ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG HÀ NỘI
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
TIỂU LUẬN KINH TẾ CHÍNH TRỊ
QUY LUẬT GIÁ TRỊ VÀ VAI TRỊ CỦA NĨ TRONG PHÁT TRIỂN KINH
TẾ THỊ TRƯỜNG Ở NƯỚC TA
Lớp: Anh 04 – Khối 2 CLCKT
Khoá: 58
LỜI NÓI ĐẦU
Nước ta đang xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa, do đó những kiến thức, khái niệm, phạm trù, quy
luật ..của kinh tế chính trị đưa ra là cực kỳ cần thiết cho việc quản lý sản
xuất kinh doanh của các doanh nghiệp và các tầng lớp nhân dân.
Là một sinh viên được học tập và rèn luyện ở Đại học Ngoại thương, em
đã được các thầy cô dạy bảo và truyền đạt những kiến thức cơ bản về bộ
môn kinh tế chính trị, nhưng để có cơ sở lý luận và phương pháp luận
nhằm học tập tốt các môn kinh tế khoa học khác vì các mơn này đều
phải dựa vào các kiến thức, các phạm trù kinh tế và các quy luật mà
kinh tế chính trị Mác-Lênin đưa ra thì nhất thiết phải làm tiểu luận mơn
kinh tế chính trị. Mặt khác, nó cịn giúp em nhận thức sâu sắc hơn về
những vấn đề kinh tế ,đời sống xã hội….
Quy luật giá trị là một quy luật căn bản của sản xuất và trao đổi hàng
hoá. Ở đâu có sản xuất và trao đổi hàng hố thì ở đó có sự tồn tại của
quy luật giá trị .Vì vậy qua tìm hiểu chung về tình hình thực tế của nền
kinh tế thị trường và em quyết định lựa chọn chuyên đề: “Quy luật giá trị
và vai trò của nó trong phát triển kinh tế thị trường ở nước ta” vì nó là
một quy luật giúp điều tiết và lưu thơng hàng hố, kích thích cải tiến kĩ
thuật, hợp lý hoá sản xuất, thể hiện sự lựa chọn tự nhiên và phân hoá kẻ
giàu người nghèo.
Mục lục
Lời nói đầu.................................................................................................................2
I. QUY LUẬT GIÁ TRỊ............................................................................................4
1. Nội dung và yêu cầu của quy luật giá trị........................................................4
a) Biểu hiện hoạt động của quy luật giá trị trong điều kiện tự do cạnh tranh
.............................................................................................................................4
b) Biểu hiện hoạt động của quy luật giá trị trong điều kiện độc quyền.......5
3. Tác động của quy luật giá trị...........................................................................6
II. THỰC TRẠNG SỰ VẬN DỤNG QUY LUẬT GIÁ TRỊ Ở NƯỚC TA TRONG
THỜI GIAN QUA VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM VẬN DỤNG TỐT HƠN
QUY LUẬT Ở NƯỚC TA TRONG THỜI GIAN TỚI.............................................8
1. Thực trạng sự vận dụng quy luật giá trị ở nước ta trong thời gian qua.....8
a) Từ năm 1986 về trước...................................................................................8
b) Sau năm 1986 đến nay................................................................................10
2. Một số giải pháp nhằm vận dụng tốt hơn trong thời gian tới....................15
I. QUY LUẬT GIÁ TRỊ
1. Nội dung và yêu cầu của quy luật giá trị
Quy luật giá trị là quy luật kinh tế cơ bản của sản xuất hàng hóa vì nó quy định bản
chất của sản xuất hàng hóa, là cơ sở của tất cả các quy luật khác của sản
xuất hàng hóa.
Nội dung của quy luật giá trị là:
Sản xuất và trao đổi hàng hóa dựa trên cơ sở giá trị của nó, tức là dựa trên hao
phí lao động xã hội cần thiết.
Trong sản xuất, tác động của quy luật giá trị buộc người sản xuất phải làm sao cho
mức hao phí lao động cá biệt của mình phù hợp với mức hao phí lao động xã hội
cần thiết có như vậy họ mới có thể tồn tại được; cịn trong trao đổi, hay lưu thơng,
phải thực hiện theo nguyên tắc ngang giá: Hai hàng hóa được trao đổi với nhau khi
cùng kết tinh một lượng lao động như nhau hoặc trao đổi, mua bán hàng hoá phải
thực hiện với giá cả bằng giá trị.
Cơ chế tác động của quy luật giá trị thể hiện cả trong trường hợp giá cả bằng giá
trị, cả trong trường hợp giá cả lên xuống xung quanh giá trị. ở đây, giá trị như cái
trục của giá cả.
2. Biểu hiện hoạt động của quy luật giá trị trong điều kiện tự do
cạnh tranh và trong điều kiện độc quyền
a) Biểu hiện hoạt động của quy luật giá trị trong điều kiện tự do cạnh tranh
Tự do cạnh tranh là tự do di chuyển tư bản từ ngành này sang nghành khác, tức là
tự phát phân phối tư bản vào các nghành sản xuất khác nhau nên hình thành tỷ
suất lợi nhuận khác nhau .Trong cạnh tranh có sự ganh đua đấu tranh về kinh tế
giữa những người sản xuất với nhau ,giữa những người sản xuất với những người
tiêu dùng hàng hoá dịch vụ nhằm dành được những điều kiện thuận lợi trong sản
xuất và tiêu thụ hàng hố có sự khác nhau về điều kiện sản xuất nên chi phí lao
động cá biệt của sản xuất hàng hố có sự khác nhau để dành được các điều kiện
thuận lợi trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm phải cạnh tranh nhau nhưng các điều
kiện thuận lợi trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm luôn biến động nên cạnh tranh
diễn ra liên tục .Do đó trong tự do cạnh tranh quy luật giá trị được biểu hiện thành
quy luật giá cả sản xuất.
b) Biểu hiện hoạt động của quy luật giá trị trong điều kiện độc quyền
Độc quyền là biểu hiện mới, mang những quan hệ mới nhưng nó khơng vượt ra
khỏi quy luật giá trị của chủ nghĩa tư bản, mà chỉ là sự tiếp tục mở rộng, phát triển
những xu hướng sâu sắc nhất của chủ nghĩa tư bản và của nền sản xuất hàng hố
nói chung,làm cho các quy luật của nền sản xuất hàng hoá và của chủ nghĩa tư bản
có những biểu hiện mới .
Do chiếm được vị trí độc quyền nên các tổ chức độc quyền đã áp đặt giá cả độc
quyền; giá cả độc quyền thấp khi mua,giá cả độc quyền cao khi bán .Tuy nhiên,
điều đó khơng có nghĩa là trong giai đoạn đế quốc chủ nghĩa quy luật giá trị khơng
cịn hoạt động .Về thực chất, giá cả độc quyền vẫn khơng thốt ly và phủ định cơ
sở của nó là giá trị .Các tổ chức độc quyền thi hành chính sách giá cả độc quyền
chẳng qua là chiếm đoạt một phần giá trị của những người khác .Nếu xem xét
trong toàn bộ hệ thống kinh tế tư bản chủ nghĩa thì tổng số giá cả vẫn bằng tổng số
giá trị .Như vậy trong giai đoạn đế quốc chủ nghĩa quy luật giá trị biểu hiện thành
quy luật giá cả độc quyền.
Giá cả độc quyền bằng chi phí sản xuất cộng với lợi nhuận độc quyền. Giá cả độc
quyền thường cao hơn giá trị của hàng hoá. Do nắm được vai trò độc quyền trong
một ngành sản xuất nhất định nên tập đồn có thể tự ý quyết định giá bán trên thị
trường, nhờ đó mà thu được lợi nhuận độc quyền . Lợi nhuận độc quyền bằng lợi
nhuận bình quân cộng với một số lợi nhuận khác do địa vị thống trị của các tập
đoàn độc quyền. Cơ chế thị trường tự do cạnh tranh và cơ chế độc quyền tư nhân
đều có những mặt tích cực và tiêu cực. Khi trình độ xã hội hố của lực lượng sản
xuất đã vượt khỏi giới hạn điều tiết của cơ chế thị trường và độc quyền tư nhân thì
tất yếu đòi hỏi phải được bổ sung bằng sự điều tiết của Nhà nước. Cơ chế điều tiết
kinh tế của chủ nghĩa tư bản độc quyền Nhà nước là sử dụng hợp cả ba cơ chế:
thị trường, độc quyền tư nhân và điều tiết của Nhà nước nhằm phát huy mặt tích
cực và hạn chế mặt tiêu cực trong cơ chế.
3. Tác động của quy luật giá trị
a) Điều tiết sản xuất và lưu thơng hàng hóa
Quy luật giá trị điều tiết sản xuất hàng hóa được thể hiện trong hai trường hợp sau:
+ Thứ nhất, nếu như một mặt hàng nào đó có giá cả cao hơn giá trị, hàng hóa bán
chạy và lãi cao, những người sản xuất sẽ mở rộng quy mô sản xuất, đầu tư thêm tư
liệu sản xuất và sức lao động. Mặt khác, những người sản xuất hàng hóa khác cũng
có thể chuyển sang sản xuất mặt hàng này, do đó, tư liệu sản xuất và sức lao động ở
ngành này tăng lên, quy mô sản xuất càng được mở rộng.
+ Thứ hai, nếu như một mặt hàng nào đó có giá cả thấp hơn giá trị, sẽ bị lỗ vốn.
Tình hình đó buộc người sản xuất phải thu hẹp việc sản xuất mặt hàng này hoặc
chuyển sang sản xuất mặt hàng khác, làm cho tư liệu sản xuất và sức lao động ở
ngành này giảm đi, ở ngành khác lại có thể tăng lên. Cịn nếu như mặt hàng nào đó
giá cả bằng giá trị thì người sản xuất có thể tiếp tục sản xuất mặt hàng này.
Như vậy, quy luật giá trị đã tự động điều tiết tỷ lệ phân chia tư liệu sản xuất và sức
lao động vào các ngành sản xuất khác nhau, đáp ứng nhu cầu của xã hội. Tác động
điều tiết lưu thơng hàng hóa của quy luật giá trị thể hiện ở chỗ nó thu hút hàng hóa
từ nơi có giá cả thấp hơn đến nơi có giá cả cao hơn, và do đó, góp phần làm cho
hàng hóa giữa các vùng có sự cân bằng nhất định.
b) Kích thích cải tiến kỹ thuật, hợp lý hố sản xuất, tăng năng suất lao động,
hạ giá thành sản phẩm
Các hàng hóa được sản xuất ra trong những điều kiện khác nhau, do đó, có mức
hao phí lao động cá biệt khác nhau, nhưng trên thị trường thì các hàng hóa đều phải
được trao đổi theo mức hao phí lao động xã hội cần thiết. Vậy người sản xuất hàng
hóa nào mà có mức hao phí lao động thấp hơn mức hao phí lao động xã hội cần
thiết, thì sẽ thu được nhiều lãi và càng thấp hơn càng lãi. Điều đó kích thích những
người sản xuất hàng hóa cải tiến kỹ thuật, hợp lý hoá sản xuất, cải tiến tổ chức
quản lý, thực hiện tiết kiệm... nhằm tăng năng suất lao động, hạ chi phí sản xuất.
Sự cạnh tranh quyết liệt càng làm cho các quá trình này diễn ra mạnh mẽ hơn. Nếu
người sản xuất nào cũng làm như vậy thì cuối cùng sẽ dẫn đến tồn bộ năng suất
lao động xã hội khơng ngừng tăng lên, chi phí sản xuất xã hội khơng ngừng giảm
xuống.
c) Phân hóa những người sản xuất hàng hóa thành giàu, nghèo
Những người sản xuất hàng hóa nào có mức hao phí lao động cá biệt thấp hơn mức
hao phí lao động xã hội cần thiết, khi bán hàng hóa theo mức hao phí lao động xã
hội cần thiết (theo giá trị) sẽ thu được nhiều lãi, giàu lên, có thể mua sắm thêm tư
liệu sản xuất, mở rộng sản xuất kinh doanh, thậm chí thuê lao động trở thành ông
chủ.
Ngược lại, những người sản xuất hàng hóa nào có mức hao phí lao động cá biệt lớn
hơn mức hao phí lao động xã hội cần thiết, khi bán hàng hóa sẽ rơi vào tình trạng
thua lỗ, nghèo đi, thậm chí có thể phá sản, trở thành lao động làm thuê. Đây cũng
chính là một trong những nguyên nhân làm xuất hiện quan hệ sản xuất tư bản chủ
nghĩa, cơ sở ra đời của chủ nghĩa tư bản.
Như vậy, quy luật giá trị vừa có tác động tích cực, vừa có tác động tiêu cực. Do đó,
đồng thời với việc thúc đẩy sản xuất hàng hóa phát triển, nhà nước cần có những
biện pháp để phát huy mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực của nó, đặc biệt trong
điều kiện phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng xã hội
chủ nghĩa ở nước ta hiện nay.
I. THỰC TRẠNG SỰ VẬN DỤNG QUY LUẬT GIÁ TRỊ Ở NƯỚC TA
TRONG THỜI GIAN QUA VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM VẬN
DỤNG TỐT HƠN QUY LUẬT Ở NƯỚC TA TRONG THỜI GIAN
TỚI
2. Thực trạng sự vận dụng quy luật giá trị ở nước ta trong thời gian qua
a) Từ năm 1986 về trước
Nền kinh tế Việt Nam đã trải qua nhiều giai đoạn khác nhau, quy luật giá trị được
áp dụng theo nhiều cách khác nhau phù hợp đặc điểm của từng thời kì. Nhà nước
điều khiển nền kinh tế bằng hệ thống pháp lệnh về số lượng, về thu nhập, về nộp
ngân sách, về vốn và lãi suất tín dụng… Giá cả do Nhà nước quyết định. Thực chất
cũng là một chỉ tiêu pháp lệnh mà giá cả lại là biểu hiện của quy luật giá trị. Chính
vì vậy có thể nói trong thời kỳ này quy luật giá trị được áp dụng một cách cứng
nhắc, áp đặt vào nền kinh tế thông qua việc định giá theo những chỉ tiêu có sẵn mà
khơng để ý đến thực trạng của nền kinh tế Việt Nam. Những năm 1964, ở miền
Bắc, hệ thống giá được sự chỉ đạo của Nhà nước đã được hình thành trên cơ sở lấy
giá thóc sản xuất trong nước làm căn cứ xác định giá chuẩn và tỷ lệ trao đổi hiện
vật. Hệ thống giá này về cơ bản được thực hiện cho đến năm 1980, trong khi điều
kiện sản xuất, lưu thông, thị trường trong nước và quan hệ kinh tế đối ngoại đã có
những thay đổi lớn. Hệ thống giá chỉ đạo của Nhà nước ngày càng thấp xa so với
giá thị trường tự do làm rối loạn phân phối lưu thông, gây khó khan cho ngân sách
Nhà nước. Việc duy trì hệ thống giá này chủ yếu là sự viện trợ của Trung Quốc,
Liên Xô và các nước Đông Âu. Suốt thời kì Nhà nước chỉ đạo giá cho đến trước
cải cách giá năm 1991, trên thị trường có hai hệ thống giá: giá chỉ đạo của Nhà
nước áp dụng trên thị trường có tổ chức và giá thị trường tự do biến động theo
quan hệ cung cầu. Đặc điểm của giá chỉ đạo là không chú ý đến quan hệ cung-cầu
và gần như bất biến.
Những năm 1975, sau ngày Miền Nam được giải phóng, cùng với q trình thống
nhất đất nước về chính trị và quân sự, việc thống nhất về thể chế kinh tế cũng được
xúc tiến. Quá trình thống nhất về thể chế kinh tế trong cả nước, trên thực tế là sự
dập khn gần như tồn bộ thể chế kinh tế đã tồn tại trước đó ở miền Bắc. Như
vậy, lịch sử phát triển kinh tế nước ta một lần nữa lại lặp lại thời kỳ trì trệ, bảo thủ,
đáng lẽ phải mở ra một thời kì mới , phát huy cao độ các động lực nền kinh tế hàng
hoá và làm cho chúng trở thành đòn bẩy mạnh mẽ thúc đẩy nền kinh tế đi lên.
Đất nước thống nhất đã tạo niềm phấn khởi lạc quan cả về chính trị xã hội và kinh
tế. Tuy nhiên những khó khăn mới cũng xuất hiện. Trước hết là sự thiếu hụt nguồn
tài trợ, sự bùng nổ về tiêu dùng, về công ăn việc làm đã bị dồn nén qua nhiều năm
chiến tranh. Các tổ chức kinh tế quốc doanh địa phương mọc lên nhanh chóng, bộ
máy hành chính kinh tế từ trung ương đến tỉnh, huyện, xã đã quá nhiều tạo ra tình
trạng thừa người thiếu việc việc làm nghiêm trọng. Trong kinh tế quốc doanh và
trong bộ máy Nhà nước hình thành hệ thống quan liêu mà cho đến ngày nay vẫn
cịn là gánh nặng đối với tồn bộ nền kinh tế. Việc duy trì chính sách tài chính, tín
dụng, chính sách giá cả và tiền lương theo kiểu cấp phát, giao nộp hiện vật bình
quân của nền kinh tế thời chiến gây ra tác hại nghiêm trọng đối với nền kinh tế.
Trong thời kỳ này đời sống của nông dân, công nhân, viên chức, lực lượng vũ trang
giảm sút nghiêm trọng. Thực trạng kinh tế đó đã làm lung lay các tư tưởng cổ
điển và làm xuất hiện những ý tưởng cải tạo đầu tiên một số lĩnh vực kinh tế nóng
bỏng nhất như chính sách giá cả, cơ chế kế hoạch hố chính sách tài chính, chính
sách đầu tư và hiệu quả kinh tế quốc dân. Hội nghị trung ương Đảng lần thứ 6 đã
nâng cao hiệu quả kinh tế và hạn chế một bước cơ chế quản lý hành chính tập
trung, chú ý hơn đến sản xuất cơng nghiệp nhỏ, sản xuất hàng tiêu dùng và thừa
nhận kinh tế tư nhân và thị trường tự do như một thành phần của nền kinh tế quốc
dân. Tuy nhiên, nền kinh tế quốc doanh vẫn cịn khó khăn, trì trệ, sản xuất tiếp tục
giảm sút. Cuối năm 1980, chính phủ đã đưa ra quyết định 96 CP về bãi bỏ chế độ
giao nghĩa vụ nộp nông sản theo giá thấp và chuyển sang thu mua theo hợp đồng
kinh tế hai chiều. Chính sách này chưa phát huy tác dụng ngay trong năm 1980 mà
phải sau đó một năm mới thực sự có tác động tốt.
b) Sau năm 1986 đến nay
* Sự vận hành giá cả thị trường
Giá cả thị trường là sự biểu hiện bằng tiền của giá trị thị trường của hàng hố. Giá
cả thị trường có những chức năng chủ yếu sau đây:
- Chức năng thông tin: Những thông tin về giá cả thị trường cho người sản xuất
biết được tình hình sản xuất trong các ngành, biết được tương quan cung và cầu,
biết được sự khan hiếm đơí với các loại hàng hố. Nhờ đó mà đơn vị kinh tế có liên
quan ra được những quyết định thích hợp. Như vậy những thông tin về giá cả điều
chỉnh hướng sản xuất và quy mơ sản xuất, từ đó điều chỉnh cơ cấu sản xuất sản
phẩm phù hợp với nhu cầu của xã hội.
- Chức năng phân bố các nguồn lực kinh tế: Sự biến động của giá cả sẽ dẫn đến sự
biến động trong phân bố các nguồn lực kinh tế. Những người sản xuất sẽ chuyển
vốn từ nơi giá cả thấp, do đó lợi nhuận thấp đến nơi có giá cả hàng hố cao, do đó
lợi nhuận cao, tức là các nguồn lực sẽ được chuyển đến nơi mà chúng được sử
dụng với hiệu quả cao nhất, cân đối giữa tổng cung và tổng cầu.
- Chức năng thúc đẩy tiến bộ kỹ thuật: Để có thể cạnh tranh được về giá cả, buộc
những người sản xuất phải giảm sản phẩm đến mức tối thịêủ bằn cách áp dụng kỹ
thuật và cơng nghệ tiên tiến. Do đó thúc đẩy sự tiến bộ kỹ thuật, công nghệ và sự
phát triển lực lượng sản xuất. Ngồi ra giá cả cịn thực hiện chức năng phân phối
lại.
Do đó việc chuyển sang cơ chế một giá - giá cả thị trường dối với tất cả các loại
hàng hoá, chỉ trừ một số rất ít hàng hố do nhà nước định giá là bước chuyển có ý
nghĩa quyết định từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung bao cấp sang cơ chế thị trường ở
nước ta.
Tuy nhiên giá cả thị trường còn phụ thuộc vào các nhân tố sau:
- Giá cả thị trường: giá cả thị trường là kết quả của sự cân bằng các giá trị cá biệt
của hàng hoá trong cùn một ngành thông qua cạnh tranh. Cạnh tranh trong nội bộ
ngành dẫn đến hình thành một giá trị xã hội trung bình. Tuỳ thuộc vào trình độ
phát triển của sức sản xuất của mỗi ngành mà giá trị thị trường có thể ứng với một
trong các trường hợp sau:
+ Trường hợp 1: giá trị thị trường của hàng hoá do giá trị của đại bộ phận hàng hoá
được sản xuất ra trong điều kiện trung bình quyết định. Đây là trường hợp phổ biến
nhất.
+ Trường hợp 2: giá trị thị trường của hàng hoá do giá trị của đại bộ phận hàng hoá
được sản xuất ra trong điều kiện xấu quyết định.
+ Trường hợp 3: giá trị thị trường hàng hoá do giá trị của đại bộ phận hàng hoá
được sản xuất ra trong điều kiện tốt quyết định.
+ Giá trị (hay sức mua) của tiền: Giá trị thị trường tỷ lệ thuận với giá trị thị trường
của hàng hoá và tỷ lệ nghịch với giá trị hay sức mua của tiền. Bởi vậy, ngay cả khi
giá trị thị trường của hàng hố khơng đổi thì giá cả hàng hố vẫn có thể biến đổi do
giá trị của tiền tăng lên hay giảm xuống. Sự chênh lệch giữa giá cả thị trường và
giá trị thị trường là hiện tượng đương nhiên là vẻ đẹp của cơ chế thị trường, còn sự
phù hợp giữa chúng là sự ngẫu nhiên.
+ Cung và cầu: Trong nền kinh tế thị trường, cung và cầu là những lực lượng hoạt
động trên thị trường. Cầu được biểu hiện là nhu cầu của xã hội về hàng hoá được
biểu hiện trên thị trường ở một mức giá nhất định, nó bị giới hạn bởi khả năng
thanh tốn của dân cư. Nói cụ thể hơn, cầu là lượng một mặt hàng mà người mua
muốn mua ở mức giá nhất định. Nhưng nhân tố ảnh hưởng tới cầu là thu nhập
trung bình của người tiêu dùng, quy mơ thị trường, giá cả và tình trạng của hàng
hố khác, khẩu vị hay sở thích, trong đó thu nhập của người tiêu dùng là quan
trọng nhất.
Cung được biểu hiện là tồn bộ hàng hố có trên thị trường và có thể đưa đến ngay
thị trường ở một mức giá nhất định. Nói cụ thể hơn cung là lượng một mặt hàng
mà người bán muốn ở mức giá nhất định. Nhưng nhân tố ảnh hưởng tới cung là sản
phẩm sản xuất, đây là nhân tố lớn nhất ảnh hưởng tới cung, giá cả và tình trạng của
hàng hoá khác.
Giữa cung và cầu tồn tại một mối quan hệ biện chứng; sự tác động giữa chúng hình
thành nên giá cả cân bằng hay giá cả thị trường, giá cả đó khơng thể đạt được ngay,
mà phải trải qua một thời gian dao động quanh vị trí cân bằng. Đó là thực chất của
lý thuyết cung cầu.
Cung cầu có quan hệ tương quan mật thiết với nhau có những chức năng sau đây:
- Tương quan cung và cầu chỉ rõ sản xuất xã hội được phát triển cân đối đến mức
nào. Bất kỳ một sự mất cân đối nào trong sản xuất đều được phản ánh vào trong
tương quan giữa cung và cầu.
- Tương quan cung và cầu điều chỉnh giá cả thị trường, chính xác hơn là điều chỉnh
sự chênh lệch giữa giá cả thị trường với giá trị thị trường. Sự biến đổi của tương
quan cung và cầu sẽ dẫn đến sự lên xuống của giá cả thị trường, ngược lại giá cả
cũng ảnh hưởng trở đối với cung và cầu. Cầu biến đổi ngược chiều vói giá cả thị
trường và cùng chiều với mức thu nhập còn cung biến đổi ngược chiều với giá cả
đầu ra, nhưng cũng biến đổi ngược chiều với giá cả đầu vào.
Khi hướng tới trạng thái cân bằng, cung và cầu tạo khả năng khôi phục nhưng cân
đối đã bị phá hoại trong nền kinh tế.
Người sản xuất nào có kỹ thuật và cơng nghệ sản xuất tiên tiến sẽ thu được lợi
nhuận siêu ngạch. Do đó cạnh tranh là áp lực đối với người sản xuất buộc họ phải
cải tiến kỹ thuật nhờ đó kỹ thuật và cơng nghệ của tồn xã hội được phát triển.
- Cạnh tranh góp phần tạo nên cơ sở cho sự phân phối thu nhập lần đầu. Người sản
xuất nào có năng suất, chất lượng hiệu quả cao sẽ có thu nhập cao;
đồng thời thơng qua cạnh tranh nhu cầu của người tiêu dùng được đáp ứng .
- Cạnh tranh thường xảy ra mạnh được yếu thua, các chủ thể hành vi kinh tế thích
ứng với thị trường sẽ tồn tại và phát triển , ngược lại , các chủ thể hành vi kinh tế
khơng thích ứng với thị trường sẽ bị đào thải.
- Cạnh tranh có nhiều loại , tuỳ theo góc độ nghiên cứu mà phân chia cạnh tranh
nội bộ ngành và cạnh tranh gtữa các ngành, cạnh tranh giữa bên mua và bên bán;
cạnh tranh giá cả và cạnh tranh phi giá cả …Để nghiên cứu hiệu lực của cơ chế thị
trường người ta chú ý đến cạnh tranh hồn hảo và cạnh tranh khơng hồn hảo.
Do đó để phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, chúng ta
cũng phải tạo ra mơi trường cạnh tranh bình đẳng giữa các doanh nghiệp thuộc mọi
thành phần kinh tế.
Trong những năm 1986, nước ta đã có hàng loạt những cuộc cải cách nhằm đưa
nền kinh tế phát triển theo một hướng mới. Đảng ta đã thẳng thắn nhận biết và phê
phán những sai lầm trong những chính sách kinh tế thời kì trước đây. Việc đổi mới
này đã bắt đầu tạo lập nền móng cho sự chuyển biến từ tư duy giá cả phi thị trường
đến tư duy giá cả thị trường. Nó đã tiến hành điều chỉnh giá để kích thích sản xuất,
tiến tới cải cách toàn bộ hệ thống giá của Nhà nước theo hướng làm cho giá cả
phản ánh đầy đủ chi phí hợp lý về sản xuất và lưu thông, đảm bảo cho người sản
xuất thu được lợi nhuận thoả đáng. Tiếp tục xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần
và đổi mới quản lý kinh tế, nỗ lực phát huy thế mạnh của các thành phần kinh tế,
vừa cạnh tranh vừa hợp tác bổ sung cho nhau trong nền kinh tế quốc dân. Để thực
hiện được điều đó, Đảng ta quyết định khẩn trương sắp xếp lại và đổi mới quản lý
kinh tế quốc doanh, phát triển có hiệu quả và nắm những lĩnh vực, ngành then chốt
để phát huy hiệu quả trong nền kinh tế. Tiếp tục đổi mới và kiện toàn kinh tế tập
thể theo nguyên tắc tự nguyện, dân chủ, bình đẳng phát huy và kết hợp hài hồ sức
mạnh của tập thể và xã viên.
Bên cạnh đó kinh tế tư nhân vẫn tiếp tục phát triển trong các lĩnh vực sản xuất theo
sự quản lý của Nhà nước. Hướng kinh tế tư bản tư nhân phát triển theo con đường
tư bản Nhà nước dưới nhiều hình thức. Từng bước hình thành, mở rộng đồng bộ
các thị trường hàng tiêu dùng, tư liệu sản xuất, dịch vụ…tiếp tục đổi mới và hồn
thiện cơng cụ quản lý vĩ mơ trọng yếu của Nhà nước. Xây dựng các chính sách tài
chính quốc gia và thực hiện cải cách cơ bản tài chính Nhà nước theo hướng thúc
đẩy khai thác tiềm năng tự nhiên của các tầng lớp nhân dân, vừa tích tụ vốn ở đơn
vị kinh tế vừa đảm bảo nguồn vốn tập trung của Nhà nước.
*Sự hình thành giá cả trong điều kiện độc quyền
- Sự hình thành thị trường nhà nước với việc nhà nước chủ động mở rộng thị
trường trong nước bằng việc bao mua sản phẩm của các xí nghiệp độc quyền thơng
qua những hợp đồng được kí kết đã giúp tư bản tư nhân khắc phục được một phần
khó khăn trong thời kì khủng hoảng thừa, góp phần bảo đảm cho quá trình tái sản
xuất được diễn ra bình thường. Các hợp đồng kí kết với nhà nước giúp cho các tổ
chức độc quyền tư nhân vừa tiêu thụ được hàng hoá vừa đảm bảo lợi nhuận ổn
định vừa khắc phục được tình trạng thiếu nhiên liệu, nguyên liệu chiến lược.
- Sự tiêu thụ của nhà nước được thực hiện qua những đơn đặt hàng của Nhà nước,
quan trọng hơn cả là các đơn đặt hàng quân sự do ngân sách nhà nước chi mỗi
ngày một tăng. Các hợp đồng này đảm bảo cho các độc quyền tư nhân kiếm
được khối lượng lợi nhuận lớn và ổn định, vì tỷ suất lợi nhuận của việc sản xuất
những hàng hoá đó cao hơn hẳn lợi nhuận thơng thường.
Trong cơ chế thị trường giá cả nông phẩm không chỉ ảnh hưởng đến mức thu nhập,
mức sống của người nông dân mà cịn ảnh hưởng đến sản lượng nơng sản, đến sự
ổn định xã hội. Trong những năm được mùa giá cả nông phẩm thường giảm sút
nghiêm trọng, ảnh hưởng xấu đời sống của nhân dân và quy mô sản xuất trong
những năm tiếp theo. Do đó nhà nước cần quy định giá sàn đối với nông phẩm. Để
giá sàn đựoc thực hiện trên thực tế thì nhà nước cần có hỗ trợ về tài chính cho các
cơng ty thu mua nơng sản.Bên cạnh đó nhà nước cần phải thực hiện áp dụng giá
trần đối với một số loại hàng hoá như giá xăng, giá dầu…nhằm tránh tình trạng
một số doanh nghiệp lợi dụng thị trường độc quyền để nâng cao giá cả, hay hạ thấp
giá cả làm thị trường mất cân đối, ổn định.
3. Một số giải pháp nhằm vận dụng tốt hơn trong thời gian tới
Theo em, do nước ta vẫn trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội nên nền kinh tế
nước ta vẫn còn mang nặng tính nơng nghiệp lạc hậu, nên để vận dụng tốt hơn quy
luật giá trị vào nền kinh tế thị trường thì Đảng và nhà nước cần phải thực hiện tốt
một số giải pháp sau:
- Đẩy mạnh phân công lao động xã hội nhằm tăng lực lượng sản xuất phát triển
giúp cho sản xuất càng phát triển hơn.
- Phải phát triển đội ngũ cán bộ quản lý kinh tế và cán bộ khoa học cơng nghệ cũng
như cơng nhân có trình độ cao.
- Nâng cao năng lực quản lý kinh tế vĩ mô của nhà nước đối với nền kinh tế thị
trường.
- Phải tăng cường liên kết các quan hệ hàng hoá tiền tệ với các quan hệ xã hội.
- Đề ra các biện pháp nhằm thực hiện tốt các chính sách như :chính sách ruộng
đất, chính sách đầu tư, chính sách thuế chính sách giá cả và sản lượng…
Nhằm tạo điều kiện phát huy cao tác dụng của quy luật giá trị trong kinh tế xã hội
- Phát triển đồng bộ các loại thị trường như thị trường tiêu dùng, dịch vụ…
- Phải tạo ra môi trường cạnh tranh bình đẳng giữa các doanh nghiệp thuộc thành
phần kinh tế, chỉ thực hiện đọc quyền một số nghành, một số lĩnh vực vì lợi ích của
đất nước, hạn chế độc quyền, đặc lợi lũng đoạn thị trường, khắc phục tình trạng
kinh doanh trái phép trốn lậu thuế, cần tăng cường kiểm tra, kiểm soát và xử lý
nghiêm các vi phạm làm lành mạnh thị trường.