Tải bản đầy đủ (.pdf) (378 trang)

Con đường cứu nước Hồ Chí Minh: Phần 1

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (36.05 MB, 378 trang )




NG BC H I CU NC

Biên mục trên xuất bản phẩm của Thư viện Quốc gia
Việt Nam
Trình Quang Phú
Đường Bác Hồ đi cứu nước / Trình Quang Phú tuyển
chọn, b.s. - H. : ChÝnh trÞ Quèc gia, 2015. - 676tr. ; 21cm
1. Hồ Chí Minh, LÃnh tụ Cách mạng, chính trị gia,
1890-1969, Việt Nam 2. Lịch sử 3. Hoạt động cách mạng
959.704092 - dc23
CTH0317p-CIP
.

4




HÀNH TRANG RA ĐI TÌM ...

LỜI NHÀ XUẤT BẢN
Chủ tịch Hồ Chí Minh, người đã cống hiến trọn đời cho sự nghiệp
giải phóng dân tộc và phong trào cách mạng thế giới. Cả cuộc đời và
sự nghiệp của Người là tấm gương sáng ngời về đạo đức cách mạng,
vì độc lập và tự do của Tổ quốc, vì hạnh phúc của nhân dân.
Sinh ra và lớn lên ở vùng đất giàu truyền thống cách mạng, sớm
được tiếp thu những tư tưởng yêu nước tiến bộ, Người đã bôn ba
khắp năm châu tìm con đường cứu nước cho dân tộc Việt Nam.


Người đã sớm đến với chủ nghĩa Mác - Lênin, vận dụng và phát triển
sáng tạo học thuyết cách mạng vơ sản vào hồn cảnh cụ thể của đất
nước ta, sáng lập và rèn luyện Đảng Cộng sản Việt Nam, lãnh đạo
cách mạng nước ta đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.
Tư tưởng, tấm gương đạo đức của Chủ tịch Hồ Chí Minh là tài
sản tinh thần vơ giá của toàn Đảng, toàn dân ta, là tấm gương sáng để
nhân dân ta phấn đấu học tập và noi theo. Thực hiện Chỉ thị số
06-CT/TW ngày 7-11-2006 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về tổ
chức Cuộc vận động Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí
Minh và Chỉ thị số 03-CT/TW ngày 14-5-2011 của Bộ Chính trị về tiếp
tục đẩy mạnh học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh,
trong những năm qua, việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức
của Bác đã trở thành một phong trào sâu rộng trong toàn Đảng, toàn
dân và toàn quân ta, đạt hiệu quả tích cực và đóng góp thiết thực đối
với cơng tác xây dựng Đảng ngày càng trong sạch, vững mạnh.

5


ĐƯỜNG BÁC HỒ ĐI CỨU NƯỚC

Cuốn sách Đường Bác Hồ đi cứu nước được GS.TS. Trình Quang
Phú tuyển chọn và biên soạn từ nhiều tác phẩm và bài báo viết về
Chủ tịch Hồ Chí Minh được kết cấu thành hai phần:
Phần I: Đường Bác Hồ đi cứu nước khái quát những sự kiện về
gia đình, tuổi thơ của Bác, con đường Bác bôn ba khắp năm châu
để đến với chủ nghĩa Mác - Lênin, tìm ra con đường giải phóng
cho dân tộc khỏi ách nô lệ, sáng lập Đảng ta và lãnh đạo nhân dân
ta giành thắng lợi trong cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945,
khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

Phần II: Theo Bác đi kháng chiến trình bày những sự kiện chính
trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của nhân dân ta dưới sự
lãnh đạo trực tiếp của Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhất là trong tình thế
"ngàn cân treo sợi tóc" vơ cùng khó khăn của nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hịa non trẻ vừa mới được thành lập trước vòng vây của các
nước đế quốc, thực dân và sự chống phá của các thế lực thù địch.
Nội dung cuốn sách gồm nhiều câu chuyện có khi được tác giả kể
lại, có khi được kể lại bởi chính người trong cuộc với những tình cảm
rất chân thành, sâu sắc, những kỷ niệm khơng thể nào quên, nhờ đó
Bác Hồ của chúng ta thật gần gũi, giản dị và thân thiết như vị Cha già
của dân tộc nhưng cũng là vị lãnh tụ thật lớn lao, vĩ đại khiến cả kẻ
thù phải kính phục. Ngôn từ của cuốn sách giản dị, câu chuyện hấp
dẫn, gần gũi, nội dung sâu sắc, cuốn sách là tài liệu tham khảo có giá
trị thiết thực để bạn đọc tiếp tục tìm hiểu về cuộc đời, sự nghiệp và tư
tưởng, tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh. Trong quá trình biên soạn,
với nguồn tư liệu hết sức phong phú viết về Chủ tịch Hồ Chí Minh,
cuốn sách khó tránh khỏi hạn chế, thiếu sót, rất mong nhận được ý
kiến góp ý của bạn đọc để cuốn sách hồn thiện hơn.
Xin giới thiệu cuốn sách với bạn đọc.
Tháng 8 năm 2015
NHÀ XUẤT BẢN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA - SỰ THẬT

6


HÀNH TRANG RA ĐI TÌM ...

LỜI GIỚI THIỆU
CỦA ĐẠI TƯỚNG VÕ NGUYÊN GIÁP


Tác phẩm "Đường Bác Hồ đi cứu nước"
là một cơng trình sưu tập, biên soạn cơng phu.
Tơi hoan nghênh Tiến sĩ Trình Quang Phú đã có
nhiều cố gắng tuyển chọn và biên soạn thành
công tác phẩm này.
Mong quyển sách "Đường Bác Hồ đi cứu
nước" sẽ góp thêm với bạn đọc, nhất là các bạn trẻ
những tư liệu quý về Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Hà Nội, Mùa Thu 2002.

Đại tướng VÕ NGUYÊN GIÁP

7


ĐƯỜNG BÁC HỒ ĐI CỨU NƯỚC

8


HÀNH TRANG RA ĐI TÌM ...

HÀNH TRANG
RA ĐI TÌM ĐƯỜNG CỨU NƯỚC
CỦA BÁC HỒ*
PHẠM VĂN ĐỒNG

H

ồ Chí Minh là người suốt đời phấn đấu vì một lý

tưởng cao đẹp, từ ngày ra đi tìm đường cứu
nước (5-6-1911) trở thành nhà hoạt động cách mạng kiên
cường và bền bỉ cho đến hơi thở cuối cùng (2-9-1969), đưa
đất nước và dân tộc đi từ thắng lợi này đến thắng lợi
khác. Tư tưởng Hồ Chí Minh gắn liền với con người Hồ
Chí Minh, là biểu tượng, tấm gương sáng, niềm tự hào
của các thế hệ Việt Nam khơng ngừng đồn kết phấn đấu
thực hiện nguyện vọng thiết tha của cộng đồng dân tộc
thời vua Hùng đến thời đại Hồ Chí Minh.
Tơi bắt đầu cuốn sách về tư tưởng Hồ Chí Minh bằng
cách đặt câu hỏi Hồ Chí Minh là ai lúc ra đi tìm đường
cứu nước?
__________
* Trích Phạm Văn Đồng: Những nhận thức cơ bản về tư tưởng Hồ
Chí Minh, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1998.

9


ĐƯỜNG BÁC HỒ ĐI CỨU NƯỚC

Nhiều người đã viết về đề tài này, ở đây tôi chỉ chú ý
mấy nét để trả lời câu hỏi vừa được nêu lên.
Nói về hành trang của Hồ Chí Minh lúc ra đi thì phải
thấy rõ hồn cảnh gia đình của Hồ Chí Minh, đồng thời phải
thấy quê hương của Hồ Chí Minh là tỉnh Nghệ An, từ đó mà
thấy một cách đậm nét dấu ấn của gia đình, quê hương, Tổ
quốc và dân tộc đối với Hồ Chí Minh và tư tưởng Hồ Chí
Minh sau này. Hồ Chí Minh đặc biệt thích thú và quý trọng
truyền thống xa xưa của dân tộc, thể hiện một cách giàu đẹp

trong lời ăn tiếng nói, trong phong tục tập qn, trong tình
làng nghĩa xóm, việc nước gắn với việc nhà: "Một cây làm
chẳng nên non, ba cây chụm lại nên hòn núi cao", một câu ca
dao đậm tính trữ tình cũng như khí phách hùng tráng của
dân tộc, đúng là "muôn thuở giang sơn này".
Tôi nhấn mạnh những điểm trên bởi lẽ những giá trị
văn hóa ngày càng ăn sâu vào con người, tư duy và
phong cách của Hồ Chí Minh trong suốt đời hoạt động
của mình trải qua biết bao biến đổi và sóng gió.
Như mọi người đều biết, Hồ Chí Minh sinh trưởng trong
một gia đình trí thức nho giáo, ơng bố tuy đậu Phó bảng
nhưng khơng đi theo con đường làm quan như thói thường
mà ln ln ơm ấp tư tưởng về vận mệnh của đất nước, của
dân, chuyên tâm nuôi dạy các con theo chí hướng lớn.
Quê hương của Hồ Chí Minh là tỉnh Nghệ An giàu
truyền thống phấn đấu kiên cường vì sự nghiệp của nước,
của dân. Quê hương bên nội ở làng Sen, bên ngoại ở làng
Hoàng Trù, huyện Nam Đàn, đã ghi những dấu ấn sâu
sắc trong tâm trí Hồ Chí Minh ngay từ tuổi thơ ấu.
Huế, kinh đơ triều Nguyễn lúc bấy giờ, cũng là một
môi trường đã có những ảnh hưởng tốt đẹp đối với tuổi
thiếu niên của Nguyễn Tất Thành.
10


HÀNH TRANG RA ĐI TÌM ...

Phải nói thêm rằng cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc đã
tận dụng mọi cơ hội để đưa các con đi làm quen với nhiều
nơi trên đất nước ta, đó cũng là cơ hội tiếp xúc với nhiều

nhân vật yêu nước thời bấy giờ.
Tất cả những điều kể trên dần dần đã làm chín muồi
trong tư tưởng và tình cảm của người thanh niên Nguyễn
Tất Thành mong muốn mãnh liệt đi tìm con đường cứu
nước, cứu dân, nhất định không thể sống cuộc đời mất
nước, mất độc lập, tự do. Đó cũng là ý nguyện chung của
toàn thể dân tộc và của mỗi người Việt Nam lúc bấy giờ.
Nhưng đi đâu? Đi hướng nào? Đi tìm cái gì? Đây cũng là
những day dứt, trăn trở trong tâm hồn của người thanh
niên yêu nước tuổi đôi mươi. Lúc nhỏ ở quê nhà cũng như
lúc học ở Huế, Nguyễn Tất Thành biết khá rõ phong trào
Cần Vương, Đông Du, cuộc vận động Đông Kinh Nghĩa
Thục, phong trào khởi nghĩa ở nhiều nơi... Người thanh
niên Nguyễn Tất Thành với sự nhạy cảm và sự sáng suốt lạ
lùng dần dần thấy rõ tất cả những xu hướng cứu nước thời
ấy đều không đem lại và không thể đem lại kết quả mong
muốn. Sự thật ngày nay chứng minh điều đó. Vậy phải đi
tìm con đường khác để tới những chân trời mới. Một điều
rất có ý nghĩa là lúc Nguyễn Tất Thành thấy cụm từ tự do,
bình đẳng, bác ái, thì cậu muốn biết đằng sau nó có cái gì!
Đương nhiên lúc bấy giờ Nguyễn Tất Thành không thể đọc
hoặc được nghe nói về những tư tưởng lớn của phương
Tây. Vậy thì con đường là đi đến phương Tây đầy bí ẩn với
tất cả những triển vọng chưa lường hết được. Sự nghiệp
của Hồ Chí Minh bắt đầu từ đây. Vận mệnh lớn của nước,
của dân gắn bó mật thiết với một quyết định mà lịch sử đã
chứng minh là sáng suốt phi thường.
11



ĐƯỜNG BÁC HỒ ĐI CỨU NƯỚC

Từ cảng Nhà Rồng, Nguyễn Tất Thành lên đường
theo hướng đã định. Chúng ta thử xem hành trang lúc
bấy giờ của Nguyễn Tất Thành có gì? Đó là truyền thống
lịch sử 4.000 năm với sức sống mãnh liệt của một dân tộc,
kiên trì phấn đấu vượt khó khăn gian khổ, bảo tồn và
phát triển bản lĩnh q báu của mình; truyền thống đồn
kết đấu tranh dựng nước và giữ nước, không ngừng vun
đắp sức mạnh của cộng đồng, một lòng tương thân tương
ái, cũng như bồi dưỡng nền văn hiến, từ đó mà khơng
ngừng phát triển bản lĩnh dân tộc, sức sống dân tộc, tình
cảm dân tộc. Cùng với truyền thống tư tưởng và bản sắc
văn hóa Việt Nam, trong hành trang của Nguyễn Tất
Thành lúc rời Việt Nam ra đi cịn có những thành quả tư
tưởng của phương Đông, nhất là của hai nền văn hóa lớn
Trung Quốc và Ấn Độ, qua nhiều thế kỷ giao lưu phần
nào đã hội nhập vào văn hóa Việt Nam, và được Nguyễn
Tất Thành tiếp thu qua giáo dục của gia đình, của nhà
trường và cuộc sống xã hội. Đồng thời trong hành trang
này còn phải đặc biệt nhấn mạnh những khát vọng lớn,
những hoài bão lớn của Nguyễn Tất Thành về tương lai
Tổ quốc và dân tộc, là đánh đổ chế độ áp bức, bóc lột thực
dân và phong kiến vươn lên xây dựng đất nước, xây dựng
xã hội, xây dựng con người tự do, hạnh phúc và văn
minh. Tồn bộ hành trang q báu đó là lẽ sống, là nội
tâm, là niềm tự hào và tự tin, là sức mạnh tinh thần kỳ
diệu của người thanh niên yêu nước trên con đường chưa
thấy bờ bến của mình. Nguyễn Tất Thành rất khơn ngoan
khi chọn cái nghề làm bếp trên tàu để có việc làm và cuộc

sống hàng ngày, đồng thời để có cơ hội chu du thiên hạ,
đi Pháp, đi các nước châu Á, châu Phi, Mỹ latinh, dừng
12


HÀNH TRANG RA ĐI TÌM ...

chân ít lâu tại nước Mỹ và nước Anh để rồi về lại nước
Pháp. Tại đây một cái tên mới xuất hiện.
Nguyễn Ái Quốc gửi bản "Yêu sách của nhân dân An
Nam" đến Tổng thống Mỹ và trưởng đồn các nước dự
Hội nghị Vécxây. Tơi khơng thể khơng trích một đoạn có
ý nghĩa quan trọng bậc nhất trong bản yêu sách nói trên:
"Từ ngày đồng minh thắng trận, tất cả các dân tộc bị lệ
thuộc đều chứa chan hy vọng rằng theo những lời cam kết
chính thức và trịnh trọng mà các cường quốc đồng minh
tuyên bố với toàn thế giới, trong cuộc đấu tranh của văn
minh chống dã man, thì tiền đồ một thời đại cơng lý và
chính nghĩa nhất định là phải đến với họ". Tiếp theo câu
nói trên, Nguyễn Ái Quốc địi các đại biểu dự hội nghị
thừa nhận quyền tự quyết thiêng liêng của các dân tộc,
trong đó có dân tộc Việt Nam. Cuộc vận động này của
Nguyễn Ái Quốc có tiếng vang ở châu Âu và gây dư luận
rộng rãi ở Đông Dương, nhất là ở Việt Nam, lúc bấy giờ.
Bức thư gửi Hội nghị quốc tế Vécxây chỉ là một hoạt
động bên lề của Nguyễn Ái Quốc, bởi mục tiêu của Nguyễn
Ái Quốc là tiếp tục đi tìm con đường cứu nước, cứu dân.
Theo hướng này, Nguyễn Ái Quốc có những hoạt động đa
dạng và phong phú ở Pari, tiếp xúc rộng rãi với các đảng phái
chính trị của nước Pháp và các nhóm chính trị khác nhau của

người Việt Nam. Sau cuộc hành trình mấy năm trời qua
nhiều châu lục, Nguyễn Ái Quốc có cơ hội vũ trang cho mình
những hiểu biết mới về các dân tộc bị áp bức ở rất nhiều nơi
trên thế giới, những hiểu biết về các nước tư bản chủ nghĩa
phương Tây: Cái gì ở dưới chân tượng Nữ thần tự do tại Nữu
Ước! Cái gì đằng sau cụm từ Tự do, Bình đẳng, Bác ái! Đồng
thời Nguyễn Ái Quốc đã có thời gian tìm hiểu và suy nghĩ về
13


ĐƯỜNG BÁC HỒ ĐI CỨU NƯỚC

những tư tưởng lớn của các bậc hiền triết cổ kim Đông Tây,
làm giàu thêm tư duy của mình.
Giờ đây, trở lại hành trang của Hồ Chí Minh lúc ra đi,
tơi thấy cần làm nổi bật biết bao những hiểu biết mới lạ làm
giàu thêm hành trang ấy từ phương Đông sang phương
Tây, từ các dân tộc bị áp bức đến các nước tư bản chủ nghĩa
phát triển nhất, từ các nền văn minh cổ xưa đến các nền văn
minh hiện đại lúc bấy giờ. Một điều nữa tôi phải đặc biệt
nhấn mạnh là những hoài bão, những mong muốn lúc ra đi
đã trải qua một q trình biến đổi sâu sắc và đó là những
hồi bão mới, những địi hỏi mới cần được thỏa mãn.
Từ đó chúng ta có thể hình dung được cái q mà Hồ
Chí Minh đang tìm phải có tầm vóc cao sâu đến mức nào. Lạ
lùng thay, Hồ Chí Minh đã tìm được cái mình mong muốn,
và đây là sự gặp gỡ hầu như có dun nợ lịch sử. Chính lúc
bấy giờ là lúc Hồ Chí Minh có cơ hội đọc Luận cương của
Lênin về vấn đề dân tộc và thuộc địa trình bày ở Đại hội lần thứ II
của Quốc tế Cộng sản năm 1920. Sau khi đọc luận cương

này, Nguyễn Ái Quốc đã thốt lên câu nói nổi tiếng: "Đây là
cái cần thiết cho chúng ta, đây là con đường giải phóng
chúng ta", thể hiện niềm sung sướng không sao diễn tả hết.
Thấy những điều ấp ủ của Nguyễn Tất Thành thì dễ hiểu
được tâm trạng của Nguyễn Ái Quốc khi đọc Luận cương
của Lênin. Luận cương ấy đưa đến việc Nguyễn Ái Quốc
dày công nghiên cứu học thuyết Mác - Lênin, cố gắng tìm ở
đấy cái gì mình thiết tha nhất.

14


Phần I

Đường bác hồ đi cứu nước

15


16


I

T

heo gia phả họ Nguyễn Sinh ở làng Sen cách
đây 400 năm, ơng Nguyễn Bá Phổ - vị khởi
thủy dịng họ Nguyễn Sinh đã đến lập nghiệp ở vùng quê
Kim Liên. Việc đổi chữ lót Nguyễn Sinh thay cho Nguyễn

Bá diễn ra từ thế hệ thứ năm. Cũng là thời kỳ xuất hiện
nhiều nhân tài đỗ đạt trong dòng họ. Đến ơng Nguyễn
Sinh Nhậm thì gia cảnh vào loại khá giả trong vùng. Ông
lấy người vợ đầu, sinh được người con trai thì bà mất.
Ơng ở vậy ni con đến tuổi thành niên, lo vợ cho con
xong ông mới lấy vợ kế, đó là bà Hà Thị Hy và sinh con
trai, đặt tên là Nguyễn Sinh Sắc. Được ba tuổi thì bà Hy
mất, một năm sau ơng Nhậm cũng qua đời. Mồ côi cả cha
lẫn mẹ, Nguyễn Sinh Sắc tới sống với người anh cùng cha
khác mẹ là Nguyễn Sinh Trợ, đang lúc cảnh nhà sa sút.
Nguyễn Sinh Sắc phải đi giữ trâu kiếm sống. Nhiều lần
Sinh Sắc ấm ức không được cùng bạn bè trong làng tới
trường học. Không nhịn được lòng ham muốn, nhiều lần
Sinh Sắc đã buộc trâu để học lén. Sẵn tư chất thông minh,
chỉ nghe lén, học lỏm mà cũng "ra trò". Càng biết ra,
Nguyễn Sinh Sắc càng ham học. Lưng trâu đã thành bàn
học. Cậu mê mải sách quên cả việc đưa trâu đi ăn. Cả làng
ai cũng quý cậu bé ham học. Ông đồ Hoàng Đường từ
làng bên, tức Hoàng Trù thường ghé Nam Liên thăm bạn,
17


ĐƯỜNG BÁC HỒ ĐI CỨU NƯỚC

vốn học cùng khóa với cụ Nguyễn Sinh Nhậm ngày trước,
bao lần bắt gặp Sinh Sắc học trên lưng trâu, ông cũng nghe
nhiều lời khen cậu bé thông minh và ham học nên càng quý
cậu bé hơn.
Tết Nhâm Dần (1878), làng Nam Liên mở hội xuân
nô nức tưng bừng. Tiếng trống thúc, tiếng loa kêu râm

ran náo động lòng người. Trai gái, trẻ già khắp mấy làng
đều háo hức tụ hội vui Xuân. Trên đường đi dự hội, ơng
Hồng Đường lại gặp cậu bé bình thản ngồi lưng trâu đọc
sách nên ông đã đến gặp Nguyễn Sinh Trợ xin đưa
Nguyễn Sinh Sắc về nuôi cho ăn học hẳn hoi.
Chỉ hai năm sau, ơng Hồng Đường cảm thấy học vấn
của cậu học sinh đặc biệt này chẳng thua kém gì mình
mấy. Ơng liền gửi Sinh Sắc đi xa 30 cây số tới học ông đồ
giỏi nhất vùng. Đó là thầy đồ Nguyễn Thức Tự vừa nổi
tiếng hay chữ lại là nhà yêu nước nhiệt thành nên được
dân trong vùng rất quý trọng. Như được chắp cánh, ba
năm sau, Sinh Sắc được gọi là một trong hai thần đồng về
văn tài trong xứ.
Sinh Sắc đến tuổi thành niên. Ơng Hồng Đường tính
chuyện kết dun giữa Sinh Sắc với con gái đầu lịng của
mình là Hồng Thị Loan. Cô gái cũng như ông bố quý
mến người con trai có tài, có chí lại có đức. Song sự việc
khơng sn sẻ ngay vì cụ bà Hồng Thị Kép cũng như
phía họ hàng bên ngoại khơng gạt bỏ được ấn tượng cậu
là đứa trẻ mồ côi đi ở đợ. Nay cho sánh dun với con gái
thầy đồ họ Hồng thì không môn đăng hộ đối.
18


Phần I: ĐƯỜNG BÁC HỒ ĐI CỨU NƯỚC

Phải qua thời gian để minh định và thuyết phục, năm
1883, ông bà họ Hoàng đã đứng ra tổ chức lễ cưới và dựng
cho đôi vợ chồng trẻ chỗ ở riêng ngay trong vườn nhà. Đó là
căn nhà tranh ba gian ở làng Hồng Trù q ngoại.

Năm 1884 ơng bà sinh con gái đầu lòng đặt tên là
Nguyễn Thị Thanh. Sau này trong hoạt động chống Pháp,
đồng đội gọi bà là cô Bạch Liên. Bà là một chiến sĩ kiên
trung, bất khuất mà kẻ thù rất nể sợ.
Năm 1888, người con thứ hai ra đời, mang tên là
Nguyễn Sinh Khiêm, sau đổi là Nguyễn Tất Đạt, cũng là
một chiến sĩ yêu nước bị thực dân và Nam Triều nhiều lần
bỏ tù, phát vãng đến quản thúc.
Năm 1890 Nguyễn Sinh Cung chào đời. Đó là Nguyễn
Tất Thành, là Nguyễn Ái Quốc, là Chủ tịch Hồ Chí Minh
của chúng ta.
*
*

*

Sống trong cảnh túng thiếu, nhìn vợ tất bật với hồn
cảnh khó khăn, nhiều lúc Nguyễn Sinh Sắc muốn lui về
cày ruộng, chung sức cùng vợ nuôi con nhưng mọi
người đều không chịu. Họ hàng nội ngoại nhà bà
Hồng Thị Loan đều ủy thác ơng phải đeo đuổi học tập.
Đến năm 1894 ông đậu Cử nhân trong khoa thi Hương
Giáp Ngọ. Ông chỉ ân hận là đã không đỗ đạt sớm hơn
để kịp báo hiếu công ơn cụ Hồng Đường đã ni dạy
mình từ tuổi lên năm. Cụ đã mất ngày 7 tháng 4 năm
19


ĐƯỜNG BÁC HỒ ĐI CỨU NƯỚC


Quý Tỵ (1893), do vậy, niềm vui của ông không trọn
vẹn. Sau buổi ra mắt quan tổng đốc An Tịnh, ông đã
tránh không dự buổi tiệc thịnh soạn đàn ca thâu đêm do
quan tổng đốc khao các vị tân khoa mà lui về nghỉ tại
nhà người bà con cụ Hoàng Đường sống tại tỉnh lỵ.
Sáng hôm sau tân khoa Nguyễn Sinh Sắc cắp mũ áo cử
nhân, đội dù, cuốc bộ về quê, không khoa trương danh
vị, cũng không tổ chức hội mừng mà chỉ làm lễ bái yết ở
nhà thờ, làm bà mẹ vợ bán tín bán nghi về chuyện ơng
thi đỗ. Hàng xã thì tấm tắc khen ông cử tài cao mà
khiêm tốn, giản dị.
Năm 1895, ông vào Huế dự kỳ thi Hội nhưng không
đậu. Để tiếp tục học ở Quốc Tử Giám, ông bàn với bà
Hoàng Thị Loan thu xếp cùng vào. Bà đã gửi con gái đầu
lòng ở lại với bà ngoại Hoàng Thị Kép, đưa hai con trai
theo chồng vào Huế. Tại đây gia đình ơng cử nhân nghèo
xứ Nghệ sống quá túng thiếu. Cứ hết buổi đi học ông lại
cắp dù đi dạy kèm con cái nhà khá giả. Bà miệt mài với cái
khung cửi, lấy công làm lãi nuôi chồng con. Như bao
nhiêu ông đồ Nghệ khác, họ phải chịu đựng với cảnh
nghèo, nai lưng ra lao động ngày đêm để giữ lấy nếp
thanh khiết, nho nhã.
Cuộc sống lo toan, vất vả nhanh chóng làm bà Hồng
Thị Loan kiệt sức. Sau khi sinh con thứ tư, bà đau ốm liên
miên, lại là đúng vào thời kỳ ông Sinh Sắc đi chấm thi ở
trường thi Thanh Hóa rồi ghé về quê lo phần mộ cho bố
mẹ. Thấy gia đình quá khó khăn, ơng mang Sinh Khiêm
20



Phần I: ĐƯỜNG BÁC HỒ ĐI CỨU NƯỚC

theo. Ở nhà bà Loan đã từ giã cõi đời vừa lúc bước sang
tuổi ba mươi ba. Bà con láng giềng ở thành Nội đã mai
táng bà ở chân núi Ba Tầng thuộc dãy Ngự Bình. Cịn lại
Sinh Cung lo bế ẵm em trai và sống qua ngày trong sự
thương yêu đùm bọc của hàng xóm.
Giữa Tết Tân Sửu (1901) đang ở Hồng Trù, nhận
được tin dữ, ông Sắc vô cùng đau đớn vội vàng một mình
vào Huế. Sau những ngày đau buồn vĩnh biệt người vợ
thân yêu, ông đưa hai anh em Sinh Cung về quê để nhờ
bên ngoại trông nom giúp rồi trở lại Huế cho kịp kỳ thi
Hội khoa Tân Sửu (1901). Khoa này ơng đậu Phó bảng.
Kể từ khoa Tân Sửu, người đậu Phó bảng bắt đầu
được hưởng hai đặc ân của chính bảng: được vua ban cờ
biển và cho vinh quy bái tổ. Trong lễ xướng danh, ông
Nguyễn Sinh Sắc được vua Thành Thái tặng biển "Ân Tứ
Ninh Gia" (Ơn ban cho gia đình tốt) và cấp phương tiện
đưa về đến tỉnh lỵ An Tịnh (Vinh). Tổng đốc An Tịnh lúc
đó là Đào Tấn đã ra lệnh cho lý trưởng các làng thuộc xã
Chung Cự đưa võng lọng cờ trống lên rước ơng Phó bảng.
Đây là vinh dự cực kỳ lớn với nho sinh thành đạt, trong
thiên hạ ai khơng ham.
Nhưng ơng Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc - như ngày
nào đậu cử nhân, sau buổi lễ ra mắt Tổng đốc địa hạt, ông
lại tự đi bộ về làng. Về cách Hoàng Trù bốn cây số, gặp
dân xã đang náo nức kéo nhau đi rước ông. Mọi người vội
trống giong cờ mở, giăng võng mời ông nằm lên cho làng
rước. Ơng từ tốn thưa: "Thưa bà con, tơi chưa làm được gì
21



ĐƯỜNG BÁC HỒ ĐI CỨU NƯỚC

cho làng cả, sao dám phiền bà con đón rước!". Dù bà con
năn nỉ, ơng một mực từ chối. Cuối cùng cả đoàn cùng đi
bộ theo ơng Phó bảng trở về làng. Ơng ghé về quê ngoại
làm lễ tạ ơn rồi mới sang chào làng bên nội.
Đây cũng là lần đầu tiên Kim Liên có người đỗ đại
khoa. Tục lệ ngày đó đã đỗ đại khoa mà đi ở rể là không
được. Dân làng mới cắt một miếng đất năm sào Trung Bộ,
dựng hàng rào và trích tiền cơng của làng mua một ngơi
nhà tranh bên Xuân La. Dân làng cùng nhau khiêng về
dựng làm chỗ ở cho ơng Phó bảng. Bố con ơng quay về
q nội, sống trong căn nhà lá ba gian đó.
Ngơi nhà này khơng cịn giữ được đến ngày nước nhà
độc lập, sau này đã được chuộc lại và đem về dựng trên
nền nhà cũ, theo khuôn mẫu ngôi nhà xưa. Hôm về thăm
làng Sen lần đầu (1957), Bác đã phát hiện ra lối vào nhà đã
mở sai hướng, Bác đã chỉ cho những người cùng đi:
- Lối đi ngày trước ở bên này! Xưa cha tôi trồng một
bên là hàng cây mạn hảo, một bên là hàng cây râm bụt.
Sau đó, địa phương đã mở lại cổng, làm lại hàng rào
và lối đi hiện nay đã đúng như sự hướng dẫn của Bác.
Gian đầu có bàn thờ với biển phong tặng "Ân Tứ Ninh
Gia" của nhà vua khi ông Nguyễn Sinh Sắc đậu Phó bảng
và lá cờ của dân làng tặng, đề bốn chữ "Phó bảng Phát
Khoa". Sau khi cụ Sinh Sắc qua đời, dòng họ Nguyễn Sinh
đưa lá cờ này vào nhà thờ họ. Năm 1957 Bác về thăm quê
có ghé vào nhà thờ, Bác vui mừng nói:

22


Phần I: ĐƯỜNG BÁC HỒ ĐI CỨU NƯỚC

- Lá cờ làng tặng cha tơi vẫn cịn! Các ơng giữ tài thật.
Bác vào gian cuối gần bếp - ở đây đặt một bộ ván bốn
tấm ghép lại. Chiếc bàn con kê sát cửa sổ và chiếc võng
đay đã cũ treo chéo hai cột. Cái sập đựng lúa và tủ chè kê
sát vách. Cây cột gần đó có treo cây đèn đĩa. Sát đấy là cái
án thư bằng tre. Nhìn bộ ván, Bác bảo:
- So với trước, bộ ván này bị cưa ngắn đi rồi.
Hai lần về thăm quê, lần nào Bác cũng lẳng lặng đi lên
đi xuống ba gian nhà lá. Quá khứ, những kỷ niệm thân
thương đang làm Bác bồn chồn. Những người có mặt lúc
đó cũng chìm lắng trong tâm trạng của Bác. Kỷ vật như
thiêng liêng hơn. Tất cả khơng cịn là tre, là gỗ, là vật
dụng mà là bóng dáng của cả một gia đình, mọi cái thấm
đượm tâm hồn, tình cảm gắn bó ruột thịt với Bác, làm xúc
động lịng người.
Bác đó, ơng già giản dị như mọi người già, gần gũi
như mọi bậc ông, bậc cha, thân mật chuyện trò việc làng
việc nước, những nỗi quan tâm của mọi gia đình. Vị Chủ
tịch nước đã hóa thân thành một người làng thân thiết của
cả già, trẻ, gái, trai.
Bác đó, đang nhắc lại từng kỷ niệm thời thơ ấu với
bạn bè.
Bác đó, niềm tin, lịng hy vọng của mỗi người, của
mọi người, của bạn bè gần xa. Bằng giọng làng Sen thân
thuộc, Bác nói:

- Tơi xa quê hương, xa các cụ, các mẹ, các chú như vậy là
đã năm mươi ba năm. Thường tình đi xa như vậy khi trở về,
23


×