Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

Khu vực Thất Sơn (An Giang) với thế trận phòng thủ biên giới Tây Nam Bộ của nhà Nguyễn trong thời kì 1802-1867

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.09 MB, 7 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SÀI GỊN
SAIGON UNIVERSITY
TẠP CHÍ KHOA HỌC
SCIENTIFIC JOURNAL
ĐẠI HỌC SÀI GÒN
OF SAIGON UNIVERSITY
Số 76 (04/2021)
No. 76 (04/2021)
Email: ; Website: />
KHU VỰC THẤT SƠN (AN GIANG)
VỚI THẾ TRẬN PHÒNG THỦ BIÊN GIỚI TÂY NAM BỘ
CỦA NHÀ NGUYỄN TRONG THỜI KÌ 1802-1867
Thất Sơn region (An Giang) and the defense posture of the Southwestern border
of the Nguyễn Dynasty in the period 1802-1867
ThS. Dương Thế Hiền
Trường Đại học An Giang – ĐHQG TP.HCM
TÓM TẮT
Dưới thời Nguyễn, vùng biên giới Tây Nam Bộ giữ vị trí địa chiến lược quan trọng trong hệ thống
phòng thủ quốc gia trước sự xâm lấn của Siam và Chân Lạp với nhiều khu vực trọng yếu trong đó có
Thất Sơn. Trên khu vực Thất Sơn, nhà Nguyễn đã xây dựng, thiết đặt nhiều cơ sở phòng thủ, trù bị quốc
phòng trong sự kết hợp với các trung tâm phịng thủ khác nhằm giữ gìn sự tồn vẹn lãnh thổ của đất
nước trên tuyến biên giới Tây Nam Bộ. Bài viết này tập trung làm rõ vị trí địa chiến lược và vai trị của
khu vực Thất Sơn trong thế trận phòng thủ biên giới Tây Nam của nhà Nguyễn trong thời kì 1802-1867.
Từ khóa: An Giang, nhà Nguyễn, phòng thủ, Tây Nam Bộ, Thất Sơn.
ABSTRACT
Under the Nguyễn Dynasty, the Southwestern border area held an important geostrategic position in the
national defense system against the invasion of Siam and Chenla with many important areas, including
Thất Sơn. In the Thất Sơn area, the Nguyễn Dynasty built and installed many defense facilities, defense
preparations in combination with other defense centers to preserve the territorial integrity of the country
on the Southwestern border line. This article focuses on clarifying the geostrategic position and the role
of the Thất Sơn region in the defense posture of the Southwestern border of the Nguyễn Dynasty in the


period 1802-1867.
Keywords: An Giang, Nguyễn Dynasty, defense, Southwestern, Thất Sơn

Giang vào chiến lược quốc phịng biên
giới, trong đó khu vực Thất Sơn được chú
trọng đặc biệt với vai trò của một căn cứ tự
nhiên làm điểm tựa cho hệ thống phòng thủ
biên giới trải dài từ Hà Tiên đến Châu Đốc.
Dưới sự tổ chức quốc phịng của chính
quyền nhà Nguyễn, khu vực Thất Sơn trở
thành nhân tố trọng yếu trong hệ thống
phịng thủ tương liên, khơng chỉ giữa An
Giang và Hà Tiên mà cịn có sức ảnh

1. Đặt vấn đề
Trên vùng đất Nam Bộ, An Giang có
vị trí khá quan trọng với đường biên giới
án ngữ phía Tây Nam của Tổ quốc, tiếp
giáp với Chân Lạp dài khoảng 100km, lại
là nơi thường xun xảy ra tình hình bất ổn
về chính trị và quân sự với các nước láng
giềng (Chân Lạp, Siam) trong lịch sử.
Chính quyền nhà Nguyễn đã phát huy ưu
thế vị trí và địa hình của vùng đất An
Email:

75


SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY


No. 76 (04/2021)

hưởng mạnh mẽ đến các khu vực khác trên
toàn tuyến biên giới Tây Nam Bộ.
2. Vị trí địa chiến lược của khu vực
Thất Sơn trên vùng biên giới Tây Nam Bộ
An Giang là khu vực địa chiến lược
đặc biệt trên tuyến biên giới Tây Nam Bộ,
nơi tiếp xúc và va chạm truyền thống giữa
nước Việt Nam với Chân Lạp và Siam
dưới thời nhà Nguyễn từ 1802 đến 1867.
Vùng biên giới An Giang rất hiểm trở với
địa hình đồi núi cheo leo, nối tiếp nhau
phân bố rộng khắp. Trong hệ thống “liên
sơn” này, nổi bật lên khu vực Thất Sơn,
nơi có những ngọn núi quan trọng nhất cả
về mặt quân sự và lý học.
Nội hàm của khái niệm Thất Sơn kể từ
thời nhà Nguyễn cho đến nay vẫn còn
nhiều ý kiến chưa thống nhất. Theo “Gia
Định thành thơng chí” do Trịnh Hồi Đức
biên soạn đã nói đến vấn đề sơn, xuyên ở
An Giang (thuộc Trấn Vĩnh Thanh), do giữ
nhiệm vụ là quan Hiệp tổng trấn Gia Định
thành dưới triều Gia Long nên ơng khơng
có nhiều điều kiện trải nghiệm thực địa, vì
vậy việc ghi chép cịn hạn chế. Theo đó,
Trịnh Hồi Đức chỉ ghi nhận được 19 ngọn
núi ở An Giang là Thoại Sơn, Bảo Sơn, Ba

Thê, Trà Chiếu, Trà Nghinh, Tượng, Ca
Âm, Nam Sư, Khê Lạp, Chút, Tà Biệt, Ba
Xùi, Ất Sum, Nam Vi, Đài Tốn, Chân
Sum, Sâm Đăng, Đại Ba Đê, Tiểu Ba Đê
(Trịnh Hồi Đức, 2006, tr.28-33). Tuy
nhiên, “Gia Định thành thơng chí” khơng
thấy nói đến danh từ “Thất Sơn”. Năm
1882, bộ “Đại Nam nhất thống chí” ra đời
trên cơ sở “Gia Định thành thơng chí”
nhưng có nhiều dữ liệu mới trong đó nói rõ
7 ngọn núi tạo nên Thất Sơn là Tượng Sơn,
Cấm Sơn, Ốc Nhẫm, Nam Vi, Tà Biệt và
Nhân Hòa. Tất cả đều nằm trong cương
giới tỉnh An Giang (Quốc sử quán triều
Nguyễn, Viện Sử học, 2006, tr.195-199).
Nguyễn Văn Hầu trong “Thất Sơn mầu

nhiệm” cho biết Thất Sơn gồm những ngọn
núi sau: Trà Sư, Kéc, Dài, Tượng, Bà Đội
Om, Tơ và Cấm (Nguyễn Văn Hầu, 1972,
tr.15-20). Cịn theo Vương Hồng Sển trong
“Tự vị tiếng nói miền Nam”, Thất Sơn bao
gồm các núi: Tượng, Tô, Cấm, Sam, Két,
Dài, Tà Béc (Vương Hồng Sển, 1999,
tr.453, 458, 465).
Trong khi đó, Trần Thanh Phương
(1984) trong “Những trang về An Giang”
đã kể tên Thất Sơn gồm: núi Cấm (Thiên
Cấm Sơn), núi Dài Năm Giếng (Ngũ Hồ
Sơn), núi Cơ Tơ (Phụng Hồng Sơn), núi

Dài (Ngọa Long Sơn), núi Tượng (Liên
Hoa Sơn), núi Két (Anh Vũ Sơn), núi
Nước (Thủy Đài Sơn). Nhân dân trong
vùng cũng liệt kê tên gọi của các núi thuộc
Thất Sơn giống như trong sách của Trần
Thanh Phương. Có lẽ khi thực hiện
“Những trang về An Giang”, tác giả đã về
vùng Thất Sơn sưu tầm tư liệu từ dân gian.
Cho đến nay, quan điểm này được khá
nhiều người đồng thuận.
Tuy có sự khác nhau về quan điểm đối
với các ngọn núi tạo nên dãy Thất Sơn giữa
thời kì sau so với thời Nguyễn, song tất cả
đều xác định ở An Giang có 7 ngọn núi
“linh huyệt” về mặt lý học và quan trọng
về mặt địa chiến lược. Trong đó, Thiên
Cấm Sơn với chiều cao 705m ln có vị trí
quan trọng trong quan niệm của con người
thời Nguyễn và thời nay (UBND tỉnh An
Giang, 2013, tr.111).
Thất Sơn có ý nghĩa lớn về mặt tâm
linh đối với cư dân An Giang nói riêng và
Nam Bộ nói chung. Từ xưa đến nay, Thất
Sơn ln được xem là nơi ẩn chứa nhiều bí
mật huyền diệu của thiên cơ. Trong dịng
chảy tín ngưỡng của người Nam Bộ về sự
linh thiêng của vùng Thất Sơn đều tụ hội
về Thiên Cấm Sơn với một màu sắc tâm
linh huyền bí khó giải thích. Đây chính là
khu vực quan trọng của An Giang về mặt

76


DƯƠNG THẾ HIỀN

TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GỊN

tâm linh, tín ngưỡng.
Khơng những mang nhiều ý nghĩa về
mặt tâm linh và cố kết nhân tâm, vùng Thất
Sơn còn chứa đựng ý nghĩa chiến lược lớn về
mặt quân sự, quốc phịng an ninh, nhất là
trong thời kì nhà Nguyễn. Vùng đất địa chiến
lược này án ngữ dãy biên giới Tây Nam Bộ
với ngọn Thiên Cấm Sơn cao chót vót có
tầm nhìn bao quát cả một khu vực rộng lớn
xung quanh. Đây là yếu tố địa lợi quan trọng
về mặt quân sự và thông tin liên lạc.
Vùng đất An Giang mang đặc điểm
bán sơn địa rất rõ nét với sự phân bố rộng
khắp của địa hình đồi núi. Trong đó, khu
vực Thất Sơn với diện tích khoảng 600km2
(UBND tỉnh An Giang, 2013, tr.111) địa
hình đồi núi được xem là một ưu thế rất lớn
trong việc thiết lập thế trận phòng thủ và
triển khai phản công. Vùng Thất Sơn như
một pháo đài thiên nhiên vô cùng kiên cố
trước sự tấn công của Chân Lạp và Siam,
án ngữ cả vùng bờ biển Hà Tiên - Rạch
Giá, không chỉ là “tấm khiêng bằng đá tự

nhiên” làm tấm bình phong che chắn cho
tồn khu vực phía Tây Nam Bộ.
Yếu tố hiểm địa của vùng núi non
được các nhà quân sự từ cổ chí kim thừa
nhận và đánh giá rất cao trong việc điều
binh khiển tướng. Trong lịch sử Việt Nam,
khơng ít trường hợp đã lợi dụng triệt để địa
hình đồi núi để giữ thế phịng thủ và phản
cơng chiến lược giành lấy thế thắng, có thể
kể đến Đinh Bộ Lĩnh (924-979), ông đã lợi
dụng địa hình hiểm trở của động Hoa Lư
mà xây dựng căn cứ buổi đầu dẹp loạn 12
sứ quân, Lê Lợi (1385-1433) nhờ rừng núi
Chí Linh mà ba lần cố thủ thành cơng, tạo
tiền đề duy trì lực lượng rồi phản cơng
đánh bại qn đơ hộ nhà Minh. Đó được
xem là yếu tố “địa lợi” trong binh pháp.
Khu vực Thất Sơn vừa có đồi núi để
tạo thế phịng thủ và phản cơng, lại vừa có
đồng bằng để canh tác ni qn. Đây

chính là yếu tố tạo nên tính bền vững của
căn cứ quân sự thời kì đầu vừa khai phá,
vừa giữ đất. Yếu tố địa lợi từ vùng rừng
núi Thất Sơn trở thành lá chắn tự nhiên
ngăn trở những đợt địch họa từ bên ngồi
vào trung tâm An Giang nói riêng và Nam
Bộ nói chung. Thiên Cấm Sơn với lợi thế
có độ cao nhất trong vùng chắc chắn được
chọn làm nơi thuận lợi để quan sát, thám

báo tình hình trong cả cơng tác phịng thủ
và tấn cơng. Do đó, đối với chính quyền
nhà Nguyễn, việc kiểm soát và phát huy
thế mạnh của vùng đất chiến lược này
không thể xem nhẹ trong việc ổn định và
phòng thủ biên giới Tây Nam Bộ. Tuy
nhiên, việc thực thi chính sách quốc phịng
ở đây là sự nghiệp khó khăn vì nơi này tập
trung phần lớn cư dân Khmer, hay bị kích
động, dễ bị chi phối từ phía Chân Lạp, gây
nên tình hình trị an thường xun bất ổn.
Điều này phương hại đến cơng tác quốc
phịng của nhà Nguyễn trên cả vùng biên
giới Tây Nam Bộ. Vấn đề này thể hiện khá
rõ trong thời Thiệu Trị (1841-1845) khi
vùng Thất Sơn liên tục bất ổn song song
với cuộc chiến tranh xâm lược của liên
quân Siam - Chân Lạp vào Hà Tiên, An
Giang từ 1841 đến 1845. Trong suốt thời
gian đó, chính quyền nhà Nguyễn phải liên
tục vừa điều quân trấn áp bên trong vừa
chống giặc bên ngoài, thể hiện rõ thế lâm
nguy cho phía Nam đất nước (Dương Thế
Hiền, 2014, tr.184).
Với vị trí địa chiến lược quan trọng án
ngữ ngõ biên giới Tây Nam Bộ vào khu
vực Nam Bộ trù phú, Thất Sơn như một
con đê tự nhiên ngăn trở bước chân của các
đoàn quân xâm lược từ Chân Lạp và Siam.
Khu vực này không chỉ là trọng điểm về

quốc phòng, an ninh, mà còn là địa điểm
nhạy cảm cần thiết tăng cường sự hiện diện
về mặt quân sự của nhà Nguyễn. Có thể
nói, vị trí địa chiến lược và địa hình đặc
77


SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY

No. 76 (04/2021)

trưng của Thất Sơn đã tác động lớn đến
chính sách quốc phịng của nhà Nguyễn,
đóng góp to lớn vào cơng cuộc giữ nước
của dân tộc trên tuyến biên giới Tây Nam
Bộ trong thời kì 1802-1867.
3. Vai trò nền tảng của khu vực
Thất Sơn trong thế trận phòng thủ biên
giới Tây Nam Bộ của triều Nguyễn thời
kì 1802-1867
Từ khi sáp nhập vùng đất Tầm Phong
Long (1757) vào lãnh thổ Đại Việt (Quốc
sử quán triều Nguyễn, Viện sử học, 2007a,
tr.166-167), chính quyền chúa Nguyễn đã
bắt đầu chú ý đến vùng núi non tiệm cận
biên giới với Chân Lạp. Trong thế trận
quốc phòng biên giới Tây Nam Bộ lấy vùng
đất An Giang với Thất Sơn vững chắc và
sơng Cửu Long linh hoạt làm trọng tâm thì
men theo biên giới với Chân Lạp về phía từ

An Giang đến Tây Ninh chúa Nguyễn cho
thiết lập các đồn phòng thủ biên giới ở
Châu Giang, Hùng Ngự (Hồng Ngự) và
Tây Ninh, lấy quân Côn Man trấn giữ (Sơn
Nam, 2009, tr.63) theo kế “dĩ Man công
Man” của Nguyễn Cư Trinh. Về điều này,
“Đại Nam thực lục” chép: “Thần xem
người Côn Man giỏi thuật bộ chiến, người
Chân Lạp cũng đã e sợ. Nếu cho họ ở đất
ấy để họ chống giữ, lấy người Man đánh
người Man (dĩ Man công Man) cũng là đắc
sách... Chúa liền y theo” (Quốc sử quán
triều Nguyễn, Viện sử học, 2007a, tr.166).
Hệ thống phòng thủ thuở ban đầu này được
liên lạc với nhau bằng đường tắt biên giới
băng qua khu vực Sồi Riêng, Đồng Tháp
Mười. Bên cạnh đó, tại vùng Thất Sơn,
chúa Nguyễn còn cho lập đồn ở vùng Tĩnh
Biên để án ngữ Thất Sơn và giữ liên lạc
thông suốt giữa Châu Đốc với Hà Tiên
(Nguyễn Văn Hầu, 1970, tr.19).
Sang thế kỉ XIX, khi đất nước được
thống nhất, vấn đề bảo vệ biên giới quốc
gia trước các cuộc xâm lấn từ bên ngoài rất

được các vua Nguyễn chú trọng. Tiếp nối
chính sách quốc phịng của các chúa
Nguyễn, vua Gia Long vẫn tiếp tục xem
vùng biên giới Tây Nam - nơi dãy đất từ
Châu Đốc đến Hà Tiên, là vùng chiến lược

quan trọng trong cơng cuộc phịng thủ biên
giới Tây Nam Bộ. “Đại Nam thực lục” đã
chép lại lời vua Gia Long nhận xét về tầm
quan trọng của vùng đất này “Châu Đốc,
Hà Tiên bờ cõi chẳng kém Bắc Thành”
(Quốc sử quán triều Nguyễn, Viện Sử học,
2007a, tr.946).
Công tác quốc phòng khu vực này
được thiết lập dựa trên một hệ thống đồn
bảo tương liên kéo dài từ vùng biên địa Hà
Tiên, Thất Sơn, Châu Đốc qua vùng Tân
Châu, Hùng Ngự, Thơng Bình (Quốc sử
qn triều Nguyễn, Viện sử học, 2007c,
tr.281) đến khu vực Tây Ninh (Dương Thế
Hiền, 2014, tr.70). Trong đó, các vùng đất
của An Giang được chú trọng đặc biệt với
việc thiết lập 3 hệ thống phịng thủ có quan
hệ tương liên với nhau là:
- Hệ thống phòng thủ Thoại Hà - Thất
Sơn - Vĩnh Tế;
- Hệ thống phòng thủ trên sơng Hậu;
- Hệ thống phịng thủ trên sơng Tiền.
Kể từ khi hai kênh đào Thoại Hà (1818)
và Vĩnh Tế (1819-1824) ra đời chẳng những
không làm mất đi vị trí, vai trị quan trọng
của Thất Sơn trong cơng cuộc bố trí phịng
thủ biên giới Tây Nam Bộ mà trái lại nhà
Nguyễn đã kết hợp yếu tố “sơn thủy tương
liên” tạo nên một hệ thống phòng thủ Thoại
Hà - Thất Sơn - Vĩnh Tế rất kiên cố, có sự

hỗ trợ thủy bộ trong việc phịng thủ và phản
cơng địch. Trong đó, khu vực Thất Sơn trở
thành xương sống, nền tảng cho hệ thống
phịng thủ khơng những trên địa bàn An
Giang xưa mà trên cả tuyến biên giới Tây
Nam Bộ.
Các công sự, thành trì trong hệ thống
phịng thủ Thoại Hà - Thất Sơn - Vĩnh Tế
78


DƯƠNG THẾ HIỀN

TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GỊN

được mở mang tu bổ và được hậu thuẫn
trực tiếp từ hai hệ thống phịng thủ trên
sơng Hậu và sơng Tiền cùng với sự tiếp
ứng liên tục từ các đồn đạo ở phía Đơng và
Đơng Nam sơng Cửu Long khi có giặc.
Theo đó, các đồn bảo thuộc vùng Thất Sơn
được thiết lập bao gồm:
- Bảo Vĩnh Thông nằm ở địa phận
huyện Hà Âm, đắp từ năm Thiệu Trị thứ 2
(1842). Bảo này có chu vi 78 trượng, cao 3
thước (Quốc sử quán triều Nguyễn, Viện
Sử học, 2006, tr.219).
- Bảo Vĩnh Lạc nằm ở địa phận huyện
Hà Âm, đắp từ năm Thiệu Trị thứ 2 (1842).
Bảo này có chu vi 24 trượng 8 thước, cao 3

thước (Quốc sử quán triều Nguyễn, Viện
Sử học, 2006, tr.219).
- Bảo Thân Nhân nằm ở địa phận
huyện Hà Âm, đắp từ năm Thiệu Trị thứ 2
(1842). Bảo này có chu vi 32 trượng 4
thước, cao 3 thước (Quốc sử quán triều
Nguyễn, Viện Sử học, 2006, tr.219).
- Bảo Vĩnh Điều nằm ở địa phận
huyện Hà Âm, đắp từ năm Thiệu Trị thứ 2
(1842). Bảo này có chu vi 33 trượng 4
thước, cao 3 thước (Quốc sử quán triều
Nguyễn, Viện Sử học, 2006, tr.219).
- Bảo Cần Thăng nằm ở địa phận huyện
Tây Xuyên, đắp từ năm Thiệu Trị thứ 4
(1844). Bảo này có chu vi 66 trượng, khơng
thấy nói đến chiều cao (Quốc sử quán triều
Nguyễn, Viện Sử học, 2006, tr.219).
- Bảo Bắc Nam nằm ở địa phận huyện
Tây Xuyên, đắp từ năm Thiệu Trị thứ 5
(1845). Bảo này có chu vi 24 trượng, cao 4
thước (Quốc sử quán triều Nguyễn, Viện
Sử học, 2006, tr.221).
- Bảo Nhân Hội nằm ở địa phận huyện
Tây Xuyên, đắp từ năm Thiệu Trị thứ 6
(1846). Bảo này có chu vi 38 trượng, cao 3
thước 6 tấc (Quốc sử quán triều Nguyễn,
Viện Sử học, 2006, tr.221).
- Bảo Hưng Nhượng nằm ở địa phận

huyện Hà Dương, đắp từ năm Thiệu Trị

thứ 7 (1847). Bảo này có chu vi 60 trượng,
cao 4 thước (Quốc sử quán triều Nguyễn,
Viện Sử học, 2006, tr.219).
Các đồn bảo thuộc hai tuyến phịng thủ
Vĩnh Tế - Thất Sơn có mối liên hệ chặt chẽ
với nhau tạo nên hệ thống phòng thủ thủy
bộ vững chắc góp phần giữ vững biên giới
Tây Nam Bộ.
Hai hệ thống phòng thủ tương liên
Vĩnh Tế - Thất Sơn dưới thời Nguyễn
mang những đặc điểm riêng biệt. Về mặt
địa lý, khu vực phòng thủ này xa hai trung
tâm quân sự Hà Tiên và Châu Đốc. Về mặt
dân cư, sự hiện diện chủ yếu ở khu vực này
là đồng bào Khmer, trong khi người Việt
vẫn chưa thâm nhập, khai phá rộng rãi nên
cơng cuộc quốc phịng nhân dân chưa đủ
điều kiện tiến hành. Khi chiến tranh xảy ra,
triều Nguyễn phải tăng cường binh lực cho
các cơ sở phòng thủ nơi đây trên nguyên
tắc kết hợp các yếu tố địa lợi để chống
giặc. Tuyến phòng thủ Vĩnh Tế được vận
dụng như một chiến hào khổng lồ dài
khoảng 90km với nhiều đồn bảo chống
giặc từ ngoài biên cương như: Vĩnh Điều,
Vĩnh Thông, Vĩnh Gia, Giang Nông, Vĩnh
Tế, Vĩnh Thịnh, Tiến An, Bình Di, Thân
Nhân, Hưng Nhượng, Vĩnh Lạc, Vĩnh Hịa,
Thuyết Nật, Đàm Triết (Nội các triều
Nguyễn, Viện Sử học, 1993, tr.405-409).

Trong sự kết hợp đó, khu vực Thất Sơn với
các cơ sở phịng thủ nói trên trở thành hệ
thống trường thành hiểm trở, “dễ thủ khó
cơng” nhằm ngăn bước qn xâm lược tiến
vào vùng trung tâm Tây Nam Bộ.
Đối với chính quyền nhà Nguyễn,
vùng đất An Giang là vị trí then chốt của
quốc phịng phía Nam. Năm 1821, vua
Minh Mạng đã sai Nguyễn Văn Thoại đóng
giữ bảo Châu Đốc, lại lĩnh chức Bảo hộ
quốc ấn nước Chân Lạp, kiêm lý việc biên
vụ Hà Tiên với dụ rằng “Châu Đốc là đất
79


SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY

No. 76 (04/2021)

xung yếu, ngươi nên khéo phủ dụ, mộ dân
buôn lập thành làng mạc để hộ khẩu ngày
một tăng, đồng ruộng ngày mở mang. Còn
việc biên phòng cũng phải cẩn trọng
nghiêm ngặt.” (Quốc sử quán triều
Nguyễn, Viện Sử học, 2007b, tr.123).
Chính quyền nhà Nguyễn nhiều lần
đánh giá vùng Thất Sơn rất hiểm trở,
“đường rừng nhiều ngã, chưa dễ đi cùng
kiệt trong rừng núi” (Quốc sử quán triều
Nguyễn, Viện Sử học, 2007e, tr.248) hay

“Vĩnh Tế là đường vận tải thơng báo của
tỉnh An Giang, phía Bắc sơng này liên tiếp
với Thất Sơn, phía Nam sơng này liên tiếp
với các núi Sâm Đăng, Chân Sâm, Bà Đê,
Cần Thế, Lệ Chân, phàm những đường có
thể qua lại, bọn thổ phỉ đều dựa vào chỗ
hiểm, đặt đồn làm chước cố giữ” (Quốc sử
quán triều Nguyễn, Viện Sử học, 2007e,
tr.248), nên việc kiểm soát càng được tăng
cường. Theo đánh giá của Nguyễn Văn
Hầu vùng đất An Giang quan trọng bởi hai
yếu tố “dãy Thất Sơn với gần 20 ngọn núi
nằm về phía Tây Mótt Chrúk (Châu Đốc)
là một địa lợi về mặt cứ hiểm quân sự,
những nhánh sông Tiền và Hậu lưu thơng
từ Phnom Penh ra biển phía Nam lại là một
thủy đạo thiết yếu về thương mại và quốc
phòng” (Nguyễn Văn Hầu, 1970, tr.3).
Thất Sơn trở thành một mắc xích quan
trọng trong hệ thống phịng thủ khu vực
biên giới Tây Nam Bộ nói riêng và Tây
Nam nói chung. Sự hiệp ứng, tương cứu
cho nhau giữa các căn cứ phòng thủ được
thể hiện rất rõ qua cuộc chiến tranh Việt Siam (1841-1845). Năm 1841, sau khi vua
Thiệu Trị cho rút quân khỏi Chân Lạp,
quân Nguyễn tổ chức phòng thủ biên giới
nghiêm ngặt. Quân Siam với thực lực lớn
đã nhanh chóng uy hiếp và đánh chiếm Hà
Tiên, tiến vào đánh chiếm các căn cứ ở
Thất Sơn để tạo bàn đạp tiến vào sâu trong

nội địa (Quốc sử quán triều Nguyễn. Viện

Sử học, 2007c, tr.313-316). Trước việc mất
Hà Tiên và các căn cứ trọng yếu ở Thất
Sơn, vua Thiệu Trị lập tức điều quân từ
Huế, Quảng Nam, Quảng Ngãi (Sơn Nam,
1988, tr.13), Gia Định, Biên Hòa, Vĩnh
Long, Định Tường, An Giang (Quốc sử
quán triều Nguyễn, Viện Sử học, 2007d,
tr.304) để tăng cường tiếp ứng đánh giặc ở
mặt Hà Tiên, Thất Sơn, Vĩnh Tế, Tân
Châu; đồng thời cho các cánh quân án ngữ
những tuyến phịng thủ yếu địa gồm: Vĩnh
Tế, sơng Hậu, sơng Tiền (Quốc sử quán
triều Nguyễn, Viện Sử học, 2007d, tr.311).
Bằng cách tổ chức tác chiến, vận dụng sự
linh hoạt tương hỗ giữa các căn cứ trên dãy
biên giới Tây Nam Bộ, qn Nguyễn đã
nhanh chóng kiểm sốt tình hình, từng
bước thu hồi các căn cứ trọng yếu thuộc
khu vực Thất Sơn tạo lợi thế quan trọng
đánh tan quân giặc nơi tiền tuyến Hà Tiên,
đẩy quân Siam ra khỏi bờ cõi Việt Nam.
(Quốc sử quán triều Nguyễn, Viện Sử học,
2007d, tr.321-326)
Chính vì sự quan trọng và sức tác động
của vùng Thất Sơn lên chính sách quốc
phịng của nhà Nguyễn rất lớn nên việc
thiết lập một hệ thống vừa giữ an ninh, trật
tự vừa phòng thủ biên giới là một nội dung

quan trọng của cơng cuộc quốc phịng trên
tuyến biên giới Tây Nam Bộ dưới triều
Nguyễn trong thời kì 1802-1867.
4. Kết luận
Thất Sơn được thiên tạo trong một khu
vực địa chiến lược, khơng những có vai trị
trọng yếu về quốc phịng an ninh mà cịn có
ý nghĩa tâm linh sâu sắc. Trong buổi đầu
khai mở vùng đất mới, vai trò nền tảng của
khu vực Thất Sơn trong thế trận phòng thủ
biên giới Tây Nam Bộ do nhà Nguyễn tiến
hành ngày càng được khẳng định. Việc tổ
chức phòng thủ, đặt đồn bảo, thủ sở để quản
lý và giữ gìn trị an, chống các nước lân bang
xâm lấn của nhà Nguyễn trên khu vực Thất
80


DƯƠNG THẾ HIỀN

TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GỊN

Sơn không chỉ đơn thuần là phục vụ cho
công tác chống giặc bên ngồi mà cịn là để
ổn định bên trong, tạo ra khơng gian hịa
bình, phát triển cho vùng đất biên giới trong
thời kỳ đầu khai phá. Yếu tố địa hình đồi
núi, đồng bằng đan xen đã được nhà
Nguyễn khai thác để tạo ra nhiều căn cứ,
đồn bảo trong khu vực này làm nền tảng


cho cơng cuộc quốc phịng biên giới trong
thời kì 1802-1867. Nghiên cứu hoạt động tổ
chức phịng thủ biên giới Tây Nam của nhà
Nguyễn trên khu vực Thất Sơn cho phép
khẳng định vai trò và ý nghĩa chiến lược đặc
biệt quan trọng của vùng đất này trong sự
nghiệp bảo vệ Tổ quốc khơng chỉ thời kì
1802-1867 mà cả những giai đoạn tiếp sau.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
Dương Thế Hiền (2014). Vùng đất An Giang trong chính sách quốc phịng của chính
quyền chúa Nguyễn và vua Nguyễn thời kì 1802-1867. Luận văn thạc sĩ Lịch sử Việt
Nam. Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh.
Nguyễn Văn Hầu (1970). “Sự thôn thuộc và khai thác đất Tầm Phong Long” (chặng cuối
cùng của cuộc Nam tiến). Sài Gòn: Tập san Sử - Địa, số 20-1970.
Nội các triều Nguyễn, Viện Sử học (1993). Khâm định Đại Nam hội điển sử lệ, tập 10.
Huế: NXB Thuận Hóa.
Quốc sử quán triều Nguyễn. Viện Sử học (2007a). Đại Nam thực lục, tập I. Hà Nội: NXB Giáo dục.
Quốc sử quán triều Nguyễn. Viện Sử học (2007b). Đại Nam thực lục, tập II. Hà Nội:
NXB Giáo dục.
Quốc sử quán triều Nguyễn. Viện Sử học (2007c). Đại Nam thực lục, tập IV. Hà Nội: NXB
Giáo dục.
Quốc sử quán triều Nguyễn, Viện Sử học (2007d). Đại Nam thực lục, tập VI. Hà Nội:
NXB Giáo dục.
Quốc sử quán triều Nguyễn. Viện Sử học (2007e). Đại Nam thực lục, tập VII. Hà Nội:
NXB Giáo dục.
Quốc sử quán triều Nguyễn. Viện Sử học (2006). Đại Nam nhất thống chí, tập 5. Huế:
NXB Thuận Hóa.
Sơn Nam (1988). Lịch sử An Giang. An Giang: NXB Tổng hợp An Giang.

Sơn Nam (2009). Tìm hiểu đất Hậu Giang & lịch sử đất An Giang. TP. Hồ Chí Minh: NXB Trẻ.
Trần Thanh Phương (1984). Những trang về An Giang. An Giang: NXB Văn nghệ An Giang.
Trịnh Hồi Đức (2006). Gia Định thành thơng chí. Đồng Nai: NXB Tổng hợp Đồng Nai.
UBND tỉnh An Giang. (2013). Địa chí An Giang. An Giang: NXB An Giang.
Vương Hồng Sển (1999). Tự vị tiếng nói miền Nam. TP. Hồ Chí Minh: NXB Trẻ.
Ngày nhận bài: 08/10/2020

Biên tập xong: 15/4/2021

81

Duyệt đăng: 20/4/2021



×