Tải bản đầy đủ (.pdf) (12 trang)

Đặc trưng văn hóa phi vật thể khu vực Tây sông Hậu thời kỳ văn hóa Óc Eo

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.16 MB, 12 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SÀI GỊN
SAIGON UNIVERSITY
TẠP CHÍ KHOA HỌC
SCIENTIFIC JOURNAL
ĐẠI HỌC SÀI GÒN
OF SAIGON UNIVERSITY
Số 76 (04/2021)
No. 76 (04/2021)
Email: ; Website: />
ĐẶC TRƯNG VĂN HÓA PHI VẬT THỂ KHU VỰC TÂY SƠNG HẬU
THỜI KỲ VĂN HĨA ĨC EO
Intangible cultural characteristics of Western Hậu river area in Óc Eo period
ThS.NCS. Trần Trọng Lễ
Trường Đại học Xã hội và Nhân văn – ĐHQG TP.HCM
TĨM TẮT
Văn hóa phi vật thể của cư dân văn hóa Ĩc Eo - Phù Nam ở khu vực Tây sơng Hậu có đặc trưng là loại
hình văn hóa tổ chức cộng đồng. Trong đó, cộng đồng cư dân cổ cư trú quanh các “thế đất cao”, dọc
theo những đường nước cổ trong sự tương tác với môi trường đồng bằng sơng nước. Đồng thời, cư dân
cổ có hình thức cố kết cộng đồng “xóm ấp” theo quan hệ ngành nghề gắn với sự chi phối của tín ngưỡng
- tơn giáo.
Từ khóa: đặc trưng văn hóa, Ĩc Eo, Tây sơng Hậu, văn hóa phi vật thể
The intangible culture of Óc Eo - Phù Nam residents in Western Hậu River area is characterized by a
type of community organization culture. In particular, the ancient residents inhabited around the high
grounds, along the old waterways in the interaction with the environment of the river delta. At the same
time, the early residents consolidated the community of hamlets according to the profession relationship
associated with the domination of beliefs and religions.
Keywords: cultural characteristics, Óc Eo, Western Hậu River, intangible culture

nghiệp, thương nghiệp, kiến trúc, đời sống
xã hội, trang phục, ăn, ở và vận chuyển;
tình trạng của các di tích và loại hình di


vật, các tiểu quốc và trung tâm tôn giáo của
vương quốc Phù Nam - văn hóa Ĩc Eo.
Gần đây, các nghiên cứu theo hướng văn
hóa học đã trình bày các di tích văn hóa Ĩc
Eo - Phù Nam (phạm vi phân bố, nội dung
và đặc điểm, niên đại và quá trình phát
triển), cội nguồn và truyền thống của văn
hóa Ĩc Eo trong mối liên hệ với cư dân,
lịch sử liên hệ văn hóa Óc Eo với các thể
chế chính trị đương thời, v.v.
Theo những kết quả khai quật khảo cổ
học ở Việt Nam, Thái Lan, Myanmar…
các nhà nghiên cứu nhận thấy văn hóa Óc

ĐẶT VẤN ĐỀ
Từ những ghi nhận ban đầu về dấu tích
di vật của văn hóa Ĩc Eo, cho đến nay, các
cơng trình nghiên cứu về văn hóa Ĩc Eo Phù Nam theo hướng khảo cổ học và liên
ngành với sử học, khảo cổ học, bảo tàng
học, địa chất và địa tầng học, nông học,
dân tộc học, cổ nhân - cổ sinh vật học,
minh văn và cổ tự học đã đưa ra những tư
liệu, phát hiện mới, nhận thức mới về văn
hóa cổ Ĩc Eo. Trong đó, có diện mạo về
yếu tố văn hóa bản địa thời kỳ tiền Ĩc Eo
trước thế kỷ I; nguồn gốc hình thành và
phát triển của văn hóa Ĩc Eo, sự giao lưu
và phát triển thời kỳ Óc Eo từ thế kỷ I VII; các lĩnh vực nông nghiệp, thủ công
Email:


98


TRẦN TRỌNG LỄ

TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GỊN

Eo phân bố trên phạm vi rộng lớn ở vùng
Nam Đông Dương, trong đó có vùng đất
Nam Bộ và đồng bằng sông Cửu Long (tức
hạ lưu sông Mekong) với mức độ các di chỉ
khác nhau. Văn hóa Ĩc Eo là một nền văn
hóa khảo cổ và ln được nhìn nhận là
chứng cứ vật chất của vương quốc Phù
Nam - quốc gia cổ đại đầu tiên ở Đông
Nam Á. Trải qua nhiều thời kỳ khác nhau,
địa bàn trung tâm của quốc gia hay đế chế
Phù Nam (từ cuối thế kỷ I đến thế kỷ VII)
vẫn là vùng hạ lưu và vùng tam giác của
châu thổ sông Cửu Long. Tây sông Hậu
được xem là vùng đất nền tảng, phát triển
sớm nhất, tiêu biểu nhất của văn hóa Ĩc Eo
- Phù Nam; đồng thời là đất bản bộ của tiểu
quốc Na Phật Na thuộc vương quốc Phù
Nam. Khu vực Tây sông Hậu nay là vùng
đất nằm về phía hữu ngạn sơng Hậu, và
thuộc địa bàn của 7 tỉnh thành: An Giang
(phía Tây), Kiên Giang, Hậu Giang, Cần
Thơ, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Cà Mau, với
diện tích là 23.077, 5km², dân số là

8.114.214 người (số liệu được tác giả tổng
hợp từ Tổng cục thống kê Việt Nam,
2019). Những di tồn văn hóa Ĩc Eo ở vùng
đất Tây sông Hậu, tiêu biểu là Tứ giác
Long Xuyên được xác định có niên đại từ
thế kỷ II trước Cơng nguyên kéo dài tới thế
kỷ VII và đến thế kỷ X - XIII sau Cơng
ngun. Do đó, làm rõ các đặc trưng văn
hóa phi vật thể của cư dân văn hóa Ĩc Eo Phù Nam ở khu vực Tây sơng Hậu để góp
phần phát huy giá trị văn hóa Ĩc Eo trong
thời kỳ hội nhập hiện nay là cần thiết.
1. Một số khái niệm cơ bản
1.1. Khái niệm văn hóa phi vật thể
Đến cuối thế kỷ XX, khái niệm về
“culture”/ “văn hoá” lại được thu hẹp nghĩa
để gắn liền với dân tộc, tộc người. Trong
giới nghiên cứu văn hóa ở Việt Nam, quan
niệm về văn hóa cũng đã diễn ra một q

trình thay đổi, để đi đến cách hiểu hơm nay
về “culture”/ “văn hố”, có thể diễn đạt
như sau “Văn hoá là tất cả những hoạt
động, sản phẩm và giá trị vật thể và phi vật
thể do con người sáng tạo và được các thế
hệ con người chấp nhận, tuân thủ, phổ
biến, truyền lưu, giúp phân biệt con người
với tự nhiên, và phân biệt tộc người này
với tộc người khác, dân tộc này với dân tộc
khác” (Lý Tùng Hiếu, 2019, tr.86).
Vận dụng các lý thuyết hệ thống vào

thực tiễn nghiên cứu, chúng tơi nhận thấy
rằng, văn hóa tộc người và văn hóa vùng là
những hệ thống hình thành, vận động và
biến đổi trong những mơi trường nhất định,
và có một cấu trúc đơn tâm hoặc đa tâm,
với thành tố trung tâm là các tộc người, các
cộng đồng người sáng tạo ra hệ thống văn
hóa ấy và dùng nó làm phương tiện sinh
tồn. Do đó, chúng tơi sẽ giới thiệu một mơ
hình cấu trúc văn hóa bao gồm trước hết là
chủ thể văn hóa, và kế tiếp là các thành tố
văn hóa khác (Lý Tùng Hiếu, 2020, tr.56).
“Văn hóa phi vật thể (intangible
culture): bao gồm những yếu tố văn hóa
khơng thể tiếp xúc và tương tác trực tiếp
nếu khơng có các phương tiện truyền bá
văn hóa, thường là các nghệ nhân dân gian,
như văn hóa tổ chức cộng đồng, văn hóa tín
ngưỡng, văn hóa phong tục, văn hóa lễ hội,
văn học, nghệ thuật, ngơn ngữ, văn hóa
giao tiếp, bí quyết và quy trình cơng nghệ
của các nghề thủ cơng, v.v. Đây là những
hoạt động văn hóa vừa có tính vật thể vừa
có tính phi vật thể nhưng tính phi vật thể
nổi trội hơn. Và do mang đặc tính chất phi
vật thể, các hoạt động văn hóa này gắn chặt
với chủ thể văn hóa và tương đối khó biến
đổi dưới tác động của mơi trường văn hóa.
Vì vậy, văn hóa phi vật thể chính là nơi thể
hiện, bảo tồn bản sắc văn hóa tương đối lâu

bền” (Lý Tùng Hiếu, 2020, tr.59).
99


SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY

No. 76 (04/2021)

khô, nước ngọt vào mùa mưa) đã tạo nên
một bưng lầy thấp trũng nối liền từ Phụng
Hiệp (Hậu Giang) tới Tri Tôn (An Giang),
Rạch Giá, Hà Tiên (An Giang)4 ở Tứ giác
Long Xuyên, vùng Ô Môn - Phụng Hiệp.
Về thổ nhưỡng, các loại đất gồm có đất phù
sa, đất phèn, đất mặn, đất than bùn, đất cát
biển. Về khí hậu, gió mùa có hai mùa gió
chính là gió tây nam và gió đơng bắc. Về
thủy văn, hệ thống sông rạch, lạch triều,
đường nước nhân tạo được nối với nhau để
lan tỏa từ các thành thị, thương cảng trên
vùng đất Tây sông Hậu theo hướng Đơng Tây hoặc hướng Bắc - Nam. Đó là khoảng
30 “đường nước cổ” ở Tứ giác Long
Xuyên, giao điểm của 11 kinh đào cổ tại di
chỉ Đá Nổi, và các sông đào như sông Hậu
cổ (Proto Bassac), kinh đào từ Angkor
Borei (Cambodia) - di tích Nền Chùa (Kiên
Giang)... (Nhiều tác giả, 2016a, tr.207). Về
sinh thái, hệ động vật và thực vật rất đa
dạng trên các vùng đồi núi (Thất Sơn, Ba
Thê, Kiên Lương, Kiên Hải…) và đất ngập

nước (đồng ngập lũ, rừng ngập mặn…) với
các loài động thực vật như các lồi cá,
chim, bị sát, lồi lưỡng cư, thủy hải sản,
v.v.
2.2. Giao lưu tiếp biến văn hố
Khu vực Tây sơng Hậu được cho là
địa bàn phát tích và xây dựng của vương
quốc Phù Nam. Trong đó, kinh thành cảng thị Ĩc Eo ln là trung tâm thương
mại - văn hóa lớn; và là địa điểm trung
gian của “Con đường tơ lụa trên biển”,
“một trung tâm liên thế giới” trong quá
trình phát triển quốc gia Phù Nam và đế
chế Phù Nam. Thương cảng Ĩc Eo giúp
Phù Nam “lan tỏa khắp Đơng Nam Á lục
địa đến Bắc và Trung bán đảo Malaysia,
nơi có eo biển Kra. Do đó, cư dân Ĩc Eo Phù Nam đã giao tiếp, quan hệ với các nền
văn minh lớn trên thế giới rất sớm như từ

1.2. Khái niệm đặc trưng văn hóa
Đặc trưng là “nét riêng biệt và tiêu biểu,
được xem là dấu hiệu để phân biệt với những
sự vật khác” (Hoàng Phê, 2011, tr.384).
Trong vận dụng các lý thuyết tương
đối luận văn hóa và đa dạng văn hóa, đặc
trưng của văn hóa được giới thiệu và luận
giải gồm có tính giá trị, tính biểu tượng,
tính truyền thống và tính hệ thống. Các đặc
trưng của văn hóa đều mang tính tương
đối, tức là có một giới hạn khả dụng nhất
định tùy thuộc vào từng nền văn hóa. Đây

là những đặc trưng có tính phổ qt của
văn hóa, nhưng ở những nền văn hóa khác
nhau, các đặc trưng ấy sẽ có những biểu
hiện, nội dung khác nhau (Lý Tùng Hiếu,
2019, tr.94).
1.3. Khái niệm sắc thái văn hóa
Sắc thái là cái hình thức, cái biểu hiện
ra bên ngồi của bản sắc. Bản sắc văn hóa
là cái trừu tượng, nhưng nó lại biểu hiện
qua mn vàn cái cụ thể của văn hóa, mà
cái đó ta thường gọi là sắc thái văn hóa.
Sắc thái văn hóa là nói tới những biểu hiện
cụ thể của bản sắc (Huỳnh Công Bá, 2012,
tr.37).
2. Định vị văn hố khu vực Tây sơng
Hậu thời kỳ văn hóa Ĩc Eo
2.1. Khơng gian văn hóa
Về phạm vi, vùng đất Tây sơng Hậu
được xác định có ba mặt giáp biển (vịnh
Thái Lan, biển Đông nay), và tiếp giáp với
thềm đất cổ và tiểu quốc “Chinh phục từ
đầm lầy”1. Không gian địa lý thoáng - mở
đã tạo điều kiện cho cộng đồng cư dân văn
hóa Ĩc Eo - Phù Nam trong giao lưu với
khu vực và thế giới. Về địa hình, vùng đất
này có địa hình đa dạng, gồm đồi núi, hải
đảo, giồng ven sơng, gị đất2 cao giữa vùng
thấp trũng ngập nước, đầm lầy, giồng cát
ven biển3, bãi triều và cồn sơng. Trong đó,
vùng ngập nước (có nước biển vào mùa

100


TRẦN TRỌNG LỄ

TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GỊN

Ấn Độ, Trung Hoa, Hy Lạp và La Mã, v.v.
Có thể nói, đời sống cư dân văn hóa Ĩc Eo
- Phù Nam đã bị tác động một cách toàn
diện qua hoạt động thương mại biển kèm
với truyền giáo.
Cộng đồng cư dân văn hóa Ĩc Eo Phù Nam đã phát triển các yếu tố nội sinh
của văn hóa Đồng Nai, cũng như tiếp thu
những yếu tố văn hóa ngoại sinh của các
nền văn hóa từ bên ngồi một cách hài
hịa mà đặc biệt là từ Ấn Độ (tín ngưỡng
Hindu giáo và Phật giáo) để tạo dựng
thành một nền văn hóa có đặc trưng riêng
và đạt đỉnh cao trong khu vực Đông Nam
Á. Trong đó, “văn hóa Phù Nam nổi bật
lên tính cách của một nền văn hóa biển và
văn hóa thương mại” (Võ Văn Sen, 2017,
tr.38). Từ thế kỷ VII, cư dân văn hóa Ĩc
Eo Tây sơng Hậu có sự chuyển biến về
mặt không gian đến các vùng đất cao,
giồng đất ở Thất Sơn nhưng văn hóa Ĩc
Eo vẫn tồn tại, được kế thừa dưới nhiều
dạng thức, hình thái mới. Dấu tích thể
hiện rõ nét nhất là loại hình di tích kiến

trúc tơn giáo. Những giá trị văn hóa Ĩc
Eo của cư dân Óc Eo - Phù Nam được thể
hiện trong dấu ấn văn hóa của người Chân
Lạp (người Khmer ngày nay), và được
người Việt tiếp biến và phát huy trong đời
sống văn hóa tín ngưỡng.
2.3. Chủ thể văn hố
Cư dân văn hóa Ĩc Eo - Phù Nam ở
Tây sơng Hậu là cộng đồng đa tộc người5,
gồm có người Indonesian, người Ấn Độ,
người Shakas, người Melayu, nhóm người
từ Trung Quốc, các nhóm tộc người thuộc
ngơn ngữ Nam Đảo (Malayo-Polynesia),
nhóm cư dân thuộc ngôn ngữ Môn - Khmer
cổ, v.v. Theo kết quả nghiên cứu cổ nhân
học kết hợp với những miêu tả trong thư
tịch cổ, chủ nhân chủ yếu của nền văn hóa
Ĩc Eo là người Indonesien hay cư dân thuộc

các nhóm tộc người thuộc ngơn ngữ Nam
Đảo (Malayo - Polynesien). Trong đó, yếu
tố nhân chủng của các nhóm tộc Malayo Polynesien có phần nổi trội, chiếm ưu thế
(Nhiều tác giả, 2016a, tr.623).
3. Đặc trưng văn hóa phi vật thể của
cư dân văn hóa Ĩc Eo ở Tây sơng Hậu
3.1. Sắc thái văn hóa tổ chức cộng đồng
Về chế độ gia đình, cộng đồng cư dân
bản địa thời buổi đầu sống tập trung gần
biển ở vùng chân núi dãy Thất Sơn thuộc
Tứ giác Long Xuyên có chế độ mẫu hệ

(những người thuộc bộ tộc gốc Liễu Diệp).
Bộ tộc Liễu Diệp có thể có quan hệ với
một cộng đồng huyết thống ở phía thượng
nguồn Bassac. Sự kết hợp Hỗn Điền (hệ
thống tộc thuộc phụ hệ, ngoại tộc) - Liễu
Diệp (hệ thống tộc thuộc mẫu hệ, bản địa)
là sự kết hợp giữa hai khối tộc có thể cùng
hệ ngơn ngữ6 để hình thành nhà nước sơ
khai với tên gọi là Phù Nam, và gồm có 7
thành ấp. Dòng thủ lĩnh họ Hỗn (Hun) Hỗn Điền là minh chứng cho các mối quan
hệ “huyết tộc” với vùng hải đảo phía Nam
nói tiếng Nam Đảo, với Ấn Độ cổ. Mơ
hình nhà nước dưới thời cai trị của dịng họ
Hỗn (Hun) vừa có vua (mang tính thủ lĩnh)
đứng đầu Phù Nam, vừa có các “tiểu
vương” cai trị các tiểu quốc hoặc “ấp”. Phù
Nam chỉ là tập hợp của các tiểu quốc theo
kiểu Mandala, trong đó mỗi tiểu quốc vẫn
giữ nguyên tổ chức, tên gọi và truyền
thống riêng. Khi đó, tiểu quốc Na Phật Na
được định vị là thuộc địa bàn Tây sơng
Hậu; Ba Thê - Ĩc Eo có chức năng vừa là
cảng thị vừa là kinh thành của bộ máy điều
hành hệ thống cảng thị và thành ấp khác.
Tổ chức quản lý trong thời kỳ điều hành
bởi Hỗn Điền - Liễu Diệp và các thế hệ
con, cháu mang họ Hỗn dựa trên những
nguyên tắc thương mại bình đẳng và nền
đạo đức nguyên thủy có sự hỗ trợ thần
101



SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY

No. 76 (04/2021)

quyền của Hindu giáo, Phật giáo và các tín
ngưỡng nguyên thủy bản địa (Vũ Minh
Giang - Nguyễn Việt, 2017, tr.179). Từ
khoảng thế kỷ III đến đầu thế kỷ VI, trung
tâm Phù Nam từ Óc Eo được cho là được
chuyển dời về Angkor Borei (Cambodia):
thành Đặc Mục (Vyadhapuara). Quan hệ
dòng tộc trong phổ hệ vua Phù Nam có
mang màu sắc Ấn Độ rõ nét qua tên các
vua có đi Bạt Ma (-Varman) gồm Thiên
Trúc Chiên Đàn (Chandra), Kiều Trấn Như
(Kaudinya), và cải cách theo mô hình Ấn
Độ. Phù Nam tiếp tục phát triển và tồn tại
như một đế chế mạnh trong khu vực: “đế
chế Phù Nam gồm đến hơn 10 nước” (Võ
Văn Sen, 2017, tr.37) hay “một đế chế tới
gần 20 thành ấp” (Vũ Minh Giang, Nguyễn
Việt, 2017, tr.181). Tổ chức quản lý của đế
chế Phù Nam đối với các nước bị chinh
phục hay thần phục có mức độ lệ thuộc và
ràng buộc khác nhau. Hay cơ chế quản lý
và vận hành của đế chế Phù Nam mang
nặng tính chất liên kết kinh doanh, thương
mại, rất linh hoạt nhưng cũng rất lỏng lẻo.

Đô thị - cảng Ĩc Eo vẫn giữ vai trị là một
trong những trung tâm kinh tế - văn hóa,
mậu dịch quốc tế lớn nhất. Khoảng từ năm
540-550, kinh đô Đặc Mục của Phù Nam ở
Borei Angkor phải chuyển xuống phía Nam
ở thành Na Phật Na (tức Naravaranagara)
ở Ba Thê - Óc Eo (nay là thị trấn Ĩc Eo,
huyện Thoại Sơn). Nói chung, có thể cho
rằng chế độ gia đình mẫu hệ chuyển dần
sang chế độ gia đình phụ hệ khi nhà nước
sơ khai được hình thành.
Về hình thức tổ chức cộng đồng, dân
cư được quản lý theo hành chính lãnh thổ;
cư dân có quan hệ thân tộc và tính cộng
đồng cao. Nhiều ấp đơng dân trên diện tích
cư trú 2-5 km2 cùng hàng trăm bàu nước,
mỗi bàu nước được sử dụng cho nhiều
chục hộ dân7.

Cư dân văn hóa Ĩc Eo Tây sơng Hậu
có nhiều thành phần dân cư8, tổ chức xã
hội, gồm tầng lớp trên (quý tộc, tăng lữ,
chiến sĩ, thủy thủ, thương nhân, tầng lớp
thị dân…) và tầng lớp dưới (người lao
động) (Nhiều tác giả, 2016a, tr.215). Gia
đình người giàu có, chủ nhân của các đền
đài sống tập trung tại các thành thị, trung
tâm dân cư lớn như thành thị - cảng thị Ba
Thê - Óc Eo, thành Sdachao (Bảy Núi), Đá
Nổi Phú Hòa (Thoại Sơn), Nền Chùa (Tân

Hiệp), Cạnh Đền (Vĩnh Thuận). Những gia
đình có liên quan với các nghề luyện kim,
tạc tượng, chạm trổ, nghề dệt thường sống
gần các cơ sở sản xuất thủ cơng nghiệp để
hình thành các “làng nghề” ở khu vực Óc
Eo - Ba Thê, Nhơn Thành (Phong Điền).
Gia đình nơng dân sống dọc theo các thủy
lộ và tạo nên các cụm dân cư, xóm ấp xung
quanh các gò cao trên đồng ruộng như 30
gò trên cánh đồng Ĩc Eo, gị đất quanh đền
Vĩnh Hưng (Bạc Liêu), những tuyến kinh
và sông rạch nối các thị trấn, cảng thị
(Nhiều tác giả, 2016a, tr.568). Từ những
dấu tích về nhà sàn, di chỉ của nghề thủ
công, kiến trúc tôn giáo, khu vực Óc Eo Ba Thê được xem là khu dân cư đa tính
chất, đa chức năng (sinh hoạt đời thường,
sản xuất thủ công, sinh hoạt tôn giáo…).
Cộng đồng cư dân có mối quan hệ gần gũi
với nhau theo nhóm ngành nghề và cùng
giai cấp. Tuy nhiên, các tầng lớp nơng dân,
thợ thủ cơng và thương nhân cũng có sự
phân cực với nhau ở các mức độ khác
nhau, và giữa tầng lớp dưới với chính
quyền, giới tăng lữ, v.v.
Có thể cho rằng mỗi địa bàn dân cư
đều có đền thờ thần linh cho các “làng”, có
trung tâm tơn giáo cho cộng đồng địa
phương như trung tâm tơn giáo Ĩc Eo - Ba
Thê, Đá Nổi; các gia đình cũng thờ cúng
các vị thần riêng.

102


TRẦN TRỌNG LỄ

TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GỊN

thờ Linga và tượng thần Vishnu. Theo Võ
Sĩ Khải (1997), thờ thần Shiva (dưới dạng
linga) là biểu tượng của vương quyền, quý
tộc và chiến sĩ; theo Bùi Thị Ngọc Phương
(2016), thần Vishnu cũng là vị thần của
dân gian, mà người Óc Eo - Phù Nam chủ
yếu là nông dân, thợ thủ công và thương
nhân (Nhiều tác giả, 2016b, tr.599). Các
đền Ấn giáo giai đoạn sớm được phát hiện
ở những di tích “Gò Đá” gồm đền thần Mặt
Trời Surya, đền Hindu, đền thần Shiva, đền
thần Vishnu. Vùng đất Tây sông Hậu thời
kỳ Óc Eo, chủ yếu địa bàn Ba Thê - Óc Eo
được xác định là khu vực tập trung hàng
loạt khu đền thần Hindu giáo với loại đền ở
ngồi trời khơng có mái che (Hypaethral
temple) như Gị A5, Gị A7, Đá Nổi. Cư
dân cổ Tây sông Hậu đã tôn tạo những
ngôi đền Hindu giáo ở Óc Eo - Ba Thê từ
thời Phù Nam để tiếp tục sử dụng vào thời
hậu Phù Nam9 như đền thần ở Gò Tư
Trăm, Vĩnh Hưng. Đạo Hindu có vai trị
đặc biệt quan trọng trong cư dân cổ hậu Ĩc

Eo và họ có niềm tin vào các vị thần Ấn
giáo qua tượng Vishnu10, tượng Shiva,
tượng Brahma.
Theo phái thờ thần Shiva, hình ảnh
thần Shiva được thể hiện dưới dạng 12 biểu
tượng. Linga là một hình ảnh mang tính
biểu tượng của thần Shiva; trong khi đó,
một số người tin rằng linga xuất phát từ
hình dạng của biểu tượng tình dục. Con vật
thiêng liêng mà Shiva cưỡi là bò thần
Nandi (Nandi nghĩa là tận tâm duy nhất, có
đầu óc và sức mạnh). Cư dân Ĩc Eo có một
số đền thần Shiva ở Gị Cây Trơm, Nam
Linh Sơn, Giồng Xồi, Nền Chùa, Vĩnh
Hưng, đỉnh Núi Sam.
Thờ thần Vishnu được thể hiện qua
tượng thờ. Hình ảnh về các vật tùy thân
của thần Vishnu như vỏ ốc, bánh xe, quả
cầu, cây gậy là những đề tài chạm trên

3.2. Sắc thái văn hóa tín ngưỡng
Cộng đồng cư dân cổ Tây sơng Hậu có
các tín ngưỡng thờ đa thần (thờ đá, thờ
lửa…), thờ người chết, đạo Bàlamơn, Phật
giáo, Hindu giáo, và các tín ngưỡng Ấn
giáo khác. Hai tôn giáo Phật giáo và Ấn
giáo được truyền bá cả dưới dạng tín
ngưỡng dân gian cũng như trong hình thức
thể chế hóa (Võ Sĩ Khải, 2018, tr.213).
Trong đó, hầu hết các học giả đều nhận

thấy Hindu giáo dòng Vaishnative xuất
hiện khá sớm và đậm nét. Tín ngưỡng tơn
giáo của cư dân cổ có nguồn gốc ngoại
nhập từ nhiều nơi trên thế giới nhưng văn
hóa cổ Ấn Độ vẫn là phổ biến, cụ thể nhất
là văn hóa Bàlamơn mới và Phật giáo.
Những biểu tượng mang tín ngưỡng Ấn
Giáo và Phật giáo từ Ấn Độ trong các di
tích ở khu vực Ĩc Eo - Ba Thê gồm có dấu
tích đền thần, bia ký, tượng Phật, tượng
thần Brahma, Vishnu, Shiva, Hari Hara,
Ganesa, Lakshmi, Uma, Surya, linh vật thờ
Linga-Yoni, bò thần Nandin, chim thần
Garuda, rắn thần Naga, biểu tượng của
thần, một số hóa thân của thần Vishnu.
Đối với đời sống tâm linh của cư dân
đương thời, tơn giáo có vai trị quan trọng
và thần linh phải ngự trị trong một ngôi
đền đồ sộ ở trên gị. Về mặt tơn giáo, cư
dân cổ Tây sơng Hậu (tuyến ven biển hay
tuyến phía nam) có hướng nghiên về tơn
thờ thần Vishnu. Trong khi đó, tuyến phía
bắc Phù Nam (tuyến lục địa) gồm những
bộ lạc hay tiểu quốc tiền Môn - Khmer đã
hoặc đang trong quá trình Ấn Độ hóa
nghiên hơn về giáo phái tơn thờ thần Shiva
(Vũ Minh Giang, Nguyễn Việt, 2017,
tr.260). Khu quần cư ở núi Ba Thê được
xem là đất thánh, là trung tâm chính trị tơn giáo của vùng đất Tây sơng Hậu.
Về thờ thần Ấn giáo (Hinduism), cư

dân văn hóa Ĩc Eo Tây sông Hậu đã tôn
103


SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY

No. 76 (04/2021)

trang sức, đồng tiền, trên những lá vàng và
cịn được chơn theo trong đền thờ thần
Vishnu (Nhiều tác giả, 2016a, tr.172). Đó
là một số đền thần Vishnu ở Linh Sơn Tự,
Gị Út Trạnh.
Ngồi ra, những nhà khảo cổ đã nhận
thấy đền ba vị thần Brahma - Shiva Vishnu hay đền thần Shiva và Vishnu nằm
trên cùng một địa điểm (Gị Út Trạnh ở Ĩc
Eo, Thoại Sơn) với hiện vật, cấu trúc đền
của các thần Brahma, Shiva, Vishnu.
Về Phật giáo, cư dân cổ Tây sông Hậu
bị ảnh hưởng của Phật giáo từ Ấn Độ hay
đạo thờ Phật tổ - Ấn Độ (Nhiều tác giả,
2016a, tr.560) từ sớm. Theo Quảng Văn
Sơn (2016), hiện tượng những lá vàng
mỏng có in hình nổi tượng thần, động vật
và cả những câu kinh kệ ghi bằng chữ
Sanskrit được chôn trong hố thờ; những
dấu hiệu tôn giáo, đồ gốm và vật liệu kiến
trúc mang phong cách Nam Ấn cuối thiên
niên kỷ I trước Công nguyên (Nhiều tác
giả, 2016b, tr.525). Các tượng Phật được

phát hiện tại các di chỉ văn hóa Ĩc Eo như
Nền Chùa (Kiên Giang), Gị Cây Thị (Ĩc
Eo, An Giang), v.v. Một số loại tượng Phật
tiêu biểu như tượng Phật được tạc bằng đá
sa thạch gắn với bệ hoa sen, tượng Phật
bằng kim loại (chủ yếu là tượng Phật
đồng), v.v. Mặt khác, hình tượng thần Phật
liên quan đến “Tam vị nhất thể” được thể
hiện trên Linga, Yoni, Nandin, Garuda,
Hari Hara, Surya, Ganesa, v.v. Hầu như
hình tượng Phật giáo và tất cả các thần linh
Ấn giáo, các biến tướng của họ đều được
tìm thấy trong các di tích Ĩc Eo ở vùng đất
Tây sơng Hậu.
Các tín ngưỡng khác, cư dân cổ Tây
sơng Hậu có các tín ngưỡng thờ thần Mặt
Trời, thờ Đá, thờ Linga - Yoni, vật linh
giáo… tục thờ cây cỏ, động vật theo quan
niệm Ấn Độ đã được ghi nhận trên một số

hình chạm vàng, thờ người chết.
Thần Mặt Trời được thể hiện với bốn
bàn tay: ba bàn tay với mỗi tay mang một
vật là bánh xe, vỏ ốc, hoa sen, và bàn tay
thứ tư được đặt trong một tư thế bảo vệ.
Thần Mặt Trời11 được cư dân văn hóa Ĩc
Eo - Phù Nam tơn thờ, nhất là thành phần
cư dân làm nông nghiệp như đền thần Mặt
trời Surya ở Gị A1 (Gị Cây Cốc hoặc Gị
Ơng Boong), Gị A3 (Gị ơng Cơn hay Gị

Song Đơi), Gị Cây Thị ở khu di tích Ĩc Eo
- Ba Thê (Thoại Sơn).
Tục thờ đá, theo cư dân, “thần đá
12
lớn” đã vỡ ra thành những “thần đá nhỏ”
(nhiều viên đá thờ bằng nắm tay hoặc nhỏ
hơn, gồm nhiều loại đá và màu sắc khác
nhau) được thờ ở những tập thể dưới cộng
đồng và cả gia đình. “Thần đá lớn” đã trở
thành một loại “thần đất” ở các địa phương
nhỏ hay ở trong phạm vi một khoảnh đất
riêng. Ngày nay, cư dân địa phương có tục
thờ đá ở nhiều nơi, tiêu biểu như miễu ơng
Tà trong di tích miếu Đá Nổi với các câu
chuyện về đồng đá nổi, Thạch Đại Đao trên
núi Ba Thê.
Thờ người chết, cư dân cổ thể hiện
lịng tơn kính đối với người đã qua đời qua
tục an táng có kèm theo các vật tùy táng.
Theo Võ Sĩ Khải (2016), thờ người chết là
biểu hiện rõ nét nhất về tín ngưỡng của các
cư dân tiền sử, sơ sử và cổ đại (Nhiều tác
giả, 2016a, tr.254).
Thờ Linga-Yoni, Linga-Yoni là hình
thức ngẫu tượng kết hợp giữa Linga và
Yoni (Linga-Yoni)13 và là hình thức thờ
sinh thực khí hay được diễn giải như biểu
hiện của tín ngưỡng phồn thực. Linga Yoni cũng là biểu tượng trong Hindu giáo,
tượng trưng cho đấng thần linh vì mỗi vị
thần đều có vợ là người phối ngẫu, đồng

thời cũng là Shakti, tức là bản thể của
chính vị nam thần. Cụ thể là thần Shiva,
104


TRẦN TRỌNG LỄ

TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GỊN

thần đã phân thân hiện diện trong hình
dạng khác nhau. Shakti là vợ của thần
Shiva với nhiều hiện thân khác nhau như
Parvati - nữ thần của núi rừng và sinh sôi
nảy nở, Uma hay Durga - nữ thần với
quyền lực vô biên. Cặp Linga-Yoni có thể
được xem là sự đồng nhất của vị thần
Shiva với chính Shakti của mình, biểu thị
cho sự toàn năng của vị thần. Linga-Yoni
thường làm từ nhiều chất liệu và hình dạng
khác nhau, có hai dạng là liền bệ hoặc tách
rời. Ở vùng đất Tây sông Hậu, một số loại
Linga-Yoni được phát hiện, gồm loại
Linga-Yoni tạc gắn liền với bệ dạng hình
trịn ở Vĩnh Hưng (Bạc Liêu), Linga-Yoni
tạc gắn liền với bệ dạng hình trịn bằng
vàng ở khu vực Đá Nổi (Thoại Sơn, An
Giang); loại Linga-Yoni có Linga thơ ráp,
hình trụ trịn thn dần xuống dưới, đầu
chỏm tròn gắn liền với yoni ở An Giang;
loại Linga-Yoni làm bằng đá sa thạch hoặc

làm từ đá thạch anh với Linga hình trụ, đầu
hơi bằng gắn liền với Yoni có vịi dẫn nước
dạng hình vng, mặt Yoni chạm đục lõm
vng tạo thành gờ dẫn nước bao quanh
Yoni; loại Linga-Yoni tạc tách rời bệ có
cấu tạo Linga hình trụ trịn và Yoni hình
vng hoặc hình chữ nhật ở Ĩc Eo (An
Giang), Tháp Trà Long (Bạc Liêu). Di tích
tháp Vĩnh Hưng (Bạc Liêu) thể hiện cho
hình thức thờ Linga-Yoni của cộng đồng
cư dân Ĩc Eo - Phù Nam.
Có thể nói tín ngưỡng dân gian của cư
dân đã hòa nhập vào đạo Bà La Môn, đạo
Hindu và đạo Phật. Cư dân đã thực hiện các
tập tục, nghi lễ phù hợp với tín ngưỡng tôn
giáo trong đời sống, hoạt động sản xuất.
3.3. Sắc thái văn hóa phong tục
Cư dân Ĩc Eo - Phù Nam có các phong
tục vịng đời người, phong tục vịng đời cây
trồng, các tập tục kiêng cữ. Đó là cúng tế
trong các lễ cưới, có thai, sinh con, đám

tang, lễ vào nghề, lễ gieo mạ, đuổi tà, v.v.
Các giáo sĩ Bà La Môn thực hiện việc cúng
tế cho các chủ đất, thương gia và những
sinh hoạt tín ngưỡng truyền thống của các
cộng đồng, thị tộc (Võ Sĩ Khải, 2018,
tr.211). Trong hôn nhân và sinh sản, cư dân
cổ Tây sơng Hậu có hoạt động cúng tế khi
có thai, trưởng thành và trong lễ cưới.

Trong phong tục tang ma, tang lễ có thủy
táng, hỏa táng, thổ táng, điểu táng. Theo
sách Tấn thư (thư tịch cổ Trung Hoa),
“người Phù Nam để tang thì cắt tóc, cạo
râu” khi có người qua đời (Nhiều tác giả,
2016b, tr.95). Theo tục lệ mai táng, cư dân
cổ đặt những vật tùy táng (lá vàng nhỏ có
khắc hình, viên đá q) trong huyệt mộ14
(hình chữ nhật, hình vng, hình phễu) ở
khu di tích Ĩc Eo khi chơn người chết. Từ
các cuộc khai quật ở Nền Chùa, Óc Eo, Đá
Nổi, Kè Một, những mộ táng ở các di chỉ
này được cho là các khu hỏa táng.
Ngoài ra, cư dân cổ cũng có nhiều
nghi lễ, nghi thức cúng tế liên quan đến các
nghề nông, nghề rừng, nghề thủ công, nghề
buôn bán và các tập tục kiêng cữ trong sinh
hoạt hàng ngày. Một số lễ tục được nhận
biết như lễ gieo mạ và lễ tế thần tượng
vàng (thế kỷ VI)15 ở trung tâm tôn giáo Đá
Nổi; lễ thờ cúng linh thiêng Amrakesvara,
Puskarecvara, Vinecvara, Vardhamanecvara…
(Nhiều tác giả, 2016b, tr.58).
3.4. Sắc thái văn hóa lễ hội
Cư dân Ĩc Eo - Phù Nam ở Tây sơng
Hậu có các lễ hội ngành nghề, lễ hội gắn
với tín ngưỡng dân gian, lễ hội liên quan
đến thần Shiva và thần Vishnu, lễ hội tôn
giáo. Vào dịp lễ, đặc biệt là các lễ lớn của
các tơn giáo, các tín đồ của Phật giáo hoặc

Hindu giáo ở địa phương và các vùng lân
cận về tham gia vào các hoạt động tôn giáo
tại các trung tâm tơn giáo như Ĩc Eo - Ba
Thê, Đá Nổi (Đặng Văn Thắng, 2017,
105


SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY

No. 76 (04/2021)

tr.316). Họ cầu khấn để được phù hộ cho
cuộc sống trần tục của cộng đồng cư dân.
Cư dân thực hiện các nghi thức, lễ nghi
cúng tế, nghi lễ tôn giáo tại các đền thờ
hoặc tháp đối với thần linh, Phật. Tại các
đền thờ, một nhà dài được cho là nơi tĩnh
tâm, cầu nguyện của các tín đồ trước khi
vào hành lễ. Nhà dài tiêu biểu là kiến trúc
“nhà dài”16 (Mandapa) ở Gị Giồng Xồi;
có cấu tạo gồm bốn bờ tường xây bằng
gạch tái sử dụng chạy thẳng song song với
nhau theo hướng Đông - Tây (chếch Nam
100), dài 7-9,3m và cách nhau một quảng
rộng từ 2-3m.
Ngồi ra, cư dân cổ có nhiều hoạt
động giải trí trong lễ hội như nhảy múa, ca
hát, chọi gà, đấu lợn, v.v.
3.5. Sắc thái văn học nghệ thuật
Trong văn học, cộng đồng cư dân cổ

có lẽ đã có các loại hình văn học dân gian,
từ thần thoại, truyền thuyết, cổ tích về các
vị thần của Ấn giáo, Phật giáo, v.v. Cư dân
cổ cũng lưu truyền những tri thức bản địa
về hoạt động khai thác trồng lúa nổi, nhiều
loài cây ăn trái, khai thác gỗ, hoạt động săn
bắt, thuần dưỡng thú rừng, kinh nghiệm đi
biển, v.v.
Trong nghệ thuật diễn xướng, cư dân
cổ có các loại hình ca múa nhạc trong cung
đình - tơn giáo - dân gian. Có thể hình thức
múa cung đình đã rất phổ biến để phục vụ
cho vua và tầng lớp “quý tộc”. Nhiều loại
nhạc cụ đã ghi nhận được như sáo, tù và,
trống sắt, cồng và xập xõa (não bạt), lục lạc
đồng… và các loại nhạc cụ dây như tỳ bà,
kanjan, vina, lavl, harpe (Nhiều tác giả,
2016b, tr.59), v.v.
Trong nghệ thuật tạo hình, cư dân cổ
Tây sơng Hậu thể hiện qua nghệ thuật
trang trí, điêu khắc tạc tượng. Nghệ thuật
trang trí được khắc họa trên đồ trang sức
hoặc chạm trổ trên vàng, trên đá như tượng

thần, phù điêu, bùa đeo, con dấu, hình
khắc. Các hiện vật trong văn hóa Ĩc Eo
Tây sơng Hậu mang một phong cách Phù
Nam qua các vật phẩm. Đó những vật
phẩm kiểu Ấn Độ nhưng được sản xuất tại
Óc Eo, và những vật phẩm chịu ảnh hưởng

của Ấn Độ nhưng đã có phần pha trộn
truyền thống địa phương (Nhiều tác giả,
2016a, tr.637). Về tạc tượng, cư dân cổ đã
chế tác các loại tượng bằng gỗ, đá, đồng
mang phong cách nghệ thuật Óc Eo. Các
loại tượng thần Ấn giáo bằng đá và đồng,
chủ yếu là thần Vishnu ở Óc Eo, núi Ba
Thê, Giồng Xoài, Núi Sập, Đá Nổi, Châu
Đốc (An Giang); tượng Hari Hara, Brahma
ở núi Ba Thê; tượng Surya ở núi Ba Thê;
tượng Shiva ở Núi Sam, Cần Thơ; tượng
Laksmi ở Sóc Trăng. Một số tượng Phật
bằng gỗ ở An Giang, Hậu Giang, Cần Thơ,
Kiên Giang; tượng Phật bằng đồng ở Óc
Eo và bằng đá ở nhiều nơi như tượng Phật
bằng đá ở Hịn Sóc (Kiên Giang).
Điêu khắc Phật giáo bản địa thời kỳ
văn hóa Ĩc Eo (thế kỷ V-VII) sử dụng
nguồn nguyên liệu tại chỗ để tạc tượng như
các sưu tập tượng Phật bằng gỗ ở Đá Nổi.
Các pho tượng Phật thể hiện tâm thức tơn
giáo, tạc bằng gỗ tìm thấy trong tầng văn
hóa, với đặc trưng tiêu biểu là loại tượng
đứng. Điều này được cho là một cơ sở để
nói đến nền nghệ thuật tiếu tượng và một
phong cách nghệ thuật Phù Nam riêng biệt
(Nhiều tác giả, 2016a, tr.630).
3.6. Sắc thái văn hóa giao tiếp
Vùng đất Tây sơng Hậu được nhận
định là nơi hội tụ của nhiều nhóm cư dân

từ “miệt cao” và ngoại nhập đến sinh sống
và giao lưu kinh tế - xã hội, văn hóa. Theo
Đào Linh Cơn (2016), cộng đồng cư dân
văn hóa Ĩc Eo - Ba Thê gồm cư dân tại
chỗ, những kiều dân, thương gia (tầng lớp
thương gia hoạt động tại chỗ, thương nhân
106


TRẦN TRỌNG LỄ

TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GỊN

sống vãng lai), những người truyền đạo
Bà La Môn và nhiều sắc dân nói nhiều
ngơn ngữ khác nhau (Nhiều tác giả, 2016a,
tr.463). Về từ ngữ giao tiếp, mỗi nhóm cư
dân phải biết hoặc hiểu được ngơn ngữ,
tiếng nói phổ biến lúc bấy giờ của người
Ĩc Eo - Phù Nam. Tùy hồn cảnh giao
tiếp, nhóm cư dân sử dụng từ ngữ cho phù
hợp với ngành nghề, trao đổi mua bán, tín
ngưỡng tơn giáo, v.v.
Văn tự là phương tiện giao tiếp của
một bộ phận cộng đồng dân cư. Văn tự
được tìm thấy trên những di vật và minh
văn từ những di tích Ĩc Eo ở Đá Nổi, Ba
Thê, Núi Sam, Bảy Núi, tháp Vĩnh Hưng.
Đây là loại chữ Phạn cổ - loại văn tự dùng
trong giới tăng lữ và quý tộc cung đình.

Chữ viết là một sản phẩm của sự giao lưu
văn hóa do các thương nhân, các tu sĩ Phật
giáo Ấn Độ mang tới. Chữ viết xuất hiện ở
Ba Thê - Óc Eo từ thế kỷ I sau Công
nguyên, gồm những từ tiếng Phạn đơn lẻ
khắc trên những hiện vật nhỏ như nhẫn,
bùa đeo, con dấu, v.v. Chữ viết Phạn cổ
Brahmi (theo ngôn ngữ Sranskrit thời
Pallava thế kỷ II-V sau Công nguyên) và
về sau là ngơn ngữ Ĩc Eo lối mới du nhập
từ Nam Ấn Độ vào khoảng thế kỷ VI sau
Công nguyên (Nhiều tác giả, 2016b, tr.59).
Theo Võ Sĩ Khải (2016), cư dân có lẽ đã
quen thuộc với những khái niệm hàm chứa
trong những từ và văn bản của chữ Phạn cổ

về những biểu tượng của Ấn giáo, Phật
giáo như cõi trần, thiên đàng, cái chết và
cõi chết; khái niệm về vương quyền, pháp
lệnh… (Nhiều tác giả, 2016a, tr.247).
Kết luận
Khu vực Tây sơng Hậu là khơng gian
văn hóa thuận lợi cho sự giao thoa giữa các
tộc người và tiêu biểu cho tính cách “văn
hóa biển” của văn hóa Ĩc Eo - Phù Nam.
Cộng đồng cư dân văn hóa Ĩc Eo ở Tây
sơng Hậu đã phát triển hình thức tổ chức
cộng đồng từ vùng đất “bán sơn địa”, gò
đất cao ra đồng bằng thấp, “miệt biển”. Cư
dân Óc Eo - Phù Nam đã có các hoạt động

sinh hoạt tín ngưỡng - tơn giáo, tập tục, lễ
hội, nghệ thuật đa dạng gắn với giồng đất,
gò cao trên đồng bằng trũng hoặc quanh
chân đồi núi. Có thể nói rằng đặc trưng văn
hóa phi vật thể của cư dân văn hóa Ĩc Eo Phù Nam ở Tây sơng Hậu là loại hình văn
hóa tổ chức cộng đồng với đơn vị cư trú
quanh “thế đất cao”, theo đường nước cổ,
và với sự cố kết cộng đồng “xóm ấp” theo
quan hệ ngành nghề trong sự tương tác
giữa cộng đồng cư dân Ĩc Eo - Phù Nam
với mơi trường đồng bằng sông nước (ngập
lụt, xâm nhập mặn). Những nét riêng về
diện mạo văn hóa phi vật thể của cư dân
văn hóa Ĩc Eo - Phù Nam ở Tây sơng Hậu
góp phần bảo tồn và phát huy giá trị văn
hóa khảo cổ địa phương trong thời kỳ hội
nhập hiện nay.

Chú thích
1. Có thể là từ lưu vực sơng Tiền kéo dài đến lưu vực sơng Sài Gịn tương ứng với địa bàn các tỉnh
Đồng Tháp, Tiền Giang, Bến Tre, Vĩnh Long, Trà Vinh, Long An, TP. Hồ Chí Minh, một phần Tây
Ninh ngày nay (Đặng Văn Thắng, 2016, tr.256).
2. Theo L. Malleret, ghi nhận có 33 gị nổi trên cánh đồng Óc Eo nằm rải rác trong phạm vi “đơ thị cổ
Ĩc Eo”. Những gị lớn nổi cao như Gị Ĩc Eo, Gị Cây Thị, Giồng Cát, Gị Cây Trơm; và 25 “Gị
Đá” có quy mơ nhỏ hơn (cao 0,4-1,5m, diện tích từ 50-100m2) (Đặng Văn Thắng, 2016, tr.185).
3. Hệ thống giồng, cồn, doi cao (khoảng 2-3m) phân bố từ cửa sơng Sài Gịn qua Mỹ Tho, Bến Tre
vịng xuống Kiên Giang kéo lên Hà Tiên xuất hiện trước 2.000 năm nay là kết quả lắng đọng của đợt

107



SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY

No. 76 (04/2021)

biển tiến 3.000 năm và bồi đắp phù sa sau biển thối đó, vùng này còn gọi là “miệt thấp”, “miệt
dưới” (Vũ Minh Giang - Nguyễn Việt, 2017, tr.28).
4. Những bằng chứng cho thấy từ giai đoạn nước biển dâng cao trong Holocen giữa cho tới ngày nay
thì vùng phía tây Tứ giác Long Xuyên đã luôn là một vùng đầm lầy rừng ngập mặn rộng lớn và mới
chuyển sang được ngọt hóa gần đây (Trương Thị Kim Chuyên, 2017, tr.63).
5. Từ thế kỷ VI trước Công nguyên đến thế kỷ VIII sau Công nguyên, người Indonesian và nhiều lớp
người ngoại nhập đã tạo lập nền văn hóa Ĩc Eo - Phù Nam (Lý Tùng Hiếu, 2020, tr.246). Vào giai
đoạn từ thế kỷ II trước Công nguyên đến thế kỷ II sau Công nguyên, nhiều cộng đồng người khác
nhau từ vùng cao xuống, từ hải đảo - ven biển vào và từ các xứ sở khác bên ngồi tới đã hội tụ ở Ĩc
Eo - Ba Thê (Đặng Văn Thắng, 2016, tr.193). Theo Phan Huy Lê và Phan An (2016), cộng đồng cư
dân nước Phù Nam gồm các tộc người nói tiếng Nam Đảo và những nhóm tộc người khác; cư dân
của Phù Nam là một cộng đồng cư dân đa chủng tộc, đa ngơn ngữ và đa văn hóa (Nhiều tác giả,
2016a, tr.616, 621).
6. Bộ tộc do người phụ nữ có tên Liễu Diệp làm thủ lĩnh, là một nhóm tộc theo chế độ mẫu hệ trong
phạm vi ảnh hưởng của truyền thống những cư dân nói tiếng Nam Đảo: Kalanay - Hịa Diêm Samui. Hỗn Điền có lẽ đến từ cảng thị Khao Sam Kaeo ở bờ đông bán đảo Mã Lai - những người
nói tiếng Nam Đảo; cảng thị cũng là nơi xuất hiện dân cư lập làng và hào lũy làm cảng thị Ấn Độ
hóa từ thiên niên kỷ I trước công nguyên (Phan Huy Lê, 2017, tr.317).
7. Theo Võ Văn Sen - Phạm Đức Mạnh (2016), vua phân đất theo kiểu phong kiến và quản các “thành”
(pura-navara); mỗi thành của các “tiểu vương” quản nhiều ấp đông dân (Nhiều tác giả, 2016b, tr.58).
8. Theo Võ Sĩ Khải (2016), hình tượng trên bùa đeo có thể cho thấy phần nào tầng lớp của cư dân Ĩc
Eo. Có nhiều hệ thống ứng xử khác nhau giữa các cộng đồng và ngay trong nội bộ cộng đồng. Theo
Phạm Hữu Công (2016), cư dân của vương quốc Phù Nam gồm nhiều tộc người với nhiều tầng lớp
phân hóa (Nhiều tác giả, 2016a, tr.194, 215, 692).
9. Qua cuộc khai quật gò Tư Trăm ở triền núi Ba Thê, tầng văn hóa phát triển liên tục từ thế kỷ II TCN
- thế kỷ XII SCN, đền thần Shiva Vĩnh Hưng (Bạc Liêu) có một lần trùng tu (Đặng Văn Thắng,

2016, tr.203, 205).
10. Một pho tượng Vishnu có kích thước lớn, dáng nằm, làm bằng đá sa thạch được phát hiện ở trên gị
có dựng ngơi đình thờ Thành hồng làng Vọng Thê (nay thuộc huyện Thoại Sơn, An Giang), có
niên đại khoảng thế kỷ VIII-IX: Tượng Vishnu được đưa về Linh Sơn tự (thị trấn Óc Eo, H. Thoại
Sơn) và sửa đổi thành tượng Phật ngồi bốn tay, đệm cho hai chân giả bằng xi măng. Theo đó, thần
Vishnu được biểu hiện ngồi dưới một cái tán Naga bảy đầu, có lưng của thần Vishnu dựa vào thân
của con rắn cuộn làm ba vòng lớn bên phải và bên trái. Theo Roy C. Craven (2005) kiểu tượng
Vishnu nằm trên rắn thần Shesha (Ananta, Naga) đã thấy xuất hiện vào thời Gupta (320-550) ở Ấn
Độ (Nhiều tác giả, 2016b, tr.349).
11. Theo Đặng Văn Thắng - Hà Thị Sương (2016), trong Ấn Độ giáo, thần Mặt Trời Surya là một vị
thần quan trọng nhất trong những vị thần Veda. Thần ln có một bơng hoa sen ở trong tay và ngự
trên chiếc xe được kéo trên trời bởi bảy con ngựa hoặc một con ngựa có bảy đầu. Người đánh xe
ngựa cho thần Surya là Aruna - thần Bình Minh, ln mang một chiếc roi da trong tay. Trong tín
ngưỡng của người Ai Cập, thần Ra là thần mặt trời và là cha đẻ của các vị thần của người Ai Cập.
Trong phong tục của người Việt, thờ thần Mặt Trời cũng có từ thời Hùng Vương, với biểu tượng
Mặt Trời hình ngơi sao nhiều cánh trên mặt trống đồng (Nhiều tác giả, 2016b, tr.332). Theo Lê
Xuân Diệm - Đào Linh Côn (2016), tượng thần Surya (thần Mặt Trời) có nguồn gốc từ tín ngưỡng
thờ Mặt Trời của tộc người Nguyệt Chi (Scuthe) Trung Á (Nhiều tác giả, 2016a, tr.560).
12. Theo Võ Sĩ Khải (2016), tín ngưỡng cự thạch có hình thức ngun thủy là tục thờ những khối đá rất
lớn do con người dựng lên ngoài trời. Tục thờ những khối đá lớn là một tín ngưỡng tập thể của cộng
đồng trong thời đại kim khí (Nhiều tác giả, 2016a, tr.208).
13. Theo Lê Thanh Bình (2016), Linga, Yoni được tìm thấy phổ biến ở các di tích đền Ĩc Eo - Phù
Nam với nhiều loại hình và chất liệu khác nhau. Tùy vào mục đích sử dụng, Linga, Yoni có kích
thước lớn, nhỏ và được chế tác bằng đá, đất nung (Nhiều tác giả, 2016b, tr.408).

108


TRẦN TRỌNG LỄ


TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GỊN

14. Theo Nguyễn Thị Hậu (2016), di chỉ mộ táng ở Óc Eo - Ba Thê gồm các loại sau: mộ vò gốm ở khu
vực Linh Sơn Nam, mộ huyệt đất có hình chữ nhật ở khu vực Gị Tư Trâm, mộ hỏa táng có hình
vng hoặc hình chữ nhật. Lớp văn hóa mộ chum ở Linh Sơn Nam (sườn núi Ba Thê) có niên đại
thế kỷ I trước Cơng ngun và sau Công nguyên (Nhiều tác giả, 2016b, tr.189).
15. Theo Thái Văn Chải (1988), Hà Văn Tấn (1993), minh văn Đá Nổi ở An Giang (Võ Sĩ Khải, 2018, tr.167).
Theo Đặng Văn Thắng - Hà Thị Sương (2016), một kiến trúc được phát hiện ở bình phía trên đền
thần Shiva Giồng Xồi có dấu vết gạch xây, có thể chia cấu trúc ra thành ngăn, dấu vết chum, chậu
gốm nằm ở khoảng giữa các tường gạch. Theo Lê Xuân Diệm - Đào Linh Cơn (1995) có thể là
những đường hành lang dẫn đến đền thần Shiva từ phía Đơng (Nhiều tác giả, 2016b, tr.345).

TÀI LIỆU THAM KHẢO
Đặng Văn Thắng (chủ biên) (2016). Các tiểu quốc thuộc Vương quốc Phù Nam ở Nam Bộ.
TP. Hồ Chí Minh: NXB Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh.
Đặng Văn Thắng (chủ biên) (2017). Các trung tâm tơn giáo thuộc văn hóa Ĩc Eo ở Nam
Bộ. TP. Hồ Chí Minh: NXB Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh.
Hồng Phê (chủ biên) (2011). Từ điển Tiếng Việt. Hà Nội: NXB Từ điển Bách khoa.
Huỳnh Cơng Bá (2012). Cội nguồn và bản sắc văn hóa Việt Nam. NXB Thuận Hóa.
Lý Tùng Hiếu (2019). Văn hóa Việt Nam: tiếp cận hệ thống - liên ngành. TP. Hồ Chí
Minh: NXB Văn hóa - Văn nghệ TP. Hồ Chí Minh.
Lý Tùng Hiếu (2020). Các vùng văn hóa Việt Nam. TP. Hồ Chí Minh: NXB Đại học Quốc
gia TP. Hồ Chí Minh.
Nguyễn Văn Kim (chủ biên) (2017). Vùng đất Nam Bộ - Từ thế kỷ VII đến thế kỷ XVI, tập
3. Hà Nội: NXB Chính trị Quốc gia Sự thật.
Nhiều tác giả (2012). Địa chí tỉnh Sóc Trăng, Tỉnh uỷ - Ủy ban Nhân dân tỉnh Sóc Trăng.
Nhiều tác giả (2016a). Di sản văn hóa Ĩc Eo - Ba Thê tỉnh An Giang. Hà Nội: NXB Văn
hóa Dân tộc Hà Nội.
Nhiều tác giả (2016b). Giá trị của di sản văn hóa Ĩc Eo - An Giang trong tiến trình phát
triển kinh tế - xã hội. TP. Hồ Chí Minh: NXB Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh.

Trương Thị Kim Chuyên (chủ biên) (2017). Vùng đất Nam Bộ - Điều kiện tự nhiên, môi
trường sinh thái, Tập 1. Hà Nội: NXB Chính trị Quốc gia Sự thật.
Võ Sĩ Khải (2018). Văn hóa đồng bằng Nam Bộ - di tích kiến trúc cổ - kiến trúc trong văn
hóa Ĩc Eo và hậu Óc Eo ở Nam Bộ. Hà Nội: NXB Khoa học Xã hội.
Võ Văn Sen (2017). Vùng đất Nam Bộ - Tiến trình hội nhập khu vực và thế giới, Tập 2. Hà
Nội: NXB Chính trị Quốc gia Sự thật.
Vũ Minh Giang & Nguyễn Việt (2017). Vùng đất Nam Bộ - từ cội nguồn đến thế kỷ VII,
tập 2. Hà Nội: NXB Chính trị Quốc gia Sự thật.
Ngày nhận bài: 14/5/2020

Biên tập xong: 15/4/2021
109

Duyệt đăng: 20/4/2021



×