính trị ................................................................. 17
2.3.3. Trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa .................................................. 21
C. PHẦN KẾT LU ẬN .................................................................................... 23
D. TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................................... 24


A. PHẦN M Ở ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Chủ tịch Hồ Chí Minh – người sáng lập và rèn luyện Đảng ta đã tiếp thu tinh
hoa tư tưởng của nhân loại vào quá trình tổ chức và lãnh đạo cách mạng, trong đó

có kế thừa tư tưởng cốt lõi về xây dựng nhà nước pháp quyền trong học thuyết
Mác – Lênin để hình thành quan niệm về một nhà nước Việt Nam mới. Ở Việt
Nam, khái niệm “nhà nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa” lần đầu tiên được nêu
ra tại Hội nghị lần thứ hai Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VII (ngày
29/11/1991) và tiếp tục được khẳng định tại Hội nghị tồn quốc giữa nhiệm kì
khóa VII của Đảng năm 1994 và cũng như trong các văn kiện khác của Đảng.
Tiếp theo là tại các Đại hội lần thứ X và XI của Đảng đã có bước phát triển về
chất trong nh ận thức về xây dựng Nhà nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa ở nước
ta. Và để hiểu rõ hơn về việc xây dựng nhà nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa
Việt Nam hiện nay, nhóm tác giả đã thực hiện tiểu luận: “Tìm hiểu sự vận dụng
quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin trong việc xây dựng nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay”. Thông qua tiểu luận, nhóm tác
giả mong muốn người đọc có thể hiểu rõ hơn về bản chất nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong thời đại mới.
2. Mục tiêu nghiên c ứu
Sau thắng lợi hào hùng của cuộc Cách mạng Tháng Tám, ngày 2-9-1945, tại
Quảng trường Ba Đình lịch sử, Chủ tịch Hồ Chí Minh trang trọng đọc Tuyên ngôn
Độc lập, khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng Hòa – một nhà nước kiểu mới,
nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam Á, đưa dân tộc ta tiến vào kỷ
nguyên độc lập, tự do. Vậy, nhà nước mà Đảng ta hướng đến là gì? Đó chính là
nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Đây là nhà nước được tổ chức và hoạt
động trên cơ sở Hiến pháp, pháp luật và bảo đảm tính tối cao của Hiến pháp và
pháp luật trong đời sống. Và để hiểu rõ hơn về nhà nước này, tiểu luận của chúng
em sẽ trình bày một cách chi tiết về khái niệm, bản chất cũng như quá trình xây
dựng phát triển hiện nay của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.


Đối tượng nghiên cứu của đề tài đó là: Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin
về nhà nước xã hội chủ nghĩa; Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
hiện nay.

3. Phương pháp nghiên cứu
- Nghiên cứu tài liệu, giáo trình.
- Tham khảo ý kiến chuyên gia.
4. Bố cục đề tài
Đề tài nghiên cứu của nhóm bao gồm 2 chương:
- Chương 1: Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin v ề nhà nước xã hội chủ
nghĩa.
- Chương 2: Xây dựng nhà nước pháp quyền xã h ội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện
nay.


B. PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN VỀ
NHÀ NƯỚC XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
1.1. Sự ra đời, bản chất, chức năng của nhà nước xã hội chủ nghĩa
1.1.1. Sự ra đời của nhà nước xã hội chủ nghĩa
Khát vọng về một xã hội công bằng, dân chủ, bình đẳng và bác ái đã xuất hiện
từ lâu trong lịch sử. Xuất phát từ nguyện vọng của nhân dân lao động muốn thoát
khỏi sự áp bức, bất công và chuyên chế, ước mơ xây dựng một xã hội dân chủ,
công bằng và những giá trị của con người được tơn trọng, bảo vệ và có điều kiện
để phát triển tự do tất cả năng lực của mình, nhà nước xã hội chủ nghĩa ra đời là
kết quả của cuộc cách mạng do giai cấp vô sản và nhân dân lao động tiến hành
dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản.
Tuy nhiên, chỉ đến khi xã hội tư bản chủ nghĩa xuất hiện, khi mà nh ững mâu
thuẫn giữa quan hệ sản xuất tư bản tư nhân về tư liệu sản xuất với tính chất xã hội
hóa ngày càng cao của lực lượng sản xuất trở nên ngày càng gay gắt dẫn tới các
cuộc khủng hoảng về kinh tế và mâu thuẫn sâu sắc giữa giai cấp tư sản và giai cấp
vô sản làm xuất hiện các phong trào đấu tranh của giai cấp vơ sản, thì trong cuộc
đấu tranh của giai cấp vô sản, các Đảng Cộng sản mới được thành lập để lãnh đạo
phong trào đấu tranh cách mạng và trở thành nhân tố có ý nghĩa quyết định thắng

lợi của cách mạng. Bên cạnh đó, giai cấp vơ sản được trang bị bởi vũ khí lý luận
là chủ nghĩa Mác – Lênin với tư cách cơ sở lý luận để tổ chức, tiến hành cách
mạng và xây dựng nhà nước của giai cấp mình sau chiến thắng. Cùng với đó, các
yếu tố dân tộc và thời đại cũng tác động mạnh mẽ đến phong trào cách mạng của
giai cấp vô sản và nhân dân lao động của mỗi nước. Dưới tác động của các yếu tố
khác nhau và cùng với đó là mâu thuẫn gay gắt giữa giai cấp vô sản và nhân dân
lao động với giai cấp bóc lột, cách mạng vơ sản có thể xảy ra ở những nước có
chế độ tư bản chủ nghĩa phát triển cao hoặc trong các nước dân tộc thuộc địa.
Nhà nước xã hội chủ nghĩa ra đời là kết quả của cuộc cách mạng do giai cấp vô
sản và nhân dân lao động tiến hành dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Tuy


nhiên, tùy vào đặc điểm và điều kiện của mỗi quốc gia, sự ra đời của nhà nước xã
hội chủ nghĩa cũng như việc tổ chức chính quyền sau cách mạng có những đặc
điểm, hình thức và phương pháp phù hợp. Song, điểm chung giữa các nhà nước
xã hội chủ nghĩa là ở chỗ, đó là tổ chức thực hiện quyền lực của nhân dân, là cơ
quan đại diện cho ý chí của nhân dân, thực hiện việc tổ chức quản lý kinh tế, văn
hóa, xã hội của nhân dân, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản.
Như vậy, nhà nước xã hội chủ nghĩa là nhà nước mà ở đó, sự thống trị chính trị
thuộc về giai cấp công nhân, do cách mạng xã h ội chủ nghĩa sản sinh ra và có sứ
mệnh xây dựng thành cơng chủ nghĩa xã hội, đưa nhân dân lao động lên địa vị
làm chủ trên tất cả các mặt của đời sống xã hội trong một xã hội phát triển cao –
xã hội xã hội chủ nghĩa.
1.1.2. Bản chất c ủa nhà nước xã hội chủ nghĩa
So với các kiểu nhà nước khác trong lịch sử, nhà nước xã hội chủ nghĩa là kiểu
nhà nước mới, có bản chất khác với bản chất của các kiểu nhà nước bóc lột trong
lịch sử. Tính ưu việt về mặt bản chất của nhà nước xã hội chủ nghĩa được thể hiện
trên các phương diện:
Về chính trị, nhà nước xã hội chủ nghĩa mang bản chất của giai cấp cơng nhân,
giai cấp có lợi ích phù hợp với lợi ích chung của quần chúng nhân dân lao động.

Trong xã h ội xã hội chủ nghĩa, giai cấp vô sản là lực lượng giữ địa vị thống trị về
chính trị. Tuy nhiên, sự thống trị của giai cấp vơ sản có sự khác biệt về chất so
với sự thống trị của các giai cấp bóc lột trước đây. Sự thống trị của giai cấp bóc
lột là sự thống trị của thiểu số đối với tất cả các giai cấp, tầng lớp nhân dân lao
động trong xã h ội nhằm bảo vệ và duy trì địa vị của mình. Cịn sự thống trị về
chính trị của giai cấp vô sản là sự thống trị của đa số đối với thiểu số giai cấp bóc
lột nh ằm giải phóng giai cấp của mình và giải phóng tất cả các tầng lớp nhân dân
lao động khác trong xã hội. Do đó, nhà nước xã hội chủ nghĩa là đại biểu cho ý
chí chung của nhân dân lao động.
Về kinh tế, bản chất của nhà nước xã hội chủ nghĩa chịu sự quy định của cơ sở
kinh tế của xã hội xã hội chủ nghĩa, đó là chế độ sở hữu xã hội về tư liệu sản xuất


chủ yếu. Do đó, khơng cịn tồn tại quan hệ sản xuất bóc lột. Nếu như tất cả các
nhà nước bóc lột khác trong lịch sử đều là nhà nước theo đúng nghĩa của nó, nghĩa
là bộ máy của thiểu số những kẻ bóc lột để trấn áp đa số nhân dân lao động bị áp
bức, bóc lột, thì nhà nước xã hội chủ nghĩa vừa là một bộ máy chính trị - hành
chính, một cơ quan cưỡng chế, vừa là một tổ chức quản lý kinh tế - xã hội của
nhân dân lao động, nó khơng cịn là nhà nước theo đúng nghĩa, mà chỉ là “nửa nhà
nước”. Việc chăm lo cho lợi ích của đại đa số nhân dân lao động trở thành mục
tiêu hàng đầu của nhà nước xã hội chủ nghĩa.
Về văn hóa, xã hội, nhà nước xã hội chủ nghĩa được xây dựng trên nền tảng
tinh thần là lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin và những giá trị văn hóa tiên tiến,
tiến bộ của nhân loại, đồng thời mang những bản sắc riêng của dân tộc. Sự phân
hóa giữa các giai cấp, tầng lớp từng bước được thu hẹp, các giai cấp, tầng lớp bình
đẳng trong việc tiếp cận các nguồn lực và cơ hội để phát triển.
1.1.3. Chức năng của nhà nước xã hội chủ nghĩa
Tùy theo góc độ tiếp cận, chức năng của nhà nước xã hội chủ nghĩa được chia
thành các chức năng khác nhau.
- Căn cứ vào phạm vi tác động của quyền lực nhà nước, chức năng của nhà

nước được chia thành chức năng đối nội và chức năng đối ngoại.
- Căn cứ vào lĩnh vực tác động của quyền lực nhà nước, chức năng của nhà
nước xã hội chủ nghĩa được chia thành chức năng chính trị, kinh tế, văn hóa,
xã hội...
- Căn cứ vào tính chất của quyền lực nhà nước, chức năng của nhà nước được
chia thành chức năng giai cấp (trấn áp) và chức năng xã hội (tổ chức và xây
dựng).
Xuất phát từ bản chất của nhà nước xã hội chủ nghĩa, nên việc thực hiện các
chức năng của nhà nước cũng có sự khác biệt so với các nhà nước trước đó. Đối
với các nhà nước bóc lột, nhà nước của thiểu số thống trị đối với đa số nhân dân
lao động, nên việc thực hiện chức năng trấn áp đóng vai trị quyết định trong việc
duy trì địa vị của giai cấp nắm quyền chiếm hữu tư liệu sản xu ất chủ yếu của xã


hội. Còn trong nhà nước xã hội xã hội chủ nghĩa, mặc dù vẫn cịn chức năng trấn
áp, nhưng đó là bộ máy do giai cấp công nhân và nhân dân lao động tổ chức ra để
trấn áp giai cấp bóc lột đã bị lật đổ và những phần tử chống đối để bảo vệ thành
quả cách mạng, giữ vững an ninh chính trị, tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát
triển kinh tế - xã hội. Mặc dù trong thời kì q độ, sự trấn áp v ẫn cịn tồn tại như
một tất yếu, nhưng đó là sự thật trấn áp của đa số nhân dân lao động đối với thiểu
số bóc lột. V.I.Lênin kh ẳng định: “Bất cứ một nhà nước nào cũng đều có nghĩa là
dùng bạo lực; nhưng toàn bộ sự khác nhau là ở chỗ dùng b ạo lực đối với những
người bị bóc lột hay đối với kẻ đi bóc lột”1. Theo V.I.Lênin, mặc dù trong giai
đoạn đầu của chủ nghĩa cộng sản, “cơ quan đặc biệt, bộ máy trấn áp đặc biệt là
“nhà nước” vẫn cịn cần thiết, nhưng nó đã là nhà nước q độ, mà khơng cịn là
nhà nước theo đúng nghĩa của nó nữa”2.
V.I.Lênin cho rằng, giai cấp vơ sản sau khi giành được chính quyền, xác lập
địa vị thống trị cho đại đa số nhân dân lao động, thì vấn đề quan trọng không chỉ
là trấn áp lại sự phản kháng của giai cấp bóc lột, mà điều quan trọng hơn cả là
chính quyền mới tạo ra được năng suất sản xuất cao hơn chế độ xã hội cũ, nhờ đó

mang lại cuộc sống tốt đẹp hơn cho đại đa số các giai cấp, tầng lớp nhân dân lao
động. Vì v ậy, vấn đề quản lý và xây d ựng kinh tế là then chốt, quyết định. Nhà
nước xã hội chủ nghĩa “không phải chủ là bạo lực đối với bọn bóc lột, và cũng
khơng phải chủ yếu là bạo lực. Cơ sở kinh tế của bạo lực cách mạng đó, cái bảo
đảm sức sống và thắng lợi của nó chính là việc giai cấp vơ sản đưa ra được và
thực hiện được kiểu tổ chức lao động cao hơn so với chủ nghĩa tư bản. Đấy là thực
chất của vấn đề. Đấy là nguồn sức mạnh, là điều kiện bảo đảm cho thắng lợi hoàn
toàn và tất nhiên của chủ nghĩa cộng sản.”3
Cải tạo xã hội cũ, xây dựng thành công xã h ội mới là nội dung chủ yếu và mục
đích cuối cùng của nhà nước xã hội chủ nghĩa. Đó là một sự nghiệp vĩ đại, nhưng

1
2
3

V.I.Lênin, Toàn t ập, Nxb. CTQG, H.2005, t ập 43, tr. 380
V.I.Lênin, Toàn t ập, Nxb. CTQG, H.2005, t ập 33, tr. 111
Xem: V.I.Lênin, Toàn t ập, Nxb. CTQG, H.2005, t ập 39, tr. 15-16


đồng thời cũng là cơng việc cực kì khó khăn và phức tạp. Nó địi hỏi nhà nước xã
hội chủ nghĩa phải là một bộ máy có đầy đủ sức mạnh để trấn áp kẻ thù và những
phần tử chống đối cách mạng, đồng thời nhà nước đó phải là một tổ chức có đủ
năng lực để quản lý và xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa, trong đó việc tổ chức
quản lý kinh tế là quan trọng, khó khăn và phức tạp nhất.
1.2. Mối quan hệ giữa dân chủ xã hội nhà nước chủ nghĩa và nhà nước xã hội
chủ nghĩa
Một là, dân chủ xã hội chủ nghĩa là cơ sở, nền tảng cho việc xây dựng và hoạt
động của nhà nước xã h ội chủ nghĩa. Chỉ trong xã h ội dân chủ xã hội chủ nghĩa,
người dân mới có đầy đủ các điều kiện cho việc thực hiện ý chí của mình thơng

qua việc lựa chọn một cách cơng bằng, bình đẳng những người đại diện cho quyền
lợi chính đáng của mình vào bộ máy nhà nước, tham gia một cách trực tiếp hoặc
gián tiếp vào hoạt động quản lý nhà nước, khai thác và phát huy một cách tốt nhất
sức mạnh và trí tuệ của nhân dân cho hoạt động của nhà nước. Với những tính ưu
việt của mình, nền dân chủ xã hội chủ nghĩa sẽ kiểm sốt một cách có hiệu quả
quyền lực của nhà nước, ngăn chặn được sự tha hóa của quyền lực nhà nước, có
thể dễ dàng đưa ra khỏi cơ quan nhà nước những người thực thi công vụ khơng
cịn đáp ứng u cầu về phẩm chất năng lực, đảm bảo thực hiện đúng mục tiêu
hướng đến lợi ích của người dân. Ngược lại, nếu các nguyên tắc của nền dân chủ
xã hội chủ nghĩa bị vi phạm, thì việc xây dựng nhà n ước xã hội chủ nghĩa cũng sẽ
khơng thực hiện được. Khi đó, quyền lực của nhân dân sẽ bị biến thành quyền lực
của một nhóm người, phục vụ cho lợi ích của một nhóm người.
Hai là, ra đời trên cơ sở nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, nhà nước xã hội chủ
nghĩa trở thành công cụ quan trọng cho việc thực thi quyền làm chủ của người
dân. Bằng việc thể chế hóa ý chí của nhân dân thành các hành lang pháp lý, phân
định một cách rõ ràng quyền và trách nhiệm của mỗi công dân, là cơ sở để người
dân thực hiện quyền làm chủ của mình, đồng thời là cơng cụ bạo lực để ngăn chặn
có hiệu qu ả các hành vi xâm ph ậm đến quyền và lợi ích chính đáng của người
dân, bảo vệ nề dân chủ xã hội chủ nghĩa, nhà nước xã hội chủa nghĩa nằm trong


nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là phương thức thể hiện và thực hiện dân chủ. Theo
V.I. Lênin, con đường vận động và phát triển của nhà nước xã hội chủ nghĩa là
ngày càng hồn thiện các hình thức đại diện nhân dân thực hiện và mở rộng dân
chủ, nhầm lôi cuốn ngày càng đông đảo nhân dân tham gia quản lý nhà nước,
quản lý xã h ội. Thông qua hoạt động quản lý của nhà nước, các nguồn lực xã hội
được tập hợp, tổ chức và phát huy hướng đến lợi ích của nhân dân. Ngược lại, nếu
nhà nước xã h ội chủ nghĩa đánh mất bản chất của mình sẽ tác động tiêu cực đến
nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, sẽ dẫn đến xâm phạm quyền làm chủ của người
dân, dẫn đến chuyên chế, độc tài, thủ tiêu nền dân chủ hoặc dân chủ chỉ còn là

hình thức.
Trong hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa, nhà nước là thiết chế có chức năng
trực tiếp nh ất trong việc thể chế hóa và tổ chức thực hiện những yêu cầu dân chủ
chân chính của nhân dân. Nó cũng là cơng cụ sắc bén nhất trong cuộc đấu tranh
với mọi mưu đồ đi ngược lại lợi ích của nhân dân; là thiết chế tổ chức có hiệu quả
việc xây dựng xã hội mới; là công cụ hữu hiệu để vai trị lãnh đạo Đảng trong q
trình xây dựng chủ nghĩa xã hội được thực hiện… Chính vì vậy trong hệ thống
chính trị xã hội chủ nghĩa Đảng ta xem nhà nước là “trụ cột”, “một công cụ ch ủ
yếu, vững mạnh” của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng và b ảo vệ Tổ quốc Việt
Nam xã h ội chủ nghĩa.


CHƯƠNG 2: XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN
XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
2.1. Quan niệm và đặc trưng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt
Nam
2.1.1. Quan niệm nhà nước pháp quyề n xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
Nhà nước pháp quyền, với định nghĩa căn bản nhất là khơng có ai ở trên luật
hay ngoài luật, mà mọi người phải tuân theo pháp luật. Một nguyên tắc bắt ngu ồn
một cách logic từ ý tưởng cho rằng sự thật, cũng như luật, đều dựa trên những
nguyên tắc căn bản có thể được phát hiện ra nhưng không thể được tạo ra theo
ước muốn.
Nhà nước pháp quyền là vị thế pháp lý hay một hệ thống thể chế, nơi mỗi người
đều phải phục tùng và tôn trọng luật pháp, từ cá nhân đơn lẻ cho tới cơ quan công
quyền. Nhà nước pháp quyền như vậy liên hệ chặt chẽ với sự tôn trọng trật tự thứ
bậc của các quy ph ạm, tôn trọng sự phân chia quyền lực và tôn trọng các quyền
căn bản.
Nhà nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước của Nhân dân,
do Nhân dân, vì Nhân dân, tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân; Nhà
nước công nh ận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền công dân;

tổ chức và hoạt động theo Hiến pháp và pháp luật, quản lý xã hội bằng Hiến pháp
và pháp luật; quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân cơng, phối hợp, kiểm
sốt giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành
pháp, tư pháp và nguyên tắc tập trung dân chủ; thực hiện nhất quán đường lối đối
ngoại độc lập tự chủ, hồ bình, h ữu nghị, hợp tác và phát triển; tuân thủ Hiến
chương Liên hợp quốc và điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên, là b ạn, là
đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế.
2.1.2. Đặc trưng nhà nước pháp quyề n xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
Nhà nước pháp quyền xã h ội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước:
- Của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về
nhân dân;


- Được tổ chức và hoạt động theo Hiến pháp và pháp luật, quản lý xã hội bằng
- Hiến pháp và pháp luật; bảo đảm tính tối cao của Hiến pháp và yêu cầu
thượng tôn pháp luật trong đời sống nhà nước và xã hội.
- Quyền lực nhà nước thống nhất có sự phân cơng, phối hợp và kiểm sốt trong
việc thực hiện 3 quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp và nguyên tắc tập trung
dân chủ.
- Là nhà nước tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm các quyền con người, quyền cơng
dân, tất cả vì hành phúc của con người.
- Do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo.
- Thực hiện đường lối đối ngoại hịa bình, hữu nghị, hợp tác bình đẳng và phát
triển với nhân dân các dân tộc và các nước trên thế giới, đồng thời tôn trọng
các công ước, điều ước quốc tế đã tham gia ký kết, phê chuẩn.
2.2. Tính tất yếu của việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở
Việt Nam
Tính tất yếu khách quan của việc xây dựng Nhà nước pháp quyền Chủ nghĩa
xã hội Việt Nam được quy định bởi đặc điểm của thời đại ngày nay là thời đại quá
độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội. Việt Nam đi lên chủ nghĩa xã hội

không phải từ một nước tư bản phát triển mà từ một nước thuộc địa, nửa phong
kiến, bỏ qua chế độ tư bản, xây dựng nhà nước dân chủ nhân dân rồi nhà nước xã
hội chủ nghĩa. Tính tất yếu khách quan của việc xây dựng Nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa Việt Nam còn thể hiện ở chỗ Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa là hình thức tối ưu để thực hiện quyền lực nhà nước thuộc nhân dân. Bởi lẽ,
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là phương thức tổ chức dân chủ, quyền
lực nhà nước mà theo đó pháp luật là cơ sở cho việc thực hiện dân chủ, thực hiện
quyền lực cũng như thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mọi chủ thể trong xã
hội.
2.2.1. Thuận lợi
- Sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
- Dân chủ ngày càng được mở rộng.


- Quốc hội đã có nhiều đổi mới quan trọng, tập trung vào thực hiện chức năng
lập pháp.
- Cơ cấu và hoạt động của bộ máy tư pháp, hành pháp có nhiều chuyển biến
tích cực.
- Hoạt động của mặt trận tổ quốc Việt Nam và các đồn thể chính trị.
- Xã hội ngày càng có hiệu quả và thu hút được nhiều tầng lớp nhân dân tham
gia.
2.2.2. Khó khăn
- Tổ chức và hoạt động của Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các đồn thể nhân
dân cịn một số khâu chậm đổi mới.
- Quốc hội còn lúng túng trong việc thực hiện chức năng giám sát.
- Bộ máy quản lý nhà nước các cấp, nhất là ở cơ sở còn yếu kém.
- Tình trạng nhũng nhiễu, cửa quyền, thiếu trách nhiệm ở một bộ phận cơng
chức.
- Mơ hình tổ chức chính quyền địa phương cịn những điểm bất hợp lý.
- Cải cách hành chính chưa đạt yêu cầu.

- Dân chủ trong xã hội còn bị vi phạm.
- Kỷ cương, kỷ luật ở nhiều nơi không nghiêm.
2.2.3. Cơ sở xây dựng nhà nước pháp quyề n xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
Thứ nhất, cơ sở kinh tế của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Thứ hai, cơ sở xã hội của
nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là khối đại đoàn kết toàn dân tộc Ba là,
tính nhất nguyên chính trị và sự lãnh đạo của một Đảng duy nhất cầm quyền tạo
khả năng đồng thuận xã hội, tăng cường khả năng hợp tác và giúp đỡ lẫn nhau
giữa các giai tầng, các cộng đồng dân cư và các dân tộc.


2.3. Một số giải pháp xây dựng nhà nước pháp quyề n xã hội chủ nghĩa ở Việt
Nam
2.3.1. Trên lĩnh vực kinh tế
Việt Nam đang trong giai đoạn đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội
nhập quốc tế với nhiều thời cơ, thuận lợi và khó khăn, thách thức đan xen. Trong
bối cảnh đó, yêu cầu, nhiệm vụ tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân được đặt ra rất
cấp bách. Nghị quyết Đại hội lần thứ XII của Đảng đã nhấn mạnh: “Tiếp tục xây
dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa do Đảng lãnh đạo là
nhiệm vụ trọng tâm của đổi mới hệ thống chính trị...”. Trong Nghị quyết Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ XII, ở phần “Mục tiêu tổng quát, các chỉ tiêu quan trọng
và nhiệm vụ trọng tâm trong 5 năm 2016 – 2020”, Đảng ta đã nhận định: “Năm
năm tới, tình hình thế giới và khu vực sẽ còn nhiều diễn biến rất phức tạp, tác
động trực tiếp đến nước ta, tạo ra cả thời cơ và thách thức. Hồ bình, độc lập dân
tộc, dân chủ, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn. kinh tế tiếp tục được đẩy
mạnh. Châu Á - Thái Bình Dương, trong đó có khu vực Đông Nam Á đã trở thành
một cộng đồng, tiếp tục là trung tâm phát triển năng động, có vị trí địa - kinh tế chính trị chiến lược ngày càng quan trọng; đồng thời, đây cũng là khu vực cạnh
tranh chiến lược giữa một số nước lớn, có nhiều nhân tố bất ổn; tranh chấp lãnh
thổ, chủ quyền biển, đảo trong khu vực và trên Biển Đơng cịn diễn ra gay gắt”.

Những nhận định được chỉ ra trong Nghị quyết Đại hội Đảng cho thấy, xu thế hội
nhập và phát triển hiện nay bên cạnh những thuận lợi cơ bản cũng đặt ra những
thách thức to lớn, nếu vượt qua được thì sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân
dân ta mới thành công. Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt
Nam trong bối cảnh hội nhập và phát triển cũng cần tính đến những đặc thù và tác
động của tình hình thực tế ấy. Việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa trong điều kiện chuyển đổi kinh tế là nhiệm vụ mới mẻ, hiểu biết của chúng
ta cịn ít, có nhiều việc phải làm, vừa tìm tịi, rút kinh nghiệm. Việc xây dựng nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa cần phải đáp ứng tốt yêu cầu phát triển kinh tế


của đất nước trong tình hình mới và tập trung xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp
luật đồng bộ, hiện đại với tính cơng khai, minh bạch cao, phù hợp với điều kiện
phát triển kinh tế-xã hội của đất nước. Chính phủ và bộ máy nhà nước thống nhất
quản lý việc thực hiện các nhiệm vụ chính trị, kinh tế, văn hố, xã hội, quốc phịng,
an ninh và đối ngoại theo đúng chức năng phù hợp với cơ chế mới, đó là:Quản lý
kinh tế - xã hội theo pháp luật, giữ gìn ổn định chính trị - xã hội và trật tự kỷ
cương; chăm lo xây dựng kết cấu hạ tầng và những ngành kinh tế then chốt, bảo
đảm môi trường và điều kiện chung cho nhân dân phát triển sản xuất kinh doanh,
nâng cao đời sống.Thông qua các công cụ quản lý vĩ mơ và vai trị của kinh tế nhà
nước để quản lý thị trường, điều tiết thu nhập kết hợp hài hoà giữa tăng trưởng
kinh tế với thực hiện công b ằng và tiến bộ xã hội, thúc đẩy sự phát triển đồng đều
giữa các vùng và các tầng lớp dân cư.
2.3.2. Trên lĩnh vực chính trị
Nâng cao chất lượng hoạt động và kiện toàn tổ chức quốc hội: Căn cứ vào định
hướng phát triển đất nước, xuất phát từ nhu cầu thực tiễn và điều kiện, khả năng
thực hiện mà xác định rõ thứ tự ưu tiên trong chương trình xây dựng pháp luật dài
hạn và hằng năm. Chỉ đạo chặt chẽ quá trình chuẩn bị và thông qua các d ự án luật,
đảm bảo quán triệt đường lối, quan điểm của Đảng, trên cơ sở tổng kết thực tiễn
Việt Nam, tham khảo có chọn lọc kinh nghiệm nước ngồi, tránh sao chép, r ập

khn. Cần tập hợp trí tuệ của các nhà khoa học, các chuyên gia, lấy ý kiến nhân
dân, nhất là các đối tượng có liên quan đến việc thi hành pháp luật. Nâng cao chất
lượng công tác thẩm định của các Uỷ ban của Quốc hội để các kỳ họp của Quốc
hội có thể xem xét và thơng qua các dự án luật được nhanh chóng và có chất lượng
cao. Các luật ban hành cần bảo đảm tính khả thi, dễ hiểu, quy định cụ thể để giảm
bớt tình trạng phải chờ đợi quá nhiều văn bản hướng dẫn mới thi hành được. Tăng
cường cơng tác tun truyền, giải thích, giáo dục pháp luật để nhân dân hiểu và
tự giác chấp hành. Giảm d ần pháp lệnh của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội và nghị
định của Chính phủ quy định những vấn đề chưa có luật. Những pháp lệnh, ngh ị
định này sau một thời gian thực hiện, được kiểm nghiệm là đúng thì hồn chỉnh


để chuyển thành luật. Phấn đấu trong một thời gian nhất định Nhà nước có thể
quản lý đất nước chủ yếu bằng các đạo luật.
Tiếp tục cải chính nền hành chính của nhà nước: Tăng cường kiểm kê, kiểm
sốt sản xuất và phân bố; quản lý, sử dụng có hiệu quả vốn và tài sản công với tư
cách đại diện chủ sở hữu nhà nước, khắc phục tình trạng vơ chủ, đẩy lùi tham
nhũng, lãng phí. Kết hợp chặt chẽ phát triển kinh tế, văn hoá với tăng cường an
ninh, qu ốc phòng và mở rộng ho ạt động đối ngoại, để các lĩnh vực này tác động
hỗ trợ nhau cùng phát triển. Phân định trách nhiệm, thẩm quyền giữa các cấp chính
quyền theo hướng phân cấp rõ hơn cho địa phương, kết hợp chặt chẽ quản lý
ngành và quản lý lãnh thổ, thực hiện đúng nguyên tắc tập trung dân chủ. Trên cơ
sở bảo đảm sự quản lý thống nhất của trung ương về thể chế, về chiến lược và quy
hoạch, kế hoạch phát triển các ngành và toàn b ộ nền kinh tế quốc dân, cần phân
cấp đúng mức và rành mạch trách nhiệm và thẩm quyền hành chính, nh ằm tạo
điều kiện và thúc đẩy chính quyền địa phương phát huy tính chủ động, khai thác
mọi tiềm năng tại chỗ để phát triển kinh tế, xã hội ở địa phương và đóng góp ngày
càng nhiều cho sự phát triển chung của đất nước. Theo tinh thần đó, cần tăng trách
nhiệm và thẩm quyền của chính quyền địa phương trong việc quyết định những
vấn đề của địa phương, đặc biệt là về quy hoạch phát triển và kế hoạch đầu tư cho

khu vực công cộng, về thu chi ngân sách, về tổ chức và nhân sự hành chính địa
phương, về xử lý các vụ việc hành chính. Việc phân định trách nhiệm và thẩm
quyền của các cấp chính quyền phải phù hợp với tính chất và yêu cầu của từng
ngành và lĩnh vực hoạt động, với chức năng, nhiệm vụ của từng cấp chính quyền
trên từng địa bàn; phù h ợp với điều kiện và kh ả năng của các địa phương có quy
mơ, vị trí khác nhau. Giữa các cấp chính quyền địa phương cũng cần cụ thể hoá
việc phân cấp theo hướng nào do cấp nào giải quyết sát với thực tế hơn thì giao
nhiệm vụ và thẩm quyền cho cấp đó. Quan hệ phân cấp phải gắn liền với việc tăng
cường sự phối hợp quản lý theo ngành và theo lãnh th ổ, được quy định thành thể
chế; đặc biệt cần tăng cường trách nhiệm kiểm tra, kiểm sốt của cấp uỷ đảng và
chính quyền địa phương đối với các cơ quan và tổ chức hoạt động trên địa bàn,


kể cả các đơn vị được quản lý theo ngành dọc. Các bộ và các cơ quan quản lý của
Chính phủ phải thực hiện chức năng quản lý hành chính v ề nhà nước và ngành,
lĩnh vực của mình trong ph ạm vi cả nước, đồng thời thực hiện trách nhiệm đại
diện chủ sở hữu nhà nước trong phạm vi được uỷ quyền đối với các doanh nghiệp
nhà nước. Trên cơ sở xác định rõ chức năng và đổi mới sự phân cấp, tiếp tục điều
chỉnh hợp lý tổ chức của các bộ, các cơ quan thuộc Chính phủ và bộ máy chính
quyền địa phương.
Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức: Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức có
phẩm chất và năng lực là yếu tố quyết định chất lượng của bộ máy nhà nước. Có
biện pháp thực hiện tốt chủ trương về xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức đã nêu
trong Nghị quyết Trung ương tám (khoá VII) và các điểm bổ sung sau đây:
- Cán bộ lãnh đạo phải được đào tạo, bồi dưỡng kiến thức tồn diện, trước hết

về đường lối chính trị, về quản lý nhà nước, quản lý kinh tế xã hội; được bố trí,
điều động theo nhu cầu và lợi ích của đất nước, có thể được luân chuyển từ
trung ương về địa phương, từ địa phương lên trung ương và từ địa phương này
ra địa phương khác. Nghiên cứu bổ sung cơ chế chọn cử, điều động các chức

danh cán bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp cho phù hợp. Riêng đối với chức danh
chủ tịch Uỷ ban nhân dân, trong trường hợp chưa đến thời hạn bầu cử Hội đồng
nhân dân mà cần bố trí một đồng chí khơng phải là thành viên Hội đồng nhân
dân làm chủ tịch Uỷ ban nhân dân cùng cấp thì đưa ra Hội đồng nhân dân bầu
để đồng chí đó làm chủ tịch Uỷ ban nhân dân.
- Xúc tiến ban hành thể chế và tổ chức thực hiện việc kê khai về tài sản, trước

hết là về nhà, đất của cán bộ. Quy định chặt chẽ các chế độ, tiêu chu ẩn của cán
bộ lãnh đạo các cấp, các ngành v ề sử dụng ô tô, trang bị nơi làm việc, nhà và
đất ở... v ới tinh thần tiết kiệm, công b ằng, chống lãng phí, chống đặc quyền,
đặc lợi.
Đẩy mạnh cải cách tư pháp: Hoạt động tư pháp phải nhằm đấu tranh nghiêm trị
các tội chống Tổ quốc, chống chế độ, tội tham nhũng và các tội hình sự khác, bảo
vệ quyền lợi ích hợp pháp của cơng dân. Khắc phục những biểu hiện hữu khuynh


trong đấu tranh chống tội phạm, đồng thời chống tình trạng bắt và giam giữ oan
sai, xét xử không công minh, vi phạm quyền dân chủ của công dân. Các cơ quan
tư pháp phải là mẫu mực của việc tuân thủ Hiến pháp và pháp luật, phải thể hiện
công lý, tính dân chủ, cơng khai trong ho ạt động. Nâng cao chất lượng hoạt động
của viện kiểm sát theo chức năng quy định trong Hiến pháp, tập trung làm tốt
chức năng cơng bố và kiểm sốt hoạt động tư pháp. Thực hiện nguyên tắc 2 cấp
xét xử. Bỏ thủ tục xét xử sơ chung thẩm của Toà án nhân dân tối cao và Toà án
dân sự Trung ương. Nghiên cứu áp dụng thủ tục rút gọn để xét xử kịp thời một số
vụ án đơn giản, rõ ràng. Toà án nhân dân tối cao tập trung vào công tác tổng xét
xử, hướng dẫn các toà án áp dụng pháp luật thống nhất và làm tốt chức năng giám
đốc xét xử. Đổi mới thủ tục giám đốc thẩm để bảo đảm việc xét xử vừa đúng đắn
và nhanh chóng. Nghiên cứu phân cấp thẩm quyền bổ nhiệm thẩm phán toà án
cấp tỉnh và toà án cấp huyện; đồng thời căn cứ vào tình hình đội ngũ cán bộ hiện
nay và điều chỉnh tiêu chuẩn tuyển chọn cho phù hợp để kịp thời bổ sung đủ thẩm

phán cho toà án cấp huyện và toà án cấp tỉnh. Sắp xếp lại cơ quan điều tra theo
hướng gọn đầu mối, kết hợp chặt chẽ giữa trinh sát điều tra ban đầu với hoạt động
của cơ quan điều tra nhằm bảo đảm sự thống nhất trong phòng ngừa, đấu tranh
chống tội phạm, bảo đảm quyền dân chủ và sự an tồn của cơng dân. Kiện toàn
các tổ chức thi hành án, b ảo đảm thi hành đầy đủ, nhanh chóng các b ản án và
quyết định của toà án, của tổ chức trọng tài; chấn chỉnh các trại giam để giáo d ục,
cải tạo tốt phạm nhân. Chuẩn bị các điều kiện để tiến tới giao cho một cơ quan
quản lý tập trung thống nhất công tác thi hành án. Nghiên cứu việc thành lập cảnh
sát tư pháp để thực hiện nhiệm vụ bảo vệ phiên tồ, phục vụ cơng tác thi hành án,
dẫn giải bị can, bị cáo, quản lý các trại giam... Củng cố và tăng cường các tổ chức
bổ trợ tư pháp. Đổi mới quản lý nhà nước đối với hoạt động luật sư, tư vấn pháp
luật, giám định tư pháp…; phù hợp với chủ trương xã hội hoá; kết hợp quản lý
nhà nước với vai trò tự quản của các tổ chức nghề nghiệp. Đào tạo, phát triển đội
ngũ luật sư có phẩm chất, đạo đức, có trình độ chun mơn, nghiệp vụ, phát huy
vai trò của họ trong tư vấn pháp luật, trong tố tụng. Tổ chức hình thức tư vấn pháp


luật cho các cơ quan, tổ chức nhân dân, tạo điều kiện cho người nghèo được hưởng
dịch vụ tư vấn pháp luật miễn phí. Cải tiến nội dung và thủ tục công chứng để
phục vụ thuận tiện cho nhân dân. Củng cố các cơ quan giám định tư pháp để hỗ
trợ cho công tác điều tra, truy tố, xét xử; sớm thành lập Viện giám định pháp y
quốc gia. Xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp trong sạch, vững mạnh, có phẩm chất
chính trị, đạo đức và có năng lực chuyên môn. Lập quy hoạch tuyển chọn, đào
tạo, sử dụng cán bộ tư pháp theo từng loại chức danh với tiêu chu ẩn cụ thể. Nâng
cao chất lượng của hội thẩm nhân dân. Tăng cường công tác giám sát, kiểm tra,
thanh tra đối với hoạt động của cán bộ tư pháp để có thể đánh giá và sử dụng tốt
cán bộ; xử lý nghiêm nh ững cán bộ tham nhũng, tiêu cực.
2.3.3. Trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa
Việt Nam là đất nước có lịch sử truyền thống văn hố lâu đời vì vậy khi xây
dựng nhà nước pháp quyền CNXH cần phải tiếp thu các giá trị phổ biến của bộ

máy này trong sự tương hợp với các đặc điểm lịch sử, văn hoá của quốc gia. Sự
quán triệt các giá trị phổ biến của nhà nước pháp quyền trong ý nghĩa là các giá
trị chung của nhân loại mới có thể đảm bảo được tính pháp quyền của nhà nước
theo các chu ẩn mực đã được thừa nhận, khắc phục tính dân tộc cực đoan hay các
dị biệt làm cho các giá trị dân chủ không được phát huy, tạo nguy cơ rơi vào tình
trạng biệt lập trong một thế giới hiện đại ngày nay. Bên cạnh đó phải cân bằng
giữa sự phát triển kinh tế với phát triển văn hoá- xã hội, giữa tăng trưởng kinh tế
với tiến bộ xã hội; giữa đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Trong lĩnh
vực đối ngoại, nước ta cần phải tiếp tục thực hiện chính sách đối ngoại độc lập,
tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ văn hố- xã hội với các nước trên thế
giới. Đồng thời, mở rộng quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước theo nguyên
tắc bình đẳng, cùng có lợi, cùng tồn tại hịa bình, tơn trọng độc lập, chủ quyền,
toàn vẹn lãnh thổ của nhau, bảo đảm ổn định và phát triển. Ph ải tôn trọng mọi
hoạt động văn hố cũng như tơn giáo của các dân tộc để tạo ra sự bình đẳng, tích
cực xã hội và tích cực văn hố cho người dân. Khuyến khích người dân tham gia
vào các hoạt động xã hội và hoạt động văn hóa với tư cách như những nhân tố chủ


động, từ hoạch định đến đánh giá các vấn đề xã hội và văn hóa, thậm chí là người
đồng kiến tạo xã hội và văn hóa cùng với bộ máy nhà nước.


C. PHẦN KẾT LUẬN
Tóm lại, nhà nước pháp quyền xã h ội chủ nghĩa Việt Nam lấy nền tảng là chủ
nghĩa Mác – Lênin để xây dựng và phát triển. Trong quá trình lãnh đạo cách mạng,
Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại ln vận dụng sáng tạo
chủ nghĩa Mác – Lênin và tiếp thu có chọn lọc những giá trị tinh hoa của nhân
loại về nhà nước pháp quyền nhằm xây dựng, hoàn thiện Nhà nước. Yếu tố nội
sinh của sự phát triển xã hội và văn hóa được tăng lên cao, phần nào đó thể hiện
vai trị tăng lên của người dân so với Nhà nước trong nhiều vấn đề xã hội và văn

hóa. Hiện nay, đất nước ta đang bước vào thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện
đại hóa và h ội nhập quốc tế với nhiều thời cơ, thuận lợi và khó khăn, thách thức
đan xen. Trong bối cảnh đó, yêu cầu, nhiệm v ụ tiếp tục xây dựng và hoàn thiện
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân
đặt ra rất cấp bách. Do đó, Đảng và Nhà nước cần tập trung cao độ trong q trình
xây dựng, hồn thiện Nhà nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do
nhân dân và vì nhân dân là phương hướng cơ bản để phát huy dân chủ xã hội chủ
nghĩa, đảm bảo tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Vì mục tiêu dân
giàu, nước mạnh, dân chủ, cơng bằng, văn mình, vững bước đi lên chủ nghĩa xã
hội.


D. TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2019), Giáo trình Chủ nghĩa xã hội khoa học (Dành
cho bậc Đại học – khơng chun lý luận chính trị), Hà Nội.
2. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2019), Giáo trình Triết học Mác-Lênin (Sử dụng
trong các trường đại học – hệ khơng chun lý lu ận chính trị), Hà Nội.
3. GS.TS Trần Văn Phịng - Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh
(05/08/2019), Xây dựng nhà nước pháp quyền xã h ội chủ nghĩa trong bối cảnh
phát triển kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế, truy xuất từ:
/>truy cập ngày 01/06/2021.
4. Trung tướng, PGS.TS Trần Vi Dân – Giám đốc Học viện Chính trị Cơng an
Nhân dân (21/05/2021), Xây dựng Nhà nước Việt Nam pháp quyền XÃ HỘI
CHỦ NGHĨA của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, truy xu ất từ:
hội chủ nghĩa-cua-nhan-dan-do-nhan-dan-va-vi-nhan-dan-2173,
truy cập ngày 01/06/2021.




×