ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
--------------
NIÊN LUẬN
LÀN SÓNG HALLYU TRONG CHIẾN LƯỢC QUYỀN LỰC MỀM CỦA HÀN
QUỐC - NGHIÊN CỨU TRƯỜNG HỢP K-POP VÀ K-DRAMAS
Giáo viên hướng dẫn: Nguyễn Thu Hằng
Sinh viên thực hiện: Hoàng Thị Thùy Dương-19031862
Vy Kiều Diễm-19031856
Nguyễn Thị Tuyết Mai-19031904
Vũ Thị Khánh Ly-19031902
Lớp: Quốc tế học
Khóa: 2019
Hà Nội, 2021
MỤC LỤC
DANH M CỤT
VIẾẾT
Ừ
TẮẾT
1
M ỞĐẦẦU
CH
2
NG
ƯƠ1. T NGỔQUAN VẾẦ QUYẾẦN L Ự
C MẾẦM CỦA LÀN SÓNG HALLYU
6
1.1. Khái ni m ệvềề quyềền l ự
c mềềm
6
1.2. Vai trò c a quyềền
ủ
l c mềềm
ự
trong chính sách đốối ngo ạ
ic ủ
a quốốc gia
10
1.3. T ngổquan vềề Quyềền l ự
c mềềm của làn sóng Hallyu
CH
11
NG
ƯƠ2. LÀN SÓNG HALLYU TRONG QUYẾẦN L CỰMẾẦM C Ủ
A HÀN QUỐẾC 17
2.1. Trường hợp K-Pop
17
2.2 Trường hợp K-Dramas
22
CH ƯƠ
NG 3. M Ộ
T VÀI ĐÁNH GIÁ VẾẦ LÀN SÓNG HALLYU
31
3.1. Đánh giá vềề vai trị c aủlàn sóng Hallyu trong quyềền l ự
c mềềm của Hàn
Quốốc
31
3.2. M ộ
t sốố bài họ c kinh nghiệm cho Việt Nam
36
KẾẾT LUẬN
38
DANH MỤC TÀI LIỆ U THAM KHẢO
39
DANH M CỤT
VIẾẾT
Ừ
TẮẾT
TỪ VIẾT
TẮT
TÊN TIẾNG ANH
TÊN TIẾNG VIỆT
Kpop
Korean popular music
Nhạc pop Hàn Quốc
Kdramas
Korean dramas
Phim truyền hình Hàn Quốc
MV
Music video
Video âm nhạc
OST
Original soundtrack
Album nhạc phim
KOFICE
Korea Foundation for
International Culture Exchange
Quỹ giao lưu văn hóa quốc tế
Hàn Quốc
KOTRA
Korea Trade-Investment
Promotion Agency
Cơ quan xúc tiến thương mại
Hàn Quốc
1
M ỞĐẦẦU
1. Lý do lựa chọn đề tài
Trong bối cảnh tồn cầu hóa diễn ra mạnh mẽ như hiện nay, quyền lực cứng
đã khơng cịn phù hợp. Thay vào đó, quyền lực mềm đang ngày càng khẳng định
được vị trí và tầm quan trọng trong sự phát triển của một quốc gia, khơng những
thế, quyền lực mềm cịn là cơng cụ để giúp nhiều quốc gia nâng cao vị thế của mình
trên trường quốc tế.
Là một trong những quốc gia đứng đầu về mức độ thành công của việc xây
dựng và phát huy tốt quyền lực mềm, Hàn Quốc hướng tới 3 lĩnh vực chính là chính
sách quốc gia, hệ giá trị quốc gia và văn hóa quốc gia. Trong đó văn hóa quốc gia
là lĩnh vực được ưu tiên hơn cả, tập trung cho các chiến lược văn hóa. Một trong số
những thành công phải kể đến là làn sóng Hallyu. Thuật ngữ “Làn sóng Hallyu” đã
được sử dụng để mô tả sự phổ biến ngày càng tăng của văn hóa đại chúng, Hallyu
bùng nổ trên các phương tiện truyền thơng trên tồn thế giới tạo ra một hiệu ứng
gợn sóng. Chính phủ Hàn Quốc đã tận dụng mọi nguồn lực này và bắt đầu hỗ trợ
các ngành truyền thơng Hàn Quốc xuất khẩu văn hóa đại chúng. Sự phát triển của
Hallyu đã thành cơng quảng bá hình ảnh con người cũng như đất nước Hàn Quốc ra
với thế giới. Nhận thấy được tầm ảnh hưởng cũng như vai trị to lớn của làn sóng
Hallyu với quyền lực mềm của Hàn Quốc, nhóm chúng em đã lựa chọn đề tài: “Làn
sóng Hallyu trong chiến lược quyền lực mềm của Hàn Quốc – Nghiên cứu trường
hợp K-Pop và K-Dramas”
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Khi nhắc đến quyền lực mềm, chắc hẳn đây là đề tài đã khơng cịn xa lạ. Một
cuốn sách về quyền lực mềm được xuất bản năm 2004 là “Soft power: The mean to
Success in World Politics” của tác giả Joseph Nye, người đã đưa ra định nghĩa về
quyền lực mềm, các nguồn lực tạo ra quyền lực mềm của Mỹ hay vai trò của quyền
lực mềm được đặt trong mối quan hệ cùng chính sách đối ngoại của nước này. Bên
cạnh đó, ơng cũng nói lên bản chất đang dần thay đổi của loại quyền lực này cũng
như các thức thức thi nó. Trong “The Routledge Handbook of Soft Power” được
xuất bản đầu tiên năm 2017 bởi Routledg. Đây là tập đem tới bức tranh toàn cảnh
2
và chi tiết về quyền lực mềm và có giá trị rất lớn trong các cuộc thảo luận về chính
sách và truyền thông. Cuốn sổ tay sáng tạo này cung cấp một nguồn tài liệu chính
xác cho sinh viên và học giả đang tìm cách làm quen với các cuộc tranh luận tiên
tiến và nghiên cứu trong tương lai về quyền lực mềm.
Trong hơn thập kỷ phát triển, văn hóa đại chúng Hàn Quốc dần vượt qua
ranh giới của quốc gia, đưa Hàn Quốc trở thành quốc gia thành công trong lĩnh vực
xuất khẩu văn hóa.
Về lĩnh vực K-Pop và K-Dramas, trong điều kiện khả năng, nhóm chúng em
có tìm thấy một số nghiên cứu liên quan. Trong đó, nghiên cứu có tính quan trọng là
“The Korean Wave: Korean Media Go Global” của Youna Kim. Trong nghiên cứu
này có đề cập đến khái niệm quyền lực mềm, những biểu tượng góp phần quảng bá
hình ảnh văn hóa Hàn Quốc là K-pop và K-Dramas cũng như cách nhìn nhận đối
với Hallyu từ bên trong cũng như bên ngoài. Hallyu White Paper 2018 và 2019 đưa
ra số liệu, báo cáo, các thành tựu đã đạt được cũng như phương hướng phát triển,
ngoài ra không nhắc đến những vấn đề khác nữa.
Tuy nhiên, dù ở Việt Nam hay phạm vi trên thế thế giới, lại chưa có nghiên
cứu đặt trường hợp làn sóng Hallyu (bao gồm cả âm nhạc và phim ảnh Hàn) vào
trong mối quan hệ với chiến lược quyền lực mềm của một quốc gia. Hầu như những
nghiên cứu đi trước chỉ nghiên cứu cụ thể từng khía cạnh, như nghiên cứu tập trung
vào quyền lực mềm hay làn sóng Hallyu một cách riêng biệt.
Do vậy, nhóm chúng em nhận thấy rằng, chưa có một nghiên cứu đưa làn
sóng Hallyu vào trong mối quan hệ với quyền lực mềm dù trong phạm vi trong
nước hay ngoài nước. Với đề tài: “Làn sóng Hallyu trong chiến lược quyền lực
mềm của Hàn Quốc – Nghiên cứu trường hợp K-Pop và K-Dramas” nhóm chúng
em hi vọng rằng mình có thể đưa ra một cái nhìn tổng quan từ việc lồng ghép hai
khái niệm. Đồng thời nhóm cũng mong rằng,thơng qua đề tài này có cung cấp cho
người đọc một cách đầy đủ để tiếp cận và hiểu rõ hơn về làn sóng Hallyu cũng như
trong mối quan hệ với quyền lực mềm.
3. Câu hỏi và mục tiêu nghiên cứu
3
3.1. Câu hỏi nghiên cứu
Bài luận tập trung trả lời hai câu hỏi sau:
1. Làn sóng Hallyu đóng vai trị như thế nào trong chiến lược quyền lực mềm
của Hàn Quốc?
2. Hai trường hợp K-Pop và K-Dramas đã đóng góp như thế nào vào làn sóng
Hallyu?
3.2. Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu của bài luận này nhằm đem lại một cái nhìn tổng quan về làn sóng
Hallyu cũng như quyền lực mềm; tiếp đó là đi vào hai trường hợp cụ thể là K-Pop
và K-Dramas, từ đó đưa ra một số đánh giá chung về vai trị của làn sóng Hallyu
cũng như đưa ra một vài bài học cho Việt Nam.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài này là làn sóng Hallyu trong quyền lực mềm
của Hàn Quốc.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nội dung: nghiên cứu những thông tin liên quan đến quyền lực mềm
của Hàn Quốc, từ đó đi sâu vào nghiên cứu làn sóng Hallyu trong quyền lực mềm
của quốc gia này.
Phạm vi thời gian: đề tài chủ yếu nghiên cứu trong giai đoạn từ năm 2009
đến nay
Phạm vi không gian: đề tài lấy Hàn Quốc làm trọng tâm nghiên cứu.
5. Phương pháp nghiên cứu
Để làm rõ vấn đề được nghiên cứu, bài luận sử dụng một số phương pháp
nghiên cứu sau đây:
4
Phương pháp phân tích, tổng hợp tài liệu và phương pháp thống kê số liệu:
Đây là hai phương pháp chủ đạo được sử dụng trong bài nghiên cứu này. Phân tích
và tổng hợp tài liệu nhằm khai thác được những khía cạnh khác nhau của vấn đề,
liên kết những mặt, những thông tin từ các lý thuyết đã thu thập được tạo thành
chỉnh thể hoàn chỉnh để tạo nên một hệ thống lý thuyết đầy đủ, sâu sắc về chủ đề
được nghiên cứu. Phương pháp thống kê số liệu được thực hiện song song với
phương pháp phân tích và tổng hợp đã đề cập ở phía trước, nhằm đưa ra những con
số thống kê, từ đó tăng độ tin cậy cho kết quả nghiên cứu.
Phương pháp phân tích diễn ngơn: Đây là một trong những phương pháp
nghiên cứu quan trọng nhất, hay được dùng, đặc biệt trong khoa học xã hội nói
chung và nghiên cứu quan hệ quốc tế nói riêng. Thông qua xem xét ngôn từ của các
văn bản, phát biểu... của các tổ chức cá nhân có liên quan đến sự kiện, nhóm có
thêm dữ liệu để phân tích và đánh giá các sự kiện, hiện tượng được nhắc đến.
6. Bố cục
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, danh mục viết tắt và danh mục tài liệu
tham khảo, bài luận gồm có 03 chương sau:
Chương 1. Tổng quan về quyền lực mềm của làn sóng Hallyu
Ở chương 1, chương đầu tiên sẽ trình bày những khái niệm về quyền lực
mềm, làn sóng Hallyu và vai trị của quyền lực mềm trong chính sách đối ngoại các
quốc gia.
Chương 2. Làn sóng Hallyu trong quyền lực mềm
Ở chương 2, bài nghiên cứu này sẽ tập trung trình bày về làn sóng Hallyu
trong sức mạnh mềm của Hàn Quốc, cụ thể hơn là hai trường hợp K-Pop và KDramas
Chương 3. Một vài đánh giá về làn sóng Hallyu
Tại chương 3, chương này sẽ đưa ra một vài đánh giá chung về làn sóng
Hallyu và rút ra một vài bài học kinh nghiệm cho Việt Nam.
5
Ch
ng
ươ1. T ngổquan vềề quyềền l ự
c mềềm của làn sóng Hallyu
1.1. Khái ni m ệvềề quyềền l ự
c mềềm
“Quyền lực mềm” là khái niệm do Giáo sư Joseph S. Nye, JR1 đưa ra vào
cuối những 1980.2 Định nghĩa ban đầu của Joseph Nye về quyền lực mềm lần đầu
tiên được đề cập trong cuốn Bound to Lead: The Changing Nature of American
Power (Nhảy vọt để dẫn đầu: Sự biến đổi bản chất của quyền lực Mỹ) là “dùng khả
năng đạt được những mục đích của mình thơng qua việc gây ảnh hưởng khiến người
khác tự nguyện làm theo những gì mình mong muốn.”3 Đến năm 1999, Giáo sư đưa
ra một khái niệm cụ thể hơn: “Quyền lực mềm là kết quả lý tưởng có được thơng
qua sức hấp dẫn của văn hố và ý thức hệ chứ khơng phải quyền lực cưỡng chế của
một quốc gia, có thể làm cho một người khác tin phục đi theo mình, hoặc tuân theo
các tiêu chuẩn hành vi hay chế độ do mình định ra để hành xử theo ý tưởng của
mình. Quyền lực mềm dựa vào sức thuyết phục của thông tin ở mức độ rất lớn.”
Gần đây nhất, trong cuốn Soft Power: The Means to Success in World
Politics (Quyền lực mềm: Ý niệm mới về thành cơng trong chính trị thế giới) phát
hành năm 2004 ông đã tiếp tục phát triển khái niệm Quyền lực mềm như sau:
“Quyền lực mềm là khả năng đạt được những gì bạn muốn thơng qua sự hấp dẫn
hơn là ép buộc hoặc thanh toán. Nó phát sinh từ sự hấp dẫn của nền văn hóa, lý
tưởng chính trị và các chính sách của quốc gia.” 4Khác với Quyền lực cứng dùng
chiến lược tập trung vào can thiệp quân sự, ngoại giao cưỡng bức và trừng phạt kinh
tế để gia tăng lợi ích quốc gia ví dụ như chính sách của Mỹ đối với Iran trong vấn
đề hạt nhân. Đơi khi ta có thể đạt được những gì mình mong muốn mà khơng cần
đến “cây gậy và củ cà rốt”5. Một quốc gia có thể thuyết phục quốc gia khác bằng giá
trị và thành tựu chứ không chỉ buộc họ phải thay đổi bằng đe dọa quân sự hay
những chế tài về kinh tế. Không chỉ là sự thuyết phục, Quyền lực mềm theo Giáo sư
1 Joseph S. Nye, JR (19/01/1937) nguyên là hiệu trưởng Trường Hành chính John F. Kennedy thuộc Đại học
Havard. Ơng từng là trợ lý của Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ, Chủ tịch Ủy ban tình báo quốc gia, là cha đẻ của
lý thuyết quyền lực mềm.
2 Tuy nhiên, các tiền đề ra đời khái niệm quyền lực mềm hay sức mạnh mềm đã có từ sớm vì nhà nghiên cứu
người Mỹ E. H. Carr từ năm 1939 đã phân loại quyền lực quốc tế thành 3 nhóm: quyền lực quân sự, quyền
lực kinh tế và quyền lực tư tưởng tức là quyền lực mềm.
3Nye Joseph, Bound to Lead: The Changing Nature of American Power, New York: Basic Books, 1990.
4 Joseph Nye(2004), Quyền lực mềm: Ý niệm mới về thành công trong chính trị thế giới, Nxb Tri thức, Hà
Nội, tr. 7.
5 Một kiểu chính sách ngoại giao trong quan hệ quốc tế, thường được dùng bởi các nước lớn mạnh nhằm làm
thay đổi hành vi của các nước nhỏ hơn. “Cây gậy” tượng trưng cho sự đe dọa hoặc trừng phạt, “củ cà rốt”
tượng trưng cho quyền lợi hay phần thưởng.
6
Nye, là khả năng lôi cuốn và quyền lực hấp dẫn các đối tác mong muốn đạt được
điều mà bạn cũng muốn, tạo điều kiện để hợp tác hơn là cưỡng chế. Quyền lực mềm
không giống với sự ảnh hưởng vì sự ảnh hưởng cũng có thể được tạo ra bởi quyền
lực cứng của sự đe dọa hoặc các khoản thanh tốn. Quyền lực cứng và quyền lực
mềm có liên hệ với nhau. Chúng là hai khía cạnh thể hiện năng lực giành được mục
tiêu của một người bằng việc tác động lên hành vi của những người khác. Quyền
lực mềm là sự bồi đắp cho những khiếm khuyết của quyền lực cứng chứ không phải
là sự phản chiếu hay mặt đối lập của quyền lực cứng. Việc thu hút đó có thể mang
lại những kết quả chính sách mong muốn hay không phải được xem xét trong từng
bối cảnh cụ thể. Một quốc gia khi chịu sự suy thoái kinh tế và qn sự có thể mất đi
khơng chỉ về các nguồn quyền lực cứng mà còn mất một số khả năng định hình
chương trình nghị sự quốc tế và một vài tính hấp dẫn của nó. Một số quốc gia có thể
thu hút các nước khác với quyền lực cứng được cho là bất bại.1
Quyền lực mềm dựa trên khả năng định hình những mong muốn của người
khác, xét theo cấp độ cá nhân, chúng ta đều bị hấp dẫn bởi quyền lực của sự thu hút
và sự quyến rũ. Trong giới kinh doanh, một người lãnh đạo tốt chỉ biết ra lệnh thơi
là chưa đủ mà cịn là dẫn dắt bằng ví dụ, làm gương và thu hút nhân viên bằng giá
trị của mình để họ làm những gì bạn muốn. Quyền lực của một lãnh đạo sẽ lớn hơn
nếu người đó có thể làm cho những người khác chia sẻ và đóng góp vào hệ giá trị
của mình. Điều này được thực hiện dần dần, kết hợp với những thứ khơng nhìn thấy
được, chẳng hạn như tính cách, các giá trị, sự định hướng và một tầm nhìn được
xem là hợp lý và có đạo đức. Trong các nền dân chủ, sự cưỡng ép không phải là lựa
chọn hàng đầu, các nhà lãnh đạo dùng quyền lực mềm như một yếu tố chủ yếu của
chính trị, với ưu thế tạo ra sự đồng thuận, huy động được vốn xã hội với chi phí ít
nhất và đặc biệt là huy động được sự tham gia tự nguyện lớn nhất, các mục tiêu như
thúc đẩy dân chủ trong một quốc gia sẽ dễ dàng đạt được hơn.
Theo Giáo sư Nye: “Quyền lực mềm của bất kỳ quốc gia chủ yếu xuất phát
từ ba nguồn: văn hóa của quốc gia đó (ở những điểm hấp dẫn người khác), các giá
1 Joseph Nye (2004), Quyền lực mềm: Ý niệm mới về thành cơng trong chính trị thế giới, Nxb Tri thức, Hà
Nội, tr. 34.
7
trị chính phủ (đạt kỳ vọng trong nước và nước ngồi) và các chính sách đối ngoại
(khi được cho là hợp pháp, đầy đủ thẩm quyền và hợp với đạo đức)”.2
Khi xếp theo thứ tự quan trọng, nguồn đầu tiên là văn hóa, văn hóa là tập hợp
các giá trị và tập tục tạo ra ý nghĩa cho một xã hội. Ta có thể phân biệt dân tộc này
với dân tộc khác thơng qua yếu tố văn hóa. Văn hố được chia thành hai loại hình:
văn hố hàn lâm và văn hố đại chúng, cả hai đều có thể trở thành nguồn quyền lực
mềm có tác động khác nhau đối với từng đối tượng và phụ thuộc vào bối cảnh tiếp
nhận. Văn hóa hàn lâm có giáo dục, nhạc thính phịng, kịch cổ điển, điển tích,…tác
động tới một nhóm đối tượng không lớn hầu hết thuộc tầng lớp thượng lưu nhưng
có sức ảnh hưởng mạnh đến các cấp nhà nước và việc quản lý xã hội như hoạch
định chính sách. Bên cạnh đó, văn hố đại chúng có phim truyền hình, điện ảnh,
chương trình truyền hình, thời trang, thể thao,…tác động đến nhóm đối tượng rất
lớn gồm nhiều tầng lớp trong xã hội. Những diễn viên, thần tượng, vận động viên
thể thao,… trong trường hợp này chính là những chủ thể quảng bá hình ảnh, gia
tăng quyền lực mềm cho quốc gia. Khác biệt văn hóa là một trong những ngun
nhân chính khiến các quốc gia có cách tiếp cận vấn đề và mong muốn những lợi ích
khác nhau. Do đó mức độ phổ biến và được chấp nhận của văn hoá một quốc gia là
một nguồn then chốt của quyền lực mềm. Khi văn hoá của một quốc gia được chấp
nhận rộng rãi thì nó sẽ làm tăng khả năng đạt được các kết quả mong muốn vì đã
phai bớt phần nào sự khác biệt văn hóa và các chủ thể khác sẽ tự nguyên làm theo
để đạt được lợi ích chung. Một số nhà phân tích coi quyền lực mềm đơn giản là
quyền lực văn hóa đại chúng. Tuy nhiên, họ đã sai khi đánh đồng hành vi quyền lực
mềm với các nguồn lực văn hóa mà đơi khi nó chính là nguồn sản sinh ra quyền lực
mềm. Họ nhầm lẫn giữa tài nguyên văn hóa với hành vi thu hút. Ví dụ, nhà sử học
Niall Ferguson đã mô tả quyền lực mềm là “những sức mạnh phi truyền thống như
các sản phẩm văn hóa và thương mại” và sau đó ơng bác bỏ nó với lý do “thực ra
thì, nó rất mềm”. Điều này khơng đồng nghĩa với việc phủ nhận rằng văn hóa đại
chúng là một nguồn lực tạo ra quyền lực mềm, nhưng như chúng ta đã phân tích ở
trên, hiệu quả của bất kỳ nguồn quyền lực nào cũng phải phụ thuộc vào bối cảnh.
2 Joseph Nye (2004), Quyền lực mềm: Ý niệm mới về thành cơng trong chính trị thế giới, Nxb Tri thức, Hà
Nội, tr. 38.
8
Thương mại chỉ là một trong những cách truyền tải văn hóa. Sự trao đổi văn hóa
cũng diễn ra thơng qua liên hệ cá nhân, thăm hỏi và trao đổi.
Chính sách nhà nước cũng được coi là một nguồn quyền lực mềm tiềm tàng
khác. Các chính sách có thể làm suy giảm hoặc gia tăng quyền lực mềm của một
quốc gia, những chính sách đối nội hay đối ngoại nào có vẻ đạo đức giả, kiêu ngạo
và thờ ơ trước ý kiến của người khác, hoặc dựa trên cách tiếp cận thiển cận phục vụ
cho lợi ích của quốc gia có thể làm suy yếu quyền lực mềm. Ví dụ, phong trào phân
biệt chủng tộc trong nước Mỹ những năm 1950 đã làm suy giảm quyền lực mềm
của Mỹ ở Châu Phi, hay việc áp dụng án tử hình và luật kiểm soát súng đạn lỏng lẻo
đã làm suy yếu quyền lực mềm của Mỹ ở Châu Âu. Tương tự, chính sách có tính
hợp pháp, đầy đủ thẩm quyền và hợp đạo đức ảnh hưởng lớn đến quyền lực mềm.
Trong những trường hợp cụ thể, cộng đồng thường có xu hướng dễ dàng chấp nhận
và ủng hộ những quyết định đến từ một quốc gia có những chính sách hợp pháp,
hợp đạo đức và đẩy đủ thẩm quyền. Hàn Quốc thực hiện “Chính sách Ánh Dương” 1
nhằm thúc đẩy quan hệ với Triều Tiên, chính sách Ánh Dương được đánh giá là
đường lối đối ngoại mềm dẻo và hiệu quả nhất của Hàn Quốc trong mục tiêu chấm
dứt “chiến tranh lạnh” trên bán đảo Triều Tiên.
Các giá trị chính trị của một chính phủ (đạt kỳ vọng trong nước và nước
ngồi) ảnh hưởng mạnh đến sự ưa thích của các quốc gia khác. Các chính phủ có
thể thuyết phục hoặc đẩy lùi người khác từ hành động của họ. Cách ứng phó của
Thủ tướng Đức Angela Merkel với đại dịch Covid đạt được sự tín nhiệm của cơng
chúng trong nước và Đức cũng được các nhà chuyên môn đánh giá là quốc gia xử lý
đại dịch tốt đáng kể so với số ca nhiễm khổng lồ ghi nhận tại các nước Châu Âu .
Theo bảng xếp hạng Global Soft Power Index 2021 (chỉ số quyền lực mềm toàn
cầu) của Brand Finance 2, Đức đã vượt qua Mỹ, giành vị trí hàng đầu. Tuy nhiên
Giáo sư Nye cho rằng quyền lực mềm khơng thuộc về chính phủ xét trong cùng một
1 Chính sách Ánh Dương là một chính sách ngoại giao mà Hàn Quốc áp dụng với Triều Tiên từ năm 1998
cho đến cuộc bầu cử tổng thống Lee Myung-bak năm 2008. Từ khi được đề xuất dưới thời tổng thống Hàn
Quốc Kim Dae Jung, chính sách này đã mang lại sự hợp tác chính trị to lớn hơn cũng như một vài thời khắc
lịch sử trong quan hệ liên Triều. Hai cuộc họp thượng đỉnh liên Triều diễn ra tại Bình Nhưỡng (tháng 6 năm
2000 và tháng 10 năm 2007) đã đem đến một số dự án kinh tế thu hút sự chú ý của dư luận và những cuộc
gặp mặt ngắn ngủi của những gia đình bị chia cắt bởi Chiến tranh Triều Tiên.
2 Chỉ số Quyền lực mềm Toàn cầu là kết quả của một nghiên cứu thực địa mang tính đột phá với hơn 75.000
người được hỏi ở 100 quốc gia. Nó cho phép chúng ta thấy tổng thể cách thế giới nhìn nhận về các quốc gia
quyền lực mềm hàng đầu. Xem tại />
9
mức độ với quyền lực cứng. Chẳng hạn như một số nguồn quyền lực cứng thuộc về
chính phủ như lực lượng vũ trang, tài nguyên thiên nhiên,…Trái lại, nhiều nguồn
quyền lực mềm khác biệt so với chính phủ và chỉ đáp ứng được một phần trong các
mục đích, như trong thời kỳ chiến tranh Việt Nam, nền văn hóa đại chúng Mỹ
thường gây bất hịa với các chính sách chính thức của chính phủ Mỹ.1
1.2. Vai trị c a quyềền
ủ
l c mềềm
ự
trong chính sách đốối ngo ạ
ic ủ
a quốốc gia
Chính sách đối ngoại hay chính sách ngoại giao của một quốc gia là tập hợp
các chiến lược mà quốc gia đó sử dụng trong q trình tương tác với các quốc gia
khác và các tổ chức quốc tế, trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, qn sự, văn hóa –
xã hội, nhằm đạt được những mục tiêu khác nhau phù hợp với lợi ích của quốc gia
đó. Vai trị của chính sách đối ngoại ngày càng trở nên quan trọng, đặc biệt trong
thời đại tồn cầu hóa ngày nay, khi một quốc gia không thể tồn tại biệt lập và sự
giao lưu, hợp tác ngày càng được chú trọng. 2 Quyền lực mềm là một cụm từ gây
tranh cãi sơi nổi kể từ khi nó lần đầu được nhắc đến trong suốt hai thập kỷ. Những
người theo chủ nghĩa hồi nghi về quyền lực mềm cho rằng tính đại chúng chỉ là
phù phiếm và chẳng nên dẫn dắt chính sách đối ngoại trong bất kỳ trường hợp nào.
Đặc biệt là sau sự kiện 11/9, mối đe dọa của chủ nghĩa khủng bố xuyên quốc gia đã
làm gia tăng điểm yếu của Mỹ, sự chỉ trích đối với quyền lực mềm đã lên tới đỉnh
điểm. Đúng là chủ nghĩa nghĩa khủng bố phụ thuộc rất nhiều vào quyền lực mềm
cho chiến thắng cuối cùng của nó, nó phụ thuộc vào khả năng thu hút sự chú ý của
đám đông cũng nhiều như khả năng tiêu diệt ý chí chiến đấu của kẻ thù, tuy nhiên
nó cũng có nguồn gốc xã hội sâu xa hơn.
Giáo sư Nye cho rằng, thật sai lầm khi coi nhẹ quyền lực mềm chỉ như một
câu hỏi về hình ảnh, những mối quan hệ cơng chúng và sự phổ biến khơng thể kéo
dài. Ơng nhấn mạnh rằng sử dụng quyền lực mềm sẽ giúp một quốc gia đạt được
nhiều kết quả mong muốn mà không cần phải thuyết phục nhiều, nếu xem nhẹ tầm
quan trọng của sức hấp dẫn đối với các nước khác thì quốc gia sẽ phải trả giá.
1 Joseph Nye (2004), Quyền lực mềm: Ý niệm mới về thành cơng trong chính trị thế giới, Nxb Tri thức, Hà
Nội, tr. 45-46
2 Nguyễn Vĩnh Hằng, N. (25/01/2015). Chính sách đối ngoại (Foreign policy). Nghiên Cứu Quốc Tế. Xem
tại (Truy cập ngày 13/11/2021)
10
Quyền lực mềm đóng vai trị rất lớn đối với các khía cạnh quan trọng trong chính
sách đối ngoại của các quốc gia.
Để hiểu được tầm quan trọng ngày càng tăng của quyền lực mềm trong các
vấn đề đối ngoại của một quốc gia, sẽ dễ dàng hơn khi minh họa bằng một trường
hợp cụ thể: Khi “Hịa bình và Phát triển” đã trở thành chủ đề trong thế giới tồn cầu
hóa ngày nay, ngoại giao văn hóa, ngoại giao kinh tế ngày càng được các nước trên
thế giới coi trọng. Tại Trung Quốc, ngoại giao văn hóa đã phát huy vai trò ngày
càng quan trọng trong những năm gần đây, và “Viện Khổng Tử” chính là thương
hiệu nổi bật nhất trong các hoạt động tuyên truyền văn hóa ra nước ngồi của Trung
Quốc. Chính phủ Trung Quốc muốn nâng cao quyền lực mềm trong chiến lược
ngoại giao văn hóa của mình. Có thể nói việc xây dựng Viện Khổng Tử tại nước
ngoài là một dự án lớn của Trung Quốc, cũng là một chiến lược ngoại giao văn hóa
của nước này trong đầu thế kỷ XXI. Tính từ năm 2004 đến tháng 12 năm 2014, đã
có 475 Viện Khổng Tử, 851 lớp học Khổng Tử được thành lập tại 126 quốc gia và
khu vực, Viện Khổng Tử đã trở thành “khuôn cửa” quan trọng cho các nước và
nhân dân thế giới tìm hiểu về Trung Quốc. Sự phát triển với tốc độ nhanh chóng của
Viện đạt được nhiều thành tựu khiến người ta kinh ngạc, tầm ảnh hưởng của Trung
Quốc trên trường quốc tế ngày càng lớn và vị thế trong cộng đồng quốc tế không
ngừng nâng cao làm cho cả thế giới mong muốn tìm hiểu văn hóa Trung Quốc, cũng
như mở rộng tầm ảnh hưởng của Hán ngữ.1
1.3. T ngổquan vềề Quyềền l ự
c mềềm của làn sóng Hallyu
1.3.1. Lịch sử hình thành
Mặc dù, trên thực tế một thời gian đã trôi qua kể từ khi cụm từ “Quyền lực
mềm” được giới thiệu như một nguyên tắc của nghiên cứu khoa học, nó vẫn là một
khái niệm mơ hồ và đa nghĩa, thường được đưa vào hoạt động khoa học xã hội và
chính trị nhằm cố gắng giải thích sự phức tạp của thế giới đương đại.
Sự năng động của các luồng văn hóa trong khu vực Đông Á đã cho thấy một
thực tế là quyền lực mềm đã thu hút sự chú ý không chỉ của các nhà khoa học và
1Đỗ, T. V. (2015). VIỆN KHỔNG TỬ VÀ NGOẠI GIAO VĂN HĨA TRUNG QUỐC: NHÌN TỪ GÓC ĐỘ
BÊN TIẾP NHẬN. xem tại (Truy cập
12/12/2021)
11
cịn có các chính phủ và các tổ chức xun quốc gia. Không phải ngẫu nhiên mà
Hàn Quốc đã nắm bắt được cơ hội ngoại giao và nâng tầm vị thế của văn hóa đại
chúng lên thành một ngành kinh tế, lan tỏa K-Pop và K-Dramas trước tiên ở trong
khu vực (liên Châu Á) sau đó lan rộng ra tồn cầu. Trong cuộc cạnh tranh tầm khu
vực và thế giới này để chinh phục lượng khán giả lớn hơn, chính phủ Hàn Quốc đã
đóng vai trị hết sức tích cực kể từ những năm 1980. Ngay sau khi chế dộ độc tài
sụp đổ vào năm 1987, thị trường truyền hình đã được tự do hóa ở Hàn Quốc. Cuộc
chiến “phim truyền hình” trong nội bộ ba đài truyền hình lớn của Hàn Quốc (MBN,
SBS, và KBS) kết hợp với áp lực đến từ truyền hình cáp và truyền hình vệ tinh đã
khiến chính phủ Hàn phải thành lập Cục Cơng nghiệp Văn hóa đầu tiên trong Bộ
Văn hóa và Thể thao vào năm 1994 để tiến hành các chiến lược văn hóa nhằm xuất
khẩu các sản phẩm văn hóa đại chúng ở cấp độ quốc tế. Đến năm 2009, Hàn Quốc
đã tiến thêm một bước và thành lập “Hội đồng Tổng thống về Thương hiệu Quốc
gia” với mục đích nâng cao vị thế và sự uy tín của Hàn Quốc trong cộng đồng Quốc
tế bằng cách thực hiện chiến lược xây dựng thương hiệu quốc gia một cách có hệ
thống và tồn diện.
Chiến lược của chính phủ Hàn Quốc gồm hai phần cấu thành: một mặt, sự
lan tỏa của làn sóng Hallyu cho thấy các giá trị văn hóa mang tính đa chiều, nó
khơng phải là vấn đề mà khán giả hay công chúng biết về ngôn ngữ nào mà còn bao
hàm sự lưu chuyển của các chủ đề tường thuật chung về con người, sự tương tác sản
xuất và tiêu dùng qua biên giới quốc gia, hay chất lượng của các sản phẩm văn hóa.
Điều này đã giải thích tại sao gặp bất lợi ban đầu về ngôn ngữ nhưng làn sóng
Hallyu vẫn thành cơng như vậy, sử dụng văn hóa đa dạng của Hàn Quốc làm lợi thế
của nó. Có thể cho rằng, kinh nghiệm lịch sử về thuộc địa hóa và giao lưu văn hóa
của Hàn Quốc với các nước khác là thế mạnh của văn hóa Hàn Quốc, đã tiếp nhận
văn hóa nước ngồi trong một thời gian dài, họ đã có được kinh nghiệm về việc chắt
lọc văn hóa du nhập thành của riêng mình, có thể được đánh giá là một yếu tố giúp
các sản phẩm văn hóa của Hàn Quốc thu hút khán giả trong khu vực và quốc tế. Các
sản phẩm nổi tiếng của Hàn Quốc đồng thời được coi là đặc biệt (thuộc về Đông Á)
và thông dụng (thể hiện các giá trị mà người ta có thể nhận thấy trên toàn thế giới)
và như vậy chúng là biểu hiện của “chủ nghĩa tôn vinh” đặc trưng cho các sản phẩm
12
truyền thông hiện đại. Giáo sư Shin Gi-Wook đã nhấn mạnh rằng nghịch lý của tồn
cầu hóa có hai khuynh hướng rõ ràng là trái ngược nhau ở Hàn Quốc: cách tiếp cận
tồn cầu hóa theo chủ nghĩa dân tộc và đề cao bản sắc dân tộc/ bản sắc dân tộc như
một phản ứng đối với tồn cầu hóa. Như ông đã nhấn mạnh, mặc dù Hàn Quốc đang
toàn cầu hóa (về kinh tế, xã hội và văn hóa) nhưng phản ứng của người Hàn đối với
tồn cầu hóa được hình thành bởi tư tưởng chủ nghĩa dân tộc, nền tảng của sự phát
triển của quốc gia họ. Hơn nữa, sự tồn tại của chủ nghĩa dân tộc trong quá trình tồn
cầu hóa của Hàn Quốc vẫn có mối liên hệ chặt chẽ với việc sử dụng văn hóa Hàn
Quốc (văn hóa hàn lâm và văn hóa đại chúng) như một phương tiện để đạt được
mục tiêu tồn cầu hóa kiểu Hàn. Riêng về mặt này, làn sóng Hallyu ngày càng được
coi là một giải pháp thay thế cho toàn cầu hóa văn hóa do Mỹ và phương Tây thống
trị, một kiểu tồn cầu hóa mới bao gồm trong các sản phẩm văn hóa của nó cả yếu
tố phương Tây và phương Đông. Mặt khác, trong quá khứ gần đây, đặc biệt là trong
thời kỳ thuộc địa, chiến tranh Triều Tiên và quá trình chuyển từ chế độ độc tài sang
nền dân chủ sau đó. Hàn Quốc đã nhận thấy quyền lực mềm trong lĩnh vực văn hóa
như một phương tiện để vượt qua sự lưỡng nan văn hóa (cultural marginality) của
họ.1
1.3.2. Khái quát về làn sóng Hallyu
Ở khu vực Đông Bắc Á, vào những năm 60 thế kỷ 20, Hàn Quốc bị coi là
một quốc gia lạc hậu, so với Nhật Bản và Trung Quốc thì Hàn Quốc kém xa về mặt
kinh tế và quân sự. Nhưng hiện tại, quốc gia này không chỉ là một trong những trụ
cột kinh tế Châu Á, Hàn Quốc còn là một trong mười quốc gia “xuất khẩu” văn hóa
hàng đầu thế giới. Chính phủ Hàn Quốc từ lâu đã hiểu rõ và nhấn mạnh sự tập trung
vào quyền lực mềm. Để thực thi quyền lực mềm, Hàn Quốc chú trọng phát triển văn
hóa quốc gia (thay đổi chính sách kiểm duyệt văn hóa, chính phủ cũng địi hỏi cấp
thiết là trong sự thay đổi đó phải có ý nghĩa tích cực, ưu tiên cho những giá trị văn
hóa quốc gia,…), chính sách ngoại giao (ngoại giao cơng chúng, ngoại giao văn
hóa), tích cực chủ động tham gia vào các liên minh cân bằng, tổ chức quốc tế.
1 Kim Young Mi & Marinescu Valentina (2015), Mapping South Korea’s soft power: Sources, actors, tools,
and impact, Romanian Journal of Sociological Studies, vol. 2015, no. 1, pp. 1-10
13
Park Gil-sung (2013), giáo sư của Đại học Hàn Quốc và là chủ tịch của Hiệp
hội Nghiên cứu Hallyu thế giới (World Association for Hallyu Studies), đã có cuộc
trị chuyện với phóng viên nhật báo The Korea Herald tại văn phịng của ơng ở
Seoul: “Trước khi có Hallyu, mọi người biết tới Hàn Quốc qua Chiến tranh Triều
Tiên, nghèo đói và đất nước nhiều công nhân ngành thâm dụng lao động. Nhưng
sau Hallyu, mọi người bắt đầu nhận được nhiều thông tin mới - Hàn Quốc hiện là
một đất nước năng động với văn hóa đại chúng, ẩm thực và hơn thế nữa, với những
sản phẩm tuyệt vời. Việc ngày càng có nhiều người học ngơn ngữ, bản chất của một
nền văn hóa, vì mục đích hiểu biết chứ khơng phải vì mục đích kinh doanh, là điều
rất đáng khích lệ”1
Thuật ngữ Hallyu ( 韩流 ), còn gọi là Hàn lưu hay làn sóng Hallyu, lần đầu
được nhắc tới trên Nhật báo Thanh niên Bắc Kinh ( 北京青年报) vào tháng 11 năm
1999 khi miêu tả một bộ phận giới trẻ của quốc gia này bày tỏ sự u thích của
mình với các sản phẩm âm nhạc đến từ Hàn Quốc. Tại Hàn Quốc, Hallyu đã trở
thành một từ thông dụng sau sự thành công của buổi biểu diễn đầu tiên của nhóm
nhạc H.O.T ở Trung Quốc vào tháng 2 năm 2002.
Một số định nghĩa về làn sóng Hallyu là “sự ưa thích nhiệt tình đối với văn
hóa đại chúng Hàn Quốc” hay như Joseph Nye đã định nghĩa làn sóng Hallyu là “sự
phát triển ngày càng đại chúng của mọi thứ có nguồn gốc từ Hàn Quốc, từ thời
trang, phim ảnh đến âm nhạc và ẩm thực.”2
Sự yêu thích của cơng chúng đối với văn hóa Hàn Quốc do làn sóng Hallyu
tạo ra tự nhiên đã dẫn đến việc tiêu thụ hàng loạt các sản phẩm và ý tưởng liên quan
đến Hàn Quốc, từ đó dẫn đến việc hình thành những hình ảnh, nhận thức và quan
điểm cụ thể về Hàn Quốc của người dân ở các quốc gia có làn sóng Hallyu tồn tại.
Vì lý do đó, làn sóng Hallyu có thể trở thành một nguồn lực mềm rất quan trọng, có
khả năng phát triển quyền lực mềm của Hàn Quốc.3 Vai trò và sức mạnh của văn
1 Bae Ji-sook. (2013, February 12). ‘Hallyu could be a stepping stone for peace.’ The Korea Herald.
Retrieved December 8, 2021, from />ud=20130212001036&ACE_SEARCH=1
2 Joseph Nye (2009), "South Korea's Growing Soft Power", Harvard University, xem tại
(truy cập ngày 29/11/2021)
3 Geun, L. (2009). A soft power approach to the “Korean wave”. The review of Korean studies, 12(2), pp.
123-137.
14
hóa Hàn Quốc trong phát triển quyền lực mềm đã nhen nhóm xuất hiện từ rất sớm.
Cựu Tổng thống Chính phủ Lâm thời Đại Hàn Dân Quốc - Kim Gu đã từng viết
trong tập tự truyện “Backbeom Ilji” xuất bản lần đầu vào năm 1947 của mình: “Tơi
muốn quốc gia chúng ta trở thành quốc gia đẹp nhất trên thế giới. Ý tôi không phải
là quốc gia hùng mạnh nhất. Bởi vì tơi đã cảm nhận được nỗi đau khi bị xâm lược
bởi một quốc gia khác, tôi không muốn đất nước mình đi xâm lược. Sự giàu có của
chúng ta làm cho cuộc sống của chúng ta trở nên phong phú là đủ, sức mạnh của
chúng ta đủ để ngăn chặn các cuộc ngoại xâm là đủ. Điều duy nhất tơi mong muốn
có được vơ hạn là sức mạnh của một nền văn hóa cao q. Đó là vì sức mạnh của
văn hóa khơng những khiến chúng ta hạnh phúc mà còn lan tỏa sự hạnh phúc cho
nhiều người khác.”1
Khi văn hóa đại chúng của Hàn Quốc lan rộng ra tồn cầu, thu hút đơng đảo
sự chú ý của cơng chúng nhiều quốc gia. “Làn sóng Hallyu” thơng qua âm nhạc đại
chúng và các bộ phim truyền hình đã lan rộng và dần trở thành trào lưu ở khu vực
châu Á nói riêng và thế giới nói chung, nó đã chứng minh tiềm năng của Làn sóng
Hallyu như một tập hợp các nguồn quyền lực mềm có thể có tác động đáng kể và
phức tạp đến ngoại giao văn hóa cũng như thương mại, du lịch và lợi ích quốc gia
trong nhiều bối cảnh khác nhau.
1.3.3. Vai trò của làn sóng Hallyu trong chính sách đối ngoại của Hàn Quốc
Làn sóng Hallyu thể hiện vai trị đặc biệt quan trọng trong chính sách đối
ngoại của Chính phủ Hàn Quốc đặc biệt là ngoại giao công chúng (ngoại giao nhân
dân); ngoại giao văn hóa. Trang web của Bộ Ngoại giao Hàn Quốc (MOFA) cho
rằng “Hallyu (làn sóng Hallyu) đóng vai trị là một yếu tố quan trọng trong chính
sách ngoại giao công chúng của Hàn Quốc”. Ngoại giao công chúng của Hàn Quốc
bao gồm việc thúc đẩy quan hệ ngoại giao bằng cách chia sẻ lịch sử, truyền thống,
văn hóa, nghệ thuật, các giá trị, chính sách và tầm nhìn của đất nước chúng ta thông
qua giao tiếp trực tiếp với cơng dân nước ngồi. Nâng cao quan hệ ngoại giao và
1 Trích nguyên văn: “I want our nation to be the most beautiful in the world. By this, I do not mean the most
powerful nation. Because I have felt the pain of being invaded by another nation, I do not want my nation to
invade others. It is sufficient that our wealth makes our lives abundant; it is sufficient that our strength is able
to prevent foreign invasions. The only thing that I desire in infinite quantity is the power of a noble culture.
This is because the power of culture both makes ourselves happy and gives happiness to others.”
15
hình ảnh quốc gia bằng cách giành được sự tin cậy của cộng đồng quốc tế và tăng
ảnh hưởng toàn cầu của Hàn Quốc.1
Khi Tổng thống Lee Myung-bak nhậm chức vào năm 2008, ông đã đưa ra
khẩu hiệu “Ngoại giao toàn cầu”. Điều này cho thấy điểm thú vị về cách Hàn Quốc
đánh giá cao ngành cơng nghiệp văn hóa của mình. Hơn nữa, để thực hiện khẩu
hiệu này, chính phủ của Tổng thống Lee đã thành lập “Hội đồng tổng thống về xây
dựng thương hiệu quốc gia” có nhiệm vụ thực hiện 10 điểm, một trong những điểm
chính là “áp dụng chương trình làn sóng Hallyu”. Trong thời kỳ này, việc làn sóng
Hallyu đã tiên phong trong thành cơng từ những năm 1990 ở Trung Quốc, bắt đầu
được nhà nước áp dụng như một phần chính sách của chính phủ Lee, nhằm duy trì
sự phổ biến đã đạt được của làn sóng Hallyu. Điều này dựa trên kết quả tích cực do
các sản phẩm văn hóa có thể giúp đất nước đạt được sự thịnh vượng trong lĩnh vực
kinh tế và cải thiện hình ảnh quốc gia. Chính sách của Lee Myung-bak đối với làn
sóng Hallyu vẫn được chính phủ Hàn Quốc tiếp tục cho đến nay.2
Có thể nói, việc lựa chọn lĩnh vực văn hóa đại chúng gắn với ca nhạc, phim
truyền hình,…làm mũi nhọn trong ngành cơng nghiệp xuất khẩu văn hóa đã tạo nên
“làn sóng Hallyu” lan tỏa ra tồn cầu, được cơng chúng các nước đón nhận. Làn
sóng Hallyu đã tạo cơ hội cho chính phủ Hàn Quốc tận dụng lợi thế của chính sách
văn hóa và ngoại giao cơng chúng mới nổi để thúc đẩy lợi thế văn hóa Hàn Quốc
trong một thế giới tồn cầu hóa. Thành cơng đó đã đem lại cho Hàn Quốc nhiều lợi
ích đáng kể, nâng cao đời sống tinh thần của người dân, đưa nền văn hóa gắn với
một ngành cơng nghiệp giải trí và trở thành một trong những trụ cột kinh tế của Hàn
Quốc, gia tăng quan hệ đối ngoại của Hàn Quốc với các nước. Làn sóng Hallyu có
tác động tích cực và tiềm năng thúc đẩy ngoại giao văn hóa của Hàn Quốc. Ảnh
hưởng cũng như sức lan tỏa của ngành công nghiệp này cũng tạo ra nhiều hiệu ứng
tích cực đối với các lĩnh vực khác của Hàn Quốc như phát triển giá trị thương hiệu,
gia tăng bản sắc quốc gia,…
1 Xem tại />2 Trisni, S., Nasir, P. E., & Isnarti, R. (2019). South Korean Government’s Role in Public Diplomacy: A Case
Study of the Korean Wave Boom. Andalas Journal of International Studies (AJIS), 8(1), pp. 31-42.
16
Ch
ng
ươ2. Làn sóng Hallyu trong quyềền l cựmềềm c ủ
a Hàn Quốốc
2.1. Trường hợp K-Pop
2.1.1. Khái quát chung về K-Pop
K-Pop (Korean popular music) còn được gọi là nhạc pop Hàn Quốc, là một
thể loại âm nhạc bắt nguồn từ Hàn Quốc như một phần của văn hóa đại chúng Hàn
Quốc. Nó bị ảnh hưởng bởi các phong cách và thể loại từ khắp nơi trên thế giới,
chẳng hạn như pop, experimental, rock, jazz, phúc âm, hip hop, R&B, reggae,
EDM, dân gian, đồng quê và cổ điển dựa trên nguồn gốc âm nhạc truyền thống Hàn
Quốc. Văn hóa "thần tượng" K-pop hiện đại được hình thành vào khoảng những
năm 1990. Tuy nhiên, sự xuất hiện của K-Pop đã nhen nhóm từ những năm 1950.
Không giống như các thể loại âm nhạc khác, sự khởi đầu của K-Pop hiện nay
có thể được xác định vào ngày 11 tháng 4 năm 1992, khi nhóm Seo Taiji and Boys
lần đầu biểu diễn trong một cuộc thi tìm kiếm tài năng trên truyền hình trực tiếp.
Chỉ trong vài ngày, bài hát I Know đã leo lên vị trí đầu bảng xếp hạng và phá kỷ lục
giữ vững vị trí đó trong 17 tuần. Việc họ thử nghiệm các phong cách và thể loại âm
nhạc khác nhau và tích hợp các yếu tố âm nhạc nước ngồi đã giúp định hình lại và
hiện đại hóa nền âm nhạc đương đại của Hàn Quốc. Đây là động lực dẫn đến sự
hình thành của tất cả các nhóm nhạc trong ngành công nghiệp âm nhạc Hàn Quốc,
các công ty giải trí lần lượt được ra đời như SM Entertainment được thành lập vào
năm 1995, JYP Entertainment vào năm 1997 và YG Entertainment vào năm 1998.
Thuậ t ngữ “K-Pop” trở nên phổ biêến vào nhữ ng năm 2000. Trước đó,
chúng ta đã biêết K-Pop có nghĩa là âm nhạc đại chúng Hàn Quốếc. K-Pop trong
tiêếng Hàn là 대 중 음 악 . Thuậ t ngữ này có nghĩa đen là nhạc pop. Tuy nhiên,
thuậ t ngữ này có thể hơi trang trọng hoặc mang tính văn h ọc nên nhiêều ng ười
trẻ sử dụ ng 가요(ga yo) vì nó có nghĩa là bài hát. Nhóm nhạc đầu tiên tồn tại ở KPop là H.O.T., ra mắt vào năm 1996. Đây được coi là nhóm khởi đầu cho nền văn
hóa nhạc pop Hàn Quốc. Sau một thời gian sa sút trong giai đoạn đầu, với sự xuất
hiện của BoA và TVXQ vào năm 2003, bắt đầu một thế hệ thần tượng K-Pop mới,
phá vỡ thể loại âm nhạc này vào thị trường Nhật Bản và tiếp tục phổ biến K-Pop ra
quốc tế ngày nay.
17
Ngơi sao K-Pop là những nhóm nhạc và nghệ sĩ được thành lập bởi các cơng
ty giải trí khác nhau, tạo ra âm nhạc K-Pop hấp dẫn và hướng đến khán giả trẻ tuổi.
Các nhóm nhạc được thành lập từ một nhóm những người đặc biệt tài năng ở một
trong những lĩnh vực sau: hát, đọc rap và nhảy. Những thần tượng này thường gia
nhập cơng ty giải trí ở tuổi thiếu niên và sau đó học trải qua quá trình rèn luyện
nghiêm ngặt trong nhiều năm về các lĩnh vực như hát, rap, nhảy và ngoại ngữ. Nếu
họ đủ may mắn và tài năng, họ sẽ được chọn vào một nhóm nhạc thần tượng và
được ra mắt cơng chúng. Sau đó, các nhóm nhạc K-Pop cho ra định kỳ các đĩa đơn
và album. Hàng tuần, họ sẽ đến nhiều chương trình âm nhạc để biểu diễn và quảng
bá đĩa đơn chính của mình, trong khoảng thời gian từ một tháng đến hai tháng. Mặc
dù bài hát quan trọng nhưng sự chăm chút và chú ý đặc biệt luôn được các thành
viên trong nhóm dành cho cách tạo dáng, vũ đạo đồng bộ và MV chất lượng cao.
Hầu hết các nhóm nhạc K-Pop có một rapper, nhóm trưởng, center, visual
được chỉ định. Các cụm từ tiếng Anh được trộn vào với lời bài hát tiếng Hàn, điều
này được cho là bắt nguồn bởi các thần tượng người Mỹ gốc Hàn, những người
muốn thể hiện sự trôi chảy tiếng Anh trong âm nhạc của mình. Vũ đạo K-Pop chủ
yếu dựa vào các động tác khó, đồng bộ, với việc các thành viên đổi vị trí nhiều lần
cho nhau. Nó được gọi là 자리바꿈 (jaribaggum), hoặc “thay đổi đội hình”. Các
động tác cũng được lặp đi lặp lại và mang yếu tố gây nghiện, phù hợp với concept
của từng bài hát. Thuật ngữ cho điều này là 포인트안무 (pointeu anmu), việc lặp đi
lặp lại các động tác đã làm cho một số điệu nhảy và bài hát trở nên đặc biệt lan
truyền rộng rãi. “Gangnam Style” của Psy, “Sorry Sorry” của Super Junior, “Be
Mine” của INFINITE, “Abracadabra” của Brown Eyed Girls và “DDU DU DDU
DU” của Blackpink đều có vũ đạo nổi bật khiến mỗi bài hát trở nên vô cùng thu hút
và dễ lan tỏa. Ngoài ra, trang phục bắt mắt của nhóm hoặc nghệ sĩ được sử dụng
trong các buổi biểu diễn và video âm nhạc cũng quan trọng không kém.
K-Pop hiện là một trong những khía cạnh chính của làn sóng Hallyu và một
ngành cơng nghiệp hái ra tiền cho thị trường Hàn Quốc.
2.1.2. Vai trò của K-Pop trong làn sóng Hallyu
2.1.2.1. Sự phát triển của K-Pop
18
Khi nhắc đến Hallyu không thể bỏ qua K-Pop, ngành công nghiệp âm nhạc
hàng đầu của xứ sở Kim chi có độ phủ sóng rộng khắp thế giới. Có thể nói, trong số
các nội dung của làn sóng văn hóa Hàn Quốc Hallyu, K-Pop là phần được biết đến
rộng rãi nhất trên toàn thế giới, được coi là hạt nhân của làn sóng Hallyu.
Vào giữa những năm 2000, các nhóm nhạc thần tượng như TVXQ, Kara, Big
Bang, Girls ’Generation và 2NE1 đã trở nên nổi tiếng bùng nổ ở châu Á bao gồm
Trung Quốc, Nhật Bản, Đài Loan và Singapore, do đó đã kích thích sự quan tâm
trên tồn cầu đối với K-pop1. Năm 2009 là thời khắc đánh dấu những bước ngoặt
lớn trong nền âm nhạc Hàn Quốc, sự ảnh hưởng của nhạc pop Hàn Quốc bùng nổ
khắp Châu á và lan tỏa đến các quốc gia trên thế giới, nhóm nhạc nữ Wonder Girls
trở thành ca sĩ Hàn Quốc đầu tiên xuất hiện trên Billboard Hot 100 với phiên bản
tiếng Anh của “Nobody”.2 Nhắc về những bản hit thời điểm đó, có thể kể tới những
cái tên đi theo năm tháng như “Gee” (SNSD), “Sorry Sorry” (Super Junior), “I
Don’t Care” (2NE1), “Heartbreaker” (G-Dragon), “Time To Love” (T-ARA), “Ring
Ding Dong” (SHINee),…
Năm 2012, khi “Gangnam Style” của Psy duy trì vị trí thứ 2 trên Billboard
Hot 100 trong bảy tuần liên tiếp và cuối cùng đạt ba tỷ lượt xem trên YouTube, cơn
sốt K-pop bắt đầu lan rộng khắp thế giới. 3 Làn sóng Hallyu của Hàn Quốc đã trở
nên cực kỳ phổ biến thông qua tương tác trên mạng xã hội. Khi nghệ sĩ K-Pop nổi
tiếng Psy tung ra "Gangnam Style", Hallyu đã bắt đầu lan rộng sang các nước
phương Tây. Bài hát và điệu nhảy cưỡi ngựa của Psy nổi tiếng đến mức ảnh hưởng
của nó đã lan rộng khắp thế giới ngay sau khi được phát hành. Bài hát đã đứng đầu
bảng xếp hạng và đến hơn 30 quốc gia trên toàn cầu như Úc, Canada, nhiều nước ở
Châu Âu, đạt vị trí số 1 trên Bảng xếp hạng đĩa đơn chính thức của Anh và chiếm vị
trí thứ 2 trên Billboard’s Hot 100 tại Mỹ. Đến năm 2017, MV này đạt hơn 3 tỷ lượt
xem. 4
1 Hallyu (Korean Wave), Culture and the Arts, Korean Cultute Centre, xem tại (truy cập 23/11/2020)
2Wonder
Girls
Enters
Billboard
Hot
100,
The
Korea
Times,
xem
tại
(truy cập 23/11/2020)
3 Hallyu (Korean Wave), Culture and the Arts, Korean Cultute Centre, xem tại (truy cập 23/11/2020)
4 Tamar Herman (2017), Psy Thanks Fans for ‘Gangnam Style’ Reaching 3 Billion Views on YouTube,
Billboard, Music News, xem tại (truy cập ngày 25/11/2021)
19
Trong năm 2018, K-pop đã có sự tăng trưởng đáng kể và trở thành một
"người chơi quyền lực", đánh dấu mức tăng trưởng doanh thu 17,9%. Tính đến năm
2019, K-pop được xếp ở vị trí số 6 trong số 10 thị trường âm nhạc hàng đầu trên
toàn thế giới theo “Global Music Report 2019” của Liên đồn Cơng nghiệp Ghi âm
Quốc tế, với BTS và Blackpink được coi là nghệ sĩ dẫn đầu thị trường này. 1 Vào
năm 2020, K-pop đã trải qua một năm kỷ lục khi tăng trưởng 44,8% - tốc độ tăng
trưởng nhanh nhất trong số các thị trường âm nhạc lớn trên thế giới. Kết quả trên
được phản ánh trong “Báo cáo âm nhạc toàn cầu 2020” (Global Music Report) của
Liên đồn cơng nghiệp ghi âm quốc tế (IFPI)2 công bố ngày 23/3 (theo giờ địa
phương), khảo sát về thị trường âm nhạc trực tuyến và đĩa âm bản trên thế giới. 3
Liên đồn cơng nghiệp ghi âm quốc tế đánh giá năm ngoái thị trường âm nhạc Hàn
Quốc tăng trưởng tốt là nhờ K-Pop đã phá vỡ nhiều kỷ lục, vươn lên là thị trường
âm nhạc lớn có tốc độ tăng trưởng nhanh nhất năm 2020. Thị trường âm nhạc Hàn
Quốc lớn thứ 6 trên thế giới sau Mỹ, Nhật Bản, Anh, Đức và Pháp. Sự tăng trưởng
nhanh của ngành công nghiệp âm nhạc Hàn Quốc được cho là nhờ sức mạnh của
cộng đồng người hâm mộ quốc tế đối với K-pop nói chung, nhóm nhạc BTS nói
riêng và lượng bán đĩa tăng nhanh. Năm ngoái, doanh số bán đĩa trên thế giới giảm
4,7% so với một năm trước. Tuy nhiên, doanh số bán đĩa của các nghệ sĩ K-pop lại
tăng, đi ngược lại xu hướng này.4 BTS đã đứng đầu bảng xếp hạng Billboard 200
vào năm 2019 và giành được giải thưởng Nghệ sĩ mạng xã hội hàng đầu năm thứ ba
liên tiếp tại Lễ trao giải âm nhạc Billboard. 5 Điều này đã thu hút sự chú ý từ thế
giới, dẫn đến sự cơng nhận của tồn cầu đối với K-pop như một thể loại. Sau khi
đứng đầu bảng xếp hạng Billboard 200 vào tháng 2 năm 2020, “Map of the Soul: 7”
đã duy trì thứ hạng cao trong 23 tuần liên tiếp. BTS đã đạt được nhiều danh hiệu
“Kỷ lục Guinness Thế giới”, bao gồm cả danh hiệu dành cho nhiều người xem nhất
1Kelley, C. (2019, April 28). K-Pop Is More Global Than Ever, Helping South Korea’s Music Market Grow
Into
A
“Power
Player.”
Forbes.
Retrieved
December
14,
2021,
from
/>2 Hàng năm, IFPI khảo sát quy mô ngành thu âm (record music) bao gồm lượt nghe trực tuyến, lượt tải về và
lượng đĩa bán ra, khơng bao gồm chương trình biểu diễn trực tiếp (live music).
3 Global music report 2020, International Federation of the Phonographic Industry, xem tại
(truy cập
ngày 14/12/2021)
4 Thị trường âm nhạc Hàn Quốc năm 2020 tăng trưởng gần 45% . (26/03/2021). KBS WORLD. xem tại
(Truy cập 14/12/2021)
5 Hugh Mclntyre (2020), BTS Ended 2019 As The Fourth-Most-Successful Group On The Billboard 200,
Forbes, xem tại (truy cập 26/11/2020)
20
cho buổi phát trực tiếp buổi concert âm nhạc. Vào tháng 8 năm 2020, BTS đã làm
nên lịch sử khi trở thành nghệ sĩ Hàn Quốc đầu tiên đứng đầu Billboard Hot 100 với
ca khúc tiếng Anh đầu tiên “Dynamite”. Họ không chỉ giành được vô số giải thưởng
và sự nổi tiếng mà cịn được xuất hiện trên trang bìa của Tạp chí Time vào tháng 10
năm 2018 với tư cách là Nhà lãnh đạo thế hệ mới vì tầm ảnh hưởng của họ. Họ
cũng trở thành Đại sứ UNICEF và có bài phát biểu tại Liên hợp quốc. 1 Hình ảnh
thường ngày của họ ln được cập nhật và đăng tải, điều này giúp tạo ra mối liên
kết với khán giả của họ, những người cảm thấy được kết nối với thần tượng dù cho
họ dường như không thể tiếp cận được. 2
2.1.2.2. Đóng góp của K-Pop trong phát triển làn sóng Hallyu
Trong một cuộc khảo sát được thực hiện ở 18 quốc gia vào năm 2020,
khoảng 22,7% số người được hỏi nói rằng thể loại K-Pop “rất phổ biến” ở quốc gia
của họ3. Sự nổi tiếng ở thời điểm mà K-Pop được công chúng biết đến và các sản
phẩm liên quan đang được bán. Cuộc khảo sát cho thấy mức độ phổ biến của K-pop
đã vượt xa biên giới Hàn Quốc.
K-Pop đã có được chuỗi thành cơng liên tục trong 15 năm qua - một khoảng
thời gian dài hơn những năm hồng kim của ngành cơng nghiệp điện ảnh Hồng
Kông (từ cuối thập niên 1980 đến 1990) hoặc làn sóng J-Pop Nhật Bản (trong suốt
thập niên 1990). K-Pop đã thu hút được lượng khán giả khổng lồ ở Nhật Bản và
khắp Đông Nam Á kể từ sau năm 2000, mở đường cho phần còn lại của châu Á và
các khu vực khác trên thế giới kể từ cuối thập niên 2000. 4 Cuối cùng, nhưng không
kém phần quan trọng, một số lượng đáng kể các nhóm nhạc K-Pop đã đạt được các
bảng xếp hạng thường xuyên trên khắp thế giới, khiến Billboard ra mắt bảng xếp
hạng toàn cầu mang tên “K-Pop Hot 100”. Kết hợp lại, những xu hướng này tạo ấn
tượng rằng sự nổi tiếng và thành cơng của K-Pop đang phát triển trên tồn cầu.
1 Caitlin Kelley (2018), BTS Deliver Speech At United Nations Urging Young People To 'Find Your Voice',
Forbes, xem tại (truy cập ngày 25/11/2021)
2 Raisa Bruner (2020), Entertainer of the year 2020 BTS, The New York Times , xem tại
(truy cập ngày 25/11/2021)
3 Statista Research Department (2021), Popularity of South Korean pop music (K-pop) worldwide in 2020,
Statista, xem tại (truy
cập ngày 29/11/2021)
4 Messerlin, P., & Shin, W. (2017). The K-pop Success: How Big and Why So Fast?. Asian Journal of Social
Sciences, 45(4-5), pp. 409-439.
21
Với sự hỗ trợ của chính phủ Hàn Quốc, những người đã nhìn thấy tiềm năng
kinh tế của các ngành cơng nghiệp, cái gọi là làn sóng Hàn Quốc bắt đầu lan rộng
hơn nữa, và K-Pop đã thu hút được khán giả tồn cầu. Nhóm nhạc nữ Blackpink là
nhóm nhạc K-Pop đầu tiên dẫn đầu lễ hội âm nhạc nổi tiếng Coachella của Hoa Kỳ
vào năm 20191. Tuy nhiên, với thành cơng trên cả nước và tồn cầu, nhóm nhạc
nam bảy thành viên BTS là nhóm nhạc nam hoạt động tích cực nhất tại Hàn Quốc
hiện tại. Vào tháng 12 năm 2018, người ta ước tính rằng nhóm nhạc này tạo ra
khoảng 4.000 tỷ won giá trị kinh tế Hàn Quốc cho Hàn Quốc mỗi năm.2
Số lượng các tổ chức liên quan đến làn sóng Hallyu nhiệt tình với văn hóa
Hàn Quốc đang gia tăng. Hàng năm, số lượng các tổ chức này tăng 7% và số thành
viên tăng 36%. Tính đến năm 2020, tổng số thành viên đã tham gia các tổ chức liên
quan đến Hallyu ở tất cả các quốc gia trên thế giới đã lên tới gần 100 triệu người.
Đây là mức tăng gấp 5 lần trong vòng 5 năm. 3 Phần lớn trong số họ bao gồm các
Fanclub đông đảo như ARMY - câu lạc bộ người hâm mộ chính thức tồn cầu của
BTS và BLINK - câu lạc bộ người hâm mộ chính thức của BLACKPINK. Ngoài ra,
các tổ chức và cộng đồng khác cũng hoạt động tích cực trong nhiều lĩnh vực khác
nhau như phim truyền hình, ẩm thực và du lịch Hàn Quốc.
2.2 Trường hợp K-Dramas
2.2.1. Khái quát chung về K-Dramas
K-Dramas (Korean dramas), là thể loại phim truyền hình nhiều tập, được xây
dựng theo cuộc đời của một nhân vật. Những tình tiết trong phim xoay quanh câu
chuyện về quá khứ – hiện tại với những biến cố, nghịch cảnh và nỗ lực vươn lên
trong cuộc sống, cơng việc và tình cảm của nhân vật chính. Câu chuyện đó khơng
chỉ cuốn hút mà cịn đem lại vơ vàn cảm xúc buồn, vui, hạnh phúc đan xen cho
khán giả.
1 Evan Real (2019), Blackpink to Make History as First K-Pop Girl Group to Play Coachella, The
Hollywood reporter, xem tại (truy cập 30/11/2021)
2 Choi Moon-hee (2018), K-pop Group BTS Induces Production Worth 4 Tril. Won per Year, Economic
Effects of BTS, BusinessKorea, xem tại />(truy cập 30/11/2021)
3 Hallyu (Korean Wave), Culture and the Arts, Korean Cultute Centre, xem tại (truy cập 23/11/2020)
22
Nguồn gốc của truyền hình ở Hàn Quốc bắt nguồn từ giữa những năm 1950,
với bộ phim truyền hình Hàn Quốc đầu tiên được phát sóng vào năm 1962. Phim
được phát sóng trên kênh KBS (Korean Broadcasting System), hiện tại đây vẫn tiếp
tục tồn tại như một kênh truyền hình quốc gia lớn của Hàn Quốc. 1 Tuy nhiên, phải
đến những năm 1970, các hộ gia đình Hàn Quốc mới bắt đầu mua tivi. Hầu hết các
bộ phim truyền hình Hàn Quốc diễn tả các thời điểm lịch sử và các nhân vật lịch sử
chỉ đến được với một lượng nhỏ khán giả. Sau này với sự gia tăng của TV trong các
gia đình Hàn Quốc, các bộ phim truyền hình Hàn Quốc đa dạng hơn bắt đầu được
thực hiện, từ những phim liên quan đến anh hùng dân tộc như Vua Sejong cho đến
những câu chuyện đời thường ngày nay. Khi TV màu xuất hiện vào những năm
1980, bối cảnh của truyền hình Hàn Quốc đã thay đổi, với các bộ phim truyền hình
hiện đại trở nên nổi bật hơn. Và vào những năm 1990, các bộ phim dài từ 12-24 tập
trở nên phổ biến. Ngày nay, việc sản xuất web drama cũng dần trở nên rộng rãi hơn.
Thông thường, mỗi bộ phim sẽ chỉ được quay trước 4 tập đầu tiên trước khi phát
sóng bởi vì mỗi bộ phim truyền hình được quay càng gần ngày phát sóng càng tốt
để tiết kiệm chi phí sản xuất. Kịch bản chưa được hoàn thiện hoàn toàn và những
thay đổi đối với chúng có thể được thực hiện dựa trên phản hồi của người xem trong
quá trình xem phim. Những thay đổi này có thể được thơng báo trước vài giờ trước
khi quay phim. Thậm chí đã có những trường hợp các cảnh của tập phim vẫn đang
được quay vì nó đang được chiếu trên TV. Vì vậy, quay một bộ phim truyền hình ở
Hàn Quốc chắc chắn là một quá trình căng thẳng. Tuy nhiên, nhờ sự phổ biến ngày
càng tăng của các bộ phim truyền hình Hàn Quốc trên tồn cầu, các nhà sản xuất đã
bán quyền phát sóng hoặc phát hành bộ phim trước thời hạn (thậm chí trước khi
bấm máy). Điều này cho phép nhà sản xuất có nhiều thời gian quay phim hơn và tốt
hơn trước khi phát sóng so với phương pháp “quay trực tiếp”. Các cơng ty phát
sóng lớn nhất ở Hàn Quốc cũng có địa điểm quay riêng (được gọi là phim trường)
cho các bộ phim cổ trang, với các bối cảnh chi tiết, được xây dựng sẵn. Và điều thú
vị là so với nhiều quốc gia khác, đội ngũ biên kịch của các bộ phim truyền hình Hàn
Quốc gần như nổi tiếng không kém các ngôi sao và đạo diễn của phim. Thường có
một nhà văn hoặc một nhóm nhỏ nhà văn viết mỗi bộ phim truyền hình Hàn Quốc.
1 Andrei Lankov(2010), “Korea’s TV Age Began With KBS in 1962”, Koreatimes, Xem tại
(truy cập ngày 10/12/2021)
23