Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 26 * Số 1 * 2022
Nghiên cứu Y học
TỶ LỆ SỐNG SAU 4 TUẦN Ở TRẺ SINH TỪ 24 ĐẾN 28 TUẦN
VÀ CÁC YẾU TỐ LIÊN QUAN
Trầm Quốc Tường1, Huỳnh Nguyễn Khánh Trang1
TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Sinh non là vấn đề rất được quan tâm hiện nay, mỗi năm có khoảng 1 triệu trẻ sinh non tử
vong trong số 15 triệu trẻ sinh non trên toàn cầu.
Mục tiêu: Xác định tỷ lệ sống sau sinh 4 tuần ở nhóm trẻ sinh non có tuổi thai 24 – 28 tuần và các yếu tố
trước cũng như sau sinh ảnh hưởng.
Đối tượng - Phương pháp: nghiên cứu cắt ngang trên 256 trường hợp sinh non ở tuổi thai 24 – 28 tuần
tại bệnh viện Hùng Vương từ tháng 06/ 2019 đến 06/2020.
Kết quả: 1. Tỷ lệ sống chung của trẻ sinh ra ở tuổi thai từ 24 đến 28 tuần trong 28 ngày đầu sau sinh là
30,45% có KTC 95% [24,89 - 36,51]; 2. Các yếu tố liên quan đến trẻ sinh sống sau khi phân tích hồi quy đa biến:
(i) Phải dùng kháng sinh trước sinh là một yếu tố nguy cơ với OR=8,88, KTC 95% [1,38 - 57,37], p=0,022; (ii)
Sau sinh phải hỗ trợ hơ hấp như đặt nội khí quản có nguy cơ tử vong cao OR=6,00, KTC 95% [2,21 - 16,33], p
<0,001; (iii) Ối vỡ non là một yếu tố bảo vệ với OR= 0,25, KTC 95% [0,02 - 0,62], p=0,012; (iv) Sinh do ối vỡ
non là một yếu tố bảo vệ với OR=0,13, KTC 95% [0,027 - 0,61], p=0,009. (v) Apgar 1 phút tăng là một yếu tố
bảo vệ với OR=0,28, KTC 95% [0,09 - 0,84], p=0,009. (vi) Cân nặng trẻ là yếu tố bảo vệ với OR=0,21, KTC 95%
[0,11 - 0,43], p <0,001.
Kết luận: Sinh non ở 24 – 28 tuần có tỷ lệ ni sống đến 4 tuần sau sinh chung 30,45%. Cần có những
nghiên cứu có thời gian theo dõi dài hơn trong tương lai.
Từ khóa: trẻ sơ sinh non tháng, hỗ trợ hô hấp, nghiên cứu cắt ngang
ABSTRACT
PREVALENCE OF 4-WEEK POSTPARTUM SURVIVAL IN BABIES BORN BETWEEN 24 TO 28
WEEKS OF GESTATION AGE AND RELATED FACTORS
Tram Quoc Tuong, Huynh Nguyen Khanh Trang
* Ho Chi Minh City Journal of Medicine * Vol. 26 - No 1 - 2022: 112-117
Background: Preterm birth is a matter of great concern today, every year about 1 million over 15 million
premature babies die all over the world.
Objectives: Determine the 4-week postpartum survival rate in the group of preterm infants with gestational
age of 24 - 28 weeks and the influencing factors before and after birth.
Methods: A cross-sectional study on 256 cases of preterm birth at the gestational age of 24 - 28 weeks at
Hung Vuong hospital from June 2019 to June 2020.
Results: 1. The overall survival rate of babies born at gestational age from 24 to 28 weeks in the first 28 days
after birth was 30.45% with 95% CI [24.89 - 36.51]; 2. Factors related to live birth after multivariable regression
analysis: (i) Prenatal antibiotic use is a risk factor with OR=8.88, 95% CI [1.38 - 57.37], p=0.022; (ii) After birth,
requiring respiratory support such as intubation has a high risk of death OR=6.00, 95% CI [2.21 - 16.33],
p <0.001; (iii) Premature rupture of membranes is a protective factor with OR=0.25, 95% CI [0.02 - 0.62],
BM Sản Phụ Khoa, ĐHYD Phạm Ngọc Thạch
Tác giả liên lạc: PGS.TS.BS. Huỳnh Nguyễn Khánh Trang
1
112
ĐT: 0903882015
Email:
Chuyên Đề Sản Khoa – Nhi Khoa
Nghiên cứu Y học
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 26 * Số 1 * 2022
p=0.012; (iv) Birth due to premature rupture of membranes is a protective factor with OR=0.13, 95% CI [0.027 0.61], p=0.009. (v) 1-minute Apgar increase was a protective factor with OR=0.28, 95% CI [0.09 - 0.84],
p=0.009. (vi) Infant weight is a protective factor with O =0.21, 95% CI [0.11 - 0.43], p <0.001.
Conclusion: Preterm birth at 24-28 weeks of gestation age has an overall 4 week postpartum survival rate of
30.45%. Further studies with longer follow-up are needed in the future.
Keywords: premature infants, respiratory support, cross-sectional study
sóc thai kỳ, hỗ trợ cho các nhà sản khoa trong
ĐẶT VẤN ĐỀ
cơng tác quản lí thai nghén, tư vấn cho sản phụ
Tổ chức Y tế thế giới ghi nhận khoảng 15
khi cần can thiệp sản khoa trong tuổi thai này.
triệu trường hợp sinh non, chiếm tỷ lệ 10,6% trên
Với câu hỏi nghiên cứu “Tỷ lệ sống sau 4 tuần ở
tồn thế giới(1). Mỗi năm có khoảng 1 triệu trẻ sơ
trẻ sinh từ 24 đến 28 tuần tại bệnh viện Hùng
sinh non tháng tử vong, và là nguyên nhân đơn
Vương là bao nhiêu và những yếu tố trước sinh
lẻ quan trọng nhất liên quan tỷ lệ tử vong tháng
và sau sinh nào ảnh hưởng đến tỷ lệ này?” Từ
đầu đời trong hơn 75% tỷ lệ chết ở trẻ sơ sinh,
những nhu cầu thực tế đó, chúng tơi tiến hành
ngun nhân gây chết đứng thứ 2 ở trẻ dưới 2
nghiên cứu “Tỷ lệ sống sau 4 tuần ở trẻ sinh từ
tuổi(2). Mặc khác, sinh non liên quan đến những
24 đến 28 tuần và các yếu tố liên quan tại bệnh
biến chứng gần và xa cho trẻ em như: suy hô
viện Hùng Vương” với các mục tiêu:
hấp, viêm ruột hoại tử, nhiễm trùng huyết, co
1. Xác định tỷ lệ sống sau 4 tuần ở trẻ sinh từ
giật, xuất huyết não, liệt, nhiễm trùng, khó khăn
24 đến 28 tuần tại bệnh viện Hùng Vương từ
trong ăn uống, bệnh não do thiếu oxy, các vấn
30/06/2019 đến 30/06/2020.
đề về nghe, nhìn. Do đó sinh non chính là một
2. Xác định mối liên quan giữa yếu tố đặc
vấn đề sức khỏe toàn cầu.
điểm xã hội, tiền căn sản khoa, bệnh lí của mẹ,
Tỷ lệ sinh non hiện tại của Việt Nam dao
tình trạng thai nhi, kháng sinh trước sinh, sử
động 6,8 - 13,8% theo một số nghiên cứu(3,4). Sự
dụng Magnesium Sulfat, sử dụng Corticoid, tuổi
thay đổi về tỷ lệ sinh non có thể được lí giải do
thai, lí do sinh, cách sinh, ngơi thai và trẻ sống
sự khác biệt về thành thị, nông thôn, điều kiện
sau 4 tuần ở trẻ sinh từ 24 đến 28 tuần.
kinh tế - xã hội, mơi trường sống, mơ hình dân
số, bệnh tật và tử vong.
ĐỐI TƢỢNG– PHƢƠNG PHÁPNGHIÊNCỨU
Theo thống kê tại Hoa Kỳ năm 2013, tỷ lệ tử
vong trên 1000 trẻ em sinh ra cho thấy: tỷ lệ tử
vong lúc sinh ở tuổi thai 34 - 36 tuần: 7,23‰, ở
tuổi thai 32 - 33 tuần: 16,02‰, tuổi thai 28 - 31
tuần: 35,7‰, dưới 28 tuần: 374,74‰(5). Anderson
GJ tại Hoa Kỳ từ năm 2005 - 2011 ghi nhận 73%
trẻ sinh non dưới 28 tuần tử vong sau 1 tuần lễ
đầu đời(6). Điều này cho thấy sinh cực non tháng
là một thách thức rất lớn đối với không chỉ riêng
ngành hồi sức sơ sinh mà còn của sản khoa.
Đối tƣợng nghiên cứu
Hiện tại ở Việt Nam, những báo cáo và
nghiên cứu liên quan đặc điểm sinh non ở tuổi
thai 24 - 28 tuần cịn hạn chế vì vậy việc tìm hiểu
những đặc điểm yếu tố liên quan đến khả năng
sống của trẻ sinh non 24 - 28 tuần là cần thiết
nhằm: có những thơng tin hữu ích trong chăm
Chun Đề Sản Khoa – Nhi Khoa
Tất cả các trường hợp sinh có tuổi thai từ 24 28 tuần tại bệnh viện Hùng Vương trong thời
gian từ 30/06/2019 đến 30/06/2020 thỏa các tiêu
chuẩn chọn mẫu.
Tiêu chuẩn chọn vào
Tất cả các trường hợp sinh từ 24 - 28 tuần
(tính theo kỳ kinh cuối với vịng kinh 28 -32
ngày, chu kỳ kinh đều hoặc có kết quả tuổi thai
từ siêu âm 3 tháng đầu) trong thời gian nghiên
cứu. Đồng ý tham gia nghiên cứu.
Tiêu chuẩn loại ra
Các sản phụ với thai kỳ khơng xác định
được chính xác tuổi thai. Các sản phụ có trẻ sinh
ra do đình chỉ thai nghén như thai dị dạng, dị tật
113
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 26 * Số 1 * 2022
bẩm sinh, thai chết lưu, hoang thai. Các sản phụ
đa thai.
Phƣơng pháp nghiên cứu
Thiết kế nghiên cứu
Nghiên cứu cắt ngang.
Cỡ mẫu
Tính cỡ mẫu theo cơng thức:
Nghiên cứu Y học
Xử lý số liệu
Nhập và xử lí số liệu theo chương trình Stata
15.0.
Y đức
Nghiên cứu đã được thơng qua Hội đồng
Đạo đức trong nghiên cứu Y sinh học trường Đại
học Y khoa Phạm Ngọc Thạch, số:168/HĐĐĐTĐHYKPNT, ngày 28/11/2019.
KẾT QUẢ
Trong đó:
là hằng số của phân phối
chuẩn, =1,96 với α=0,05. Với p: tỷ lệ trẻ sinh
non sống ở tuổi thai 24 - 28 tuần trong 28 ngày
đầu; d: sai số của ước lượng, chọn d=0,05.
Chúng tôi lấy số p theo nghiên cứu của tác
giả Argarwal P thực hiện tại Singapore năm
2007 với p=0,8 là tỷ lệ trẻ sinh ra ở tuổi thai 24 28 tuần sống(7). Cỡ mẫu tính được là 245
trường hợp.
Chọn mẫu tồn bộ.
Q trình thu thập số liệu
Xây dựng bảng câu hỏi.
Huấn luyện cho các chị em nữ hộ sinh không
biết mục tiêu nghiên cứu, tiến hành phỏng vấn
và lấy số liệu.
Vào mỗi ngày, căn cứ vào sổ ghi nhận thông
tin sản phụ nhập khoa sinh, chọn theo phương
pháp ngẫu nhiên đơn sản phụ đủ tiêu chuẩn, ghi
đầy đủ thơng tin cần thiết vào bảng câu hỏi.
Nhóm bác sĩ và nữ hộ sinh đã được huấn
luyện lấy thông tin về kết cục trẻ sinh non trong
một tuần - hai tuần - ba tuần - bốn tuần sau sinh
tại khoa nhi ghi vào bảng thu thập số liệu (bao
gồm: sống, tử vong, bệnh hơ hấp, nhiễm trùng
sơ sinh<).
Vì các bé non tháng đều nằm tại khoa nhi
trên 28 ngày.
Kiểm tra lại thơng tin, đối chiếu với những
thơng tin có sẵn từ hồ sơ bệnh án. Đối với những
thông tin không trùng khớp đề nghị phỏng vấn
lại hoặc loại khỏi nghiên cứu.
Nhập số liệu, phân tích và xử lí số liệu.
114
Bảng 1. Phân bố đặc điểm của đối tượng nghiên cứu
Đặc điểm
Tuổi mẹ trung bình
Tuổi mẹ
< 20
20 - 34
≥ 35
Tần suất (n=256) Tỷ lệ (%)
29 ± 7 (tối đa=43, tối thiểu=15)
31
176
49
Nơi cư ngụ
Tỉnh khác
159
Thành phố Hồ Chí Minh
97
Nghề nghiệp
Nội trợ
73
Cơng nhân có kỹ thuật
71
Bn bán
31
Trí thức -Cơng nhân viên
44
Khác
37
Trình độ học vấn
Mù chữ và cấp 1
22
Cấp 2
100
Cấp 3
74
> Cấp 3
60
Tiền thai
Con so
145
Con rạ
111
Tiền căn mổ lấy thai
Có
45
Khơng
211
Tiền căn sinh non
Có
26
Khơng
230
Tiền căn sẩy thai - thai lưu - nạo hút thai
Có
64
Khơng
192
12,11
68,75
19,14
62,11
37,89
28,52
27,73
12,11
17,19
14,45
8,59
39,06
28,91
23,44
56,64
43,36
17,58
82,42
10,16
89,84
25,00
75,00
Trong mẫu nghiên cứu của chúng tơi, sản
phụ ở nhóm tuổi 20 - 34 tuổi chiếm tỷ lệ cao nhất
68,75%. Tuổi trung bình là 29 tuổi, sản phụ nhỏ
nhất 15 tuổi, lớn nhất là 43 tuổi. Sản phụ sống ở
các tỉnh khác chiếm tỷ lệ cao, 62,11% so với
Chuyên Đề Sản Khoa – Nhi Khoa
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 26 * Số 1 * 2022
Nghiên cứu Y học
Thành phố Hồ Chí Minh là 37,89%. Phần lớn sản
phụ có nghề nghiệp là nội trợ chiếm tỷ lệ 28,52%,
thấp nhất là buôn bán chiếm tỷ lệ 12,11%. Đa số
sản phụ có trình độ học vấn từ cấp 2 trở lên.
Nhóm có trình độ mù chữ và cấp 1 chiếm tỷ lệ
thấp nhất 8,59%, cao nhất là nhóm có trình độ
cấp 2 chiếm tỷ lệ 39,06%. Tiền thai của sản phụ
khơng có sự khác biệt nhiều giữa người con so
và con rạ. Đa số sản phụ khơng có tiền căn mổ
lấy thai, sinh non, sẩy thai, thai lưu và nạo hút
thai. Trong đó nhóm sản phụ có tiền căn sinh
non chiếm tỷ lê thấp nhất 10,16%, cao nhất là
nhóm sản phụ có tiền căn sẩy thai, thai lưu và
nạo hút thai chiếm 25,00% (Bảng 1).
Hình 1. Tỷ lệ trẻ sơ sinh non tháng 24 – 28 tuần
sống sót 4 tuần sau sinh
Trong 256 trường hợp sinh non từ 24 đến 28
tuần, chúng tôi ghi nhận có 78 trường hợp
(30,47%) có trẻ sinh ra sống trong 28 ngày đầu
sau sinh với KTC 95% [24,89 - 36,51], số còn lại là
tử vong chiếm 69,53% với KTC 95% [63,49 75,11]. Trong đó tỷ lệ sống theo từng nhóm tuổi
thai từ 240/7 - 246/7 đến 270/7 - 28 tuần lần lượt là
0,00%; 18,75%; 31,43%; 47,47% (Hình 1).
Bảng 2. Kết quả phân tích hồi quy đa biến
Đặc điểm
OR* KTC 95%
Tuổi thai lúc sinh
0,83 0,49 - 1,40
Đa ối
0,25 0,05 - 1,16
Ối vỡ non
0,11 0,02 - 0,62
Kháng sinh trước sinh
8,88 1,38 - 57,37
Tiếp xúc Magnesium Sulfat 0,57 0,17 - 1,94
Liệu pháp Corticoid
Chưa hồn tất
1,09 0,22 - 5,39
Hồn tất
0,4 0,10 - 1,62
Khơng
1
Lí do sinh
Chuyên Đề Sản Khoa – Nhi Khoa
P
0,49
0,076
0,012
0,022
0,36
0,92
0,20
Đặc điểm
OR* KTC 95%
P
Chỉ định y khoa
0,48 0,17 - 1,37 0,167
Ối vỡ non
0,13 0,027 - 0,13 0,009
Apgar 1 phút
0,28 0,09 - 0,84 0,023
Apgar 5 phút
1,38 0,61 - 3,11 0,435
Cân nặng trẻ
0,21 0,11 - 0,43 <0,001
Sử dụng Surfactan
0,59 0,25 - 1,35 0,208
Phương pháp hỗ trợ hô hấp
NCPAP
1
NKQ
6,00 2,21 - 16,33 <0,001
Sau khi đưa vào phân tích đa biến, ta thu
được mơ hình gồm có các biến số sau: đa ối, ối
vỡ non, tuổi thai lúc sinh, kháng sinh sử dụng
trước sinh, tiếp xúc Magnesium Sulfat, liệu pháp
Corticoid, lí do sinh, cách sinh, Apgar 1 phút,
Apgar 5 phút, cân nặng lúc sinh, phương pháp
hỗ trợ hơ hấp, sử dụng Surfactan. Trong đó các
yếu tố thay đổi khuynh hướng từ khơng liên
quan thành có liên quan: sử dụng kháng sinh
trước sinh, thay đổi OR từ 0,58 thành 8,88 và
p=0,022 <0,05. Bên cạnh đó, các yếu tố sau đây
khi vào phân tích đa biến có xu hướng tăng lên:
cân nặng lúc sinh có OR giảm từ 0,21 cịn 0,18 và
p <0,0001, phương pháp hỗ trợ hơ hấp OR tăng
lên từ 4,90 thành 6,00 với p=0,02, ối vỡ non có
OR giảm từ 0,53 cịn 0,11 và p=0,012<0,05, sinh
do ối vỡ non có OR giảm từ 0,17 cịn 0,13 và
p=0,009 <0,005. Các yếu tố thay đổi từ có liên
quan thành khơng có liên quan bao gồm: đa ối,
tuổi thai lúc sinh, liệu pháp Corticoid, tiếp xúc
Magnesium Sulfat, Apgar 5 phút, sử dụng
Surfactan (Bảng 2).
BÀN LUẬN
Theo kết quả nghiên cứu này, tỷ lệ sống của
trẻ sinh ra ở tuổi thai từ 24 đến 28 tuần là 30,47 %
trên tổng số 256 trường hợp. Theo các nghiên
cứu khác trên thế giới, tỷ lệ trẻ sinh non sống là
từ 52,5 - 82%. Như vậy tỷ lệ của chúng tôi là
30,47% là thấp hơn. Sau khi phân tích cụ thể
từng nhóm tuổi thai, chúng tơi có tỷ lệ sống
trong 28 ngày đầu sau sinh của nhóm tuổi thai
24 tuần đến 24 tuần 6 ngày, 25 tuần đến 25 tuần
6 ngày, 26 tuần đến 26 tuần 6 ngày và 27 tuần
đến 28 tuần 0 ngày lần lượt là 0%; 12%; 27,3% và
42,68%. Với nghiên cứu Epipage 2 của tác giả
115
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 26 * Số 1 * 2022
Ancel PY, các tỷ lệ trên tới lúc xuất viện lần lượt
là 31,2%; 59,1%; 75,3%; 82,3%(8), còn với tác giả
Wu F ở Trung Quốc, tỷ lệ này lần lượt là 34,3%;
33,8%; 46,7%; 62,4%(9). Các kết quả này đều cao
hơn các tỷ lệ trong nghiên cứu của chúng tôi.
Apgar là một thông số quan trọng để đánh
giá ngạt sau sinh cho tất cả trẻ sơ sinh. Bảng
điểm Apgar được đánh giá cho trẻ vào 3 thời
điểm: 1 phút, 5 phút và 10 phút sau sinh. Trong
nghiên cứu của chúng tơi, khi phân tích đơn
biến. đối với điểm Apgar 1 phút, nhóm trẻ được
sinh ra có điểm Apgar từ 4 - 6 điểm có khả năng
sống cao hơn nhóm <3 điểm gấp 3,7 lần và sự
khác biệt này có y nghĩa thống kê p <0,001, còn
đối với điểm Apgar 5 phút, nhóm trẻ được sinh
ra với Apgar từ 4 - 6 điểm và Apgar >7 có khả
năng sống cao hơn nhóm <3 điểm gấp 2,7 lần và
4,17 lần và sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê
p=0,002; 0,002 <0,05. Điều này cũng được tìm
thấy trong nghiên cứu của tác giả Wu F và
Agarwa P khi điểm Apgar 1 phút và 5 phút càng
thấp thì khả năng sống càng thấp và sự khác biệt
này có ý nghĩa thống kê ở cả 2 nghiên cứu với p
<0,001(7,9). Tuy nhiên khi vào phân tích đa biến
biến số Apgar 5 phút khơng còn mối liên quan,
biến số Apgar 1 phút vẫn còn mối liên quan
p=0,023 <0,05.
Tất cả các trẻ trong mẫu nghiên cứu đều suy
hô hấp, tại thời điểm nhập khoa Nhi sơ sinh, tỷ
lệ suy hô hấp nhẹ và nặng lần lượt là: 20,70% và
79,30%. Suy hơ hấp nặng có ảnh hưởng lên kết
quả sơ sinh và khác biệt có ý nghĩa thống kê với
p=0,02 <0,05, nghĩa là ở nhóm có suy hơ hấp
nặng có nguy cơ tử vong tăng 2,06 lần so với với
những trường hợp có suy hơ hấp nhẹ. Tất cả các
trẻ khi nhập khoa nhi sơ sinh đều được hỗ trợ hơ
hấp bằng NCPAP và nội khí quản, tỷ lệ của
chúng tôi cao hơn so với của tác giả Wu F là
78,2%(9). Khi phân tích các phương pháp hỗ trợ
hô hấp cho những trẻ sinh non, chúng tôi ghi
nhận: 14,45% được hỗ trợ hô hấp không xâm lấn
bằng NCPAP, cịn lại 85,55% được đặt nội khí
quản, tỷ lệ của chúng tôi cao hơn nghiên cứu của
116
Nghiên cứu Y học
Agarwal P và Stoll BJ với tỷ lệ đặt nội khí quản
lần lượt là 67% và 41 - 85%(7,10).
Chúng tôi ghi nhận nhiễm trùng sơ sinh sớm
làm tăng nguy cơ tử vong lên 2,78 lần so với
nhiễm trùng sơ sinh muộn và sự khác biệt này
có ý nghĩa thống kê p=0,0031 <0,05. Theo chúng
tôi nhiễm trùng sơ sinh sớm gây tử vong nhiều
hơn là điều dễ hiểu vì những trẻ sơ sinh nhỏ hơn
7 ngày tuổi có hệ miễn dịch yếu, các cơ quan
chuyển hóa chưa hồn thiện và phải chịu bệnh lí
nhiễm trùng nặng, kéo dài. Kết quả nghiên cứu
của chúng tơi có trọng lượng trung bình của trẻ
sơ sinh non tháng là 912,46+203,40 gram. Kết quả
này gần giống nghiên cứu của tác giả Wu F với
trọng lượng trung bình 935+179 gram, và cao
hơn nghiên cứu của tác giả Agarwal P: 873+220
gram(7,9). Bên cạnh đó, nghiên cứu chúng tơi cịn
cho thấy nhóm trẻ sinh non có cân nặng sau sinh
dưới 750 gram có tỷ lệ sống là 0% và nhóm trẻ có
cân nặng 750 - 1000 gram và 1000 - 1500g có tỷ lệ
sống lần lượt là 24,76% và 50,98%. Về ảnh hưởng
của cân nặng thai lên khả năng sống trong 28
ngày sau sinh, nghiên cứu chúng tôi cho thấy
cân nặng lúc sinh càng tăng thì khả năng sống
lên 4,55 lần, sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê
với p <0,001 với test kiểm định khuynh hướng.
Tương đồng với kết quả của tác giả Wu F và
Agarwal P và khi đưa kết quả vào mơ hình đa
biến, chúng tơi ghi nhận cân nặng lúc sinh tăng
có ý nghĩa làm tăng khả năng sống lên 4,68 lần
và sự khác biệt có ý nghĩa thống kê p <0,001(7,9).
Hạn chế của nghiên cứu
Nghiên cứu được thực hiện tại Thành Phố
Hồ Chí Minh, do đó dân số nghiên cứu vẫn chưa
thể đại diện cho số trẻ sơ sinh non tháng có tuổi
thai 24 – 28 tuần trên cả nước. Do thiết kế cắt
ngang, các yếu tố có liên quan đến tỷ lệ sống 4
tuần sau sinh ở trẻ có tuổi thai 24 – 28 tuần phát
hiện qua phân tích hồi quy đa biến cũng chỉ có
thể kết luận là tồn tại một mối liên quan có ý
nghĩa thống kê.
Chuyên Đề Sản Khoa – Nhi Khoa
Nghiên cứu Y học
KẾT LUẬN
Qua 252 trường hợp sinh non từ tháng
6/2019 đến tháng 6/2020, chúng tôi ghi nhận:
1. Tỷ lệ sống chung của trẻ sinh ra ở tuổi thai
từ 24 đến 28 tuần trong 28 ngày đầu sau sinh là
30,45% có KTC 95% [24,89 - 36,51].
2. Các yếu tố liên quan đến trẻ sinh sống sau
khi phân tích hồi quy đa biến: (i) Phải dùng
kháng sinh trước sinh là một yếu tố nguy cơ với
OR=8,88, KTC 95% [1,38 - 57,37], p=0,022; (ii) Sau
sinh phải hỗ trợ hô hấp như đặt nội khí quản có
nguy cơ tử vong cao OR=6,00, KTC 95% [2,21 16,33], p <0,001; (iii) Ối vỡ non là một yếu tố bảo
vệ với OR=0,25, KTC 95% [0,02 - 0,62], p=0,012;
(iv) Sinh do ối vỡ non là một yếu tố bảo vệ với
OR=0,13, KTC 95% [0,027 - 0,61], p=0,009. (v)
Apgar 1 phút tăng là một yếu tố bảo vệ với
OR=0,28, KTC 95% [0,09 - 0,84], p=0,009. (vi) Cân
nặng trẻ là yếu tố bảo vệ với OR=0,21, KTC 95%
[0,11 - 0,43], p <0,001.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.
Blencowe H, Cousens S (2012). National, regional, and
worldwide estimates of preterm birth rates in the year 2010 with
time trends since 1990 for selected countries: a systematic
analysis and implications. Lancet, 379(9832):2162-2172.
Chuyên Đề Sản Khoa – Nhi Khoa
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 26 * Số 1 * 2022
2.
Liu L, Oza S, Hogan D, et al (2016). Global, regional, and
national causes of under-5 mortality in 2000-15: an updated
systematic analysis with implications for the Sustainable
Development Goals. Lancet, 388(10063):3027-3035.
3. Nguyễn Văn Phong (2003). Nghiên cứu tình hình sanh non và
các yếu tố liên quan đến sanh non tại Bệnh viện Phụ sản Trung
Ương trong 2 năm 2001 – 2002. Đại học Y Hà Nội, pp.58-67.
4. Mai Thị Phương (2014). Kết cục thai kỳ ở tuổi thai từ 28 tuần
đến 32 tuần tại Bệnh viện Hùng Vương. Luận Văn Thạc Sĩ Y Học,
Đại học Y dược thành phố Hồ Chí Minh, 5-69.
5. Mathews TJ, MacDorman MF, Thoma ME (2015). Infant
mortality statistics from the 2013 period linked birth/infant
death data set. Natl Vital Stat Rep, 62(8):1-26.
6. Anderson GJ, Baer RJ, Partridge JC (2016). Survival and major
morbidity of extremely preterm infants: a population-based
study. Pediatrics, 138(1):e20154434.
7. Agarwal P, Sriram B, Rajadurai VS (2015). Neonatal outcome of
extremely preterm Asian infants⩽ 28 weeks over a decade in the
new millennium. Journal of Perinatalogy, 35(4):297-303.
8. Pierre-Yves A, Goffinet F, Kuhn P (2015). Survival and
morbidity of preterm children born at 22 through 34 weeks’
gestation in France in 2011: results of the EPIPAGE-2 cohort
study. JAMA Pediatrics, 169(3):230-238.
9. Wu F, Liu G, Feng Z (2019). Short-term outcomes of extremely
preterm infants at discharge: a multicenter study from
Guangdong province during 2008-2017. BMC Pediatrics,
19(1):405.
10. Stoll BJ, Hansen NI, Bell EF (2010). Neonatal outcomes of
extremely preterm infants from the NICHD Neonatal Research
Network. Pediatrics, 126(3):443-456.
Ngày nhận bài báo:
16/12/2021
Ngày nhận phản biện nhận xét bài báo:
10/02/2022
Ngày bài báo được đăng:
15/03/2022
117