Tải bản đầy đủ (.doc) (42 trang)

những giải pháp hoàn thiện và thực hiện các chế độ bảo hiểm xã hội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (239.09 KB, 42 trang )

Phần i: Một số vấn đề lý luận về
bảo hiểm xã hội
Bảo hiểm xã hội là một trong những loại hình bảo hiểm ra đời khá sớm
và đến nay đã đợc thực hiện hiện ở tất cả các nớc trên thế giới. so với các
loại hình bảo hiểm khác,đối tợng, chức năngvà tính chất của bảo hiểm xã
hội có những điểm khác biệt do bản chất của nó chi phối.
I. khái niệm và bản chất của bảo hiểm xã hội.
Trong cuộc sống, con ngời phải có các điều kiện tối thiểu nh: ăn, mặc,
đi lại để tồn tại. Để thoả mãn những nhu cầu tối thiểu đó, con ngời phải
lao động để làm ra những sản phẩm cần thiết. Khi sản phẩm tạo ra ngày
càng nhiều thì đồi sống con ngời ngày càng đày đủ và hoàn thiện, xã hội
ngày càng văn minh hơn nghĩa là việc thoả mãn nhu cầu sinh sống và phát
triển của con ngời phụ thuộc vào khả năng lao động của chính họ. trong quá
trình đó con ngời không tránh khỏi quy luậtsinh, lão, bệnh, tử . Khi còn
nhỏ phải dựa vào những ngời đã trởng thành nuôi dỡng, khi trởng thành lại
phải lao động đẻ tự nuôi sống mình và những ngời phụ thuộc. Nhng trong
thực tế, không phải lúc nào con ngời cũng chỉ gặp thuận lợi, có đầy đủ thu
nhập và mọi điều kiện sinh sống bình thờng . Trái lại, có rất nhiều trờng hợp
khó khăn , bất lợi , ít nhiều ngẫu nhiên phát sinh làm cho ngời ta bị giảm
hoặc mất thu nhập hoặc các điều kiện sinh sống khác. Chẳng hạn bất ngờ bị
ốm đau hay bị tai nạn trong lao động, mất việc làm hay khi tuổi già khả
năng lao động và khả năng tự phục vụ bị suy giảm
Khi rơi vào các trờng hợp bị giảm hoặc mất khả năng lao động nói trên
các nhu cầu cần thiết của cuộc sống không vì thế mà mất đi.Trái lại,có cái
còn tăng lên, thậm chí còn xuất hiện thêm một số nhu cầu mới nh: cần đợc
khám chữa bệnh và điều trị khi ốm đau; tai nạn thơng tật nặng cần phải có
ngời chăm sóc nuôi dỡng Bởi vậy, muốn tồn tại và ổn định cuọc sống, con
ngời và xã hội loài ngời phải tìm ra và thực tế đã tìm ra nhiểu cách giải
quyết khác nhau.
Trong xã hội nguyên thuỷ, do cha có t hữu về t liệu sản xuất, mọi ngời
cùng nhau hái lợm săn bắn. Sản phẩm thu đợc phân phối bình quân nên


khó khăn bất lợi của mỗi ngời đựơc cả cộng đồng san sẻ gánh chịu.
Trong xã hội phong kiến, quan lại thì dựa vào chế độ bổng lộc của nhà
vua; dân c thì dựa vào sự đum bọc lẫn nhau trong họ hàng, cộng đồng làng
xã, hoặc sự cứu giúp của những ngời hảo tâm và cả của nhà nớc.Ngoài ra,
họ còn có thể đi vay hoặc thậm chí cả đi xin. Với những cách này, ngời gặp
khó khăn hoàn toàn thụ động trông chờ vào sự hảo tâm của phía giúp đỡ.
1
Do vậy sự giúp đỡ mới chỉ là khả năng có thể có hoặc không; có thể nhiều
hoặc ít; và không hoàn toàn chắc chắn.
Khi nền công nghiệp và kinh tế hàng hoá phát triển đãlàm xuất hiện
việc thuê mớn nhân công.Lúc đầu ngời chủ chỉ cam kết trả công lao động,
nhng về sau đã phải cam kết cả việc đảm bảo cho ngời làm thuê có một số
thu nhập nhất định để họ trang trải những nhu cầu thiết yếu khi không may
bị ốm đau, tai nạn, thai sản, tuổi giàTrong thực tế, nhiểu khi các trờng hợp
trên không xảy ra và ngời chủ không phải chi ra một đồng nào. Nhng cũng
có khi lại xảy ra dồn dập buộc ngời chủ phải bỏ ra một lúc nhiều khoản tiền
lớn mà họ không mong muốn. Vì thế, mâu thuẫn chủ thợ phát sinh, giới
thợ liên kết với nhau đấu tranh buộc giới chủ phải thực hiện đúng những
điều đã cam kết. Cuộc đấu tranh này diễn ra ngày càng rộng lớn đã tác
động nhiều mặt đến đời sống kinh tê - xã hội.Do vậy,nhà nớc phải đứng ra
can thiệp và điều hoà mâu thuẫn.Sự can thiệp này làm xuất hiện một bên
thứ ba đóng vai trò trung gian giúp thực hiện những cam kết giữa giới chủ
và giới thợ bằng hoạt động thích hợp của nó. Nhờ vậy, thay vì phải chi trực
tiếp những khoản tiền lớn khi ngời lao động làm thuê bị ốm đau, tai nạn,
giới chủ có thể trích ra hàng tháng một khoản tiền nho nhỏ đợc tính toán
chặt chẽ dựa trên cơ sở xác xuất những biến cố của tập hợp những ngời lao
động làm thuê. Số tiền này đợc giao cho bên thứ ba tồn tích dần thành một
quỹ tiền tệ. Khi ngời lao động bị các biến cố ốm đau, tai nạn, thì cứ theo
cam kết chi trả không phụ thuộc vào giới chủ có muốn hay không.
Nh vậy, một mặt, giới chủ đỡ phải bị thiệt hại về kinh tế do không phải

chi một lúc những khoản tiền lớn, mặt khác, ngời lao động làm thuê đợc
bảo đảm chắc chắn một phần thu nhập khi bị ốm dau tai nạn.
Trong lĩnh vực kinh tế xã hội, không ai có thể d tính hết đợc mọi
khía cạnh của cuộc sống, nhiều trờng hợp rủi ro xảy ra vợt quá khả năng
khắc phục của một ông chủ. Giới thợ luôn luôn mong muốn đợc bào đảm
nhiều hơn, còn giới chủ thì lại luôn luôn mong muốn phải chi ít hơn, tức là
phải đảm bảo cho giới thợ ít hơn nên tranh chấp chủ thợ lại tiếp diễn. Trớc
tình hình đó, nhà nớc tiếp tục can thiệp điều chỉnh buộc giới chủ phải đóng
thêm đồng thời giới thợ cũng phải đóng góp một phần vào sự bảo đảm cho
chính mình, hình thành nên một quỹ tiền tệ tập trung trên phạm vi quốc gia.
Quỹ này còn đợc bổ sung từ ngân sách nhà nớc khi cần thiết nhằm đảm bảo
đời sống cho ngời lao động khi gặp phải những biến cố bất lợi.Chính nhờ
mối quan hệ giàng buộc đó mà rủi ro,bất lợi của ngời lao động đợc dàn trải,
cuộc sống của ngời lao động và gia đình họ ngày càng đợc đảm bảo ổn
định.Giới chủ cũng thấy mình có lợi và đợc bảo vệ,sản xuất kinh doanh
diễn ra bình thờng tránh đợc những xáo trộn không cần thiết.
2
Toàn bộ những hoạt động với những mối quan hệ ràng buộc chặt chẽ
trên đợc thế giới quan niệm là bảo hiểm xã hội đối với ngời lao động.
Nh vậy, bảo hiểm xã hội là sự đảm bảo thay thế hoặc bù đắp một phần
thu nhập đối với ngời lao động khi họ gặp phải những biến cố làm giảm
hoặc mất khả năng lao động,mất việc làm Trên cơ sở hình thành và sử
dụng một quỹ tiền tệ tập trung nhằm đảm bảo đời sống cho ngời lao động
và gia đình họ,góp phần bảo đảm an toàn xã hội.
Với cách hiểu nh trên, bản chất của bảo hiểm xã hội đợc thể hiện ở
những nội dung chủ yếu sau đây:
Thứ nhất, bảo hiểm xã hội là nhu cầu khách quan, đa dạng và phức tạp
của xã hội, nhất là trong xã hội mà sản xuất hảng hoá hoạt động dựa trênhu
cầuơ chế thị trờng, mối quan hệ thuê mớn lao động đã phát triển đén một
mức độ nào đó. Kinh tế càng phát triển thì bảo hiểm xã hội càng đa dạng và

hoàn thiện. Vì thế, kinh tế chính là nền tảng của bảo hiểm xã hội.
Thứ hai, bảo hiểm xã hội trong nền kinh tế thị trờng tồn tại hoạt động
và phát triểndựa trên mối quan hệ chặt chẽ giữa ngời sử dụng lao động với
ngời lao động thông qua một bên thứ ba-tổ chức bảo hiểm xã hội chuyên
trách dới sự bảo trợ đặc biệt của nhà nớc. Mối quan hệ đó đợc đợc thể hiện
ở sự đóng góp có chất bắt buộc của ngơi sử dụng lao động và ngời lao động
cho cơ quan bảo hiểm xã hội để tồn tích dần thành một quỹ tài chính độc
lập đủ bảo đảm một cách ổn định và chắc chắn cho mọi hoạt động của bảo
hiểm xã hội đối với ngơì lao động. Nh vậy, mối quan hệ giữa các bên trong
bảo hiểm xã hội phát sinh trên cơ sơ quan hệ lao động và diễn ra giữa ba
bên: bên tham gia bảo hiểm xã hội, bên bảo hiểm xã hội và bên đợc bảo
hiểm xã hội. Bên tham gia bảo hiểm xã hội có thể chỉ là ngòi lao động hoặc
có thể cả ngời lao động và ngời sử dụng lao động . Bên bảo hiểm xã hội
( bên nhận nhiệm vụ bảo hiểm xã hội ) là cơ quan bảo hiểm xã hội . Bên đ-
ợc bảo hiểm xã hội là ngời lao động và gia đình họ khi có đầy đủ các điều
kiện ràng buộc cần thiết .
Thứ ba, những biến cố làm giảm hoặc mất thu nhập của ngời lao động
trong khái niệm về bảo hiểm xã hội là những rủi ro ngẵu nhiên trái với ý
muốn chủ quan gắn với quá trình lao động đợc không chỉ trên cơ sở quan hệ
lao động mà cả trên quan điểm xã hội. Nó bao gồm những trờng hợp bị mất
việc làm mất hoậc giảm khả năng làm việc trong quá trình lao động nh ốm
đau,tai nạn lao động bệnh nghề nghiệp và cả những trờng hợp liên quan
diễn ra trong quá trình đó nh: mất ngời nuôi dỡng, tàn tật không do tai nạn
lao động . Đồng thời, bảo hiểm xã hội cũng đảm nhiệm những trờng hợp
xảy ra không hoàn toàn ngẫu nhiên nh tuổi già, tthai sản làm tăng chi tiêu
đột ngột. Bởi vì, việc tăng chi tiêu đột ngột trong những trờng hợp này sẽ
làm sụt giảm ngân quỹ gia đình và làm giảm khả năng thanh toán của ngời
3
lao động đói vơ những nhu cầu sinh sống thiết yếu từ thu nhập theo lao
động.

Thứ t, phần thu nhập của ngời lao động bị giảm hoặc mất đi khi gặp
phải những biến cố, rủi ro sẽ đợc bù đắp hoặc thay thế từ một nguồn quỹ
tiền tệ tập trung đợc tồn tích lại. Nguồn quỹ này do bên tham gia bảo hiểm
xã hội đóng góp là chủ yéu. Trong đó, ngời sử dụng có trách nhiẹm tham
gia để bảo hiểm xã hội đối với ngời lao động mà mình sử dụng; ngời lao
động phải tham gia đóng góp một phần để bảo hiểm cho chính mình. Ngoài
ra quỹ này cònđợc sự hỗ trợ từ phía nhà nớc khi cần thiết.
Thứ năm, mục tiêu của bảo hiểm xã hội là đảm bảo đời sống ở mức
cần thiết cho ngời lao động và gia đình họ trong những trờng hợp bị giảm
hoặc mất thu nhập, mất việc làm. Mục tiêu này đã đợc tổ chức lao động
quốc tế ( ILO )cụ thể hoá ở những điểm sau:
- Đền bù trợ cấp cho ngời lao động những khoản thu nhập bị mất để
đảm bảo nhu cầu sinh sống thiết yếu cho họ.
- Chăm sóc sức khoẻ và phòng chống bệnh tật.
- Xây dựng điều kiện sống đáp ứng các nhu cầu của dân c và nhu cầu
của ngời già ngời tàn tật và trẻ em.
Với những mục tiêu trên, bảo hiểm xã hội đã trở thành một trong
những quyền con ngời và đợc đại hội đồng Liên Hợp Quốc thừa nhận và ghi
nhận vào Tuyên Ngôn Nhân Quyền ngày 10/12/1948 rằng:Tất cả mọi ngời
với t cach là thành viên của xã hội đều có quyền hởng bảo hiểm xã hội,
quyền đó đợc đặt trên cơ sở sự thoả mãn các quyền về kinh tế, xã hội và văn
hoá, nhu cầu cho nhân cách và sự tự do phát triển con ngời .
II. Đối tợng bảo hiểm xã hội và đối tợng tham gia bảo
hiểm xã hội
Bảo hiểm xã hội ra đời vào những năm giữa thế kỉ 19, khi nền công
nghiệp và kinh tế hàng hoá đã phát triển mạnh mẽ ở các châu Âu. Tuy ra
đời đã lâu nh vậy, nhng đối tợng của bảo hiểm xã hội vẫn còn nhiều quan
điểm cha thống nhất. Đôi khi còn có sự nhầm lẫn giữa đối tợng bảo hiểm xã
hội và đối tợng tham gia bảo hiểm xã hội.
Nh chúng ta đã biết, bảo hiểm xã hội là một hệ thống đảm bảo khoản

thu nhập bị giảm hoặc mất đi do ngời lao động bị giảm hoặc mất khả năng
lao động, mất việc làm vì các nguyên nhân khác nhau nh ốm đau, tai nạn,
già yếu Chính vì vậy, đối tợng của bảo hiểm xã hội chính là phần thu
nhập của ngời lao động bị biến động giảm hoặc mất đi do bị mất hoặc giảm
khả năng lao động mất việc làm của những ngời tham gia bảo hiểm xã hội.
4
Đối tợng tham gia bảo hiểm xã hội là ngời lao động và ngời sử dụng
lao động . Tuy vậy, tuỳ theo điều kiện phát triển kinh tế-xã hội của mỗi nớc
mà đối tợng này có thể là tất cả hoặc một bộ phận những ngời lao động nào
đó. Hầu hết các nớc khi mới có chính sách bảo hiểm xã hội đều thực hiện
đối vối các viên chức nhà nớc, những ngời làm công hởng lơng. Việt nam
cũng không vợt ra khỏi thực tế này mặc dù biết rằng nh vậy là không bình
đẳng giữa tất cả những ngời lao động.
Nếu xem xét mối quan hệ ràng buộc trong bảo hiểm xã hội ngoài ngời
lao động còn có ngời sử dụng lao động và cơ quan bảo hiểm xã hội dới sự
bảo trợ của nhà nớc.Ngời sử dụng lao động đóng góp vào quỹ bảo hiểm xã
hội là trách nhiệm của họ để bảo hiểm cho ngời lao động mà họ sử
dụng.Còn cơ quan bảo hiểm xã hội nhận sự đóng góp của ngời lao động và
ngời sử dụng lao động phải có trách nhiệm quản lý, sử dụng quỹ để thực
hiện mọi công việc về bảo hiểm xã hội đối với ngời lao động. Mối quan hệ
ràng buộc này chính là đặc trng riêng có của bảo hiểm xã hội. Nó quyết
định sự tồn tại và phát triển của bảo hiểm xã hội một cách ổn định và bền
vững.
III. chức năng của bảo hiểm xã
Với bảo hiểm xã hội nh đã nêu ở trên thì bảo hiểm xã hội có những
chức năng sau:
1. Đảm bảo thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập cho ngời lao
động đợc bảo hiểm xã hội khi họ bị giảm hoăc mất thu nhập do họ
bị giảm hoặc mất khả năng lao động hoặc mất việc làm theo
những điều kiện xác định.

Nói là bảo đảm thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập cho ngời lao
động là nói sự thay thế hoặc bù đắp đó nhất định phải xảy ra, chắc chắn
phải xảy ra, xảy ra đúng nh thế chứ không thể nào khác vì suy cho cùng,
mất khả năng lao động sẽ đến với tất cả mọi ngời lao động khi hết tuổi lao
động theo các điều kiện quy định của bảo hiểm xã hội. Còn mất việc làm và
mất khả năng lao động tạm thời làm giảm hoặc mất thu nhập của ngời lao
động cũng sẽ đợc hởng trợ cấp bảo hiểm xã hội với mức hởng phụ thuộc
vào các điều kiện cần thiết, thời điểm và thời hạn đợc hởng phải đúng quy
định. Đây là chức năng cơ bản nhất của bảo hiểm xã hội, nó quyết định
nhiệm vụ, tính chất và cả cơ chế tổ chức hoạt động của bảo hiểm xã hội.
2. Phân phối và phối lại thu nhập giữa những ngời tham gia bảo
hiểm xã hội
Tham gia bảo hiểm xã hội không chỉ có ngời lao động mà còn có cả
những ngời sử dụng lao động. Những ngời sử dụng lao động bắt buộc phải
đóng góp vào quỹ bảo hiểm xã hội là để bảo hiểm nhng không phải trực
5
tiếp cho mình mà là cho ngời lao động mà mình sử dụng nên không đợc
quyền hoửng trợ cấp. Những ngời lao động có đóng góp vào quỹ bảo hiểm
xã hội mới có quyền đợc hởng trợ cấp nhng do còn khoẻ mạnh, có việc làm
cóthu nhập bình thờng nên cũng không đợc hởng trợ cáp bảo hiểm. Chỉ có
những ngời lao động bị giảm hoặc mất thu nhập trong những trờng hợp xác
định và có đầy đủ các điều kiện cần thiết mới đợc hởng trợ cấp từ quỹ bảo
hiểm xã hội. số lợng những ngời này chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng số ngời
tham gia đóng góp nêu trên.
Nh vậy, bảo hiểm xã hội đã lấy số đông bù số ít và thực hiện phân phối
lại thu nhập theo cả chiều dọc và chiều ngang, giữa những ngời có thu nhập
cao và thấp hơn , giữa những ngòi khoẻ mạnh đang làm việc với những ng-
ời ốm yếu phải nghỉ việc.Và khái quát hơn là giữa số đông những ngời đóng
góp vào quỹ bảo hiểm xã hội với số ít những ngời hởng trợ cấp theo những
chế đoọ xác định. Điều đó cũng góp phần vào việc thực hiện công bầng xã

hội.
3. Góp phần kích thích ngời lao động hăng hái lao động sản xuất
nâng cao năng suất lao động cá nhân và năng suất lao động xã hội
Ngời lao động có việc làm, khi khoẻ mạnh làm việc bình thờng sẽ có
tiền lơng tiền công do chủ sử dụng lao động trả. Còn khi bị ốm đau thai
sản,tai nạn lao động hoặc khi về già đã có bảo hiểm xã hội trợ cấp nguồn
thu nhập bị mất. Vì thế cuộc sống của họ và gia đình họ luôn luôn đợc đảm
bảo và ổn định. Chính vì thế, ngời lao động yên tâm gắn bó với nơi làm việc
tích cực lao động sản xuất, nâng cao năng xuất lao động từ đó góp phần
tăng sản phẩm cho xã hội, thúc đẩy tăng trởng kinh tế.Nói cách khác, tiền l-
ơng tiền công và bảo hiểm xã hội là những động lực thúc đẩy hoạt động của
ngời lao động.
4. Phát huy tiềm năng và gắn bó lợi ích giữa ngời lao động, ngời sử
dụng lao động và với xã hội
Trong thực tế lao động sản xuất, ngời lao động và ngời sử dụng lao
động vốn có những mâu thuẫn nội tại khách quan về tiền công tiền lơng,
thời gian lao động Thông qua bảo hiểm xã hội, những mâu thuẫn đó sẽ đ-
ợc điều hoà và giải quyết. Cả hai giới này đều thấy nhờ có bảo hiểm xã hội
mà mình có lợi và đợc bảo vệ. Từ đó làm cho họ hiểu nhau hơn và gắn bó
lợi ích với nhau. Trên giác độ xã hội, bằng phơng thức dàn trải rủi ro thiệt
hại theo cả không gian và thời gian, bảo hiểm xã hội giúp giảm thiểu thiệt
hại cho số đong những ngời trong xã hội ,đồng thời làm tăng khả năng giải
quyết rủi ro, khó khăn của những ngời lao động tham gia bảo hiểm xã hội
với một tổng dự trữ ít nhất . Đối với nhà nớc, chi cho bảo hiểm xã hội đối
với ngời lao động là cách thức phải chi ít nhất nhng vẫn giải quyết tốt
6
những rủi ro, khó khăn về đời sống của ngời lao động và gia đình họ, góp
phần làm cho sản xuất ổn định, kinh tê chính trị xã hội ổn định và an toàn.
Nh vậy , bảo hiểm xã hội đã phát huy tiềm năng của số đông ngời và -
u điểm của nhiều phơng thức hoạt động trong kinh tế thị trờng để bảo đảm

an toàn đời sống cho ngời lao động cũng nh xã hội. Đồng thời, bảo hiểm xã
hội cũng tạo ra sự gắn bó chặt chẽ về lợi ích , cả lợi ích trớc mắt cũng nh lợi
ích lâu dài của các bên tham gia bảo hiểm xã hội, cũng nh giữa các bên đó
với nhà nớc và xã hội.
IV. Những quan điểm và nguyên tắc cơ bản về bảo hiểm
xã hội
Do mỗi nớc có đặc điểm kinh tế-xã hội khác nhau nên những quan điểm
của các nớc về bảo hiểm xã hội cũng khác nhau. Tuy nhiên, có một số quan
điểm về bảo hiểm xã hội đợc hầu hết các nớc thừa nhận. Những quan điểm
này sẽ chi phối việc thực hiện chế độ bảo hiểm xã hội ở mỗi nớc.
Thứ nhất, chính sách BHXH là một bộ phận cấu thành và là bộ phận
quan trọng nhất trong các chính sách xã hội ở mỗi quốc gia. Quan điểm này
thể hiện sự thống nhất và nhất trí cao của các nớc về tính xã hội của BHXH.
Mục đích chủ yếu của chính sách này nhằm đảm bảo đời sống cho ngời lao
động bị giảm hoặc mất thu nhập do giảm hoặc mất khả năng lao động, mất
việc làm. Thực chất, đây là một trong những loại chính sách đối với con ng-
ời nhằm đáp ứng một trong những quyền và nhu cầu hiển nhiên của con ng-
ời, nhu cầu an toàn về việc làm, an toàn lao động, an toàn xã hội Chính
sách BHXH còn thể hiện trình độ văn minh, tiềm lực và sức mạnh kinh tế,
khả năng tổ chức và quản lý của mỗi quốc gia. Trong một chừng mực nhất
định, nó còn thể hiện tính u việt của một chế độ xã hội. Nếu tổ chức và thực
hiện tốt chính sách BHXH sẽ là động lực to lớn phát huy tiềm năng sáng tạo
của ngời lao động trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nớc.
Thứ hai, ngời sử dụng lao động và Nhà nớc phải có trách nhiệm tham
gia bảo hiểm xã hội cho ngời lao động, đồng thời ngời lao động cũng phải
đóng góp một phần để tự bảo hiểm cho chính mình.
Đây là mối quan hệ ba bên trong nền kinh tế thị trờng. Trong đó, Nhà
nớc có vai trò quản lý vĩ mô mọi hoạt động kinh tế - xã hội trên phạm vi cả
nớc. Với vai trò này, Nhà nớc có trong tay mọi điều kiện vật chất của toàn
xã hội để thực hiện vai trò của mình. Cùng với sự tăng trởng, sự phát triển

kinh tế - xã hội, cũng có những kết quả bất lợi không mong muốn tác động
trực tiếp hoặc gián tiếp sẽ dẫn đến những rủi ro cho ngời lao động. Khi xảy
7
ra tình trạng nh vậy, nếu không có BHXH thì Nhà nớc vẫn phải chi ngân
sách để giúp đỡ ngời lao động dới một dạng khác. Vì vậy, khi trong xã hội
loài ngời xuất hiện BHXH, một dạng bảo hiểm đời sống tiến bộ hơn đối với
ngời lao động so với các dạng giúp đỡ truyền thống thì Nhà nớc càng có
điều kiện và càng có trách nhiệm tổ chức và tham gia dạng hoạt động đó.
Đối với ngời sử dụng lao động, mỗi khía cạnh đặt ra cũng tơng tự nhng
chỉ trong phạm vi doanh nghiệp. ở đó, giữa ngời lao động và ngời sử dụng
lao động có mối quan hệ rất chặt chẽ. Ngời sử dụng lao động muốn ổn định
và phát triển sản xuất kinh doanh thì ngoài việc phải chăm lo đầu t để có
máy móc, thiết bị hiện đại còn phải chăm lo tay nghề và đời sống của ngời
lao động mà mình sử dụng. Khi ngời lao động làm việc bình thờng thì phải
trả lơng thoả đáng cho họ. Khi họ gặp phải rủi ro, bị ốm đau, tai nạn lao
động, bệnh nghề nghiệp trong đó có rất nhiều trờng hợp gắn với quá trình
lao động và những điều kiện lao động cụ thể của doanh nghiệp thì phải có
trách nhiệm tham gia và thực hiện đầy đủ các chế độ BHXH đối với ngời
lao động mà mình sử dụng theo luật định. Chỉ có nh vậy, ngời lao động mới
yên tâm, tích cực lao động sản xuất phát huy sáng kiến cải tiến kỹ thuật góp
phần nâng cao hiệu quả kinh tế cho doanh nghiệp.
Đối với ngời lao động, khi gặp phải những rủi ro không mong muốn và
không phải hoàn toàn hay trực tiếp do lỗi của ngời khai thì trớc hết đó rà rủi
ro của bản thân. Vì thế nếu muốn đợc BHXH tức là muốn nhiều ngời khai
thác hỗ trợ cho mình, là dàn trãi rủi ro của mình cho nhiều ngời khác thì tự
mình phải gánh chịu trực tiếp và trớc hết đã. Điều đó có nghĩa là bản thân
ngời lao động phải có trách nhiệm tham gia BHXH để tự bảo hiểm cho
mình.
Thứ ba, tất cả mọi ngời lao động đều bình đẳng về bảo hiểm xã hội cả
về mức đóng góp cũng nh quyền lợi đợc hởng BHXH, không phân biệt nam

nữ, dân tộc, tôn giáo, nghề nghiệp
Quyền đợc bảo hiểm xã hội của ngời lao động là một trong những biểu
hiện cụ thể của quyền con ngời nh trong tuyên ngôn nhân quyền của Liên
Hiệp Quốc đã nêu. Biểu hiện cụ thể quyền đợc BHXH của ngời lao động là
việc họ đợc hởng trợ cấp BHXH theo các chế độ xác định. Các chế độ
ngày gắn với trờng hợp ngời lao động bị giảm hoặc mất khả năng lao động
hoặc mất việc làm do đó bị giảm hoặc mất nguồn sinh sống.
8
Tuy nhiên, nghĩa vụ là quyền lợi của ngời lao động về BHXH còn tuỳ
thuộc vào điều kiện kinh tế - xã hội vào các mối quan hệ kinh tế, chính trị,
xã hội và lịch sử của mỗi quốc gia. Nhng nhìn chung, khi sản xuất phát
triển, kinh tế tăng trởng, chính trị và xã hội ổn định thì ngời lao động tham
gia và đợc hởng trợ cấp BHXH ngày càng nhiều.
Thứ t, mức trợ cấp BHXH phải thấp hơn mức tiền lơng hu đã đi làm,
nhng thấp nhất cũng phải bảo đảm mức sống tối thiểu.
Quan điểm này vừa phản ánh tính cộng đồng xã hội, vừa phản ánh
nguyên tắc phân phối lại quỹ BHXH cho những ngời tham gia BHXH. Trợ
cấp BHXH loại trợ cấp thay thế cho tiền lơng nh trợ cấp ốm đau, thai sản,
hu trí tuổi già chứ không phải là loại trợ cấp bù đắp hoặc trợ cấp xã hội
khác. Mà tiền lơng là khoản tiền mà ngời sử dụng lao động trả cho ngời lao
động hị họ thực hiện đợc những công việc nhất định hoặc định mức công
việc nào đó. Nghĩa là, chỉ ngời lao động có sức khoẻ bình thờng, có việc
làm bình thờng và thực hiện đợc những công việc nhất định mới có tiền l-
ơng. Khi đã bị ốm đau, tai nạn hay tuổi già không làm việc đợc mà trớc đó
tham gia BHXH thì chỉ có trợ cấp BHXH và trợ cấp đủ không thể bằng tiền
lơng do lao động tạo ra đợc. Nếu mức trợ cấp bằng hoặc cao hơn tiền lơng
thì không một ngời lao động nào phải cố gắng tìm kiếm việc làm và tích
cực làm việc để có lơng mà ngợc lại họ sẽ cố gắng ốm đau, thai sản để đ-
ợc nhận trợ cấp. Hơn nữa, cách lập quĩ phơng thức dàn trải rủi ro của
BHXH cũng không cho phep trả trợ cấp BHXH bằng tiền lơng lúc đang đi

làm, vì trả trợ cấp bằng tiền lơng thì chẳng khác gì ngời lao động bị rủi ro
đem rủi ro của mình dàn trải hết cho những ngời khác.
Nh vậy, mức trợ cấp BHXH phải thấp hơn mức tiền lơng lúc đang đi
làm, tuy nhiên, do mục đích, bản chất và cách làm của BHXH thì mức độ
trợ cấp BHXH thấp nhất cũng không thể thấp hơn mức sống tối thiểu hàng
ngày.
Thứ năm, Nhà nớc quản lý thống nhất chính sách BHXH, tổ chức bộ
máy thực hiện chính sách BHXH.
Bảo hiểm xã hội là một bộ phận cấu thành các chính sách xã hội, nó
vừa là nhân tố ảnh hởng, vừa là nhân tố động lực phát triển kinh tế - xã hội
cho nên vai trò của Nhà nớc là rất quan trọng. Nếu không có sự can thiệp và
quản lý vĩ mô của Nhà nớc thì mối quan hệ giữa ngời lao động và ngời sử
9
dụng lao động sẽ không đựơc duy trì, mối quan hệ ba bên trong BHXH sẽ
bị phá vỡ.
Việc thống nhất quản lý của Nhà nớc về BHXH thể hiện ở:
- Trớc hết, đó là khâu hoạch định chính sách BHXH. Đây là khâu
đầutiên và là khâu quan trọng nhất. Nhà nớc xây dựng và ban hành các văn
bản luật, văn bản pháp qui về BHXH. Sau đó là hớng dẫn, kiểm tra, thanh
tra các tổ chức, cá nhân thực hiện chính sách.
- Thứ hai, đối với việc đảm bảo vật chất cho BHXH thì vai trò của Nhà
nớc phụ thuộc vào chính sách BHXH do Nhà nớc qui định. Có những mô
hình về bảo đảm vật chất cho BHXH do ngân sách Nhà nớc cung cấp thì vai
trò quản lý Nhà nớc là trực tiếp và toàn diện; nếu nguồn bảo đảm trợ cấp do
ngời sử dụng lao động, ngời lao động và Nhà nớc đóng góp thì Nhà nớc
tham gia quản lý. Việc quản lý BHXH Nhà nớc có thể giao cho một bộ,
ban, hoặc vụ trực tiếp điều hành.
V- Hệ thống các chế độ bảo hiểm xã hội.
1. Khái niệm chính sách bảo hiểm xã hội và chế độ bảo hiểm xã hội.
Chính sách BHXH là những qui định chung, rất khái quát của Nhà nớc

về những mục tiêu, phạm vi đối tợng, nội dung chính, các mối quan hệ và
những giải pháp lớn về BHXH để đạt mục tiêu chung đã đề ra.
Chính sách BHXH đợc đề ra trên cơ sở cơ cấu kinh tế - xã hội, các
điều kiện kinh tế - xã hội và xu hớng vận động khách quan của chúng. Nói
cách khác, chính sách BHXH có thể đợc biểu hiện dới nhiều dạng phong
phú nh: trong các văn bản chung của Nhà nớc, trong hiến pháp, bộ luật, đạo
luật, kế hoạch Nhà nớc vì là ở cấp độ chung nh vậy nên chính sách BHXH
sẽ khó trở thành hiện thực nếu không thông qua các chế độ BHXH.
Vậy, chế độ BHXH là sự cụ thể hoá chính sách BHXH, là hệ thống các
qui định cụ thể và chi tiết, là sự bố trí, sắp xếp các phơng tiện để thực hiện
BHXH đối với ngời lao động. Nói cách khác, đó là hệ thống các qui định đ-
ợc pháp luật hoá về đối tợng hởng, điều kiện để đợc hởng, mức hởng, thời
hạn hởng, nghĩa vụ và mức đóng góp cho từng trờng hợp BHXH cụ thể.
Chế độ BHXH có thể phân theo các chế độ ngắn hạn hoặc dài hạn, các
chế độ theo các trờng hợp BHXH: ốm đau, thai sản, tuổi già.
2. Hệ thống các chế độ bảo hiểm xã hội.
Theo công ớc 102 tháng 6/1952 về an toàn xã hội của tổ chức lao động
quốc tế (ILO) đã đa ra các chế độ BHHX bao gồm 9 chế độ:
10
(1) Chế độ chăm sóc y tế
(2) Chế độ trợ cấp ốm đau
(3) Chế độ trợ cấp thất nghiệp
(4) Chế độ trợ cấp tuổi già
(5) Chế độ trợ cấp tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp
(6) Chế độ trợ cấp gia đình
(7) Chế độ trợ cấp thai sản
(8) Chế độ trợ cấp tàn tật
(9) Chế độ trợ cấp cho ngời còn sống (trợ cấp tiên tuất)
9 chế độ trên hình thành một hệ thống các chế độ BHXH. Tuỳ theo
điều kiện kinh tế xã hội mà mỗi nớc tham gia công ớc Gtơnevơ có thể triển

khai ở mức độ khác nhau nhng ít nhất phải thực hiện đợc 3 chế độ. Trong
đó phải có ít nhất một trong năm chế độ (3), (4), (5), (8), (9). Mỗi chế độ
trong hệ thống trên khi xây dựng đều dựa trên những cơ sở kinh tế - xã hội,
tài chính, thu nhập, tiền lơng Đồng thời, tuỳ từng chế độ khi xây dựng còn
phải tính đến các yếu tố sinh học, tuổi thọ bình quân, nhu cầu dinh dỡng,
xác xuất rủi ro.
Hệ thống các chế độ BHXH có những đặc điểm chủ yếu sau:
- Các chế độ đợc xây dựng theo luật pháp của mỗi nớc và điều kiện cụ
thể của mỗi nớc.
- Hệ thống của chế độ mang tính chất chia sẽ rủi ro, chia sẽ tài chính.
- Mỗi chế độ đợc chi trả đều căn cứ vào mức đóng góp của các bên
tham gia.
- Các chế độ BHXH cần phải đợc điều chính định kỳ để phản ánh hết
sức thay đổi của điều kiện kinh tế - xã hội của đất nớc.
VI- Quỹ tài chính bảo hiểm xã hội.
Trong đời sống kinh tế - xã hội, ngời ta thờng nói đến rất nhiều loại
quĩ khác nhau nh: quĩ tiêu dùng, quĩ sản xuất, quĩ dự phòng, quĩ tiền lơng,
quĩ tiền thởng, quĩ phúc lợi, quĩ tiết kiệm Tất cả các loại quĩ này đều có
một điểm chung là tập hợp các phơng tiện tài chính hay vật chất khác cho
những hoạt động nào đó theo mục tiêu định trớc. Quĩ tài chính BHXH cũng
vậy.
Quĩ tài chính BHXH là một quĩ tài chính độc lập, tập trung năm ngoài
ngân sách Nhà nớc đợc hình thành nên cơ sở sự đóng góp của các bên tham
gia BHXH để chi trả cho những ngời lao động đợc BHXH và gia đình họ
11
khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập do bị giảm, mất khả năng lao động hoặc
bị mất việc làm.
Nh vậy, quĩ BHXH là một quĩ tiêu dùng, đồng thời là một quĩ dự
phòng, nó vừa mang tính kinh tế, vừa mang tính xã hội rất cao và là điều
kiện hay cơ sở vật chất quan trọng nhất đảm bảo cho toàn bộ hệ thống

BHXH tồn tại và phát triển.
Quĩ BHXH hình thành và hoạt động đã tạo ra khả năng giải quyết
những rủi ro của tất cả những ngời tham gia với tổng dự trữ ít nhất, giúp cho
việc dàn trải rủi ro đợc thực hiện ở cả hai chiều không gian và thời gian,
đồng thời giúp giảm thiểu thiệt hại kinh tế cho ngời sử dụng lao động, tiết
kiệm chi cho cả ngân sách Nhà nớc và ngân sách gia đình.
Quĩ BHXH đợc hình thành từ nhiều nguồn khác nhau. Trớc hết, đó là
phần đóng góp của ngời sử dụng lao động, ngời lao động với Nhà nớc. Đây
là nguồn chiếm tỷ trọng lớn nhất và cơ bản của quĩ. Thứ hai, là phần tăng
thêm do bộ phận nhàn rỗi tơng đối của quĩ đợc tổ chức BHXH chuyên trách
đa vào hoạt động đầu t sinh lợi. Thứ ba, là phần nộp phát của những cá nhân
và tổ chức vi phạm luật lệ về BHXH. Cuối cùng, là phần chênh lệch để lại
do tham gia hợp tác về BHXH với các nớc khác và các khoản ủng hộ của
các cá nhân và tổ chức cho quĩ
Phần lớn các nớc trên thế giới, quĩ BHXH đều đợc hình thành từ các
nguồn nêu trên. Tuy nhiên, phơng thức đóng góp và mức đóng góp của các
bên tham gia BHXH có khác nhau.
Về phơng thức đóng góp BHXH của ngời lao động và ngời sử dụng lao
động hiện vẫn còn hai quan điểm. Quan điểm thứ nhất cho rằng, phải căn
cứ vào mức lơng cá nhân và quĩ lơng của tổ chức, doanh nghiệp. Quan điểm
thứ hai lại nêu lên, phải căn cứ vào mức thu nhập cơ bản của ngời lao động
đợc cân đối chung trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân để xác định mức
đóng góp. Về mức đóng góp BHXH, một số nớc qui định ngời sử dụng lao
động phải chịu toàn bộ chi phí cho chế độ tai nạn lao động, Chính phủ trả
chi phí ytế và trợ cấp gia đình, các chế độ còn lại cả ngời lao động và ngời
sử dụng lao động cùng đóng góp mỗi bên một phần bằng nhau. Một số khác
lại qui định, Chính phủ bù thiếu cho quĩ BHXH hoặc chịu toàn bộ chi phí
quản lý BHXH
Mức đóng góp BHXH ở một số nớc trên thế giới.
Tên nớc Chính phủ Tỷ lệ đóng góp so với quĩ lơng (%)

Ngời lao động Ngời sử dụng lao
12
động
CHLB Đức Bù thiếu 44,8 - 18,8 16,3
CM Pháp Bù thiếu 11,82 19,68
Indonesia Bù thiếu 3,0 6,5
Philipin Bù thiếu 2,85 - 9,25 685-8,05
Malaysia Chi toàn bộ chế độ ốm
đau thai sản
9,5 12,75
(Nguồn: BHXH ở một số nớc trên thế giới - Giáo trình Kinh tế bảo
hiểm của PGS.TS. Hồ Sĩ Sà)
ở Việt Nam theo điều lệ BHXH thì ngời sử dụng lao động đóng 15%
so với tổng quĩ lơng, ngời lao động đóng 5% tiền lơng hàng tháng, Nhà nớc
hỗ trợ thêm.
Mức đóng góp BHXH thực chất là phí BHXH. Vậy, phí BHXH là
khoản tiền đóng góp hàng tháng của những ngời tham gia BHXH cho quĩ
BHXH.
Phí BHXH là yếu tố quyết định sự cân đối thu - chi quĩ BHXH. Vậy
phí BHXH là khoản tiền đóng góp hàng tháng của những ngời tham gia
BHXH cho quỹ BHXH.
Phí BHXH là yếu tố quyết định sự cân đối thu - chi quỹ BHXH. Vì
vậy, khi tính phí BHXH phải đợc tính toán một cách khoa học dựa trên việc
sử dụng các phơng pháp toán học và những căn cứ khác nhau để xác định.
- Dựa vào tiền lơng và thang lơng để xác định mức trợ cấp BHXH, từ
đó có cơ sở để xác định mức phí đóng.
- Quy định mức phí BHXH trớc, rồi từ đó xác định mức hởng.
- Dựa vào nhu cầu khách quan của ngời lao động để xác định mức h-
ởng, rồi từ mức hởng BHXH này có thể xác định đợc mức phí phải đóng
Mặc dù chỉ thuần tuý mang tính kỹ thuật nhng xác định phí BHXH lại

khá phức tạp vì nó liên quan đến cả ngời lao động, ngời sử dụng lao động
và Nhà nớc, liên quan đến khả năng cân đối thu nhập của ngời lao động và
điều kiện phát triển kinh tế xã hội của đất nớc. Tuy nhiên, khi xác định mức
phí BHXH phải đảm bảo nguyên tắc: cân bằng thu chi, lấy số đông bù số ít
và có dự phòng. Mức phí xác định phải đợc cân đối với mức hởng, với nhu
cầu BHXH và điều chỉnh sao cho tối u nhất.
Phí BHXH có nhiều loại tuỳ theo cách phân loại cụ thể. Nếu theo kết
cấu các chế độ BHXH thì mỗi chế độ có một loại phí tơng ứng, đồng thời
có phí BHXH tổng hợp chung cho tất cả các chế độ. Nếu theo kết cấu nội
tại của phí BHXH thì có phí thuần tuý và phí toàn phần.
13
Giả sử ta lựa chọn cách đóng phí BHXH tổng hợp cho tất cả các chế
độ BHXH chứ không đóng phí riêng cho từng chế độ thì phí thuần tuý là
phần phí tính toán của cơ quan BHXH mà ngời lao động phải tham gia
BHXH phải đóng để có thể đợc hởng các chế độ xác định. Có thể hình dung
phí thuần tuý gần giống nh phần chi phí vật chất trong giá thành sản phẩm.
Để chuyển từ có thể đợc hởng thành hiện thực chắc chắn đợc hởng thì cong
phải cộng thêm một số chi phí cần thiết khác nữa nh quản lý phí. Đây chính
là phí BHXH toàn phần.
Kết cấu của phí toàn phần do quan điểm thực hiện BHXH đối với ngời
lao động quyết định. Nếu chủ trơng không kinh doanh BHXH đối với ngời
lao động thì phí toàn phần có kết cấu theo công thức sau:
P
TP
= P
TT
+ P
QL
+ P
DP

(1)
Trong đó: P
TP
: Phí toàn phần
P
QL
: Phí quản lý
P
TT
: Phí thuần tuý
P
DP
: Phí dự phòng
Nếu chủ trơng kinh doanh BHXH đối với ngời lao động thì phí toàn
phần sẽ theo công thức sau:
P
TP
= P
TT
+ P
SP
+ P
QL
+ P
LĐM
(2)
Trong đó: P
LĐM
: là lãi định mức cho tổ chức BHXH.
ở các nớc trên thế giới (trừ các nớc xã hội chủ nghĩa cũ) hệ thống

BHXH của mỗi nớc thờng gồm hau hệ thống thành phần. Hệ thống thành
phần lớn nhất, đóng vai trò trụ cột, có phạm vi hoạt động bao trùm cả nớc
và chiếm tỷ trọng lớn nhất trong lĩnh vực BHXH là do Nhà nớc lập ra và sự
tham gia là bắt buộc. Quỹ BHXH của hệ thống thành phần này có sự bù đắp
thêm của ngân sách Nhà nớc nên nó không hoạt động theo phơng thức kinh
doanh đối với ngời lao động và phí BHXH đợc tính theo công thức (1). Còn
hệ thống thành phần thứ hai do t nhân và các tổ chức xã hội lập ra theo quy
định của pháp luật và có sự bảo trợ của Nhà nớc nhằm BHXH cho những
đối tợng ngoài phạm vi của hệ thống thứ nhất. Sự tham gia hay không của
các đối tợng là tự nguyện và phí BHXH đợc áp dụng tính theo công thức
(2).
Theo mục đích của BHXH, quỹ BHXH phải đảm nhận chi những
khoản chủ yếu nh: chi trả trợ cấp thep các chế độ BHXH (khoản chi này
chiếm tỷ trọng lớn nhất) chi phí cho bộ máy hoạt động BHXH chuyên
nghiệp (tiền lơng, đào tạo) chi phí bảo đảm các cơ sở vật chất cần thiết và
chi phí quản lý khác.
14
Phần II: Tình hình thực hiện các chế độ BHXH
ở Việt Nam
I- Một vài nét về BHXH ở Việt Nam.
BHXH Việt Nam đợc thành lập theo Nghị định số 19/CP ngày
16/02/1995 của Chính phủ, đến nay đã hơn 5 năm - là một khoảng thời gian
quá ngắn so với sự phát triển của BHXH các nớc khác. Tuy vậy, hoạt động
của BHXH Việt Nam đã đạt đợc những thành tựu đáng ghi nhận, khẳng
định sự ra đời "BHXH Việt Nam" là đúng đắn, theo đờng lối đổi mới của
Đảng Cộng sản Việt Nam. Để có đợc những thành tựu này không thể không
nhắc tới các chặng đờng phát triển của các tổ chức BHXH tiền thân gia các
thời kỳ.
1. Thời kỳ từ năm 1961 trở về trớc.
Sau khi Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, Nhà nớc Việt

Nam dân chủ cộng hoà đã thành lập và phải giải quyết trăm công nghìn việc
quan trọng có tính sống còn của dân tộc; chống thù trong giặc ngoài, chống
lại giặc đói, giặc dốt Mặc dù trong bối cảnh hết sức khó khăn nh vậy,
Đảng và Chính phủ vẫn quan tâm đến công tác thực hiện các chế độ chính
sách BHXH.
Khởi đầu của chính sách BHXH là sắc lệnh số 54/SL ngày 3/11/1945
ấn định điều kiện cho công chức hởng chế độ hu trí, chủ yếu áp dụng cho
nhân sỹ, trí thức, cán bộ cách mạng đã làm việc đợc 30 năm và đến tuổi 55.
Tiếp đến là Sắc lệnh số 105/52 ngày 14/6/1946 ổn định mức trợ cấp hu
bổng cho công chức. Cũng tại sắc lệnh này, Chính phủ cũng đã quy định
mức đóng góp của công chức và Nhà nớc vào quỹ hu là 10% tiền lơng.
Sau đó Chính phủ đã ban hành một loạt các Sắc lệnh: Sắc lệnh số
29/SL ngày 12/3/1947; Sắc lệnh số 70/SL ngày 20/5/1950; Sắc lệnh số
77/SL ngày 22/5/1950 quy định về các chế độ trợ cấp ốm đau, tai nạn lao
động, thai sản, hu trí cho công nhân viên chức Nhà nớc.
Đặc điểm thời kỳ này là các cơ quan quản lý sử dụng cán bộ công
nhân viên chức Nhà nớc, đồng thời là cơ quan thực hiện các chế độ BHXH.
Có thể đây là thời kỳ manh nha về BHXH của Nhà nớc Việt Nam dân chủ
cộng hoà (nay là Nhà nớc cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam). Trong giai
đoạn này chính sách BHXH đợc thực hiện đã thực sự là nguồn động viên cổ
vũ công nhân viên chức yên tâm phấn khởi lao động sản xuất, góp phần xây
dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh thống nhất đất nớc.
15
Tuy nhiên,, chính sách BHXH cũng bộc lộ nhiều nhợc điểm không
phù hợp.
- Đối tợng tham gia còn hạn hẹp, ngời đợc hởng chế độ BHXH chỉ có
cán bộ công nhân viên chức, cha mở rộng đến các đối tợng ngời lao động
khác đã làm mất đi tính tích cực, u việt của chủ nghĩa xã hội đối với ngời
lao động, cha xác lập đợc sự công bằng giữa những ngời lao động trong
việc thực hiện nghĩa vụ và quyền lợi về BHXH.

- Việc thực hiện các chính sách BHXH còn phân tán không có hiệu
quả, vì thế nó cha thực sự trở thành chính sách xã hội lớn.
2. Thời kỳ từ năm 1961 đến năm 1995.
Thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ 3
(năm 1960): xây dựng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, đấu tranh giải phóng
dân tộc ở miền Nam, Quốc hội và Chính phủ đã khẩn trơng thực hiện đề án
xây dựng Điều lệ về các chế độ BHXH và tổ chức quản lý công tác BHXH.
Ngày 14/12/1961 Uỷ ban thờng vụ quốc hội ra Nghị quyết phê chuẩn việc
Hội đồng Chính phủ quy định và ban bố "Điều lệ tạm thời về BHXH đối với
công nhân viên chức Nhà nớc". Hội đồng Chính phủ sẽ thoả thuận với Tổng
Công đoàn Việt Nam (nay là Tổng liên đoàn Lao động Việt Nam) về việc
quản lý quỹ BHXH của Nhà nớc và quản lý các sự nghiệp BHXH.
Ngày 27/12/1961 Hội đồng Chính phủ đã ban hành Nghị định số 218
kèm theo điều lệ tạm thời về BHXH, có hiệu lực thi hành từ ngày
1/11/1962. Điều lệ về BHXH quy định áp dụng đối với tất cả những ngời
làm việc trong các cơ quan hành chính sự nghiệp và các đơn vị sản xuất
thuộc khu vực Nhà nớc, bao gồm cả công nhân viên chức thuộc các tổ chức
Đảng, đoàn thể. Từ Nghị định trên, các chế độ BHXH đợc quy định riêng
và hình thành tổ chức chuyên trách độc lập để quản lý và thực hiện các chế
độ BHXH trong hệ thống Tổng công đoàn Việt Nam. Phơng tiện vật chất
đảm bảo thực hiện các chế độ BHXH đối với công nhân viên chức là công
đoàn tổ chức thu 4,7% so với tổng quỹ lơng của các cơ quan, xí nghiệp,
nông - lâm trờng, bệnh viện, trờng học từ tháng 1/1962 đến tháng 8/1964
để chi trả 6 chế độ:
- Chế độ ốm đau.
- Chế độ thai sản.
- Chế độ tai nạn lao động - bệnh nghề nghiệp.
- Chế độ hu trí.
- Chế độ mức sức lao động
- Chế độ tử tuất.

16
Ngày 20/3/1962, Hội đồng Chính phủ ra Nghị định số 31/CP về việc
điều chỉnh một số nhiệm vụ và quản lý và thực hiện các chế độ BHXH giữa
Bộ nội vụ, Bộ Lao động, Bộ Quốc phòng, Bộ Y tê và Tổng công đoàn Việt
Nam. Ngày 23/3/1962, hội đồng Chính phủ ra tiếp Nghị định số 39/CP về
quy định nội dung thu và chi quỹ BHXH của Nhà nớc, phù hợp với nhiệm
vụ đợc giao tại Nghị định số 31/CP. Bộ Lao động, Bộ Nội vụ đợc giao thực
hiện các chế độ BHXH nh: hu trí, mất sức lao động, tử tuất và quản lý thu
quỹ BHXH 1% so với tổng quỹ lơng của cơ quan xí nghiệp; Tổng công
đoàn thực hiện các chế độ ốm đau, thai sản, tai nạn lao động và bệnh nghề
nghiệp và quản lý thu quỹ BHXH 3,7% so với tổng quỹ lơng của công nhân
viên chức Nhà nớc.
Thực hiện hai Nghị định trên, các tổ chức BHXH ở các bộ có liên quan
đợc hình thành, riêng tổ chức BHXH của Tổng công đoàn đợc giữ nguyên
nhng thu gọn lại do chỉ còn thực hiện 3 chế độ, có lúc Tổng công đoàn đã
nhập ban BHXH vào Ban tài chính (1968-1973). Việc bàn giao nhiệm vụ,
hồ sơ đối tợng và quỹ giữa Tổng công đoàn với tổ chức BHXH các bộ đến
tháng 8/1964 mới xong. Do thay đổi tổ chức của các bộ, nên quản lý và
thực hiện các chế độ BHXH đã chuyển giao từ Bộ Nội vụ sang Bộ Lao
động; Bộ Lao động sang Bộ Thơng binh xã hội, rồi lại nhập về Bộ Lao động
- Thơng binh và xã hội.
Tháng 5/1975, khi miền Nam hoàn toàn giải phóng, chính sách BHXH
đợc thực hiện thống nhất trong cả nớc.
Nhìn lại chặng đờng hơn 30 năm từ 1962-1993, chính sách BHXH đã
đạt đợc những thành tựu to lớn và đã thực sự trở thành sự bảo vệ của Nhà n-
ớc và xã hội đối với công nhân viên chức và quân nhân yên tâm, phấn khởi
lao động sản xuất và chiến đấu góp phần giải phóng và xây dựng đất nớc.
BHXH còn góp phần giải quyết hậu quả chiến tranh, hàng vạn cán bộ, viên
chức, quân nhân bị giảm sút sức khoẻ đã nghỉ việc hởng chế độ đã đợc đãi
ngộ, ổn định cuộc sống. BHXH đã khẳng định quyền lợi thiết yếu của cán

bộ, viên chức, quân nhân trong suốt quá trình làm việc và nghỉ hu khi tuổi
cao sức yếu, chỉ tính đến đầu năm 1993, chính sách BHXH đã đảm bảo trợ
cấp cho hơn 6 triệu lợt ngời hởng trợ cấp thai sản, hơn 2 tỷ ngày nghỉ ốm,
hơn 3 vạn ngời hởng trợ cấp tai nạn lao động - bệnh nghề nghiệp, gần 60
vạn ngời hởng trợ cấp mất sức lao động, 1,5 triệu ngời hởng lơng hu trong
đó có 16 vạn tớng lĩnh sĩ quan quân đội,công an; 30 vạn ngời hởng tiền tuất
hàng tháng, hàng chục vạn lợt ngời đợc hởng chế độ nghỉ ngơi dỡng sức.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu to lớn đã đạt đợc, chính sách
BHXH cũng dần bộc lộ những nhợc điểm, đặc biệt là từ khi Nhà nớc đổi
mới nền kinh tế - xã hội, đó là:
17
Thứ nhất, chỉ thực hiện BHXH đối với công nhân viên chức Nhà nớc
nên rất hạn chế việc phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, bởi vì
việc di chuyển lao động từ khu vực kinh tế Nhà nớc ra khu vực kinh tế
ngoài quốc doanh hoặc ngợc lại rất khó thực hiện. Đồng thời không tạo sự
bình đẳng trong việc thực hiện quyền làm việc và quyền đợc hởng phúc lợi
xã hội giữa những ngời lao động trong các thành phần kinh tế.
Thứ hai, không quy định rõ mối quan hệ giữa đóng góp và hởng thụ,
nghĩa vụ và trách nhiệm của thủ trởng cơ quan, đơn vị sản xuất kinh doanh
không đợc làm rõ, tất cả đều thu qua ngân sách Nhà nớc, nghĩa vụ ngời lao
động bị lãng quên và BHXH đợc coi là món quà Nhà nớc tặng cho công
nhân viên chức. Do đó, thu không đủ chi ngày càng trầm trọng, ngân sách
Nhà nớc phải cấp bù ngày càng lớn. Cụ thể, nguồn thu do ngành lao động -
thơng binh và xã hội quản lý số thu năm 1985 chỉ đạt 3,03% so với số chi,
ngân sách Nhà nớc phải cấp bù tới 96,97%. Để khắc phục sự thiếu hụt
nguồn quỹ BHXH, tháng 10/1986 Chính phủ đã quyết định nâng tỷ lệ
nguồn thu quỹ do ngành lao động - thơng binh và xã hội quản lý lên 10%
và nguồn thu do tổng công đoàn quản lý lên 5% so với tổng quỹ lơng. Song
tình trạng thu không đủ chi, thủ trởng các cơ quan, đơn vị sản xuất kinh
doanh vẫn không trích nộp BHXH đúng quy định. Nên năm 1987 số thu do

ngành lao động - thơng binh và xã hội quản lý chỉ đạt 2,34% so với số chi.
Từ năm 1988 đến năm 1994 số thu BHXH mới nhích dần từ 12% đến hơn
30% so với số chi.
Việc thu không đủ chi đã dẫn đến tình trạng kinh phí luôn luôn vị
thiếu hụt, bị chậm, đôi khi trở nên gay gắt ảnh hởng đến đời sống của đối t-
ợng hởng BHXH.
Thứ ba, việc tổ chức quản lý thực hiện chính sách bị phân tán, phần chi
về BHXH có bộ phận d thừa không thể điều tiết sang bộ phận thiếu đợc.
Quá trình quản lý đan xen với các lĩnh vực u đãi xã hội, cứu trợ xã hội,
phúc lợi xã hội nên việc giải quyết chế độ nhiều khi bị chồng chéo, kém
hiệu quả. Hoạt động của tổ chức BHXH bị cứng nhắc, hành chính hoá, gây
nhiều phiền hà cho đơn vị sử dụng lao động và ngời lao động.
Để chính sách BHXH phù hợp với sự đổi mới nền kinh tế - xã hội và
khắc phục những nhợc điểm trên. Đảng và Nhà nớc đã có chủ trơng đổi mới
chính sách BHXH, chủ trơng đợc thể hiện trong Hiến pháp năm 1992 là:
"Nhà nớc thực hiện BHXH đối với công chức Nhà nớc và ngời làm công ăn
lơng, khuyến khích phát triển các hình thức BHXH khác đối với ngời lao
động".
Ngày 22/6/1993, Chính phủ ra Nghị định 43/CP quy định tạm thời chế
độ BHXH thay cho Nghị định 218/CP. Nội dung Nghị định đã bao hàm
những cải cách lớn về BHXH, làm rõ trách nhiệm, nghĩa vụ đóng góp xây
18
dựng quỹ của ngời sử dụng lao động và ngời lao động; các chế độ BHXH
chỉ còn lại 5 chế độ (ốm đau, thai sản, tai nạn lao động - bệnh nghề nghiệp,
hu trí, tử tuất), chế độ mất sức lao động đợc đa vào hu trí hởng tỷ lệ thấp
hay trợ cấp một lần.
Sau một năm, ngày 23/6/1994, tại kỳ họp thứ năm Quốc hội khoá IX
đã thông qua bộ luật lao động có hiệu lực thi hành từ ngày 1/1/1995, trong
đó có chơng 12 về BHXH. Đây là một chấm phá, cải cách các chế độ
BHXH và tổ chức quản lý thu - chi, thực hiện các chế độ BHXH.

Thi hành luật lao động về BHXH, chính phủ đã ra Nghị định 12/CP
ngày 26/1/1995 ban hành điều lệ BHXH và Nghị định 19/CP ngày
16/2/1995 về việc thành lập BHXH Việt Nam.
3. Thời kỳ từ năm 1995 đến nay.
Với việc Chính phủ ban hành các nghị địh 12/CP ngày 26/2/1995, ban
hành điều lệ BHXH và Nghị định 19/CP ngày 16/2/1995 về việc thành lập
BHXH Việt Nam đã đánh dấu một bớc ngoặt lớn trong sự nghiệp BHXH
Việt Nam. Nội dung của việc đổi mpí chính sách BHXH góp phần thực hiện
các mục tiêu của Đảng và Nhà nớc đề ra, góp phần thực hiện công bằng và
sự tiến bộ xã hội, góp phần làm lành mạnh hoá thị trờng lao động và góp
phần nào đó đáp ứng đợc sự mong mỏi của đông đảo ngời lao động trong
các thành phần kinh tế của cả nớc.
Nội dung cơ bản của chế độ chính sách BHXH mới:
3.1. Đối tợng tham gia BHXH.
Điều lệ BHXH quy định các đối tợng sau phải áp dụng các chế độ
BHXH.
- Ngời lao động làm việc trong các doanh nghiệp Nhà nớc.
- Ngời lao động làm việc trong các doanh nghiệp thuộc các thành phần
kinh tế ngoài quốc doanh có sử dụng từ 10 lao động trở lên.
- Ngời lao động Việt Nam làm việc trong các doanh nghiệp có vốn đầu
t nớc ngoài, khu chế xuất, khu công nghiệp, trong các cơ quan, tổ chức nớc
ngoài hoặc tổ chức quốc tế tại Việt Nam, trừ trờng hợp điều ớc quốc tế mà
nớc cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ký kết hoặc tham gia có quy định
khác.
- Ngời lao động làm việc trong các tổ chức kinh doanh dịch vụ thuộc
cơ quan hành chính sự nghiệp, cơ quan Đảng, đoàn thể.
- Ngời lao động làm việc trong các doanh nghiệp, các tổ chức dịch vụ
thuộc lực lợng vũ trang.
19
- Ngời giữ chức vụ dân cử, bẩu cử làm việc trong các cơ quan quản lý

Nhà nớc, Đảng, đoàn thể từ trung ơng đến cấp huyện.
- Công chức, viên chức Nhà nớc làm việc trong các cơ quan hành
chính sự nghiệp, ngời làm việc trong các cơ quan Đảng, đoàn thể từ trung -
ơng đến cấp huyện.
- Ngoài ra, Nghị định 09/1998/NĐ-CP ngày 23/1/1999 của Chính phủ
quy định việc tham gia BHXH đối với các cán bộ xã, phờng, thị trán.
Các đối tợng trên đi học, thực tập, công tác, điều dỡng ở nớc ngoài mà
vẫn hởng tiền lơng hoặc tiền công thì cũng thuộc đối tợng thực hiện BHXH
bắt buộc.
Với đối tợng đã đợc quy định nh ở trên, tính đến năm 2000 cả nớc có
khoảng 4,2 triệu lao động tham gia BHXH.
3.2. Các chế độ BHXH.
Theo điều 2 của điều lệ BHXH Việt Nam, BHXH nớc ta hiện nay thực
hiện 5 chế độ.
- Chế độ trợ cấp ốm đau: chế độ này giúp cho ngời lao động có đợc
khoản trợ cấp thay thế thu nhập bị mất do không làm việc khi bị ốm đau.
- Chế độ trợ cấp thai sản: chế độ này giúp cho lao động nữ có đợc
khoản trợ cấp thay thế cho phần thu nhập bị mất do không làm việc vì sinh
sản, đồng thời quy định thời gian nghỉ có tính đến yếu tố điều kiện, môi tr-
ờng lao động nhằm đảm bảo sức khoẻ cho sản phụ thuộc các nhóm lao
động khác nhau.
- Chế độ tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp: góp phần đảm bảo thu
nhập, ổn định cuộc sống cho ngời lao động không may bị tai nạn lao động
hoặc bệnh nghề nghiệp, đồng thời quy định rõ trách nhiệm của ngời sử
dụng lao động đối với các trờng hợp xảy ra tai nạn lao động hoặc bệnh nghề
nghiệp.
- Chế độ hu trí: đây là chế độ nhằm cung cấp một khoản trợ cấp thay
thế cho phần thu nhập khong đợc nhận nữa từ nghề nghiệp do nghỉ hu.
- Chế độ tử tuất: chế độ này đã giúp cho thân nhân ngời chết có đợc
khoản trợ cấp bù đắp một phần thiếu hụt thu nhập của gia đình do ngời lao

động bị chết.
Nội dung cơ bản của 5 chế độ nêu trên đợc quy định thống nhất trong
chơng II của Điều lệ BHXH.
3.3. Quỹ bảo hiểm xã hội.
Theo điều lệ BHXH hiện hành, quỹ BHXH đợc hình thành từ các
nguồn sau đây:
20
- Ngời sử dụng lao động đóng 15% so với tổng quỹ tiền lơng của
những ngời tham gia BHXH trong đơn vị; trong đó 10% để chi các chế độ
hu trí, tử tuất, 5% để chi các chế độ ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh
nghề nghiệp.
- Ngời lao động đóng 5% tiền lơng tháng để chi cho các chế độ hu trí
và tử tuất.
- Nhà nớc đóng và hỗ trợ thêm để đảm bảo thực hiện các chế độ
BHXH đối với ngời lao động.
- Các nguồn khác.
Hàng tháng, ngời sử dụng lao động có trách nhiệm đóng BHXH theo
quy định. Tiền lơng tháng làm căn cứ đóng BHXH gồm lơng theo ngành
bậc, chức vụ, hợp đồng và các khoản phụ cấp khu vực, đắt đỏ, chức vụ,
thâm niên, hệ số chênh lệch bảo lu (nếu có). Hàng tháng, Bộ Tài chính trích
từ ngân sách Nhà nớc số tiền chuyển vào quỹ BHXH đủ chi các chế độ hu
trí, trợ cấp mất sức lao động, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, tử tuất,
bảo hiểm y tế của những ngời đang hởng BHXH trớc ngày thi hành điều lệ
này và hỗ trợ để chi lơng hu cho ngời lao động thuộc khu vực Nhà nớc về h-
u kể từ ngày thi hành điều lệ này. Việc tổ chức thu BHXH do tổ chức
BHXH Việt Nam thực hiện. Quỹ BHXH đợc quản lý thống nhất theo chế độ
tài chính của Nhà nớc, hạch toán độc lập và đợc Nhà nớc bảo hộ. Quỹ
BHXH đợc sử dụng để chi cho 5 chế độ mà điều lệ BHXH đã qui định.
Đồng thời đợc sử dụng để chi phí cho sự cho sự nghiệp BHXH ở các cấp,
các ngành. Phần quĩ nhàn rỗi đợc phép đầu t để bảo tồn giá trị và tăng trởng

theo qui định của Chính phủ.
3.4. Tổ chức và quản lý bảo hiểm xã hội.
Theo Nghị định 19/CP ngày 16/02/1995 của Chính phủ, hệ thống
BHXH Việt Nam đợc thành lập trên cơ sở thống nhất các tổ chức BHXH ở
Trung ơng và địa phơng thuộc hệ thống lao động - thơng binh xã hội và
Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam để giúp Thủ tớng Chính phủ chỉ đạo
công tác quản lý quĩ BHXH và thực hiện các chế độ chính sách BHXH theo
luật pháp Nhà nớc. Theo nghị định này BHXH Việt Nam có các nhiệm vụ
và quyền hạn sau:
- Tổ chức việc thu BHXH theo qui định của Chính phủ.
- quản lý quĩ BHXH và tổ chức chi trả cho ngời lao động tham gia
BHXH và các khoản trợ cấp BHXH đầy đủ thuận tiện và đúng thời hạn.
- Có quyền từ chối việc chi trả các chế độ BHXH cho các đối tợng đợc
hởng BHXH khi có kết luận của cơ quan Nhà nớc có thẩm quyền về hành vi
21
man trá làm giả hồ sơ tài liệu, đồng thời ra văn bản thông báo việc từ chối
chi trả đó cho đơng sự, cơ quan sử dụng lao động và cơ quan pháp luật.
- Bồi thờng mọi khoản thu, chi sai các qui định của Nhà nớc về BHXH
cho các đối tợng tham gia và chịu trách nhiệm trớc pháp luật.
- Xây dựng và tổ chức thực hiện các dự án, biện pháp để bảo tồn giá trị
và tăng trởng quĩ theo qui định của Chính phủ.
- Trình Thủ tớng Chính phủ quyết định về mức chi phí quản lý, định
mức lệ phí thu - chi quĩ BHXH và các qui định khác có liên quan đến hoạt
động BHXH và tổ chức thực hiện.
- Kiến nghị với Chính phủ và cơ quan Nhà nớc có liên quan việc sửa
đổi, bổ sung các chế độ chính sách BHXH phù hợp với tình hình của đất n-
ớc trong từng giai đoạn.
- Tổ chức thực hiện công tác thống kê, hạch toán, kế toán, hớng dẫn
nghiệp vụ thu, chi BHXH và kiểm tra thực hiện và tổ chức công tác thông
tin, tuyên truyền giải thích các chế độ chính sách về BHXH.

- Kiểm tra việc thực hiện các chế độ thu - chi BHXH.
- Giải quyết kịp thời các khiếu nại của ngời tham gia BHXH về việc
thực hiện các chế độ chính sách BHXH.
- Thực hiện việc hợp tác quốc tế về sự nghiệp BHXH theo qui didnhj
của Chính phủ.
- Quản lý tổ chức, viên chức và cơ sở vật chất của BHXH Việt Nam
theo qui định của Nhà nớc.
BHXH Việt Nam đặt dới sự chỉ đạo trực tiếp của Thủ tớng Chính phủ,
sự quản lý Nhà nớc của Bộ Lao động - thơng binh xã hội, các cơ quan quản
lý Nhà nớc có liên quan, sự giám sát của tổ chức công đoàn.
Hội đồng quản lý là cơ quan quản lý cao nhất của BHXH Việt Nam,
Hội đồng quản lý và giám sát kiểm tra việc thu - chi, quản lý quĩ, quyết
định các biện pháp để bảo tồn giá trị và tăng trởng quĩ BHXH, thẩm tra
quyết toán và thông qua dự toán hàng năm; kiến nghị với Chính phủ và các
cơ quan Nhà nớc có liên quan bổ sung sửa đổi các chế độ chính sách
BHXH; giải quyết các khiếu nại của ngời tham gia BHXH; đề xuất việc bổ
nhiệm miễn nhiệm Tổng Giám đốc, các phó Tổng Giám đốc BHXH Việt
Nam.
Thành viên của hội đồng quản lý bao gồm: đại diện có thẩm quyền của
Bộ Lao động - Thơng bình xã hội, Bộ Tài chính, Tổng Liên đoàn lao động
Việt Nam và Tổng Giám đốc BHXH Việt Nam. Hội đồng quản lý có 1 chủ
tịch, 1 phó chủ tịch và các thành viên do thủ tớng Chính phủ bổ nhiệm và
miễn nhiệm.
22
Bảo hiểm xã hội Việt Nam đợc tổ chức thành hệ thống dọc từ Trung -
ơng đến địa phơng có cơ cấu nh sau:
- ở Trung ơng: BHXH Việt Nam
- BHXH tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ơng.
- BHXH huyện, quận, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh.
BHXH Việt Nam do Tổng Giám đốc trực tiếp quản lý và điều hành

theo chế độ thủ trởng, giúp việc Tổng Giám đốc có các phó Tổng Giám đốc.
Tổng Giám đốc và các phó Tổng Giám đốc và các phó Tổng Giám đốc do
Thủ tớng Chính phủ bổ nhiệm và miễn nhiệm theo đề nghị của Hội đồng
quản lý BHXH Việt Nam.
Sơ đồ hệ thống tổ chức BHXH Việt Nam
23
Thủ t ớng Chính phủ
Hội đồng quản lý
Tổng giám đốc
Phó tổng giám đốc Phó tổng giám đốc
Các phòng ban nghiệp vụ
BHXH
BHXH tỉnh, thành phố trực
thuộc trung ơng
BHXH quận, huyện, thành
phố trực thuộc tỉnh
Sơ đồ quản lý BHXH
Với việc hình thành hệ thống BHXH Việt Nam thống nhất từ Trung -
ơng đến quận, huyện, việc thực hiện các nhiệm vụ thu BHXH, chi trả cho
đối tợng quản lý đối tợng tham gia hởng chế độ và xét duyệt hồ sơ hởng
BHXH đã đợc tập trung vào một đầu mối bảo đảm thực hiện các chế độ
BHXH và quản lý quĩ BHXH thống nhất trong cả nớc, bảo đảm cho việc
quản lý BHXH đến từng đơn vị tham gia BHXH, đến từng ngời tham gia và
hởng chế độ BHXH; quản lý và theo dõi mức đóng, mức hởng thờng kỳ
hàng tháng với từng ngời. Thực hiện cấp sổ BHXH cho từng ngời tham gia
BHXH để theo dõi mức đóng, thời gian đóng làm căn cứ hởng các chế độ
BHXH.
II- Tình hình thực hiện các chế độ BHXH.
1. Những kết quả chung.
Trong những năm qua, mặc dù ngành BHXH còn rất nhiều khó khăn

nh điều kiện vật chất, điều kiện làm việc vẫn còn thiếu thốn, công việc rất
mới mẻ song ý thức đợc việc thực hiện tốt của chế độ, chính sách BHXH
đối với ngời lao động là đảm bảo quyền lợi chính đáng của ngời lao động
theo qui định của pháp luật, mặt khác là nhiệm vụ hàng ngày, là trách
nhiệm của cơ quan BHXH. Vì vậy kết quả thực hiện các chế độ BHXH đạt
đợc là rất đáng khích lệ nó đã chứng minh đợc việc thực hiện chế độ, chính
sách BHXH theo sự đổi mới về kinh tế, xã hội của Đảng và Nhà nớc là hoàn
toàn đúng và thực sự phát huy tác dụng góp phần ổn định cuộc sống cho
24
Ng ời sử dụng lao động góp 15% Ng ời lao động góp 5%
Nhà n ớc đóng và hỗ
trợ thêm
Thu khác Thu khác từ các dự
án phát triển
Cơ quan BHXH Tài sản đầu t các dự án
Chi trả trợ cấp Chi phí quản lý Chi đầu t các dự án
Trợ cấp ngắn hạn
- ốm đau
- Thai sản
- Tai nạn lao động trợ cấ 1 lần
Trợ cấp dài hạn
- H u trí
- Tử tuất
- Trợ cấp tai nạn lao động, bệnh
nghề nghiệp hàng tháng
hàng triệu ngời lao động đồng thời góp phần to lớn vào công cuộc xây dựng
và bảo vệ tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn mới.
Kết quả thực hiện của chế độ BHXH trong những năm qua nh sau:
- Trong 5 năm 1995 - 1999, BHXH các tỉnh, thành phố đã chi trả đầy
đủ, kịp thời và an toàn 24.076.089 triệu đồng. Trong đó chi từ ngân sách

Nhà nớc cho các đối tợng hởng trợ cấp và hu trí hàng tháng trớc ngày
1/1/1995 là: 20.838.016 triệu đồng, chi từ quĩ BHXH là 3.238.073 triệu
đồng. Ngoài ra, mỗi năm còn chi trả khoảng 200 tỷ đồng cho hàng triệu lợt
ngời hởng các chế độ ốm đau, thai sản. BHXH Việt Nam cũng đã tiếp nhận
và giải quyết cho 161.888 ngời hởng chế độ dài hạn và 247.943 ngời hởng
trợ cấp một lần. Nhìn chung công tác xét duyệt các chế độ BHXH đợc bảo
đảm kịp thời, chặt chẽ, đúng chế độ qui định, luôn tạo thuận lợi cho ngời
lao động và các đơn vị sử dụng lao động.
- NĂm 2000, BHXH Việt Nam chi trả các chế độ BHXH cho các đối
tợng 7.566.427 triệu đồng an toàn và kịp thời đúng chế độ trong đó có
khoảng trên 1 triệu lợt ngời hởng chế độ ốm đau với số tiền trên 76 tỷ đồng
và 118.914 ngời đợc hởng chế độ thai sản với số tiền trên 200 tỷ, đồng thời
giải quyết chế độ cho 54.335 ngời hởng BHXH thờng xuyên tăng 17% so
với năm 1999.
- 6 tháng đầu năm 2001, BHXH Việt Nam đã chi trả an toàn, chu đáo
4.708 tỷ đồng cho 1,8 triệu đối tợng hởng BHXH hàng tháng và trên 30 vạn
lợt ngời hởng các chế độ BHXH ngắn hạn trong đó kinh phí do ngân sách
Nhà nớc đảm bảo là trên 3.707 tỷ đồng và kinh phí do quĩ BHXH đảm bảo
là 1.001 tỷ đồng.
Qua những con số trên cho ta thấy bình quân số tiền chi trả lơng hu và
các loại trợ cấp của BHXH Việt Nam cho các đối tợng là khoảng 6.000 tỷ
đồng/năm. con số này là rất lớn và vẫn còn tiếp tục tăng lên hàng năm.
2. Tình hình thực hiện các chế độ bảo hiểm xã hội ngắn hạn.
Tổ chức chi trả các chế độ trợ cấp ngắn hạn bao gồm:
- Chế độ trợ cấp tiền lơng khi nghỉ ốm đau
- Chế độ trợ cấp tiền lơng khi nghỉ sinh con (thai sản)
- Chế độ trợ cấp khi bị suy giảm khả năng lao động do tai nạn lao động
và bệnh nghề nghiệp gây ra.
Đây là ba nội dung chi trả cho ngời lao động đang tham gia đóng
BHXH. Việc chi trả trợ cấp cho 3 chế độ trên phải thể hiện sự công bằng,

công khai, an toàn, kịp thời, đúng nguyên tắc có đóng BHXH mới đợc hởng
quyền lợi về BHXH theo qui định của pháp luật nhằm giữ vững mối quan
hệ ba bên: ngời sử dụng lao động, ngời lao động và cơ quan BHXH, từ đó
25

×