PHẦN MỞ ĐẦU
1. Sự cần thiết của đề tài
Theo đánh giá của Ph. Ăng-ghen, Mác có hai phát minh vĩ đại nhất: Một là phát minh
về tiến trình lịch sử của nhân loại, hai là kinh tế học với học thuyết giá trị thặng dư. Có thể
nói, những cống hiến vĩ đại của C. Mác được thể hiện trên nhiều phương diện, ở cả lý luận
và thực tiễn Cho đến nay, lý thuyết về chủ nghĩa duy vật lịch sử ấy vẫn hoàn toàn khoa học,
hoàn toàn đứng vững. Mỗi hình thái kinh tế xã hội khi phát triển đều có sự kế thừa và phát
triển, từ đó đi đến kết luận về quy luật lịch sử, loài người tất yếu sẽ đi tới Chủ nghĩa xã hội,
Chủ nghĩa cộng sản. Từ đó, Đảng Cộng sản Việt Nam đã tiếp nhận tư tưởng ấy và chỉ ra
đường hướng phát triển của Cách mạng Việt Nam là phải giành cho được độc lập dân tộc.
Đó là tiền đề quan trọng để tiến tới xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Một trong những phát minh vĩ đại của Mác, đó là Mác đã phân tích, mổ xẻ bản chất kinh
tế của chế độ tư bản chủ nghĩa. Nghiên cứu từ bản chất kinh tế và kể cả sự cống hiến của
Chủ nghĩa tư bản, đặc biệt là bản chất chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất, rồi quy luật
vận động trong lịng xã hội tư bản. Từ đó, Mác đã phát hiện ra quy luật, học thuyết về giá
trị thặng dư trong chủ nghĩa tư bản. Sau này, đến thời đại đế quốc, lý thuyết về giá trị thặng
dư tiếp tục phát triển. Đến nay, lý thuyết này vẫn còn nguyên giá trị.
Để việc vận dụng học thuyết giá trị thặng dư của C. Mác một cách khoa học, biện chứng
trước hết phải nhận thức đúng khái niệm bóc lột và bóc lột giá trị thặng dư trong học thuyết
Mác. Từ đó, có cơ sở khoa học để luận giải những hiện tượng kinh tế của xã hội hiện nay.
“Bóc lột” là một bộ phận người trong xã hội hoặc tập đồn xã hội nào đó, chiếm đoạt khơng
có bồi thường thành quả lao động của một người khác hoặc của tập đồn xã hội khác. Theo
C. Mác, việc bóc lột lao động đều có trong tất cả các hình thái xã hội từ trước tới nay vận
động trong những mâu thuẫn giai cấp. Nhưng chỉ khi nào kẻ sở hữu tư liệu sản xuất tìm ra
được người cơng nhân tự do, với tư cách là đối tượng bóc lột, và bóc lột người cơng nhân
đó nhằm mục đích sản xuất ra hàng hoá để thu được giá trị tăng thêm, thì khi đó mới là bóc
lột giá trị thặng dư, tư liệu sản xuất mới mang tính chất đặc biệt là tư bản. Ngày nay, học
thuyết giá trị thặng dư vẫn có ý nghĩa quan trọng trong sự nghiệp xây dựng nền kinh tế
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Việc nghiên cứu, vận dụng các quy luật kinh tế mà đặc biệt là học thuyết giá trị thặng
dư đã và đang là một hướng áp dụng có hiệu, nhằm thúc đẩy nhanh q trình cơng nghiệp
hóa – hiện đại hóa nước ta để phát triển đất nước Việt Nam hùng cường. Tính tất yếu khách
quan về việc vận dụng giá trị học thuyết giá trị thặng dư vào Việt Nam đã được thông qua
1
trong các văn kiện Đại hội của Đảng nhưng trong một chừng mực nào đó vẫn cịn tồn tại
các thành kiến với các thành phần kinh tế tư nhân, tư bản coi thành phần kinh tế này là bóc
lột và nhận thức này không chỉ xảy ra với một số cán bộ là Đảng viên làm công tác quản lý
mà còn xảy ra ngay trong những người trực tiếp làm kinh tế tư nhân ở nước ta. Trong bối
cảnh đó, việc học tập và nghiên cứu mơn kinh tế chính trị mà đặc biệt là học thuyết giá trị
thặng dư sẽ góp phần giải quyết những vướng mắc trong quá trình phát triển các thành phần
kinh tế cũng như quá trình vận dụng học thuyết giá trị thặng dư đảm bảo tính khoa học, phù
hợp với thực tiễn ở Việt Nam.
Với những lý do đó, tơi xin chọn đề tài “Phương pháp sản xuất giá trị thặng dư và ý
nghĩa của việc phát huy phương pháp đó trong nền kinh tế thị trường Việt Nam” làm đề tài
nghiên cứu của mình.
2. Đới tượng nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu về hai phương pháp sản xuất giá trị thặng dư và sự ảnh hưởng của
hai phương pháp đó đến nền kinh tế thị trường Việt Nam.
3. Phạm vi nghiên cứu
Tập trung nghiên cứu về nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung của Việt Nam từ trước năm
1986 và nền kinh tế thị trường Việt Nam từ năm 1986 đến nay. Từ đó đưa ra một số kiến
nghị nhằm phát huy tác dụng và hạn chế những ảnh hưởng tiêu cực của hai phương pháp
sản xuất giá trị thặng dư ở Việt Nam.
4. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu được sử dụng trong đề tài là phương pháp nghiên cứu duy vật
biện chứng, xem xét các quá trình kinh tế trong mối liên hệ tác động qua lại, luôn vận động,
phát triển không ngừng và gắn điều kiện lịch sử cụ thể.
Nghiên cứu lí thuyết: quan điểm tồn diện của học thuyết kinh tế Mác – Lê-nin, các khái
niệm và tác động của nền kinh tế thị trường.
Nghiên cứu thực tiễn: nghiên cứu về nền kinh tế thị trường của Việt Nam, thông qua
việc thu thập thông tin về vấn đề nghiên cứu, xử lí, phân tích các số liệu và kiểm tra trong
thực tiễn.
5. Giới thiệu nội dung nghiên cứu
2
Tiểu luận gồm 3 chương chính:
- Chương 1: Lý luận của học thuyết kinh tế Mác - Lênin về hai phương pháp sản xuất
giá trị thặng dư.
- Chương 2: Sự hoạt động của hai hương pháp sản xuất giá trị thặng dư trong nền kinh
tế Việt Nam.
- Chương 3: Một số kiến nghị nhằm phát huy tác dụng tích cực và hạn chế ảnh hưởng
tiêu cực của hai phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tại Việt Nam
3
PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1
LÝ LUẬN CỦA HỌC THUYẾT KINH TẾ MÁC-LÊNIN VỀ HAI
PHƯƠNG PHÁP SẢN XUẤT GIÁ TRỊ THẶNG DƯ
1.1. Tư bản và giá trị thặng dư
1.1.1. Tư bản
Tư bản là giá trị mang lại giá trị thặng dư bằng cách bóc lột cơng nhân làm th.
Như vậy, tư bản là một sự vận động và phản ánh quan hệ bóc lột giữa nhà tư bản và người
lao động. Tư bản là một quan hệ xã hội. Mác và Ănghen cũng là người đầu tiên xây dựng
nên lý luận về giá trị thặng dư một cách hồn chỉnh. Vì vậy, lý luận về giá trị thặng dư được
xem là hòn đá tảng to nhất trong toàn bộ học thuyết của Mác. Qua thực tế xã hội tư bản lúc
bấy giờ, Mác thấy rằng giai cấp tư bản ngày càng giàu thêm cịn giai cấp vơ sản thì ngày
càng nghèo khổ và ơng đã đi tìm hiểu ngun nhân vì sao lại có hiện tượng này.
Cuối cùng ơng phát hiện rằng nếu tư bản đưa ra một lượng tiền T đưa vào q trình
sản xuất và lưu thơng hàng hố thì số tiền thu về lớn hơn số tiền ứng ra. Ta gọi là:
T' (T' > T) hay T' = T + ΔT.
C.Mác gọi ΔT là giá trị thặng dư. Ông cũng thấy rằng mục đích của lưu thơng tiền tệ với
tư cách là tư bản không phải là giá trị sư dụng mà là giá trị. Mục đích của lưu thông T – H
- T' là sự lớn lên của giá tri thặng dư nên sư vận động T – H - T' là khơng có giới hạn. Cơng
thức này được Mác gọi là công thức chung của tư bản.
Qua nghiên cứu, Mác đi đến kết luận: "Tư bản không thể xuất hiện từ lưu thông mà
cũng không xuất hiện ở ngồi lưu thơng. Nó phải xuất hiện trong lưu thông và đồng thời
không phải trong lưu thông ". Đây chính là mâu thuẫn cơng thức chung của tư bản.
1.1.2. Giá trị thặng dư
Để giải quyết mâu thuẫn trên Mác đã phát hiện ra nguồn gốc sinh ra giá trị hàng hố
- sức lao động. Q trình sản xuất ra hàng hoá và tạo ra giá trị mới lớn hơn giá trị của bản
thân giá trị sức lao động. Vậy quá trình sản xuất ra tư bản chủ nghĩa là quá trình sản xuất
ra giá trị sử dụng và quá trình sản xuất ra giá trị thặng dư. Phần giá trị mới lớn hơn giá trị
sức lao động, nó được tính bằng giá trị sức lao động cộng thêm giá trị thặng dư. Như vậy,
Giá trị thặng dư (m) là phần giá trị mới dơi ra ngồi giá trị sức lao động do công nhân tạo
4
ra và bị các nhà tư bản chiếm đoạt. Qua đó chúng ta thấy tư bản là giá trị đem lại giá trị
thặng dư bằng cách bóc lột cơng nhân làm thuê.
Để nghiên cứu yếu tố cốt lõi để tạo nên giá trị thặng dư trong quá trình sản xuất của
các nhà tư bản thì C.Mác đã chia tư bản ra hai bộ phận: Tư bản bất biến (là bộ phận tư bản
tồn tại dưới hình thái tư liệu sản xuất mà giá trị được bảo tồn và chuyển vào sản phẩm, tức
là giá trị không biến đổi về lượng trong q trình sản xuất; kí hiệu là c) và Tư bản khả biến
(là bộ phận tư bản biểu hiện dưới hình thức giá trị sức lao động trong quá trình sản xuất đã
tăng thêm về lượng; kí hiệu là v).
Như vậy, ta thấy muốn cho tư bản khả biến hoạt động được thì phải có một tư bản
bất biến đã được ứng trước với tỉ lệ tương đương. Và qua sự phân chia ta rút ra tư bản khả
biến tạo ra giá trị thặng dư vì nó dùng để mua sức lao động. Cịn tư bản bất biến có vai trò
gián tiếp trong việc trong việc tạo ra giá trị thặng dư. Từ đây ta có kết luận: "Giá trị của
một hàng hoá của một hàng hoá bằng giá trị tư bản bất biến mà nó chứa đựng, cộng với
giá trị của tư bản khả biến (Tức là giá trị thặng dư đã được sản xuất ra). Chỉ có lao động
của công nhân làm thuê mới tạo ra giá trị thặng dư của nhà tư bản. Tư bản đã bóc lột một
phần giá trị mới do cơng nhân tạo ra. Nó được biểu diễn một cách ngắn gọn qua quá trình:
Giá trị = c + v + m
Giá trị tư liệu sản xuất chuyển vào sản phẩm: c
Giá trị sức lao động của người công nhân: v
Giá trị mới do người công nhân tạo ra: v + m
Như thế tư bản bỏ ra một lượng tư bản để tạo ra giá trị là c + v. Nhưng giá trị mà nhà tư
bản thu vào là c + v + m. Phần m dôi ra là phần mà tư bản bóc lột của cơng nhân. Trên
đây chúng ta đã nghiên cứu nguồn gốc của giá trị thặng dư.
1.1.3. Tỷ suất giá trị thặng dư và khối lượng giá trị thặng dư
Tỷ suất giá trị thặng dư (m′) là tỷ lệ tính theo phần trăm giữa số lượng giá trị thặng
dư (m) với tư bản khả biến (v). Ta có cơng thức:
m′ =
m
× 100%
v
5
Ý nghĩa: Tỷ suất giá trị thặng dư phản ánh chính xác trình độ bóc lột của nhà tư bản đối với
công nhân làm thuê.
Khối lượng giá trị thặng dư (M) là số lượng giá trị thặng dư mà nhà tư bản thu được
trong một thời gian sản xuất nhất định. Ta có cơng thức:
M = m′ × V hoặc M =
m
v
×V
trong đó V là tổng tư bản khả biến được sử dụng trong thời gian trên. Ý nghĩa: Khối lượng
giá trị thặng dư phản ánh quy mơ bóc lột của nhà tư bản, giai cấp tư bản bóc lột tồn thể
giai cấp cơng nhân.
1.2.
Phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tụt đới
Nhà tư bản ln tìm cách tạo ra giá trị thặng dư nhiều nhất bằng nhiều cách, bằng
nhiều thủ đoạn. Trong đó Mác chỉ ra hai phuơng pháp mà chủ nghĩa tư bản thường dùng
đó là Sản xuất giá trị thặng dư tương đối và Sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối.
Trong giai đoạn phát triển đầu tiên của sản xuất tư bản chủ nghĩa, thời kì này nền
kinh tế sản xuất chủ yếu là sử dụng lao động thủ công, hoặc lao động với những máy móc
giản đơn ở các cơng trường thủ cơng, kỹ thuật cịn thấp, tiến bộ chậm chạp thì phương pháp
chủ yếu để tăng giá trị thặng dư là kéo dài ngày lao động của cơng nhân. Đó là sự gia tăng
về mặt lượng của quá trình sản xuất ra giá trị thặng dư. Như vậy, phương pháp sản xuất giá
trị thặng dư tuyệt đối là giá trị thặng dư có được nhờ kéo dài thời gian lao động vượt quá
thời gian lao động tất yếu trong điều kiện năng suất lao động, giá trị sức lao động và thời
gian lao động tất yếu không thay đổi.
Giả sử ngày lao động là 8 giờ, trong đó 4 giờ là thời gian lao động tất yếu và 4 giờ
là thời gian lao động thặng dư. Điều đó có thể biểu diễn bằng sơ đồ sau đây:
(Thời gian lao động tất yếu)
(Thời gian lao động thặng dư)
Do đó, tỷ suất giá trị thặng dư là:
m′ =
4
× 100% = 100%
4
6
Giả sử nhà tư bản kéo dài ngày lao động thêm 2 giờ, tức là thời gian lao động thặng dư là
6 giờ, trong khi thời gian tất yếu không thay đổi, vẫn là 4 giờ. Khi đó ngày lao động được
chia như sau:
(Thời gian lao động tất yếu)
(Thời gian lao động thặng dư)
Do đó, tỷ suất giá trị thặng dư lúc này là:
m′ =
6
× 100% = 150%
4
Như vậy, khi kéo dài tuyệt đối ngày lao động trong điều kiện thời gian lao động tất yếu
khơng thay đổi, thì thời gian lao động thặng dư tăng lên, nên tỷ suất giá trị thặng dư tăng
lên từ 100% lên đến 150%.
Với sự thèm khát giá trị thặng dư, nhà tư bản phải tìm mọi cách để kéo dài
ngày lao động , thời gian lao động, nhưng thời gian lao động, ngày lao động có những giới
hạn nhất định. Giới hạn trên của ngày lao động do thể chất và tinh thần của người lao động
quyết định. Dưới chủ nghĩa tư bản mặc dù sức lao động của công nhân là hàng hố, nhưng
nó lại tồn tại trong cơ thể sống của con người. Vì vậy, ngồi thời gian người cơng nhân làm
việc cho nhà tư bản trong xí nghiệp, người cơng nhân địi hỏi cịn phải có thời gian để ăn
uống nghỉ ngơi nhằm tái sản xuất ra sức lao động. Mặt khác, sức lao động là thứ hàng hoá
đặc biệt vì vậy ngồi yếu tố vật chất người cơng nhân địi hỏi cịn phải có thời gian cho
những nhu cầu sinh hoạt về tinh thần, vật chất, tôn giáo của mình.
Việc kéo dài ngày lao động cịn vấp phải sự phản kháng của giai cấp cơng nhân. Từ
đó tất yếu dẫn đến phong trào của giai cấp vô sản đấu tranh đòi giai cấp tư sản phải rút ngắn
thời gian lao động trong ngày. Còn giới hạn dưới của ngày lao động không thể bằng thời
gian lao động tất yếu, tức là thời gian lao động thặng dư bằng không. Như vậy, về mặt kinh
tế, ngày lao động phải dài hơn thời gian lao động tất yếu, nhưng không thể vượt quá giới
hạn về thể chất và tinh thần của người lao động nhưng với phương pháp bóc lột này đã đem
lại hiệu quả rất cao cho các nhà tư bản.
Vì vậy, giai cấp tư sản phải chuyển sang một phương pháp bóc lột mới tinh
vi hơn, đó là phương pháp bóc lột giá trị thặng dư tương đối.
7
1.3.
Phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tương đối.
Để khắc phục những vấn đề mà phương pháp giá trị thặng dư tuyệt đối gặp
phải do việc kéo dài ngày lao động bị giới hạn về thể chất và tinh thần của nguời lao động
và vấp phải cuộc đấu tranh ngày càng mạnh mẽ của giai cấp cơng nhân thì nhà tư bản đã
áp dụng phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tương đối vào sản xuất.
Khi sản xuất tư bản chủ nghĩa phát triển đến giai đoạn đại cơng nghiệp cơ khí, kĩ
thuật đã tiến bộ làm cho năng suất lao động tăng lên nhanh chóng, thì các nhà tư bản chuyển
sang phương thức bóc lột dựa trên cơ sở tăng năng suất lao động, bóc lột giá trị thặng dư
tương đối. Giá trị thặng dư tương đối là giá trị thặng dư thu được do rút ngắn thời gian lao
động tất yếu bằng cách nâng cao năng suất lao động xã hội, nhờ đó tăng thời gian lao động
thăng dư lên ngay trong điều kiện độ dài ngày lao động vẫn như cũ. Vì giá trị sức lao động
được quyết định bởi các tư liệu tiêu dùng và dịch vụ để sản xuất, tái sản xuất sức lao động,
nên muốn hạ thấp giá trị sức lao động thì phải giảm giá trị các tư liệu sinh hoạt và dịch vụ
cần thiết cho người lao động. Điều đó chỉ được thực hiện bằng cách tăng năng suất lao động
xã hội cho các ngành sản xuất tư liệu tiêu dùng và các ngành sản xuất tư liệu sản xuất để
sản xuất ra các tư liệu sinh hoạt và dịch vụ.
Giả sử ngày lao động là 8 giờ và nó được chia thành 4 giờ là thời gian lao động tất
yếu và 4 giờ là thời gian lao động thặng dư. Điều đó có thể biểu diễn như sau:
(Thời gian lao động tất yếu)
(Thời gian lao động thặng dư)
Do đó, tý suất giá trị thặng dư là:
m′ = 4 × 100% = 100%
4
Giả định rằng ngày lao động không thay đổi, nhưng bây giờ công nhân chỉ cần 3 giờ lao
động đã tạo ra được một lựơng giá trị mới bằng với giá trị sức lao động của mình. Do đó,
tỷ lệ phân chia ngày lao động sẽ thay đổi: 3 giờ là thời gian lao động tất yếu và 5 giờ là thời
gian lao động thặng dư. Lúc này ngày lao động được chia như sau:
8
(Thời gian lao động tất yếu)
(Thời gian lao động thặng dư)
Do đó, bây giờ tỷ suất giá trị thặng dư sẽ là:
m′ =
5
× 100% = 166%
3
Như vậy, tỷ suất giá trị thặng dư đã tăng từ 100% lên 166%, đồng nghĩa
với trình độ bóc lột tăng lên.
Vậy làm thế nào để có thể rút ngắn được thời gian lao động tất yếu? Thời gian lao
động tất yếu có quan hệ với giá trị sức lao động. Muốn rút ngắn thời gian lao động tất yếu
phải giảm giá trị sức lao động. Muốn hạ thấp giá trị sức lao động phải giảm giá trị những
tư liệu sinh hoạt thuộc phạm vi tiêu dùng của cơng nhân. Điều đó chỉ có thể thực hiện được
bằng cách tăng năng suất lao động trong các ngành sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt
thuộc phạm vi tiêu dùng của công nhân và tăng năng suất lao động trong các ngành sản
xuất ra tư liệu sản xuất để sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt đó, tức là tăng năng suất lao
động xã hội.
Nếu trong giai đoạn đầu của chủ nghĩa tư bản, sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối là
phương pháp chủ yếu, thì đến giai đoạn tiếp sau, khi kỹ thuật phát triển, sản xuất giá trị
thặng dư tương đối là phương pháp chủ yếu.
Sự ra đời và phát triển và sử dụng rộng rãi máy móc đã làm cho năng suất
lao động tăng lên nhanh chóng. Máy móc có ưu thế tuyệt đối so với các cơng cụ
thủ cơng, vì công cụ thủ công là công cụ lao động do con người trực tiếp sử dụng
bằng sức lao động nên bị hạn chế bởi khả năng sinh lý của con người, nhưng khi
lao động bằng máy móc sẽ khơng gặp phải những hạn chế đó. Vì thế, việc sử
dụng máy móc làm năng suất lao động tăng lên rất cao, làm giảm giá trị tư liệu
sinh hoạt, làm hạ thấp giá trị hàng hoá sức lao động, rút ngắn thời gian lao động
tất yếu kéo dài thời gian lao động thặng dư, giúp nhà tư bản thu được nhiều giá
trị thặng dư hơn. Phương pháp giá trị thặng dư tương đối ngày càng được nâng
cao do các cuộc cách mạng khoa học, đặc biệt cuộc cách mạng khoa học công
nghệ phát triển với tốc độ vũ bão, đem lại sự phát triển chưa từng có trong lịch sử
lồi người, nó khác với cuộc cách mạng khoa học là dẫn đến sự hình thành các
9
nguyên lý công nghệ sản xuất mới, chứ không đơn thuần về công cụ sản xuất như
cách mạng khoa học, do đó dẫn đến sự tăng trưởng cao, đưa xã hội loài người bước sang
một nền văn minh mới - nền văn minh trí tuệ.
10
CHƯƠNG 2
SỰ HOẠT ĐỘNG CỦA HAI HƯƠNG PHÁP SẢN XUẤT GIÁ TRỊ
THẶNG DƯ TRONG NỀN KINH TẾ VIỆT NAM.
2.1. Giai đoạn trước đổi mới 1986
2.1.1. Mơ hình kinh tế
Sau thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước ngày 30/4/1975, cả nước
độc lập thống nhất dưới sự lãnh đạo của Đảng bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội. Nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam lúc này là khôi phục, ổn định xây dựng và phát
triển đất nước trong điều kiện hịa bình. Tình hình đó đã đặt ra một yêu cầu là cần phải có
những chủ trương, chính sách, biện pháp phù hợp với tình hình mới của đất nước để thúc
đẩy kinh tế – xã hội phát triển. Trên thực tế, các chủ trương, chính sách, biện pháp của
Đảng ở một số mặt trong thời kỳ này chưa đáp ứng được những yêu cầu đặt ra, đặc biệt là
những chủ trương, đường lối trong lĩnh vực kinh tế (những vấn đề liên quan đến lực lượng
sản xuất, quan hệ sản xuất).
Đảng nhận thấy rõ những khó khăn của nền kinh tế đất nước: cơ sở vật chất kỹ thuật
còn yếu kém; năng suất lao động thấp, sản xuất chưa đảm bảo nhu cầu đời sống và tích
luỹ,… Đảng cũng vạch ra những nguyên nhân sâu xa của tình hình trên là nền kinh tế nước
ta là sản xuất nhỏ; công tác tổ chức và quản lý kinh tế có nhiều hạn chế,… Ở miền Bắc,
Đảng chủ trương củng cố và hoàn thiện chế độ cơng hữu về tư liệu sản xuất dưới hai hình
thức toàn dân và tập thể. Ở miền Nam, Đảng chủ trương tiến hành cải tạo xã hội chủ nghĩa
đối với các thành phần kinh tế. cải tạo công nghiệp tư bản tư doanh chủ yếu bằng hình thức
cơng tư hợp doanh; chủ trương hợp tác hố nơng nghiệp; cải tạo thủ cơng nghiệp bằng con
đường hợp tác hố là chủ yếu; cải tạo thương nghiệp nhỏ
Như vậy, thực chất của quá trình cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với các thành phần
kinh tế ở miền Nam cũng như trong cả nước là nhằm xoá bỏ chế độ tư hữu và thiết lập chế
độ công hữu. Mác đã từng khẳng định: “Những người cộng sản có thể tóm tắt lý luận của
mình thành cơng thức duy nhất này: xố bỏ chế độ tư hữu” [2]. Việc tiến hành cải tạo các
thành phần kinh tế phi xã hội chủ nghĩa, cũng như việc quá coi trọng thay đổi quan hệ sở
hữu về tư liệu sản xuất mà không coi trọng việc giải quyết các khâu tổ chức, quản lý sản
xuất và phân phối đã dẫn tới việc khơng tìm ra cơ chế gắn người lao động với sản xuất.
Tính chủ động, sáng tạo của người lao động bị giảm đi vì mọi tư liệu sản xuất chủ yếu trong
xã hội phải được sử dụng theo phương hướng và nhiệm vụ của kế hoạch nhà nước.
11
Tại Đại hội IV, Đảng đặc biệt quan tâm tới việc hoàn thiện hệ thống quản lý kinh tế,
nhằm vào những vấn đề quan trọng nhất là tổ chức lại nền sản xuất xã hội chủ nghĩa trong
phạm vi cả nước. Đồng thời, Đảng chủ trương cải tiến phương thức quản lý kinh tế, lấy kế
hoạch hố làm chính. Kế hoạch hoá trên cơ sở đề cao trách nhiệm và phát huy tính sáng tạo
của các ngành, các địa phương và các cơ sở. Trong quản lý kinh tế, Đảng cũng đã nhấn
mạnh tới việc phải coi trọng quy luật giá trị; phải thực hiện chế độ hạch toán kinh tế; sử
dụng tốt thị trường.
Tuy nhiên, việc thực hiện công tác quản lý kinh tế cịn nhiều khuyết điểm, khơng
gắn kế hoạch với hạch tốn kinh tế, do đó kế hoạch chưa thực sự xuất phát từ thực tế lao
động sản xuất, thiếu tính khả thi. Trong khi đó, cơ chế quản lý quan liêu bao cấp vẫn tiếp
tục được duy trì đã ảnh hưởng khơng nhỏ đến nền sản xuất, nhất là trong việc phân phối,
lưu thông. Nhà nước đóng vai trị điều tiết giá cả nên đã khơng kích thích được sản xuất
kinh doanh phát triển. Cơ chế quản lý quan liêu bao cấp với đặc điểm “tách rời việc trả
công lao động với số lượng và chất lượng lao động” [3], kết hợp với nguyên tắc “phân phối
theo lao động” đã làm cho chế độ phân phối mang tính bình qn, do đó khơng kích thích
được sự nhiệt tình và khả năng tìm tịi sáng tạo của người lao động.
Với những bước đi đổi mới từng phần theo những chủ trương, chính sách đúng đắn
của Đảng và Nhà nước, những sáng kiến, sự năng động, sáng tạo của nhân dân, của các địa
phương, cơ sở sản xuất kinh doanh, đã làm cho nền kinh tế Việt Nam những năm 1981 1985 có bước phát triển khá. Sản lượng lương thực bình quân mỗi năm đạt 17 triệu tấn, sản
lượng cơng nghiệp tăng bình qn 9,5%/năm. Thu nhập quốc dân tăng bình quân hàng năm
6,4%. Cơ sở vật chất của chủ nghĩa xã hội được xây dựng đáng kể với hàng trăm cơng trình
được cơ khí hố và tự động hóa, và hàng nghìn cơng trình vừa và nhỏ, trong đó có những
cơ sở quan trọng về điện, dầu khí, xi măng, cơ khí, dệt, giao thơng. Về năng lực sản xuất,
đã tăng thêm 456.000 kW điện, 2,5 triệu tấn than, 2,4 triệu tấn xi măng, 33.000 tấn sợi,
58.000 tấn giấy, thêm 309.000 ha được tưới nước, 186.000 ha được tiêu úng. Tuy vậy, tình
hình kinh tế-xã hội và đời sống nhân dân vẫn cịn nhiều khó khăn, khủng hoảng kinh tế-xã
hội vẫn trầm trọng mà biểu hiện như sau:
Một là, kinh tế tăng trưởng thấp và thực chất là khơng phát triển. Nếu tính chung từ năm
1976 đến 1985 tổng sản phẩm xã hội tăng 50,5%, bình quân hàng năm chỉ tăng ở mức
4,6%; thu nhập quốc dân tăng 38,8% bình quân hàng năm chỉ tăng 3,7%, trong khi tỷ lệ
dân số tăng trung bình hàng năm 2,3%;
Hai là, khơng có tích luỹ từ nội bộ nền kinh tế vì làm khơng đủ ăn, thu nhập quốc dân sản
xuất chỉ bằng 80 - 90% thu nhập quốc dân sử dụng;
12
Ba là, siêu lạm phát hoành hành. Suốt trong thời kỳ 1976-1985 chỉ số giá bán lẻ hàng hóa
năm sau so năm trước luôn tăng ở mức hai con số và giao động ở mức 19-92%. Năm 1986,
lạm phát đạt đỉnh điểm với tốc độ tăng giá 774,7%;
Bốn là, đời sống nhân dân hết sức khó khăn, thiếu thốn. [4]
Do đồng tiền mất giá, người ta quay sang lấy vàng làm bản vị, khiến giá vàng tăng
vọt, còn nhanh hơn cả tăng giá hàng hoá. Tuy kế hoạch cải cách giá - lương - tiền không
diễn ra như kế hoạch do sự chắp vá giữa cải cách với mơ hình cũ, gây ra những hậu quả
nghiêm trọng trong thời gian cuối năm 1985 và năm 1986, song, chính sự khủng hoảng này
đã làm cho các cấp các ngành nhận ra rằng, đã cải cách là phải cải cách triệt để. Mơ hình
cũ phải bị đoạn tuyệt hồn tồn. Trên cơ sở đó, Đại hội Đại biểu tồn quốc lần thứ VI của
Đảng Cộng sản Việt Nam tháng 12 năm 1986 đã đưa ra những chủ trương cải cách, đổi
mới lịch sử.
2.1.2. Sự hoạt động của hai phương pháp sản xuất giá trị thặng dư
Đất nước ta sau nhiều năm trên con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội, nhưng nền
kinh tế vẫn ở trong tình trạng thấp kém. Thực trạng đất nước vào giữa những năm 1980 với
những khó khăn mới gay gắt và phức tạp: Hiệu quả sản xuất và đầu tư thấp; mất cân đối
lớn trong nền kinh tế, đời sống nhân dân khó khăn, nhiều nhu cầu chính đáng tối thiểu của
nhân dân về đời sống vật chất tinh thần chưa được đảm bảo… việc cải tạo kinh tế trong
thời kỳ này theo hướng xóa bỏ chế độ tư hữu thiết lập chế độ tư hữu do đó sự hoạt động
của hai phương pháp sản xuất giá trị thặng dư về cơ bản không tồn tại ở Việt Nam trong
thời kỳ này do nên kinh tế tư nhân không tồn tại. Để giải quyết thực trạng kinh tế – xã hội
đó địi hỏi Đảng ta phải có những quyết sách xoay chuyển tình hình, tạo ra một bước ngoặt
cho sự phát triển. Trên thực tế, Đảng ta đã làm được điều đó.
Tuy nhiên, sau hơn một thập kỷ nhận thấy rõ những hạn chế của cơ chế quản lý hành
chính quan liêu bao cấp, nhưng phải tới Đại hội V Đảng mới có một chủ trương thực sự
mang tính bước ngoặt để xác lập một cơ chế quản lý mới về kinh tế thay cho cơ chế cũ.
Đảng chủ trương “đổi mới chế độ quản lý và kế hoạch hoá hiện hành, xoá bỏ cơ chế quản
lý hành chính quan liêu, bao cấp, khắc phục bằng được tình trạng bảo thủ, trì trệ, vơ trách
nhiệm, vơ kỷ luật, phát huy động lực làm chủ tập thể, nâng cao tính năng động sáng tạo,
tinh thần trách nhiệm và ý thức kỷ luật” [5]. Tuy vậy, với chủ trương đổi mới cơ chế quản
lý này, Đảng đã đề ra được một phương hướng quản lý mới có tính khả thi, thể hiện một sự
chuyển biến đúng hướng trong quan hệ sản xuất nói chung và trong việc tổ chức và quản
13
lý sản xuất nói riêng. Đây tiếp tục là một khâu đột phá mới để tiến tới sự đổi mới toàn diện
và sâu sắc về kinh tế - xã hội.
Trong lĩnh vực phân phối sản phẩm lao động, những chủ trương của Đảng tại Đại
hội V tiếp tục là một sự báo hiệu để tiến tới một sự đổi mới toàn diện nền kinh tế xã hội.
Chủ trương của Đảng về chế độ phân phối tại Đại hội lần này đang loại trừ dần hình thức
phân phối bình quân bằng việc “áp dụng nguyên tắc phân phối theo lao động, gắn chặt tiền
lương với năng suất lao động, mở rộng đúng đắn lương khoán, lương sản phẩm và tiền
thưởng, đi đôi với cung ứng theo định lượng những mặt hàng thiết yếu mà Nhà nước quy
định” [6].
2.2.
Giai đoạn đổi mới từ 1986 đến nay
2.2.1. Mơ hình kinh tế
Sau nhiều năm cả nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội theo phương hướng xã hội chủ
nghĩa hố tồn bộ quan hệ sản xuất đã dẫn tới tình trạng sản xuất bị đình đốn, nền kinh tế
phát triển chậm. Đảng nghiêm khắc đánh giá những ngun nhân dẫn đến tình trạng đó,
đặc biệt là những nguyên nhân chủ quan, duy ý chí, chưa nắm vững và vận dụng đúng quy
luật khách quan. Đảng nhận thấy rõ nguyên nhân kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản
xuất trong thời gian qua (trước Đại hội VI) là do những sai lầm, thiếu sót trong việc bố trí
cơ cấu kinh tế, tiến hành cải tạo xã hội chủ nghĩa và trong cơ chế quản lý kinh tế. Chính vì
vậy mà tư tưởng chỉ đạo của kế hoạch và các chính sách kinh tế đề ra lần này là nhằm giải
phóng mọi năng lực sản xuất hiện có, khai thác mọi khả năng tiềm tàng của đất nước và sử
dụng có hiệu quả sự giúp đỡ quốc tế để phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất đi đôi với
xây dựng và củng cố quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa.
Trong chủ trương xây dựng và củng cố quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, Đảng xác
định rõ: xây dựng quan hệ sản xuất mới cả ba mặt, làm cho nó thật sự mang bản chất xã
hội chủ nghĩa, gắn với mỗi bước phát triển của lực lượng sản xuất, là công việc to lớn,
không thể làm xong trong một thời gian ngắn. Tuy nhiên, khác với những năm trước đây,
là những năm mà trong nhận thức cũng như trong hành động, chúng ta chưa thực sự thừa
nhận cơ cấu kinh tế nhiều thành phần ở nước ta còn tồn tại trong một thời gian tương đối
dài, từ Đại hội VI trở đi nền kinh tế nước ta là một nền kinh tế có cơ cấu nhiều thành phần.
Các thành phần kinh tế đó là:
- Kinh tế xã hội chủ nghĩa bao gồm khu vực quốc doanh và khu vực tập thể, cùng với bộ
phận kinh tế gia đình gắn liền với thành phần đó.
14
- Các thành phần kinh tế khác gồm: kinh tế tiểu sản xuất hàng hố (thợ thủ cơng, nơng
dân cá thể, những người buôn bán và kinh doanh dịch vụ cá thể); kinh tế tư bản tư nhân,
kinh tế tư bản nhà nước dưới nhiều hình thức (Cơng ty cổ phần, Công ty liên doanh, Hợp
tác đầu tư, Công ty đầu tư 100 vốn của nước ngồi), mà hình thức cao là công tư hợp
doanh; kinh tế tự nhiên, tự cấp, tự túc trong một bộ phận đồng bào dân tộc thiểu số ở
Tây Nguyên và các vùng khác.
Việc thừa nhận nền kinh tế cơ cấu nhiều thành phần thể hiện sự nhận thức mới của Đảng
ta về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Lênin đã từng khẳng định: “Về lý luận, khơng
thể nghi ngờ gì được rằng giữa chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa cộng sản, có một thời kỳ quá
độ nhất định. Thời kỳ đó khơng thể khơng bao gồm những đặc điểm và đặc trưng của cả
hai kết cấu kinh tế xã hội ấy” [7]. Tuy chúng ta quá độ lên chủ nghĩa xã hội không trải qua
giai đoạn tư bản chủ nghĩa với tính cách là một chế độ xã hội, nhưng chúng ta vẫn có thể
sử dụng những thành tựu mà chủ nghĩa tư bản đã đạt. Sự tồn tại của những thành phần kinh
tế tư bản chủ nghĩa trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là một điều hiển nhiên, nó
nằm trong quy luật của sự phát triển nói chung, của sự phát triển xã hội nói riêng.
Từ thực tiễn đất nước sau thập kỷ đầu tiên cả nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội Đảng
ta rút ra kết luận: “Lực lượng sản xuất bị kìm hãm không chỉ trong trường hợp quan hệ sản
xuất lạc hậu, mà cả khi quan hệ sản xuất phát triển khơng đồng bộ, có những yếu tố đi q
xa so vớ trình độ phát triển của lực lượng sản xuất” [8]. Sự phát triển của lực lượng sản xuất
đòi hỏi phải có những quan hệ phù hợp với nó. “Những quan hệ sản xuất lạc hậu” hay
“những yếu tố đi quá xa so với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất” ắt sẽ kìm hãm
sự phát triển của nó.
Việc bố trí lại cơ cấu kinh tế phải đi đôi với đổi mới cơ chế quản lý kinh tế. Cơ chế
mới về quản lý kinh tế mới chính là “cơ chế kế hoạch hoá theo phương thức hạch toán kinh
doanh xã hội chủ nghĩa, đúng nguyên tắc tập trung dân chủ” [9]. Tính kế hoạch là đặc trưng
số một của cơ chế quản lý kinh tế, để tăng cường vai trị của tính kế hoạch trong nền kinh
tế quốc dân phải bảo đảm thực hiện phương hướng sắp xếp lại nền kinh tế, bố trí đúng cơ
cấu sản xuất, cơ cấu đầu tư theo chương trình mục tiêu.
Khác với cơ chế quản lý hành chính tập trung quan liêu bao cấp, cơ chế quản lý mới
này đặc biệt chú ý và sử dụng đúng đắn quan hệ hàng hoá – tiền tệ: “Việc sử dụng quan hệ
hàng hoá – tiền tệ đòi hỏi sản xuất phải gắn với thị trường, mọi hoạt động kinh tế phải so
sánh chi phí với hiệu quả, các tổ chức và đơn vị kinh tế tự bù đắp chi phí và có lãi để tái
sản xuất mở rộng” [10].
15
Cơ cế quản lý mới này có tác dụng rất lớn đối với q trình sản xuất và lưu thơng
hàng hoá. Cuộc cải cách giá, chuyển từ hệ thống định giá hành chính sang cơ chế thị trường
đã góp phần khơng nhỏ vào việc điều hồ cung cầu và giảm bớt chênh lệch về giá hàng hoá
giữa các vùng trong nước nhờ giá cả phản ánh đúng giá trị và quan hệ cung cầu, do đó đã
thúc đẩy nền kinh tế hàng hoá phát triển, “hàng hoá trên thị trường, nhất là hàng tiêu dùng
dồi dào, đa dạng và lưu thông tương đối thuận lợi” [11]. Phát triển nền kinh tế nhiều thành
phần, mở cửa là thơng điệp chính của chương trình Đổi mới năm 1986. Đến giai đoạn 19902000, phát triển kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước là thông điệp thay thế. Từ
năm 2001 đến nay, đường lối phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
được khẳng định. Một thành tựu khác về đổi mới kinh tế là bước đầu hình thành nền kinh
tế hàng hố nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước.
Trong lĩnh vực quan hệ sản xuất, Đảng chủ trương tiếp tục xây dựng nền kinh tế
hàng hoá nhiều thành phần và đổi mới quản lý kinh tế. Sự hình thành nền kinh tế đó ở nước
ta trước hết là do sự đổi mới các quan hệ sở hữu. Nếu như trước đây nền kinh tế nước ta
chủ yếu là sở hữu toàn dân và tập thể thì hiện nay ngồi hai hình thức sở hữu đó còn tồn tại
nhiều thành phần sở hữu khác. Việc thừa nhận cơ cấu kinh tế nhiều thành phần và các hình
thức sở hữu khác nhau tất yếu phải có những thay đổi trong cơ chế quản lý kinh tế. Nếu
như ở Đại hội VI Đảng ta mới chủ trương thay cơ chế tập trung quan liêu bao cấp bằng cơ
chế kế hoạch hoá theo phương thức hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa, thì tới nay, việc
điều tiết nền kinh tế đất nước cịn có sự tham gia của cơ chế thị trường. Sự vận hành của
cơ chế thị trường chắc chắn sẽ tác động rất lớn tới vai trò quản lý của Nhà nước đối với nền
kinh tế. Đảng chỉ rõ: “Nhà nước quản lý nền kinh tế nhằm định hướng, dẫn dắt các thành
phần kinh tế, tạo môi trường và điều kiện thuận lợi cho hoạt động sản xuất kinh doanh theo
cơ chế thị trường, kiểm soát chặt chẽ và xử lý các vi phạm pháp luật trong hoạt động kinh
tế, đảm bảo sự hài hoà giữa phát trển kinh tế và phát triển xã hội” [12].
Tuy vậy, trong quá trình thực hiện những chủ trương này vẫn còn nhiều hạn chế, “hệ
thống pháp luật, cơ chế chính sách chưa đồng bộ và nhất quán, thực hiện chưa nghiêm,
cơng tác tài chính ngân hàng, kế hoạch hố,… đổi mới chậm” [13]. Tình hình đó đặt ra một
nhiệm vụ đối với Đảng và Nhà nước ta là phải đẩy mạnh hơn nữa cơng tác đổi mới và hồn
thiện các công cụ quản lý vĩ mô.
Trong quan hệ phân phối sản phẩm, để kích thích nền kinh tế hàng hoá phát triển,
tại Đại hội VII, Đảng chú trọng tới việc điều chỉnh từ trả lương bằng hiện vật sang hình
thức trả bằng tiền, kết hợp hài hồ giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội. Đảng nhấn mạnh:
“cải cách cơ bản chính sách tiền lương và tiền công theo nguyên tắc tiền lương và tiền công
phải dựa trên số lượng và chất lượng lao động, đảm bảo tái sản xuất sức lao động, tiền tệ
16
hàng hoá tiền lương, xoá bỏ chế độ bao cấp ngồi lương dưới hình thức hiện vật; thực hiện
mối tương quan hợp lý về tiền lương và thu nhập của bộ phận lao động xã hội” [14]. Ngoài
ra, Đảng cũng khuyến khích mọi người tăng thu nhập và làm giàu dựa trên kết quả lao động
và hiệu quả kinh tế; bảo hộ các nguồn thu nhập hợp pháp; điều tiết hợp lý thu nhập giữa
các bộ phận dân cư, các ngành, các vùng… các chính sách phân phối đó thể hiện rõ một
nguyên tắc mà Đảng đã nêu ra trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội là: làm theo năng lực, hưởng theo lao động. Do đó, quan hệ phân phối
này đảm bảo được tính cơng bằng giữa những người lao động, đó là một điều kiện quan
trọng để thúc đẩy sản xuất phát triển.
Trong giai đoạn này, nền kinh tế nước ta đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng.
Tình trạng đình đốn trong sản xuất, rối ren trong lưu thông được khắc phục. Kinh tế tăng
trưởng nhanh, nhịp độ tăng tổng sản phẩm trong nước (GDP) bình quân hàng năm thời kỳ
1991 – 1995 đạt 8,2%, lạm phát bị đẩy lùi từ 774,7% năm 1986 còn 67,1% năm 1991,
12,7% năm 1995. Lương thực khơng những đủ ăn mà cịn xuất khẩu được 2 triệu tấn gạo
mỗi năm. Đời sống vật chất của đại bộ phận nhân dân được cải thiện. Trình độ dân trí và
mức hưởng thụ văn hố của nân dân khá hơn trước. ổn định chính trị – xã hội được giữ
vững. [15]
Sau 10 năm thực hiện đường lối đổi mới, lực lượng sản xuất ở nước ta đã có những
bước phát triển mạnh mẽ, nền kinh tế – xã hội không ngừng được ổn định công nghiệp hố,
hiện đại hố cũng có ý nghĩa là phải đầu tư rất lớn cho tư liệu sản xuất, mà trước hết là
công cụ lao động. Nếu như năm 1995 tổng mức đầu tư cho xây dựng cơ bản (bao gồm xây
lắp, thiết bị và xây dựng cơ bản khác) là 26047,8 tỷ đồng, thì bắt đầu từ những năm thực
hiện chủ trương đẩy mạnh cơng nghiệp hố, hiện đại hoá con số này đột ngột tăng: Năm
1996 là 35894,4 tỷ đồng; năm 1997 là 46570,4 tỷ đồng; năm 1998 là 51600,0 tỷ đồng …[16].
Nếu so sánh với năm 1995 thì năm 1998 tổng mức đầu tư cho xây dựng cơ bản tăng gần 2
lần. Đó thực sự là một sự biến đổi lớn trong nội dung lực lượng sản xuất. Đảng nhấn mạnh:
“Nếu cơng nghiệp hố, hiện đại hố tạo nên lực lượng sản xuất cần thiết cho chế độ xã hội
mới, thì việc phát triển nền kinh tế nhiều thành phần chính là để xây dựng hệ thống quan
hệ sản xuất phù hợp” [17].
Với mục đích huy động vốn, tạo thêm động lực thúc đẩy các doanh nghiệp nhà nước
làm ăn có hiệu quả, Đảng nhấn mạnh tới việc thực hiện chủ trương cổ phần hoá một bộ
phận doanh nghiệp nhà nước [18]. Điều đó cũng có nghĩa là chấp nhận sự tham gia của các
thành phần kinh tế khác trong các doanh nghiệp nhà nước. Thực chất của giải pháp này
chính là để phát triển kinh tế tư bản nhà nước và đa dạng hoá các loại hình sở hữu trong
các doanh nghiệp nhà nước. Phát triển nền kinh tế nhiều thành phần không thể tách rời việc
17
xây dựng đồng bộ và vận hành có hiệu quả cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước
theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đảng ta khẳng định: “cơ chế thị trường đã phát huy tác
dụng tích cực to lớn đến sự phát triển kinh tế – xã hội. Nó chẳng những khơng đối lập mà
cịn là một nhân tố khách quan cần thiết của việc xây dựng và phát triển đất nước theo con
đường xã hội chủ nghĩa” [19]. Cơ chế thị trường có tác dụng như một guồng máy hoạt động
của nền sản xuất và trong lưu thơng hàng hố, nó tạo được mối liên kết chặt chẽ giữa sản
xuất nông nghiệp với sản xuất cơng nghiệp. Đồng thời nó cũng có tác dụng như là một công
cụ, một phương thức để đảm bảo tăng trưởng kinh tế và mở ra cơ hội để tiếp xúc với bên
ngoài… Cho nên, sự tồn tại của cơ chế thị trường là yếu khách quan và tất yếu đối với công
cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Vận dụng cơ chế thị trường đòi hỏi phải nâng cao năng lực quản lý của Nhà nước,
nhằm phát huy tác dụng tích cực đi đơi với ngăn ngừa, hạn chế và khắc phục những mặt
tiêu cực. Hình thành đồng bộ các yếu tố thị trường, xây dựng và hồn thiện các cơng cụ
pháp luật, kế hoạch các thiết chế tài chính, tiền tệ và những phương tiện vật chất và tổ chức
cần thiết cho sự quản lý của nhà nước tạo điều kiện cho cơ chế thị trường hoạt động hữu
hiệu. Nền kinh tế nước ta là một nền kinh tế phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Chúng ta chấp nhận nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần là vì mục tiêu con người, làm
cho đời sống người lao động ngày càng sung túc hơn, tiến bộ hơn. Cho nên, trong quan hệ
phân phối, Đảng ta luôn chú trọng tăng trưởng kinh tế phải luôn gắn liền với tiến bộ và
công bằng xã hội. Công bằng xã hội khơng chỉ là động lực, mà cịn là mục tiêu của tăng
trưởng kinh tế. Do vậy, chúng ta không thể chấp nhận tăng trưởng kinh tế bằng mọi giá mà
phải luôn gắn với một quan hệ phân phối đảm bảo sự công bằng giữa những người lao
động, phải làm cho bản chất xã hội chủ nghĩa ngày càng sáng tỏ hơn.
Trong hoàn cảnh nước ta hiện nay, sự vận hành nền kinh tế hàng hoá nhiều thành
phần là một yêu cầu tất yếu khách quan, sự phân công lao động xã hội đang phát triển mạnh
mẽ; sự chun mơn hố và hợp tác lao động đã mở ra trên phạm vi quốc tế; nền kinh tế đã
và đang tồn tại với nhiều hình thức sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất và sản phẩm lao
động; mỗi hình thức sở hữu có nhiều đơn vị kinh tế độc lập về sản xuất, kinh doanh… Từ
khi thực hiện đường lối đổi mới, nền kinh tế chuyển sang cơ chế thị trường đã thúc đẩy
kinh tế hàng hoá phát triển. Đảng ta chỉ rõ: “mục đích của nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa là phát triển lực lượng sản xuất, phát triển kinh tế để xây dựng cơ sở vật
chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, nâng cao đời sống nhân dân” [20]. Do đó, có thể coi kinh
tế thị trường là một công cụ, một phương tiện để chúng ta đi lên chủ nghĩa xã hội.
Nhờ có đường lối kinh tế đúng đắn đó đất nước ta đã đạt được những thành tựu quan
trọng:
18
-
Đất nước thốt khỏi tình trạng khủng hoảng kinh tế – xã hội, tăng trưởng kinh tế
luôn ở mức cao (năm 2004 là 7,7 %), tình hình chính trị ổn định, quốc phòng an
ninh vững chắc, đời sống nhân dân khơng ngừng được cải thiện (tính đến 31/12/2002
là khoảng 500 USD/ người) [21], vị thế đất nước ngày càng được nâng cao trên trường
quốc tế. Giai đoạn 2011 - 2015, tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm trong nước (GDP)
đạt bình quân 5,9%/năm, giai đoạn 2016 - 2019 tăng trưởng đạt 6,8%/năm, năm
2020 do dịch bệnh COVID-19 tốc độ tăng trưởng ước đạt trên 2%, bình quân giai
đoạn 2016 - 2020 đạt khoảng 5,9%/năm. Tính chung cả thời kỳ Chiến lược 2011 2020, tăng trưởng GDP dự kiến đạt khoảng 5,9%/năm, thuộc nhóm các nước tăng
trưởng cao trong khu vực và trên thế giới. Quy mô GDP tăng gấp 2,4 lần, từ 116 tỉ
USD năm 2010 lên 268,4 tỉ USD vào năm 2020. GDP bình quân đầu người tăng từ
1.331 USD năm 2010 lên khoảng 2.750 USD năm 2020.
-
Chất lượng tăng trưởng được cải thiện, năng suất lao động được nâng lên rõ rệt.
Tăng trưởng kinh tế giảm dần phụ thuộc vào khai thác tài nguyên, mở rộng tín dụng;
từng bước dựa vào ứng dụng khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo. Tỉ trọng giá
trị xuất khẩu sản phẩm công nghệ cao trong tổng giá trị xuất khẩu hàng hoá tăng từ
19% năm 2010 lên khoảng 50% năm 2020. Đóng góp của năng suất các nhân tố tổng
hợp (TFP) vào tăng trưởng tăng từ 33,6% bình quân giai đoạn 2011 - 2015 lên 45,2%
giai đoạn 2016 - 2020, tính chung 10 năm 2011 - 2020 đạt 39,0%, vượt mục tiêu
Chiến lược đề ra là 35%. Tốc độ tăng năng suất lao động bình quân giai đoạn 2011
- 2015 là 4,3%/năm, giai đoạn 2016 - 2020 là 5,8%/năm. Hiệu quả đầu tư được nâng
lên; hệ số hiệu quả sử dụng vốn đầu tư (ICOR) giảm từ gần 6,3 giai đoạn 2011 2015 xuống còn khoảng 6,1 giai đoạn 2016 - 2019.
-
Kinh tế vĩ mô ổn định vững chắc hơn, lạm phát được kiểm soát ở mức thấp, các cân
đối lớn của nền kinh tế được cải thiện đáng kể. Thực hiện chủ động, linh hoạt, đồng
bộ, phối hợp chặt chẽ nhiều chính sách, giải pháp ổn định kinh tế vĩ mơ, kiểm sốt
lạm phát, thúc đẩy tăng trưởng. Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) bình quân giảm từ 18,6%
năm 2011 xuống ổn định ở mức khoảng 4%/năm giai đoạn 2016 – 2020. Lạm phát
cơ bản giảm từ 13,6% năm 2011 xuống khoảng 2,5% năm 2020. Thị trường tiền tệ,
ngoại hối cơ bản ổn định; bảo đảm vốn tín dụng cho nền kinh tế, tập trung cho lĩnh
vực sản xuất, nhất là các ngành ưu tiên.
-
Tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu hàng hoá tăng 3,6 lần, từ 157,1 tỉ USD năm 2010
lên 517 tỉ USD năm 2019, năm 2020 do ảnh hưởng nặng nề của dịch bệnh COVID19 đạt khoảng 527 tỉ USD, tương đương trên 190% GDP. Xuất khẩu tăng nhanh, từ
72,2 tỉ USD năm 2010 lên khoảng 267 tỉ USD năm 2020, tăng bình quân khoảng
19
14%/năm, là động lực quan trọng cho tăng trưởng kinh tế. Thị trường xuất khẩu
được mở rộng; nhiều doanh nghiệp tham gia sâu rộng vào chuỗi giá trị khu vực, tồn
cầu; góp phần nâng cao năng lực xuất khẩu và sức cạnh tranh của nền kinh tế. Cán
cân thương mại được cải thiện rõ rệt, chuyển từ thâm hụt 12,6 tỉ USD năm 2010
sang cơ bản cân bằng và có thặng dư vào những năm cuối kỳ Chiến lược. Cán cân
thanh toán quốc tế thặng dư; dự trữ ngoại hối tăng từ 12,4 tỉ USD năm 2010 lên 28
tỉ USD năm 2015 và đạt trên 80 tỉ USD vào cuối kỳ Chiến lược. [22]
Những thành tựu đó chính là cơ sở để khẳng định đường lối kinh tế đúng đắn của đảng ta
trong giai đoạn hiện nay.
Nói tóm lại, chủ trương xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa thể hiện tư duy, quan niệm của Đảng ta về sự phù hợp của quan hệ sản xuất
với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Đó là mơ hình kinh tế tổng quát của nước ta
trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội.
2.2.2. Sự hoạt động của hai phương pháp sản xuất giá trị thặng dư
Việt Nam đi theo con đường xã hội chủ nghĩa, nên phương thức sản xuất giá trị
thặng dư tuyệt đối căn bản không được áp dụng vì khơng được kéo dài thời gian lao động
quá 8 giờ trong một ngày căn cứ vào khoản 1 điều 105 bộ Luật Lao động 2019, trường hợp
phải kéo dài thực hiện theo điều 107 bộ Luật lao động 2019.
Việc thực hiện phương pháp sản xuất giá trị thăng dư tương đối do rút ngắn thời
gian lao động là tất yếu bằng cách cải tiến kỹ thuật, tự động hóa, tăng năng suất lao động
qua đó thời gian lao động thặng dư tăng trong khi thời gian lao động trong ngày khơng đổi
và biến tấu của nó là giá trị thặng dư siêu ngạch có được do tăng năng suất lao động cá biệt
làm giá trị hàng hóa thấp hơn giá trị thị trường tạo giá trị thặng dư cho doanh nghiệp.
Sau khi gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) các doanh nghiệp Việt nam
phải đối mặt với các công ty xuyên quốc gia, đa quốc gia có tiềm lực tài chính, cơng nghệ,
kinh nghiệm và năng lực cạnh tranh cao trong điều kiện thị trường toàn cầu với những quy
định nghiêm ngặt của các định chế thương mại và luật pháp quốc tế nên việc đổi mới công
nghệ, nâng cao năng suất lao động là cần thiết. Đồng thời cần phải đào tạo nhân lực, tuyển
dụng nhân lực có tài, có chế độ chính sách phù hợp để thu hút nhân tài cho DN nhằm tạo
điều kiện thuận lơi cho DN trong việc tạo ra nhiều giá trị thặng dư hơn.
Thực tế đối với ngành Hàng không. Đến năm 2020, thị trường các Hàng không trong
nước có sự thay đổi đáng kể. Trước năm 2010, Hãng hàng không Quốc gia Việt Nam
20
(Vietnam Airlines) là doanh nghiệp nhà nước nắm gần 90 % thị phần nhưng đến nay chỉ
còn nắm giữ khoảng chiếm 33,3% thị phần, Vietjet nắm 42,2% thị phần. Tương tự, Jestar
Pacific và VASCO đều giảm nhẹ về thị phần tải cung ứng, hiện lần lượt 10,6% và 1,9% thị
phần, Bamboo Airways nắm 12,3% thị phần [23]. Sự cạnh tranh của hàng không trong việc
nỗ lực mở rộng đường bay, đội bay, liên tiếp tung ra các chương trình khuyến mãi giá siêu
rẻ, khiến một số hãng mất đi một lượng khách rất lớn. Có những thời kỳ giá vé máy bay
chỉ còn bán với giá 0 VNĐ. Việc giữ chân hành khách sử dụng dịch vụ của mình, giảm chi
phí nhân cơng, cũng chính là nhằm mục đích tạo ra giá trị thặng dư (lợi nhuận) cho doanh
nghiệp. Đồng thời trong điều hành quản lý tác nghiệp việc cải tiến sử dụng cơng nghệ thơng
tin, số hóa trong điều hành nhằm tăng năng suất lao động giảm chi phí hành chính, đơng
thời việc giao thêm trách nhiệm, nhiệm vụ cho người lao động nhằm giảm chi phí tăng lợi
nhuận chính là việc vận dung phương pháp sản xuất giá trị thăng dư tương đối trong doanh
nghiệp nhằm tăng lợi nhận trong các doanh nghiệp. Ngoài ra một thách thức đối với doanh
nghiệp Việt Nam đó là việc đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao để tạo quản lý vận hành
doanh nghiệp có lợi nhuận cao cho doanh nghiệp.
21
CHƯƠNG 3
MỘT SÔ KIẾN NGHỊ NHẰM PHÁT HUY TÁC DỤNG TÍCH
CỰC VÀ HẠN CHẾ ẢNH HƯỞNG TIÊU CỰC CỦA HAI
PHƯƠNG PHÁP SẢN XUẤT GIÁ TRỊ THẶNG DƯ TẠI VIỆT
NAM
3.1.
Mục tiêu
Về phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối: Các doanh nghiệp cần phát huy
khả năng sáng tạo cho người lao động trong sản xuất để tạo ra nhiều của cải vật chất cho
xã hội nhưng vẫn phải đảm bảo thời gian lao động và nghỉ ngơi theo đúng quy định của bộ
Luật Lao động 2019; cải tiến công việc phương pháp sản xuất và kĩ thuật để giảm thiểu sức
lao động của người lao động.
Về phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tương đối: Các doanh nghiệp cần chủ
động, năng động trong việc đầu tư khoa học cơng nghệ, tự động hóa, số hóa các cơng trình,
cơng nghệ để tăng năng suất hiệu quả trong sản xuất kinh doanh; nghiên cứu về phương
thức quản trị doanh nghiệp hiện đại trong thời đại 4.0 nhằm tăng giá trị hàng hóa sản xuất
ra, giảm chi phí hàng hóa; tạo sức cạnh tranh cho doanh nghiệp. Đồng thời, các doanh
nghiệp cần xây dựng một cơ chế thể chế phù hợp đối với việc phân phối lợi nhuận về lương,
thưởng cho người lao động để đảm bảo sự công bằng, nâng cao, cải thiện chế độ phúc lợi
cho người lao động và gia đình của họ. Mặt khác với tình hình dịch bệnh COVID-19, việc
áp dụng công nghệ 4.0 trong việc học và làm việc là điều cần thiết. Đây cũng chính là một
trong những phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tương đối trong thời kì COVID-19.
3.2.
Một sớ kiến nghị
Ngày nay, học thuyết giá trị thặng dư vẫn có ý nghĩa quan trọng trong sự nghiệp xây
dựng nền kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Việc nghiên cứu, vận dụng học
thuyết này ở Việt Nam là việc làm cần thiết:
Một là, khai thác những di sản lý luận trong học thuyết giá trị thặng dư về nền kinh
tế hàng hoá. Nước ta đang phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ
chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Yếu tố thực
sự tạo ra của cải, tạo ra giá trị và giá trị tăng thêm là kéo dài ngày lao động, tăng cường độ
lao động hay cải tiến kỹ thuật, ứng dụng công nghệ mới, tăng năng suất lao động để có
thêm điều kiện thu hút nhiều hơn nữa giá trị thặng dư. Người lao động là yếu tố năng động,
sáng tạo nhất của lực lượng sản xuất. Chính họ đã cải tạo và làm biến đổi thế giới tự nhiên,
22
xã hội và chính bản thân mình, sáng tạo ra lịch sử của mình. Do đó, vấn đề lao động và
chiến lược con người đang được các nước và toàn thế giới hết sức quan tâm. Nước ta có
nguồn lao động dồi dào. Để tạo được bước phát triển nhảy vọt trong lực lượng sản xuất,
phải tập trung mọi nguồn lực để thực hiện chiến lược đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng được
yêu cầu phát triển của đất nước trong thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Đồng thời, phát triển đồng bộ các loại thị trường: tư liệu sản xuất, tư liệu tiêu dùng, sức lao
động, vốn, tiền tệ. Xây dựng, hoàn chỉnh hệ thống pháp luật, tạo môi trường pháp lý thuận
lợi cho các chủ thể kinh tế phát triển sản xuất, kinh doanh, tự do làm giàu trong khn khổ
pháp luật. Điều đó hồn toàn phù hợp với việc phát triển kinh tế hàng hóa, kinh tế thị trường
ở nước ta hiện nay trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng.
Hai là, khai thác những luận điểm của Mác nói về q trình sản xuất, thực hiện, phân
phối giá trị thặng dư trong chủ nghĩa tư bản cùng những biện pháp, thủ đoạn nhằm thu được
nhiều giá trị thặng dư của các nhà tư bản để góp phần vào việc quản lý thành phần kinh tế
tư nhân (đặc biệt là kinh tế tư bản tư nhân) trong nền kinh tế nước ta sao cho vừa có thể
khuyến khích phát triển, vừa hướng thành phần kinh tế này đi vào quỹ đạo của chủ nghĩa
xã hội. Điều đó địi hỏi cần có chính sách thích đáng và có hiệu lực để thúc đẩy các thành
phần kinh tế phát triển với nhiều loại hình sản xuất kinh doanh, qua đó thu hút nhiều lao
động xã hội, sử dụng nhiều trình độ lao động để tạo ra nhiều sản phẩm thỏa mãn nhu cầu
xã hội. Đồng thời tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính, giảm xuống mức tối thiểu lực
lượng sản xuất gián tiếp và đặc biệt giảm biên chế bộ máy nhà nước theo hướng tinh gọn,
hiệu quả. Biện pháp để tăng năng suất lao động thặng dư có ý nghĩa sống còn, bức xúc đối
với sự tăng trưởng và phát triển kinh tế bền vững, bảo đảm tăng trưởng kinh tế gắn với tiến
bộ và công bằng xã hội trong quá trình phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ở nước ta.
Ba là, khai thác di sản lý luận của Mác nói về q trình tổ chức sản xuất và tái sản
xuất tư bản chủ nghĩa với tính cách là một nền sản xuất lớn gắn với q trình xã hội hóa
sản xuất ngày càng cao nhằm tạo ra khối lượng giá trị thặng dư ngày càng lớn. Tổ chức lại
sản xuất để có hiệu quả chỉ khi người lao động có tinh thần tự nguyện, tự giác thật sự.
Bốn là, ngăn chặn được những ma lực hút nền kinh tế chệch khỏi quỹ đạo xã hội
chủ nghĩa thì cần phải có một nhà nước mạnh làm cho kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo
và nó cùng với kinh tế tập thể trở thành nền tảng của nền kinh tế quốc dân; khuyến khích
và tạo điều kiện để các thành phần kinh tế khai thác tối đa các nguồn lực: vốn, sức lao động,
công nghệ hiện đại, kinh nghiệm tiên tiến phục vụ cho cơng nghiệp hố, hiện đại hố, nâng
cao hiệu quả kinh tế và xã hội, cải thiện và nâng cao đời sống cho nhân dân; thực hiện nhiều
23
hình thức phân phối, lấy phân phối theo lao động và hiệu quảkinh tế là chủ yếu; thừa nhận
thuê mướn lao động nhưng khơng để nó trở thành quan hệ thống trị.
Năm là, phát triển kinh tế thị trường nhưng phải bảo vệ được quyền lợi chính đáng
của cả người lao động lẫn giới chủ sử dụng lao động bằng luật và bằng chế tài cụ thể phù
hợp với điều kiện lịch sử cụ thể trong từng giai đoạn phát triển của nền kinh tế. Bảo vệ
được những quyền lợi chính đáng, những quyền lợi được pháp luật bảo vệ, của tất cả các
bên trong quan hệ lao động là sự hiện thực hóa có hiệu quả việc vận dụng một cách hợp lý
học thuyết giá trị thặng dư của C. Mác trong điều kiện hiện nay, là sự đóng góp thiết thực
cơ bản nhất cho cả q trình hồn thiện và xây dựng mơ hình kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Một trong nhưng điều kiện tiên quyết để xây dựng và phát triển kinh tế Viêt Nam
cần phải kiên định, giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, tăng cường
hiệu lực quản lý vĩ mô của Nhà nước; phát huy mặt tích cực và hạn chế mặt tiêu cực của
cơ chế thị trường; khuyến khích làm giàu hợp pháp đi đơi với xố đói giảm nghèo, tránh sự
phân hố xã hội thành hai cực đối lập, không để chênh lệch quá lớn về mức sống và trình
độ phát triển giữa các vùng, các tầng lớp dân cư, kết hợp tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và
công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển.
24
PHẦN KẾT LUẬN
Việc nghiên cứu các phương pháp sản xuất giá trị thặng dư đã giúp cho chúng ta
thấy rằng: Mục tiêu cơng nghiệp hố, hiện đại hố là tạo ra tiềm lực to lớn, đủ khả năng
xây dựng cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc của toàn dân, và thực hiện dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, văn minh, bảo vệ vững chắc nền độc lập của tổ quốc. Đó là q
trình phấn đấu lâu dài, gian khổ, địi hỏi mọi người phải có hồi bão lớn, quyết tâm cao,
chấp nhận những khó khăn thử thách và hy sinh.
Đây là điều mà toàn thể nhân dân Việt Nam mong đợi và đang cố gắng. Bài tiểu
luận này hi vọng đã có thể cung cấp những kiến thức cơ bản về phương pháp sản xuất giá
trị thặng dư của chủ nghĩa tư bản và sự vận dụng nó vào cơng cuộc cơng nghiệp hóa - hiện
đại hóa trong giai đoạn phát triển của Cách mạng công nghiệp 4.0 và kinh tế sáng tạo ở
Việt Nam hiện nay.
Thêm vào đó với việc được tiếp cận, trang bị kiến thức về học thuyết Mác – Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh cho các sinh viên là việc làm cần thiết. Điều này góp phần giúp sinh
viên nhận thức được vị trí, vai trò trò trách nhiệm xã hội của bản thân, có ý thức hơn nữa
trong việc cố gắng vươn lên học tập rèn luyện, bản lĩnh chính trị vững vàng, chinh phục
khoa học, làm chủ công nghệ, tăng năng suất lao động góp phần thực hiện mục tiêu xây
dựng đất nước văn minh, giàu mạnh.
25