BỘ TƯ PHÁP
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
------------
BÀI TẬP HỌC KỲ
MƠN:
KINH TẾ CHÍNH TRỊ
ĐỀ BÀI 3: “ Quy luật cạnh tranh – Lý luận và thực tiễn ở
Việt Nam”
HỌ TÊN: LÊ NGỌC KHÁNH HỊA
LỚP: 4420 - NHĨM: N10.TL04
MSSV: 442055
Hà Nội, tháng 10 năm 2020
1
MỤC LỤC
2
i
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
1.Quyền lực nhà nước
2.Quyền lực chính trị
3.Quyền lực nhân dân
4.Khoa học kỹ thuật
5.Quan hệ xã hội
6.Bộ máy nhà nước
7.Quy phạm pháp luật
8.Quốc hội
QLNN
QLCT
QLND
KHKT
QHXH
BMNN
QPPL
QH
ii
MỞ ĐẦU
Trong bất kỳ giai đoạn nào, việc tổ chức thực hiện quyền lực nhà nước ln
là yếu tố có ý nghĩa, quyết định đến mục tiêu, hiệu quả của quyền lực nhà nước. Do
đó, các nguyên tắc cơ bản để tổ chức thực hiện quyền lực nhà nước là vấn đề rất
quan trọng. Vấn đề quyền lực nhà nước là thống nhất có sự phân cơng và phối hợp
giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư
pháp đã và đang được đưa ra để thảo luận rất nhiều.
Trên cơ sở cơ đọng nội dung bài viết “Bàn về tính thống nhất của quyền lực
nhà nước và sự phân công, phối hợp trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành
pháp và tư pháp” của tác giả Lê Minh Tâm trong “Tạp chí Luật học, số 5/2003 ,
chúng ta sẽ có những cái nhìn mới mẻ về vấn đề tổ chức quyền lực nhà nước và tìm
ra được điểm chung cũng như điểm riêng khi so sánh bài viết với bài viết “ Nguyên
tắc quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân cơng, phối hợp, kiểm sốt giữa
các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư
pháp” của tác giả Nguyễn Minh Đoan trong “Tạp chí Nhà nước và Pháp luật số
5/2007”. Từ đó, em có thể rút ra nhận xét và đưa ra quan điểm của mình về “Nguyên
tắc quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân cơng, phối hợp, kiểm soát giữa các
cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”
được qui định tại khoản 3, điều 2 Hiến pháp nước Cộng hịa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam năm 2013.
NỘI DUNG
I.
Tóm tắt nội dung bài viết “Bàn về tính thống nhất của quyền lực nhà
nước và sự phân công, phối hợp trong việc thực hiện các quyền lập pháp,
hành pháp và tư pháp” của tác giả Lê Minh Tâm (Tạp chí Luật học, số
5/2003)
Vấn đề quyền lực nhà nước là thống nhất có sự phân cơng, phối hợp giữa các cơ
quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp đã và
đang nhận được sự quan tâm rất lớn. Bài viết dưới đây là góc nhìn của tác giả Lê
Minh Tâm về một số khía cạnh của vấn đề nêu trên:
1. Quyền lực
Theo quan điểm của tác giả, quyền lực là sự hợp thành của quyền và lực, trong
đó quyền có nội dung rất rộng cịn lực lại ln có những giới hạn nhất định. Do đó
nội hàm khái niệm quyền lực luôn giới hạn bởi mức độ kết hợp và tương tác giữa
quyền và lực. Như vậy, có thể hiểu quyền lực là khả năng buộc người khác thực
hiện những hành vi nhất định theo ý chí của người có quyền lực hoặc được trao
1
quyền lực. Khái niệm quyền lực vừa có tính khái qt, vừa có tính cụ thể do đó nó
vừa có chiều sâu bản chất thâm trầm, vừa có những biểu hiện hình thức phong phú;
vừa thống nhất lại vừa đa dạng. Có rất nhiều loại quyền lực và mỗi loại đều có
nguồn gốc, cơ sở tồn tại, được bảo đảm bằng sức mạnh với các thiết chế khác nhau.
2. Quyền lực nhà nước
Trước hết, quyền lực nhà nước là một dạng đặc biệt của quyền lực chính trị, nó
cơng khai, thống nhất, bao trùm toàn xã hội, đủ sức mạnh để kiểm soát và ràng
buộc các chủ thể phải phục tùng. QLNN có 5 đặc điểm cơ bản. Một là, QLNN chỉ
xuất hiện khi xã hội đã phát triển đến trình độ nhất định – nhà nước ra đời. Hai là,
cơ sở tồn tại của QLNN bao gồm nhiều yếu tố: được sự thừa nhận rộng rãi về mặt
xã hội; được hợp pháp hóa bởi các hình thức pháp lý;... Ba là, phạm vi tác động của
QLNN rất rộng lớn về không gian, thời gian, đối tượng. Bốn là, QLNN có tính
thống nhất cao đồng thời có tính thứ bậc phức tạp. Năm là, QLNN được biểu hiện
công khai với danh nghĩa chủ quyền nhân dân, chủ quyền quốc gia và thừa nhận về
mặt quốc tế. Với tính chất và những đặc điểm nêu trên, mặc dù QLNN là một dạng
đặc biệt của QLCT nhưng ở mức độ khác nhau, được kết tinh bằng các phương
pháp đặc thù, biểu hiện dưới các hình thức phong phú, đa dạng, tinh tế và được hợp
pháp hóa bằng các nguyên tắc pháp lý.
3. Tính thống nhất của quyền lực nhà nước
Thống nhất là một thuộc tính cơ bản của nhà nước. Về nguồn gốc, QLNN bắt
nguồn từ QLND, nhân danh QLND và chịu sự kiểm soát của QLND. Khi chưa xuất
hiện nhà nước thì đã có QLND, do đó, QLND là quyền lực cơ sở mà nhà nước cần
đặc biệt tơn trọng. Có thể nói, QLNN là sức mạnh của QLND được hợp pháp hóa
dưới các hình thức pháp lý và được trao cho BMNN với các chủ thể xác định dưới
hình thức ủy quyền. Về bản chất và nguồn cội, QLNN là một chỉnh thể thống nhất,
không thể chia cắt thành các bộ phận biệt lập. Tuy nhiên, để tổ chức, quản lý và
điều tiết các vấn đề của một quốc gia trên các lĩnh vực rộng lớn và phức tạp đòi hỏi
BMNN phải được tổ chức một cách khoa học trên cơ sở pháp lý vững chắc. Do đó
việc phân định QLNN thành các bộ phận là cần thiết nhưng phải dựa trên cơ sở
đảm bảo tính thống nhât và tính chỉnh thể của QLNN. Khi QLNN trao cho các chủ
thể bị tập trung quá mức hay phân tán không rõ ràng về mặt pháp lý sẽ dẫn đến
chuyên quyền, lạm quyền, khó kiểm sốt và QLNN khơng thể đảm bảo thực hiện.
Ngồi ra, QLNN có thực sự phục vụ lợi ích của chủ thể gốc là nhân dân hay khơng
cịn phụ thuộc rất lớn ở bản chất của chính đảng cầm quyền .
2
Tính thống nhất của QLNN là thuộc tính, cịn tập trung hay phân tán là phương
thức, cơ chế tổ chức và thực thi nội dung của quyền lực. Do đó QLNN bao giờ
cũng có tính thống nhất nhưng cơ chế tổ chức và thực thi quyền lực thì khác nhau.
Như vậy, tính thống nhất của QLNN là vấn đề có tính nguyên tắc và đảm bảo tính
thống nhất của QLNN là yêu cầu mang tính khách quan.
4. Sự phân định tương đối của quyền lực nhà nước
Sự phân định QLNN xuất phát từ nhu cầu có tính khách quan. Khi quy mô nhà
nước càng lớn, tình trạng chuyên quyền, độc đoán diễn ra ngày càng sâu sắc, cùng
với sự phát triển mạnh mẽ của KHKT, các QHXH ngày càng trở nên phức tạp.
QLNN cũng có những thay đổi về nội dung, hình thức và phương pháp tác động,
nhu cầu tổ chức quyền lực một cách khoa học ngày càng cấp thiết, sự phân định
QLNN được chấp nhận như giải pháp đáp ứng nhu cầu khách quan đó. Mặt khác,
BMNN là thiết chế lớn nhất, cơ cấu phức tạp do đó cần có sự phân cơng QLNN
hợp lý để tránh độc đoán, lạm quyền, vi phạm chủ quyền nhân dân mà vẫn đảm bảo
tính thống nhất. Việc phân định QLNN là rất cần thiết tuy nhiên nó chỉ mang tính
tương đối và sự phân định này nhìn chung chỉ áp dụng chủ yếu đối với những cơ
cấu của lớn QLNN. Hiện nay, thuyết phân lập quyền lực chia thành ba nhánh: lập
pháp, hành pháp, tư pháp được thừa nhận và áp dụng rộng rãi trên thế giới. Tuy
nhiên, mức độ và hiệu quả sử dụng các yếu tố của lý thuyết này là khác nhau, do đó
cần xem xét sự phân định quyền lực một cách đầy đủ đặt trong một chỉnh thể thống
nhất của QLNN và chú ý đến các yếu tố tác động bên ngoài .
5. Sự giới hạn, tương tác giữa các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp và
sự cần thiết phải có sự phân cơng phối hợp trong việc thực hiện các
quyền
Quyền lập pháp có thể hiểu là quyền làm ra pháp luật, là quyền lực thiêng liêng.
Quyền lập pháp được giao cho cơ quan đại diện cao nhất do nhân dân bầu ra (quốc
hội, nghị viện), do đó quốc hội là cơ quan cao nhất của QLNN và được trao những
quyền quan trọng với phạm vi tác động rộng lớn. Xét về tổng thể, quyền lập pháp
của quốc hội khơng có giới hạn vì trên mọi lĩnh vực đều cần có pháp luật điều
chỉnh nhưng xét trên bình diện cụ thể, quyền lập pháp luôn có giới hạn của nó.
Trước hết là bởi những nguyên tắc pháp luật: Bảo đảm tính xác định pháp lí; tính
phổ biến; tính cơng khai; tính ổn định tương đối; tính dự báo, kế thừa của pháp luật;
tính hợp hiến, khả thi và cơ chế kiểm tra. Mặt khác, do chịu tác động bởi tính tối
cao của chủ quyền nhân dân nên quyền lực của quốc hội chỉ giới hạn trong phạm vi
3
nhất định của hiến pháp, phối hợp hài hòa với quyền thuộc hành pháp và tư pháp
bởi trên thực tế quốc hội không thể một mình thực hiện quyền lực.
Quyền hành pháp được hiểu là quyền thi hành pháp luật, được giao cho các cơ
quan hành chính (chính phủ, các bộ…). Tuy nhiên do tính chất và đặc điểm đặc thù,
quyền hành pháp được chia thành quyền chấp hành pháp luật và quyền hành chính
chủ động, linh hoạt trong quản lý, điều hành các lĩnh vực của đời sống xã hội. Do
đó, bộ máy hành pháp có phạm vi rất rộng lớn với cơ cấu lớn nhất được tổ chức
theo những nguyên tắc đặc thù: bảo đảm an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội,
tiến hành thường xuyên về thời gian, rộng lớn về không gian, tác động đến mọi cá
nhân, tổ chức; chức năng quản lí rộng lớn, xyên suốt mọi lĩnh vực và phải phù hợp
với hiến pháp nhưng phải đủ năng lực để giải quyết tất cả các vấn đề nhanh chóng,
kịp thời, hiệu quả, chủ động, sáng tạo; chức năng bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của cơng dân; chức năng tổ chức thực thi pháp luật để đảm bảo pháp luật được tôn
trọng; chức năng lập quy, ban hành các văn bản QPPL; chức năng kiểm tra, thanh
tra, xem xét vi phạm của công dân hoặc nhân viên của bộ máy nhà nước; chức năng
tổ chức bộ máy hành pháp…
Quyền tư pháp là quyền tài phán và được giao cho tòa án. Cơ quan thực hành
quyền tư pháp được được đặc trưng bởi tính độc lập của tịa án – khi xét xử chỉ tuân
theo pháp luật và các quy tắc pháp lý. Tuy nhiên, trên thực tế điều đó dường như
khơng thể có được, những nguyên tắc đó tựa hồ chỉ là mơ hình lý tưởng. Tịa án có
quyền phán xét về tính hợp hiến của những đạo luật do cơ quan lập pháp đặt ra
cũng như tính hợp pháp của các văn bản dưới luật cũng như hành vi hợp pháp của
cơ quan hành pháp.
Tóm lại, ba nhánh quyền nêu trên là những bộ phận của QLNN. Mỗi bộ phận
đều có sự độc lập nhất định những giữa chúng ln có sự tác động qua lại, đan xen,
hịa quyện với nhau . Việc phân chia rạch ròi mỗi bộ phận của QLNN chỉ là mặt lý
thuyết còn trên thực tiễn không thể thực hiện được. Vì vậy, giải pháp tốt nhất và có
ý nghĩa thực tiễn nhất là trên cơ sở xác định rõ tính chất, đặc điểm, nội dung, hình
thức và phương pháp biểu hiện đặc thù của mỗi loại quyền lực để tìm ra mức độ
hợp lí trong việc phân cơng và phối hợp thực hiện có hiệu quả nhất mỗi loại quyền
nói trên và QLNN nói chung.
II.
So sánh điểm giống và khác nhau trong cách hiểu về “tính thống nhất
của quyền lực nhà nước; sự phân cơng, phối hợp trong việc thực hiện
các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp” giữa tác giả Lê Minh Tâm qua
bài viết trên và tác giả Nguyễn Minh Đoan trong bài viết “Nguyên tắc
4
quyền lực nhà nước là thống nhất có sự phân công, phối hợp giữa các cơ
quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp”
(Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 5/2007 )
1. Điểm giống và khác nhau trong cách hiểu về tính thống nhất của quyền
lực nhà nước
1.1. Điểm giống nhau
Cả hai tác giả đều cho rằng sự thống nhất của quyền lực nhà nước xuất phát
từ quyền lực nhân dân, nhà nước nhận quyền lực từ nhân dân – một khối thống
nhất, tạo nên khả năng thống nhất vô cùng to lớn trong dời sống xã hội. Không
những vậy, sự thống nhất của quyền lực nhà nước còn bắt nguồn từ bản thân nhà
nước là một chỉnh thể thống nhất không thể tách rời. Ngồi ra tính thống nhất
của QLNN cịn đảm bảo việc quản lý tồn diện, có hệ thống các mặt quan trọng
của đời sống xã hội.
Mặt khác, khi QLNN bị tập trung quá mức hoặc phân tán không hợp lý sẽ
dẫn tới gia tang tình trạng lạm quyền, tùy tiện, khó kiểm sốt. Mặt khác, sức
mạnh khi bị phân tán tất sẽ yếu và không thể đảm bảo việc thực hiện hiệu quả
QLNN. Do đó việc đảm bảo tính thống nhất của QLNN góp phần tránh tình
trạng tập trung quan liêu cũng như phân tán, cục bộ, phân quyền cát cứ trong
thực hiện QLNN
1.2. Điểm khác nhau
Ngoài những điểm chung đã nêu trên, tác giả Lê Minh Tâm còn chỉ ra rằng
chính sự tương tác giữa quyền và lực, tính chất, đặc điểm của QLNN đã đòi hỏi
QLNN phải được tổ chức một cách thống nhất. Sức mạnh khi bị phân tán tất sẽ
yếu và không thể bảo đảm việc thực hiện hiệu quả một cách tối đa QLNN do đó
cần phải có sự thống nhất.
Trong khi đó, tác giả Nguyễn Minh Đoan lại nhận thấy, nguồn gốc của sự
thống nhất QLNN cịn xuất phát từ sự phân cơng lao động, quản lý xã hội cả về
chiều ngang (các bộ phận chuyên trách) và chiều dọc (các cơ quan từ trung ương
xuống địa phương).
2. Điểm giống và khác nhau trong cách hiểu về sự phân công, phối hợp
thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp
2.1. Điểm giống nhau:
Cả hai tác giả đều nhận thấy rằng, sự phân công, phối hợp giữa các cơ
quan trong việc thực hiện QLNN chỉ mang tính tương đối. Ngồi ra, việc phân
cơng QLNN hạn chế được sự độc đoán, chuyên quyền, lạm dụng quyền lực
5
trong bộ máy nhà nước. Hiện nay, QLNN được phân định thành ba nhánh quyền
chủ yếu: lập pháp, hành pháp, tư pháp.
2.2. Điểm khác nhau:
Nếu như tác giả Lê Minh Tâm chỉ nêu lên những mặt tích cực của sự phân
công, phối hợp thực hiện QLNN thì tác giả Nguyễn Minh Đoan, ngồi việc chỉ
ra rằng sự phân cơng, phối hợp thực hiện QLNN có những đóng góp tích cực
nhằm tăng tính hiệu quả của QLNNcịn thấy được chủ thể nào sẽ thực hiện vấn
đề phân công QLNN ( một mặt nhân dân thông qua Hiến pháp để phan công
thực hiện QLNN; mặt khác ở tầm vi mô, sẽ thực hiện theo cơ chế cùng phối
hợp, hiệp thương để phân cơng). Ngồi ra, tác giả Ngũn Minh Đoan cịn chỉ ra
những hạn chế khi sự phân công không rõ ràng sẽ dẫn đến việc quy định nhiệm
vụ, quyền hạn của các cơ quan không chặt chẽ, không quy kết được trách nhiệm
và gây khó khăn trong việc phối hợp giữa các cơ quan.
III.
Quan điểm của cá nhân về nội dung qui định tại khoản 3, Điều 2
Hiến pháp Việt Nam năm 2013: “Quyền lực nhà nước là thống
nhất có sự phân cơng, phối hợp, kiểm sốt giữa các cơ quan nhà
nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư
pháp”.
Hiện nay, tổ chức bộ máy nhà nước nước ta về bản chất vẫn bảo đảm tính
tập quyền xã hội đồng thời có vận dụng các hạt nhân hợp lý của thuyết phân
quyền, nghĩa là nhấn mạnh đến khía cạnh phân cơng, phối hợp chứ khơng dồn
tồn bộ về Quốc Hội như trước. Khoản 3, Điều 2 Hiến Pháp Việt Nam năm
2013 quy định: “Quyền lực nhà nước là thống nhất có sự phân cơng, phối hợp,
kiểm sốt giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp,
hành pháp, tư pháp”. Có thể thấy rằng, nguyên tắc này vừa là vấn đề khoa học,
vừa là vấn đề thực tiễn phức tạp và nhạy cảm.
Thống nhất quyền lực nhà nước là vấn đề có tính ngun tắc, bất di bất
dịch. Tuy nhiên để đảm bảo tính thống nhất đó thì phải phân cơng, phân nhiệm
rõ chức năng, nhiệm vụ của từng hệ cơ quan trong việc thực hiện quyền lực nhà
nước. Ở đây, những yếu tố hợp lý của thuyết “tam quyền phân lập” đã được
Đảng ta tiếp thu và nâng lên thành lý luận về sự phân công, phối hợp giữa các cơ
quan nước nhằm đảm bảo nâng cao hiệu quả và hiệu lực của bộ m nhà nước.1
Thực tế cho thấy, nếu khơng có sự phân công quyền lực thì không thể
quy trách nhiệm cho cơ quan cụ thể nào, từ đó dẫn đến tình trạng các cơ quan ỷ
lại và đùn đẩy trách nhiệm cho nhau. Nhưng, kể từ khi Hiến pháp ghi nhận sự
phân công, phối hợp QLNN thì các cơ quan nhà nước buộc phải tự hoàn thiện
mình để đáp ứng yêu cầu công việc.
Tuy nhiên trong vấn đề thống nhất có sự phân cơng, phối hợp thực hiện
QLNN vẫn tồn tại khá nhiều hạn chế: Quốc hội vẫn được coi là cơ quan quyền
lực cao nhất, là trung tâm của bộ máy nhà nước; ngoài thực hiện quyền lập pháp,
1
Lê Quốc Hùng (2004), Thống nhất phân công và phối hợp quyền lực nhà nước ở Việt Nam, Nxb. Tư pháp
6
QH cịn thực hiện rất nhiều cơng việc thuộc nội dung của cơ quan hành pháp và
tư pháp như: hoạt động giải thích pháp luật, về mặt lý luận phải là nội dung của
quyền tư pháp nên trao cho tòa án thực hiện nhưng lại được giao cho UBTV
Quốc hội dẫn tới tình trạng hoạt động này chưa đáp ứng được nhu cầu sơi động
của thực tế cuộc sống… Ngồi ra, Chính phủ cũng chưa thực sự đóng vai trị là
cơ quan hành pháp trong bộ máy nhà nước thể hiện ở tâm lý ỷ lại trong hoạt
động xây dựng pháp luật dẫn tới tình trạng một số dự án luật bị chậm tiến độ.2
Tóm lại, mặc dù đã có sự thống nhất, phân công, phối hợp giữa các cơ
quan trong việc thực hiện quyền lực nhà nước nhưng vấn đề này vẫn còn tồn
đọng khá nhiều hạn chế do thực hiện “chưa tới nơi”. Nguyên nhân chủ yếu dẫn
đến tình trạng này là do thiết kế mô hình bộ máy nhà nước theo tư duy tập
quyền, quyền lực của cơ quan lập pháp là Quốc hội trải rộng trên quá nhiều lĩnh
vực đôi khi dẫn tới tình trạng “lấn quyền” đối với hai cơ quan hành pháp và tư
pháp. Do đó cần có sự tổ chức, quản lý hợp lý hơn trong vấn đề phân công, phối
hợp quyền lực nhà nước bởi hoạt động của các cơ quan nhà nước là sự hiện thực
hóa các quy định của pháp luật, khi những nội dung ấy chưa hợp lý tất yếu dẫn
đến việc các cơ quan nhà nước thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình đạt
hiệu quả không cao. Đó là thực trạng hồn tồn dễ hiểu!
KẾT LUẬN
Ngun tắc quyền lực nhà nước là thống nhất có sự phân công, phối hợp
giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp,
tư pháp vô cùng cần thiết và quan trọng để nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt
động của bộ máy nhà nước. Nguyên tắc này đã được ghi nhận và khẳng định
trong Hiến pháp và các văn bản quy phạm pháp luật khác. Tuy nhiên trên thực
tế, những quy định này đôi khi chưa thực sự chính xác và phù hợp. Do đó, đòi
hỏi đẩy nhanh xây dựng cơ chế vận hành của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa, bảo đảm sự thống nhất, phân công hợp lý và phối hợp giữa các nhánh
quyền trong việc thực hiện quyền lực nhà nước.
2
Cao Anh Đô (2013), “Phân công, phối hợp giữa các cơ quan trong thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư
pháp ở Việt Nam”, Nxb. Chính trị quốc gia.
7
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
1. Cao Anh Đô (2013), “Phân công, phối hợp giữa các cơ quan trong thực
hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp ở Việt Nam”, Nxb. Chính trị
quốc gia.
2. Hiến pháp nước Cộng hịa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Nxb Lao động.
3. Lê Minh Tâm (2003), “Bàn về tính thống nhất của quyền lực nhà nước và
sự phân công, phối hợp trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành
pháp và tư pháp” ,Tạp chí Luật học (05).
4. Lê Quốc Hùng (2004), Thống nhất phân công và phối hợp quyền lực nhà
nước ở Việt Nam, Nxb. Tư pháp.
5. Một số vấn đề về tổ chức thực hiện quyền lực nhà nước, TS. Nguyễn Minh
Đoan, TS. Bùi Thị Đào, ThS. Trần Ngọc Định, TS. Trần Thị Hiền, TS. Lê
Vương Long, ThS. Nguyễn Văn Năm, ThS. Bùi Xuân Phái; Nxb chính trị
quốc gia, năm 2009.
6. Nguyễn Minh Đoan (2007), “Nguyên tắc quyền lực nhà nước là thống
nhất có sự phân cơng, phối hợp giữa các cơ quan trong việc thực hiện các
quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật
(05).
7. Trường Đại học Luật Hà Nội (2016), Giáo trình lý luận chung về nhà
nước và pháp luật, Nxb. Tư pháp, Hà Nội.
8