Tải bản đầy đủ (.pdf) (35 trang)

CUỘC CHIẾN BẢO VỆ BIÊN GIỚI PHÍA BẮC 1979 1989

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (947.2 KB, 35 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI
Khoa: Quản trị kinh doanh

Học phần: Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam
Đề tài:

CUỘC CHIẾN BẢO VỆ BIÊN GIỚI PHÍA BẮC
1979 - 1989

Hà nội, 4-2021


MỤC LỤC
PHẦN I: LỜI MỞ ĐẦU ................................................................................................................ 1
PHẦN II: NỘI DUNG CUỘC CHIẾN TRANH BIÊN GIỚI PHÍA BẮC ............................... 3
2.1 Hoàn cảnh ........................................................................................................................... 3
2.1.1
Hoàn cảnh thế giới .......................................................................................................... 3
2.1.2
Hoàn cảnh Việt Nam ...................................................................................................... 4
2.2 Nguyên nhân ....................................................................................................................... 5
2.2.1
Nguyên nhân sâu xa........................................................................................................ 5
2.2.2
Nguyên nhân trực tiếp .................................................................................................... 5
2.3 Mục tiêu của Trung Quốc .................................................................................................. 6
2.3.1
Biên giới ........................................................................................................................... 6
2.3.2
Chính trị .......................................................................................................................... 7


2.3.3
Quân sự ............................................................................................................................ 7
2.3.4
Kinh tế ............................................................................................................................. 7
2.4 Quan điểm của Việt Nam................................................................................................... 8
2.4.1
Nhận thức của Đảng ta về vấn đề Trung Quốc trước cuộc chiến .............................. 8
2.4.2
Quan điểm khi cuộc chiến nổ ra .................................................................................... 9
2.4.3
Quan điểm sau cuộc chiến............................................................................................ 11
2.5 Diễn biến............................................................................................................................ 12
2.5.1
Sự chuẩn bị cho cuộc chiến .......................................................................................... 12
2.5.2
Chiến sự tháng 2 và đầu tháng 3 năm 1979 ............................................................... 15
2.5.3
Trung Quốc rút quân ................................................................................................... 19
2.5.4
Các hoạt động quân sự của Việt Nam sau đó............................................................. 20
2.5.5
Chiến sự giai đoạn sau năm 1979 ................................................................................ 20
2.6 Kết quả chiến sự 1979 ...................................................................................................... 23
2.6.1
Thương vong và thiệt hại ............................................................................................. 23
2.6.2
Về mục tiêu của Trung Quốc ....................................................................................... 24
2.6.3
Về mục tiêu của Việt Nam ........................................................................................... 25
2.6.4

Tình hình sau chiến tranh ............................................................................................ 26
2.7 Nhận xét ............................................................................................................................ 27
2.7.1
Tính chất cuộc chiến ..................................................................................................... 27
2.7.2
Quy mô cuộc chiến ........................................................................................................ 27
2.7.3
Tác động cuộc chiến ..................................................................................................... 28
2.8 Quan điểm của thế giới về cuộc chiến tranh biên giới phía Bắc 1979-1989 ................ 29
2.8.1
Quan điểm của Liên Xô và các nước khối Xã hội chủ nghĩa. ................................... 29
2.8.2
Quan điểm của ASEAN................................................................................................ 30
2.8.3
Quan điểm của Mỹ và các nước Phương Tây ............................................................ 30
PHẦN III: TỔNG KẾT .............................................................................................................. 31
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................... 32


PHẦN I: LỜI MỞ ĐẦU
Có thể nói, lịch sử nước Việt ta là lịch sử của các cuộc chiến bảo vệ đất nước kéo dài,
phần nhiều là chống lại những cuộc xâm lăng của các thế lực phương Bắc. Dù là cuộc chiến
lớn hay nhỏ, dân tộc ta đều phải chịu nhiều hy sinh và mất mát. Trong đó, cuộc chiến bảo
vệ đất nước quy mô lớn cuối cùng (đến thời điểm hiện tại) - Cuộc chiến bảo vệ biên giới
phía Bắc (1979 – 1989) chống lại “bè lũ bành trướng Bắc Kinh” cũng đã lùi xa 42 năm
(1979 – 2021).
Điều đáng nói là, trong một thời gian dài, chúng ta đã “ngại nói”, “ngại bàn luận” về
vấn đề này, các sách sử dùng trong hệ thống giáo dục quốc dân đề cập một cách mờ nhạt
vơ hình chung khiến thế hệ trẻ mơ hồ, quên lãng hoặc hiểu một cách không đầy đủ, v.v.
Tuy mối quan hệ hai nước Việt – Trung đã có nhiều thay đổi song sự thật lịch sử là không

thể thay đổi được.
Chúng ta - với tư cách là thế hệ sau - chủ nhân tương lai của đất nước có quyền được
biết và nghĩa vụ phải biết, phải hiểu về cuộc chiến này, về những mất mát, hy sinh của thế
hệ cha anh đi trước. Trước thực trạng đó, nhóm quyết định lựa chọn tìm hiểu đề tài:
“Cuộc chiến bảo vệ biên giới phía bắc 1979 – 1989”
Mục tiêu của đề tài là:
 Nghiên cứu các vấn đề xoay quanh cuộc chiến.
 Hệ thống lại các vấn đề một cách tổng quát, khoa học, giúp độc giả nắm bắt được
các nội dung chính về cuộc chiến.
Phương pháp nghiên cứu của nhóm: Phương pháp nghiên cứu định tính. Trong đó,
nhóm thu thập các bài viết, bài luận, những nghiên cứu về cuộc chiến v.v. từ nhiều nguồn
khác nhau cả trong nước và nước ngoài để có được cái nhìn khách quan, tổng thể về cuộc
chiến. Từ đó nhóm phân tích, sàng lọc và tổng hợp lại trong nghiên cứu của mình.
Các nội dung chính xoay quanh cuộc chiến nhóm tìm hiểu gồm có:

1


1. Hoàn cảnh cuộc chiến.
2. Nguyên nhân cuộc chiến.
3. Mục tiêu của Trung Quốc.
4. Quan điểm của Việt Nam.
5. Diễn biến cuộc chiến.
6. Kết quả chiến sự.
7. Nhận xét cuộc chiến.
8. Quan điểm của thế giới về cuộc chiến.
Mặc dù nghiên cứu về cuộc chiến nhưng những nội dung nhóm muốn truyền đạt là
khách quan, chân thực với mong muốn giúp độc giả có cái nhìn tồn diện về cuộc chiến,
khơng nhằm mục đích kích động thù hằn, chia rẽ dân tộc.
Tuy rất cố gắng song nhất định bài làm cịn nhiều thiếu sót, nhóm rất mong q độc

giả có những bổ sung, góp ý, phản biện để bài làm được hồn thiện.
Đặc biệt nhóm cũng xin chân thành cảm ơn cơ Hồng Thị Thắm, người đã có những
hướng dẫn, chỉ bảo, khơi mở nội dung giúp nhóm thực hiện đề tài này.
Chân trọng cảm ơn.

2


PHẦN II: NỘI DUNG CUỘC CHIẾN TRANH BIÊN GIỚI PHÍA BẮC
(1979 – 1989)
2.1 Hoàn cảnh
2.1.1 Hoàn cảnh thế giới
Thập niên 70 của thế kỷ XX, xu thế chạy đua phát triển kinh tế đã dẫn đến cục diện
hịa hỗn giữa các nước lớn. Tuy thế giới vẫn trong thời kỳ chiến tranh lạnh (1947 - 1991)
nhưng các cường quốc có xu hướng muốn tránh các cuộc chiến trực diện, quy mơ để có
thể tập chung phát triển kinh tế.
Hai vấn đề nổi bật của thế giới trong khoảng thời gian này là mối quan hệ Trung – Xô
tiếp tục xấu đi và sự hòa giải trong quan hệ Mỹ – Trung.
Xuất phát từ các bất đồng về lợi ích đã tồn tại từ trước về biên giới, về tầm ảnh hưởng
quốc tế, về quan điểm phát triển v.v. quan hệ Trung – Xô tiếp tục rạn nứt và thể hiện sự
đối kháng ngày một rõ rệt. Theo đó, cả Trung Quốc và Liên Xơ đều muốn giành vị trí “anh
cả” trong khối Xã hội chủ nghĩa, và cả hai nước đều muốn giành ảnh hưởng ở Việt Nam.
Sự hòa giải Mỹ - Trung có thể xem là vấn đề có ảnh hưởng lớn tới các quan hệ quốc
tế lúc bấy giờ. Ngoại giao bóng bàn (có đi có lại) đã đưa đến sự bắt tay Mỹ – Trung (1972)
tại Thượng Hải làm thay đổi cục diện thế giới cũng như khu vực. Sự kiện này làm thay đổi
hẳn các tính tốn của các bên trong ván bài Đơng Dương. Mỹ muốn rút khỏi Việt Nam nên
đã làm ngơ cho Trung Quốc đánh chiếm Hoàng Sa năm 1974 để đổi lấy tác động của Bắc
Kinh lên chính sách của Hà Nội. Trong khi đó, Trung Quốc muốn duy trì hiện trạng hai
miền Nam - Bắc Việt Nam để có một vùng đệm an ninh cho biên giới phía Nam.
Sự bắt tay Mỹ – Trung làm Liên Xô buộc phải tăng cường quan hệ với Việt Nam, tìm

kiếm đồng minh trong khi Hà Nội cần nhiều viện trợ quân sự trong bối cảnh Trung Quốc
đang đe dọa cắt viện trợ để buộc Việt Nam theo ý mình. Trước bối cảnh đó, các nhà lãnh
đạo Việt Nam đã lựa chọn gia nhập Hội đồng Tương trợ Kinh tế do Liên Xô đứng đầu
(6/1978), và sau đó ký Hiệp Ước Hữu Nghị Và Hợp Tác Liên Xô - Việt Nam (11/1978).
Tuy nhiên, việc công khai đứng về phía Mátcơva cũng đồng nghĩa đối đầu với Bắc Kinh.

3


2.1.2 Hoàn cảnh Việt Nam
Sau 30 năm chiến đấu ngoan cường và gian khổ, năm 1975, Việt Nam đã hoàn thành
công cuộc thống nhất đất nước. Tuy nhiên, cùng với những hậu quả nặng nề mà chiến tranh
để lại đất nước lúc này rơi vào tình cảnh khốn khó trăm bề.
Về kinh tế:
Sau thời gian chiến sự kéo dài, nền kinh tế nước ta trở nên nghèo nàn lạc hậu, trình độ
thấp, phụ thuộc viện trợ, với xuất phát điểm rất thấp như vậy đã khiến cho công cuộc tái
thiết đất nước trở nên khó khăn. Mơ hình kinh tế bao cấp thời chiến dần bộc lộ những yếu
kém hạn chế, sản lượng sản xuất giảm sút. Cùng với việc các nước Xã hội chủ nghĩa cũng
bộ lộ những khó khăn, viện trợ cho nước ta giảm dần.
Về xã hội:
Tuy đã thống nhất đất nước về mặt lãnh thổ (1975) và về mặt nhà nước (1976) nhưng
xã hội Việt Nam, đặc biệt là miền Nam chưa ổn định. Các thế lực thù địch, phản động, cơ
hội tiếp tục chống phá khiến xã hội miền Nam bất ổn. Cùng với đó, một loạt hiện tượng
xuất hiện như “Thuyền nhân Việt Nam” (Người Việt rời bỏ quê hương), “Nạn kiều” (Hoa
kiều rời bỏ Việt Nam) v.v. Trong lúc đó, vấn đề lưu thông, phân phối rối ren, giá cả tăng
vọt, đời sống nhân dân có nhiều khó khăn.
Về ngoại giao:
Việt Nam tiếp tục bị bao vây cấm vận, quan hệ với Trung Quốc và Campuchia ngày
một xấu đi. Được sự hẫu thuẫn của Trung Quốc, Khơ me Đỏ công khai chống phá nhà
nước ta. Ngồi việc trục xuất người Việt, tấn cơng biên giới lấn đất, chúng còn gây ra hàng

loạt vụ thảm sát nhân dân ta đẫm máu dọc các tỉnh giáp biên. Trước sự tàn ác của Khơ me
Đỏ, quân đội ta buộc phải đứng lên bảo vệ biên đất nước. Không những quét sạch quân của
Pôn Pốt ra khỏi lãnh thổ, quân tình nguyện Việt Nam đã lên đường truy quét chúng tới tận
thủ đô Phnôm Pênh. Trong khi đó, Trung Quốc cũng cơng khai gây khó dễ cho Việt Nam
tại Liên Hiệp Quốc, viện trợ Khơ me đỏ và quấy phá vùng biên giới phía Bắc.

4


2.2 Nguyên nhân
2.2.1 Nguyên nhân sâu xa
Thứ nhất, việc thất bại trong việc lôi kéo Việt Nam vào một liên minh chống Liên xô,
và Việt Nam trở thành đồng minh Liên xô đã khiến Trung Quốc coi Việt Nam là kẻ thù
theo nguyên tắc ngoại giao lúc bấy giờ “Bạn của kẻ thù là kẻ thù”.
Thứ hai, lúc bấy giờ nội bộ Trung Quốc bị chia rẽ về vấn đề cải tổ, để thanh trừng lẫn
nhau, Đặng Tiểu Bình muốn phát động 1 cuộc chiến để diệt trừ những ý kiến bất đồng.
Tháng 9/1978, cuộc họp tại Bộ tổng Tham mưu quân Giải phóng Nhân dân Trung
Quốc đã chỉ ra: “Cần tiến hành quân sự để nâng tầm ảnh hưởng đối với Hà Nội và tồn
Đơng Nam Á”. Thế nhưng, từ sau 1975, tầm ảnh hưởng của Việt Nam rất lớn nên việc
Trung Quốc phát động chiến tranh là rất khó, ngay trong nội bộ Trung Quốc cũng có những
chia rẽ về cuộc chiến.
Cho nên thay vì trực tiếp tấn công, từ những năm 1975 đến 1978, Trung Quốc đã liên
tục viện trợ kinh tế, vũ khí và chuyên gia quân sự cho Campuchia. Ủng hộ việc Khmer Đỏ
xâm phạm lãnh thổ nước ta. Khi chế độ diệt chủng Pol Pot gây tội ác dã man tại Campuchia
và Việt Nam, Trung Quốc khơng những khơng lên án mà cịn bênh vực và cổ vũ cho những
việc làm sai trái của chúng, đồng thời tuyên bố sẽ trừng phạt Việt Nam nếu tấn cơng lại.
Khi “con rối” của mình bị tiêu diệt (7/1/1979), Trung Quốc đã thực hiện chiến tranh nhằm
cứu nguy cho Khơ me đỏ - cũng là một cách hợp thức chiến tranh. Như vậy, vấn đề
Campuchia có thể xem là “giọt nước tràn ly” trong quan hệ Việt – Trung.
Theo Thẩm Thính Tuyết (2015), “Đặng Tiểu Bình đưa ra ba nguyên nhân đánh Việt

Nam: Một là, để xây dựng một Mặt trận quốc tế thống nhất chống Liên Xơ. Hai là, để xây
dựng hiện đại hóa Trung Quốc. Ba là, để thử nghiệm sức chiến đấu của Giải phóng quân
vốn đã rệu rã sau 10 năm trải qua Đại cách mạng văn hóa (1966-1976)”.
Dù là lý do nào, điều đó đều phi nghĩa.
2.2.2 Nguyên nhân trực tiếp
Để hợp thức hóa chiến tranh, Trung Quốc đã viện cho mình cái cớ rất hồn mỹ, đó là
cuộc “Tự vệ phản kích” trước sự xâm lược của Việt Nam.
Trung Quốc liên tục tuyên truyền rằng Việt Nam tấn công, quấy phá biên giới giữa 2
nước đồng thời cho rằng Việt Nam gây hấn với Trung Quốc bằng việc tước quốc tịch người
5


Hoa, quốc hữu hóa tài sản của họ v.v. Khơng những vậy, Trung Quốc còn tuyên truyền
Việt Nam liên tục triển khai tấn công vào các làng mạc biên giới, bắn phá và đàn áp các
tàu cá của Trung Quốc đang hoạt động ở quần đảo Trường Sa mà Trung Quốc cưỡng chiếm
(1974). Trước tình hình ấy, “Qn giải phóng nhân dân Trung Quốc không thể nhịn được
nữa mà phải đứng lên đấu tranh, tấn cơng địi lại quyền lợi của mình, cần phải tiến hành
cuộc “tự vệ phản kích”” v.v.
Khơng những vậy, Trung Quốc cịn tung ra các khẩu hiệu tuyên truyền “Việt Nam là
tiểu bá theo đại bá Liên Xô”; “Việt Nam là tay sai của Liên Xô, có tham vọng xâm lược
Campuchia, Lào, chiếm Đơng Nam Á, thực hiện bá quyền khu vực” hay “Việt Nam là tiểu
bá ở châu Á, xâm lược Campuchia, xua đuổi người Hoa” Trung Quốc quyết không để cho
ai làm nhục” nên “không thể không đánh và phải đánh lớn” v.v. nhằm hợp thức hóa cuộc
chiến tranh biên giới phía Bắc 1979.
Ngày nay, nhiều học giả nghiên cứu (cả nước ngoài) nhận định rằng, các nguyên nhân
Trung Quốc đưa ra là không đáng tin do Trung Quốc nói q nhiều và khơng có sự đồng
nhất trong các phát biểu của mình.
2.3 Mục tiêu của Trung Quốc
2.3.1 Biên giới
Nhanh chóng chiếm đóng vùng biên giới, đặc biệt là các thị xã trọng yếu bao gồm Lạng

Sơn, Cao Bằng và Lào Cai.
Tuyên bố chiến tranh của Bắc Kinh nói rằng đây là cuộc chiến để Trung Quốc “phản
cơng” chống lại các cuộc khiêu khích của Việt Nam. Phát ngơn của Tân Hoa xã nói:
“Chúng tôi không muốn 1 tấc đất nào của Việt Nam. Cái chúng tôi muốn là 1 đường biên
giới ổn định và hịa bình. Sau khi đánh trả các thế lực hiếu chiến đủ mức cần thiết, các lực
lượng biên phòng của chúng tôi sẽ quay lại bảo vệ chặt chẽ biên giới của Tổ Quốc”.
Tuy nhiên, chúng muốn kiểm soát chặt chẽ biên giới, lãnh thổ của nước ta. Dùng những
phát ngôn và kế hoạch mập mờ để lừa bịp dư luận trong và ngoài nước (Trung Quốc). Sự
thật là, sau chiến sự năm 1979, quân Trung Quốc tiếp tục chiếm đóng trái phép tại các điểm
cao chiến lược của Việt Nam. Mục tiêu của chúng là dùng sự kiểm sốt trên thực địa để
hợp thức hóa đường biên pháp lý, tạo lợi thế khi đàm phán, đặc biệt là tại những điểm biên
giới mà Hiệp ước Pháp Thanh (1895) chưa phân định, hoặc phân định không rõ ràng.

6


2.3.2 Chính trị
Trung Quốc muốn buộc Việt Nam phải rút quân khỏi Campuchia, cứu chính quyền Pol
Pot và cải thiện được quan hệ với Mỹ, tạo điều kiện xuất hiện như một cường quốc thế
giới, khống chế tại Châu Á và chứng minh Liên Xô không phải là một đồng minh đáng tin.
Nhà báo Hồng Trọng Thủy đã nói: “Đặng Tiểu Bình xâm lược biên giới phía Bắc của
Việt Nam là với mục tiêu thâu tóm quyền lực và thăm dị mối quan hệ giữa Liên Xơ và
Việt Nam như thế nào. Và quan trọng là muốn kết thân với Mỹ, bình thường hóa mối quan
hệ với Mỹ. Lấy Việt Nam hy sinh để đảm bảo cho quyền lợi của mình”.
Tấn cơng Việt Nam, Trung Quốc cịn muốn chuyển hướng chú ý của dư luận khỏi tình
trạng đấu đá nội bộ Trung Quốc, tạo cơ hội thúc đẩy 4 hiện đại hóa trong đó hiện đại hóa
quân đội là quan trọng. Đối với cá nhân ơng Đặng Tiểu Bình, đánh Việt Nam là cách để
củng cố quyền lực mới giành lại trong nội bộ Trung Quốc. Bề ngoài đây là cuộc chiến tranh
giữa hai nước láng giềng nhưng bên trong nó cịn phản ánh cuộc đấu tranh nội bộ, tranh
chấp phức tạp giữa lợi ích quốc gia và ý thức hệ.

2.3.3 Quân sự
Đánh tiêu hao lực lượng chủ yếu và làm suy yếu khả năng phòng ngự của Việt Nam
bằng việc quét sạch các đồn biên phòng, tiêu diệt một phần lực lượng quân địa phương và
các đơn vị quân khác của Việt Nam.
Kéo các sư đoàn chủ lực của Việt Nam từ Campuchia về vào các “cối xay thịt” để
trừng phạt. Cuộc tấn công cũng để làm sáng tỏ nhu cầu hiện đại hóa qn đội Trung Quốc.
Ngồi ra, Trung Quốc cịn muốn thơng qua cuộc chiến để kiểm nghiệm năng lực chiến
đấu của quân Giải phóng nhân dân Trung Quốc.
2.3.4 Kinh tế
Về kinh tế, Trung Quốc muốn làm kiệt quệ kinh tế Việt Nam, từ đó buộc phải phụ
thuộc vào Trung Quốc. Chúng đã cho phá hủy một cách có hệ thống các thị xã, thị trấn,
làng mạc, cơ sở kinh tế của ta tại vùng biên, nơi chúng tạm chiếm.

7


2.4 Quan điểm của Việt Nam
2.4.1 Nhận thức của Đảng ta về vấn đề Trung Quốc trước cuộc chiến
Tuy trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, nước ta nhận được sự hỗ
trợ to lớn của Trung Quốc nhưng Trung Quốc cũng có những hành động xâm chiếm lãnh
thổ biên giới đất liền và biển đảo nước ta. Nhận thức của Đảng ta về Trung Quốc là một
quá trình dài, thể hiện rõ nét trong ý chí của người đứng đầu Đảng - Tổng bí thư Lê Duẩn.
Năm 1954, khi hiệp định Gionevo được ký kết, Đảng ta đã nhận ra giã tâm chia cắt
nước ta của Trung Quốc. Trung Quốc đã dùng vĩ tuyến 17 làm cái giá mặc cả với Mỹ.
Khi chúng ta đánh Mỹ, Mao Trạch Đơng nói với đồng chí Lê Duẩn rằng: “Trong khi
Mỹ đánh nhau với ta, ông ấy sẽ mang quân đội (Trung Quốc) vào giúp ta làm đường”.
“Mục đích chính của Mao là tìm hiểu tình hình Việt Nam để sau này có thể đánh ta và từ
đó bành trướng xuống Đơng Nam Á” - Tổng bí thư Lê Duẩn nhận định.
Một lần khác Mao nói với đồng chí Lê Duẩn và đồng chí Trường Chinh: “Các đồng
chí, có thật người Việt Nam đã chiến đấu và đánh bại quân Ngun khơng?” Tơi (Tổng bí

thư Lê Duẩn) đáp: “Đúng”. “Thế có thật là các anh cũng đánh bại cả quân Thanh nữa phải
khơng?” Tơi đáp: “Đúng.” Ơng ta lại hỏi: “Và cả quân Minh nữa, đúng không?” Tôi trả
lời: “Đúng, và cả các ông nữa. Tôi sẽ đánh bại cả các ơng. Ơng có biết thế khơng?” Như
vậy để thấy rằng, từ rất sớm Tổng bí thư Lê Duẩn, người ứng đầu Đảng ta đã có quan điểm
cứng rắn và mạnh mẽ như thế nào với Trung Quốc.
Về vấn đề Trung Quốc, Tổng bí thư Lê Duẩn chia sẻ: “Chúng ta đã có sự chuẩn bị tích
cực chứ khơng phải chúng ta khơng chuẩn bị gì. Nếu chúng ta khơng chuẩn bị thì tình hình
vừa qua (chiến sự 1979) đã có thể rất nguy. Đó khơng phải là chuyện đơn giản. Mười năm
trước tơi đã có mời anh em bên qn đội đến gặp tơi. Tơi nói với họ rằng Liên Xơ và Mỹ
đang có mâu thuẫn với nhau. Cịn Trung Quốc, họ lại bắt tay với đế quốc Mỹ. Trong tình
hình căng thẳng như vậy các anh phải lập tức nghiên cứu vấn đề này. Tôi sợ bên quân đội
anh em chưa hiểu nên tơi nói thêm rằng khơng có cách nào khác để hiểu vấn đề này…”.
Có thể thấy rằng, đồng chí Lê Duẩn đã có những nhận định đi trước mọi người (10 năm
trước), lo lắng cho an nguy Tổ Quốc từ rất sớm.
Sau khi đánh bại đế quốc Mỹ, chúng ta vẫn giữ một đạo quân hơn một triệu người.
Một số lãnh đạo Liên Xô đã hỏi ta: “Các đồng chí cịn định đánh nhau với ai nữa mà lại
vẫn duy trì một đội quân (thường trực) lớn như vậy?” Tổng bí thư Lê Duẩn đáp: “Sau này
8


các đồng chí sẽ hiểu”. Lý do duy nhất khiến chúng ta giữ một đạo quân thường trực như
vậy chính là vì Trung Quốc. Nếu như khơng có sự đe dọa đó thì đội qn (thường trực lớn)
này sẽ khơng còn cần thiết nữa. Thực tế lịch sử đã chứng minh, khi bị tấn công trên cả hai
mặt trận (Bắc và Tây Nam), sẽ rất nguy hiểm nếu chúng ta khơng duy trì một đội qn lớn.
Tuy nhiên, cũng theo đồng chí Lê Duẩn: “Bây giờ (khi chiến tranh đã nổ ra) khơng ai
cịn hồi nghi (việc Trung Quốc sẽ đánh ta) gì nữa. Nhưng 5 năm trước tơi biết chắc rằng
khơng có đồng chí nào lại nghĩ là Trung Quốc có thể đánh ta. Vậy mà có đấy. Đó là trường
hợp vì các đồng chí ấy khơng có hiểu biết đầy đủ về vấn đề này. Nhưng đó khơng phải là
trường hợp xảy ra với chúng ta (Lê Duẩn và ban lãnh đạo Đảng). Chúng ta biết rằng họ sẽ
đánh ta trong khoảng mười năm hoặc hơn. Do đó chúng ta khơng bị bất ngờ vì cuộc tấn

cơng tháng giêng 1979 của Trung Quốc.
2.4.2 Quan điểm khi cuộc chiến nổ ra
Về việc xác định kẻ thù.
Khi cuộc chiến nổ ra, Tổng bí thư Lê Duẩn nhận định: “Nói chung, sau khi ta đã thắng
Mỹ thì khơng cịn tên đế quốc nào dám đánh ta nữa. Chỉ có những kẻ nghĩ rằng, họ có thể
đánh và dám đánh chúng ta, là bọn phản động Trung Quốc. Nhưng nhân dân Trung Quốc
hồn tồn khơng muốn như vậy”. Ở đây, ta phải thấy rằng quan điểm của Đảng ta về vấn
đề: Ai là kẻ thù? Đảng ta nhận định, kẻ thù của ta là “bọn phản động Trung Quốc”, “bè lũ
bành trướng Bắc Kinh” chứ khơng đánh đồng tồn bộ nhân dân Trung Quốc. Tổng bí thư
Lê Duẩn nhấn mạnh: “Chúng ta nhắc tới họ chỉ như một bè lũ mà thôi. Chúng ta khơng ám
chỉ cả nước họ. Ta khơng nói nhân dân Trung Quốc xấu với ta. Ta nói rằng chỉ có bè lũ
phản cách mạng Bắc Kinh là như thế. Tôi nhắc lại lần nữa ta phải tuân thủ nghiêm ngặt
như vậy”.
Nhận định về mục tiêu của kẻ thù.
Đông chí Lê Duẩn nói: “Đối với ta Trung Quốc có một số chủ trương: Xâm lược và
chiếm đóng nước ta; làm ta suy yếu về kinh tế và làm cho đời sống của nhân dân ta khó
khăn hơn…” Tuy nhiên, nhận định này có phần hạn chế vì thực tế Trung Quốc đã phát
động 1 cuộc chiến có giới hạn khi khơng tiến sâu xuống nước ta, chính Đảng ta cũng lúng
túng trước việc Trung Quốc đột ngột tuyên bố rút quân ngày 5/3/1979.

9


Về chủ trương tác chiến.
Đơng chí Lê Duẩn nhận định: “Chúng ta khơng sợ vì chúng ta đã biết cách chiến đấu.
Nếu họ mang vào một triệu quân thì họ cũng chỉ đặt được chân ở phía Bắc. Càng đi xuống
vùng trung du, vùng đồng bằng châu thổ, và vào Hà Nội hoặc thậm chí vào sâu hơn nữa
thì sẽ càng khó khăn… Thậm chí có đánh nhau hai, ba hoặc bốn năm chúng cũng không
thể nào tiến vào được… Chủ trương của ta là: Mỗi huyện là một pháo đài, mỗi tỉnh là một
chiến trường. Chúng ta sẽ chiến đấu và chúng sẽ không thể nào xâm nhập được”.

Về phương hướng tác chiến.
Tổng bí thư Lê Duẩn nói: “Nếu chiến tranh đến từ phương Bắc thì các tỉnh (Bắc Trung
bộ) Nghệ An, Hà Tĩnh và Thanh Hóa sẽ trở thành căn cứ cho cả nước. Đó là những căn cứ
vững chắc nhất, tốt nhất và mạnh nhất khơng gì so sánh được. Vì nếu như vùng đồng bằng
(Bắc bộ) vẫn liên tục căng thẳng như vậy thì tình hình sẽ hết sức phức tạp. Hồn tồn khơng
phải là chuyện đơn giản”. Như vậy, Đảng ta đã tính đến chuyện trường kỳ kháng chiến
chống lại Trung Quốc chứ không chỉ là giải quyết xung đột thời gian ngắn.
Về lực lượng chiến đấu của ta.
Ngày 5/3/1979, Ban chấp hành Trung ương Đảng ra lời kêu gọi đồng bào và chiến sĩ
cả nước nhất tề đứng lên bảo vệ Tổ quốc vì Đảng ta nhận định rõ nền độc lập, tự do, chủ
nghĩa xã hội của nhân dân ta đang bị xâm phạm, dân tộc ta đang bị đe doạ.
Đồng chí Lê Duẩn nhận định: “Việt Nam đã có năm chục triệu người. Việt Nam có
Lào và Căm bốt là bạn và có địa thế hiểm trở. Việt Nam có cả phe (Xã hội chủ nghĩa) ta
và cả nhân loại đứng về phía mình. Rõ ràng là chúng ta có thể làm được việc đó”.
Như vậy, Đảng ta nhận định, trong cuộc chiến này, nhân dân Việt Nam không hề đơn
độc mà cịn có sự ủng hộ của bạn bè quốc tế.
Về kết cục chiến tranh.
Tổng bí thư Lê Duẩn đã khái quát: “Trung Quốc hiện nay có một đội quân ba triệu rưỡi
người nhưng họ phải để lại một nửa trên biên giới Trung – Xơ để phịng ngừa Liên Xơ. Vì
lý do đó, nếu họ có mang 1 hoặc 2 triệu quân sang đánh ta, chúng ta cũng không hề sợ hãi
gì cả…”. “Các đồng chí có thấy ai ở trong Đảng ta, trong nhân dân ta mà hoài nghi rằng ta
sẽ thua Trung Quốc khơng? Khơng có ai, tất nhiên rồi”. Phát biểu của đồng chí thể hiện rõ

10


quan điểm không run sợ, không nhượng bộ trước kẻ thù của Đảng và Nhà nước ta, khẳng
định chúng ta tất thắng.
2.4.3 Quan điểm sau cuộc chiến
Kể cả khi các cuộc xung đột vẫn diễn ta ngoài biên ải, đồng chí Lê Duẩn đã căn dặn:

“Chúng ta phải duy trì những quan hệ thân hữu của mình. Chúng ta khơng muốn sự hằn
thù dân tộc. Tơi nhắc lại: Tơi nói như vậy vì khơng bao giờ tơi mang lịng hận thù đối với
Trung Quốc. Tơi khơng có thứ tình cảm như vậy, dù chính họ là người đã đánh ta... Nhân
dân Việt Nam ta là như vậy. Tôi sẽ tiếp tục nhắc lại rằng: Dù họ có đối xử tồi tệ đến đâu
chăng nữa, chúng ta biết rằng nhân dân Trung Quốc là bạn ta. Về phía chúng ta, ta không
mang những mặc cảm xấu xa đối với Trung Quốc”.
Như vậy để thấy rằng, mặc dù có bất đồng và chiến tranh nhưng người đứng đầu Đảng
ta không coi nhân dân Trung Quốc là kẻ thù. Mong muốn của Đảng là một mối quan hệ
hữu nghị tốt đẹp, cùng có lợi cho nhân dân hai nước.
Năm 1986 Đảng ta quyết định tiến hành đổi mới đất nước. Để phục vụ mục tiêu lớn
nhất lúc này là đổi mới, chúng ta phải xử lý được hậu quả của cuộc chiến tranh kéo dài từ
1979. Trung Quốc là một quốc gia láng giềng, có tầm ảnh hưởng lớn đối với nước ta và
quốc tế, ban lãnh đạo cũng nhận thức rõ việc cần giải quyết mối quan hệ với Trung Quốc.
Cũng như những lần trước, Việt Nam đã tích cực, chủ động tiếp xúc, trao đổi với Trung
Quốc rất nhiều lần nhằm bình thường hóa quan hệ nhưng phía Trung Quốc vẫn tìm cách
gây cản trở. Sau đó, Việt Nam tiếp tục chủ động thăm Trung Quốc, bàn bạc để thúc đẩy
quan hệ và tới tháng 11/1991 thì hai bên chính thức bình thường hóa quan hệ.
Nói tóm lại, sau cuộc chiến tranh biên giới phía Bắc, nước ta vẫn giữ chủ trương đàm
phán hồ bình với Trung Quốc. Điều này được thể hiện ngay từ khi cuộc chiến chưa diễn
ra vì nước ta ln là phía chủ động đàm phán hồ hảo với Trung Quốc.
Quan điểm của Việt Nam từ trước khi cuộc chiến diễn ra cho đến khi cuộc chiến kết
thúc đó là cần phải giữ mối quan hệ hồ bình hữu nghị với Trung Quốc, tuy nhiên khơng
vì thế mà ta sợ họ, Việt Nam không hề sợ Trung Quốc, nếu có chiến sự diễn ra thì ta sẵn
sàng đứng lên đấu tranh đánh tan kẻ thù.

11


2.5 Diễn biến
2.5.1 Sự chuẩn bị cho cuộc chiến

2.5.1.1 Sự chuẩn bị của Trung Quốc
Về quân sự:
Từ giữa năm 1978, Trung quốc đã hoàn chỉnh các phương án tác chiến, các đơn vị
quân đội đã sẵn sàng mở cuộc tiến công quân sự quy mô lớn, chỉ đợi thời cơ đến để phát
động chiến tranh. Sau những kì họp Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc giữa năm
1978 đến cuối năm 1978, tháng 12/1978, Trung Quốc đã chọn lực lượng quân đội từ năm
quân khu và đưa áp sát biên giới Trung - Việt.
Như vậy, Trung Quốc đã hoàn thành kế hoạch chiến tranh với Việt Nam từ năm 1978,
thời điểm cuộc chiến giữa Việt Nam và Khơ me Đỏ chưa diễn ra. Điều này càng khẳng
định âm mưu gây chiến của Trung Quốc đã có từ rất lâu. Vấn đề Campuchia chỉ là cái cớ
và là con cờ của Trung Quốc.
Đến cuối tháng 1/1979, khoảng 17 sư đồn chính quy Trung Quốc (khoảng 225.000
quân) đã tập trung gần biên giới với Việt Nam. Hơn 700 máy bay chiến đấu và máy bay
ném bom (1/5 lực lượng không quân Trung Quốc) được đưa đến các sân bay gần biên giới.
Từ ngày 9 đến 12/2/1979, Quân ủy Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc họp hội
nghị, quyết định tấn công Việt Nam và thành lập Bộ Chỉ huy chung. Ngày 16/2/1979, Đặng
Tiêu Bình nêu mục tiêu, cái lợi, cái hại của cuộc chiến tranh chống Việt Nam trong cuộc
họp phổ biến ý nghĩa của cuộc chiến tranh, nhấn mạnh đây là cuộc phản kích tự vệ, hạn
chế về thời gian và không gian.
Từ tháng 10 năm 1978 cho đến 15 tháng 2 năm 1979, Trung Quốc thực hiện hàng loạt
các vụ tấn cơng thăm dị vào các vị trí phịng thủ của Việt Nam tại biên giới, với mục đích
thu thập thơng tin tình báo, đe dọa qn Việt Nam, và đánh lạc hướng khỏi mục tiêu chính
của chiến dịch sắp tới. Từ tháng 1/1979, Trung Quốc bắt đầu đẩy mạnh các hoạt động trinh
sát vũ trang dọc biên giới. Trong tháng 1 và tuần đầu tiên của tháng 2 năm 1979, Trung
Quốc gây ra 230 vụ xâm phạm vũ trang vào lãnh thổ Việt Nam, từ gây hấn cho tới phục
kích, bắt cóc người đưa về Trung Quốc, tập kích, bắn phá các đồn biên phịng và trạm gác
của cơng an, dân quân Việt Nam cũng như các cơ sở sản xuất của người dân.

12



Lính Trung Quốc đã giết trên 40 dân thường và chiến sĩ, làm bị thương hàng trăm
người và bắt đi hơn 20 người. Có những vụ diễn ra sâu trong lãnh thổ Việt Nam tới 5 km
như vụ tập kích trạm gác của dân quân ở Bản Lầu (Hoàng Liên Sơn) ngày 14 tháng 1, có
những vụ quy mơ lớn như huy động 1 tiểu đồn chính quy tấn cơng bình độ 400 ở Thanh
Lịa, Cao Lộc (Lạng Sơn) ngày 10 tháng 2, có những vụ pháo kích lớn đã sử dụng cả
tới pháo 85mm, súng cối, ĐKZ,...
Về ngoại giao:
Để hợp thức hóa chiến tranh, Trung Quốc có những bước đi ngoại giao để định hướng
dư luận, tìm kiếm sự ủng hộ của các nước cho cuộc chiến này. Ngày 5/11/1978, Đặng Tiểu
Bình tới thăm các nước ASEAN. Đặng Tiểu Bình liên tục tun truyền việc Việt Nam kí
hiệp ước với Liên Xô vào 3/11/1978 sẽ là mối đe dọa lớn đến an ninh khu vực, đồng thời
thể hiện quyết tâm của Trung Quốc là không để Đông Nam Á rơi vào tay Hà Nội. Từ đó,
kêu gọi các nước tham gia mặt trận chống Việt - Xô để đảm bảo quyền lợi các nước. Quan
trọng hơn, Trung Quốc muốn thăm dị phản ứng các nước nếu có một cuộc chiến nổ ra.
Khi Khmer Đỏ bị Việt Nam đánh bại, Trung Quốc ra sức tuyên truyền rằng Việt Nam
đưa quân đánh chiếm Camphuchia và hứa sẽ “dạy cho Việt Nam một bài học”. Từ ngày 1
đến 13/1/1979, Trung Quốc liên tiếp có nhiều phát biểu và bình luận mà nội dung là tố cáo
Việt Nam xâm lược, lên án Việt nam chiếm đóng Phnom Pênh, kêu gọi Campuchia dân
chủ đánh lâu dài và hứa sẽ ủng hộ toàn diện.
Ngày 12/8/1978, Tập Cận Bình tới Nhật Bản và thăm dị thái độ của nước Nhật, Trung
Quốc cũng kí Hiệp ước Hịa Bình với Nhật Bản và sẽ tái ký sau đó nhằm tạo sự ổn định tại
khu vực Đông Bắc Á có lợi cho Trung Quốc. Tới cuối tháng 1/1979, Đặng Tiêu Bình nhận
được sự ủng hộ cần thiết của đồng minh mới Hoa Kỳ trong kế hoạch tấn công Việt Nam.
Ngày 7/2/1979, Bắc Kinh báo trước về một chiến dịch tấn cơng Việt Nam với thơng
cáo chính thức của chính phủ Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa phản đối việc quân đội Việt
Nam tiến vào lãnh thổ Campuchia và đề nghị tất cả các quốc gia u hịa bình “dùng mọi
biện pháp có thể để chấm dứt cuộc xâm lược dã man này”.
Các lãnh đạo Trung Quốc phán đoán cuộc tấn cơng Việt Nam chớp nhống, có giới
hạn sẽ khơng gây căng thẳng đủ để kích thích Liên Xơ can thiệp trực tiếp hay quốc tế phản

đối. Họ dự tính Liên Xô sẽ chỉ can thiệp giới hạn ở mức khuyến khích các dân tộc thiểu

13


số Trung Quốc tấn công các vùng xa xôi như Nội Mông, Tân Cương hoặc gây đụng độ nhỏ
ở vùng biên giới 2 nước.
2.5.1.2 Sự chuẩn bị của Việt Nam
Về qn sự:
Trước các cuộc tấn cơng khiêu khích của qn Trung Quốc vùng biên giới. Chúng ta
đã tiến hành chuẩn bị các vị trí phịng ngự, chuẩn bị tinh thần dân chúng sẵn sàng (tuy
nhiên trong thời điểm đó Việt Nam vẫn tin Trung Quốc không tấn không, tin rằng đa phần
dân chúng Trung Quốc sẽ phản đối).
Lực lượng chủ yếu của ta ở biên giới chỉ gồm dân quân và bộ đội địa phương. Dân
quân tại các tỉnh biên giới được huấn luyện và trang bị vũ khí hạng nhẹ. Khi cuộc chiến nổ
ra, chỉ có một số đơn vị quân chính quy tham gia chiến trận (nhất là đơn vị phòng thủ Lạng
Sơn), chủ yếu vẫn là dân quân và quân địa phương. Hà Nội giữ lại 5 sư đồn chủ lực ở
tuyến sau đề phịng Trung Quốc tiến sâu về đồng bằng, và đồng thời cũng để giới hạn việc
cuộc chiến leo thang.
Ngày 1/1/1979, theo chỉ thị của Thường vụ Quân ủy Trung ương Việt Nam, các lực
lượng vũ trang biên giới được lệnh chuyển sang trạng thái sẵn sàng chiến đấu cao. Tuy
nhiên, đến 15/2, trừ các xã biên giới và một vài đơn vị, các lực lượng trên tuyến 1 được
lệnh hạ cấp xuống trạng thái sẵn sàng chiến đấu tăng cường. Nhiều đơn vị tổ chức cho phần
lớn bộ đội về trạng thái sinh hoạt bình thường, di chuyển, điều chỉnh lại đội hình bố trí.
Rõ ràng, trong tháng 2 chúng ta đã có sự chủ quan khi hạ cấp độ chuẩn bị chiến đấu.
Chính điều này cũng khiến ngày 17/2 chúng ta có sự bất ngờ.
Về ngoại giao:
Trước các cuộc leo thang căng thẳng của Khơ me Đỏ và Trung Quốc, Việt Nam đã rất
nhiều lần đưa vấn đề ra trước Liên hợp quốc. Chúng ta cũng đã gửi những bằng chứng,
hình ảnh về các cuộc tập kích, thảm sát của kẻ thù. Tuy nhiên, đáp lại lời kêu cứu của Việt

Nam, Liên hiệp quốc cho rằng: “Các bằng chứng Việt Nam đưa ra là mơ hồ, thiếu thuyết
phục, thậm chí là ngụy tạo…” Thế mới thấy rằng, khi cần thiết, Liên hợp quốc chỉ là sân
chơi của các nước lớn.

14


Việc vẫn trong tình cảnh bị bao vây cấm vận cũng khiến Việt Nam khó có tiếng nói
đối với các nước. Và quan trọng, sau khi đã đánh bại cả Pháp và Mỹ - Ngụy, nhìn chung
các nước đều “sợ” chúng ta hơn là đồng cảm.
Ngoài việc lên tiếng tại Liên hợp quốc, chúng ta cũng chủ động liên lạc và tìm cách
đàm phán với Trung Quốc. Tuy nhiên, đáp lại chúng là sự thiếu thiện trí và chấm dứt ngoại
giao.
Trước bối cảnh đó, Việt Nam tham vấn đồng minh Liên Xơ để tìm giải pháp và chuẩn
bị cho chiến tranh, ban đầu chủ yếu là đối phó Khơ me Đỏ.
2.5.2 Chiến sự tháng 2 và đầu tháng 3 năm 1979
Chiến sự tháng 2 và đầu tháng 3 năm 1979 xét về tổng thể có thể chia ra làm 2 giai
đoạn chính với 2 chiến trường lớn:
Hai giai đoạn:
 Giai đoạn 1: Trung Quốc tổng tấn cơng trên tồn tuyến biên giới.
 Giai đoạn 2: Chiến sự tập chung tại Lạng Sơn.
Hai chiến trường:
 Mặt trận phía đơng: Quảng Ninh, Lạng Sơn, Cao Bằng.
 Mặt trận phía tây: Lào Cai, Hà Giang, Lai Châu.
2.5.2.1 Giai đoạn 1 (Trung Quốc tổng tấn cơng trên tồn tuyến biên giới.)
Mặt trận phía đơng: Lực lượng Trung Quốc khoảng 120.000 quân tiến vào Việt Nam,
mở đầu là pháo, tiếp theo là xe tăng và bộ binh. Cánh phía đơng có sở chỉ huy tiền phương
đặt tại Nam Ninh và mục tiêu chính là Lạng Sơn. Có hai hướng tiến song song, hướng thứ
nhất do quân đoàn 42A dẫn đầu từ Long Châu đánh vào Đồng Đăng nhằm làm bàn đạp
đánh Lạng Sơn, hướng thứ hai do quân đoàn 41A dẫn đầu từ Tĩnh Tây và Long Châu tiến

vào Cao Bằng và Đơng Khê. Ngồi ra cịn có qn đồn 55A tiến từ Phịng Thành vào
Móng Cái.
Mặt trận phía tây: Cánh phía tây có sở chỉ huy tiền phương đặt tại Mơng Tự, có 3
hướng tiến cơng chính. Hướng thứ nhất do các qn đồn 13A và 11A dẫn đầu đánh từ vào
thị xã Lào Cai. Hướng thứ hai từ Văn Sơn đánh vào Hà Giang. Hướng thứ 3 do sư đoàn
42D của quân đoàn 14A dẫn đầu đánh từ Kim Bình vào Lai Châu. Tổng cộng quân Trung
Quốc xâm nhập Việt Nam trên 26 điểm, các khu vực dân cư Việt Nam chịu thiệt hại nặng
15


nhất từ đợt tấn công đầu tiên này là Lào Cai, Mường Khương, Cao Bằng, Lạng Sơn và
Móng Cái.
Tất cả các hướng tấn cơng đều có xe tăng, pháo binh hỗ trợ. Quân Trung Quốc vừa
chiếm ưu thế về lực lượng, vừa chủ động về thời gian tiến công, lại cịn có “lực lượng thứ
năm” gồm những người Việt gốc Hoa trên đất Việt Nam. Từ đêm 16 tháng 2, các tổ thám
báo Trung Quốc đã mang theo bộc phá luồn sâu vào nội địa Việt Nam móc nối với “lực
lượng thứ năm” này lập thành các toán vũ trang phục sẵn các ngã ba đường, bờ suối, các
cây cầu để ngăn chặn quân tiếp viện của Việt Nam từ phía sau lên. Trước giờ nổ súng, các
lực lượng này cũng bí mật cắt các đường dây điện thoại để cơ lập chỉ huy sư đồn với các
chốt, trận địa pháo.
Tiến đánh nhanh lúc khởi đầu nhưng quân Trung Quốc nhanh chóng phải giảm tốc độ
do gặp nhiều trở ngại về địa hình và hệ thống hậu cần lạc hậu phải dùng lừa, ngựa và người
thồ hàng. Hệ thống phòng thủ của Việt Nam dọc theo biên giới khá mạnh, với các hầm hào
hang động tại các điểm cao dọc biên giới do lực lượng quân sự có trang bị và huấn luyện
tốt trấn giữ. Kết quả là Trung Quốc phải chịu thương vong lớn. Trong ngày đầu của cuộc
chiến, chiến thuật dùng biển lửa và biển người của Trung Quốc đã có kết quả, họ tiến được
vào sâu trong lãnh thổ Việt Nam hơn 10 dặm và chiếm được một số thị trấn. Chiến sự ác
liệt nhất diễn ra tại các vùng Bát Xát, Mường Khương ở tây bắc và Đồng Đăng, cửa khẩu
Hữu Nghị (Lạng Sơn), Thông Nông (Cao Bằng) ở đông bắc. Quân Trung Quốc cũng đã
vượt sông Hồng và đánh thẳng vào Lào Cai.

Sang ngày 18 và 19/2, chiến sự lan rộng hơn. Việt Nam kháng cự rất mạnh và với tinh
thần chiến đấu cao. Quân Trung Quốc hầu như không thể sử dụng lực lượng ở mức sư đồn
mà phải dùng đội hình nhỏ và thay đổi chiến thuật. Họ tiến chậm chạp, giành giật từng
đường hầm, từng điểm cao, và cuối cùng cũng chiếm được Mường Khương (Hoàng Liên
Sơn), Trùng Khánh (Cao Bằng), và Đồng Đăng (Lạng Sơn). Tại Móng Cái, hai bên giành
giật dai dẳng. Cả hai bên đều phải chịu thương vong cao, có ít nhất 4.000 lính Trung Quốc
chết trong hai ngày đầu này. Sau hai ngày chiến tranh, quân Trung Quốc đã chiếm được
11 làng mạc và thị trấn, đồng thời bao vây Đồng Đăng, thị trấn có vị trí then chốt trên
đường biên giới Trung-Việt.
Trận chiến tại Đồng Đăng bắt đầu ngay từ ngày 17 và là trận đánh ác liệt nhất. Đây là
trận địa phòng thủ của Trung đoàn 12 Tây Sơn, Sư đoàn 3 Sao Vàng, Quân đội Nhân dân
16


Việt Nam. Tấn công vào Đồng Đăng là 2 sư đoàn bộ binh, 1 trung đoàn xe tăng, và chi
viện của 6 trung đoàn pháo binh Trung Quốc. Cụm điểm tựa Thâm Mô, Pháo đài, 339 tạo
thế chân kiềng bảo vệ phía tây nam thị xã Đồng Đăng, do lực lượng của 2 Tiểu đoàn 4 và
6, Trung đoàn 12 trấn giữ, bị Trung Quốc bao vây và tấn công dồn dập ngay từ đầu với lực
lượng cấp sư đoàn.
Lực lượng phịng thủ khơng được chi viện nhưng đã chiến đấu đến những người cuối
cùng, trụ được cho đến ngày 22/2. Ngày cuối cùng tại Pháo đài Đồng Đăng, nơi có hệ thống
phịng thủ kiên cố nhất, khơng gọi được đối phương đầu hàng, quân Trung Quốc chở bộc
phá tới đánh sập cửa chính, dùng súng phun lửa, thả lựu đạn, bắn đạn hóa học vào các lỗ
thơng hơi, làm thiệt mạng cả thương binh cũng như dân quanh vùng đến đây lánh nạn.
Đến 21/2, Trung Quốc tăng cường thêm 2 sư đồn và tiếp tục tấn cơng mạnh hơn nữa.
Ngày 22, các thị xã Lào Cai và Cao Bằng bị chiếm. Quân Trung Quốc chiếm thêm một số
vùng tại Hà Tuyên, Cao Bằng, Lạng Sơn, và Quảng Ninh. Chiến sự lan rộng tới các khu
đô thị ven biển ở Móng Cái. Về phía Việt Nam, cùng lúc với việc triển khai phòng ngự
quyết liệt, khoảng từ 3 đến 5 sư đoàn (gồm 30.000 quân) cũng được giữ lại để thành lập
một tuyến phòng ngự cánh cung từ Yên Bái tới Quảng Yên với nhiệm vụ bảo vệ Hà Nội

và Hải Phòng.
Ngày 26/2, thêm nhiều quân Trung Quốc tập kết quanh khu vực Lạng Sơn chuẩn bị
cho trận chiến đánh chiếm thị xã này. Sau khi thị sát chiến trường, Bộ tổng tham mưu Quân
đội Nhân dân Việt Nam đề xuất điều động một quân đoàn từ Campuchia cùng một tiểu
đồn pháo phản lực BM-21 vừa được Liên Xơ viện trợ về Lạng Sơn. Đồng thời tổ chức và
huy động lại các đơn vị và các phân đội, biên chế lại một sư đoàn vừa rút lui từ chiến
trường, tiến hành các hoạt động tác chiến vào sâu trong hậu phương địch.
Phi đoàn máy bay vận tải An-12 của Liên Xơ đã lập cầu hàng khơng, chở Qn đồn
2, Qn đội Nhân dân Việt Nam từ Campuchia về Lạng Sơn.
Ngày 25/2, tại Mai Sao, Quân đoàn 14 (Binh đoàn Chi Lăng) thuộc Quân khu 1, Quân
đội Nhân dân Việt Nam cùng Bộ chỉ huy thống nhất Lạng Sơn được thành lập, lực lượng
bao gồm các Sư đoàn 3, 327, 338, 337 (đang từ Quân khu 4 ra) và sau này có thêm Sư đồn
347 cùng các đơn vị trực thuộc khác.
Đến ngày 28/2/1979, quân Trung Quốc chiếm được các thị xã Lào Cai, Cao Bằng, và
một số thị trấn. Các cơ sở vật chất, kinh tế ở những nơi này bị phá hủy triệt để. Tuy nhiên,
17


do vấp phải sự phịng ngự có hiệu quả của Việt Nam cũng như có chiến thuật lạc hậu so
với phía Việt Nam nên quân Trung Quốc tiến rất chậm và bị thiệt hại nặng. Quân đội Việt
Nam còn phản kích, đánh cả vào hai thị trấn biên giới Ninh Minh (Quảng Tây) và Ma Lật
Pha (Vân Nam) của Trung Quốc.
2.5.2.2 Chiến sự tại Lạng Sơn
Từ ngày 27/2, chiến sự tập trung tại Lạng Sơn tuy giao tranh tại Lào Cai, Cao Bằng,
và Móng Cái vẫn tiếp diễn. Trận đánh chiếm thị xã Lạng Sơn bắt đầu lúc 6 giờ sáng cùng
ngày. Trung Quốc điều tới đây thêm 2 sư đồn từ Đồng Đăng và Lộc Bình (phía đơng nam
Lạng Sơn), tiếp tục đưa thêm quân mới từ Trung Quốc thâm nhập Việt Nam để tăng viện.
Tại Lạng Sơn, các Sư đoàn 3 và 337 của Việt Nam đã tổ chức phòng thủ chu đáo và
phản ứng mãnh liệt trước các đợt tấn công lớn của quân Trung Quốc. Từ ngày 2/3, Sư đoàn
337 trụ tại khu vực cầu Khánh Khê. Sư đoàn 3 chống trả lại 3 sư đoàn bộ binh 160, 161,

129 cùng nhiều xe tăng, pháo của Trung Quốc, tiến công trên một chiều dài 20 km từ xã
Hồng Phong, huyện Văn Lãng đến xã Cao Lâu, huyện Cao Lộc.
Suốt ngày 27, ở hướng Cao Lộc, sư đồn 129 Trung Quốc khơng phá nổi trận địa phịng
thủ của trung đoàn 141; ở hướng đường 1B, sư đoàn 161 bị trung đồn 12 ghìm chân; ở
hướng đường 1A, trung đoàn 2 vừa chặn đánh sư đoàn 160 từ phía bắc vừa chống lại cánh
quân vu hồi của sư đoàn 161 từ hướng tây bắc thọc sang. Nhưng 14 giờ ngày hơm đó, 1
tiểu đồn Trung Quốc bí mật luồn qua phía sau bất ngờ đánh chiếm điểm cao 800, nơi đặt
đài quan sát pháo binh của sư đoàn 3 Sao Vàng. Mất điểm cao 800, thế trận phòng ngự của
Việt Nam ở phía tây đường 1A từ Cốc Chủ đến điểm cao 417 bị chọc thủng.
Chiếm được điểm cao 800 và ga Tam Lung nhưng trong suốt các ngày từ 28/2 đến 2/3,
quân Trung Quốc vẫn không vượt qua được đoạn đường 4 km để vào thị xã Lạng Sơn, tuy
chúng đã dùng cho hướng tiến công này gần 5 sư đoàn bộ binh. Sau nhiều trận đánh đẫm
máu giành giật các điểm cao quanh Lạng Sơn mà có trận, qn phịng thủ Việt Nam chiến
đấu đến viên đạn cuối cùng, quân Trung Quốc bắt đầu bao vây thị xã Lạng Sơn ngày 2
tháng 3, sử dụng thêm sư đoàn 162 dự bị chiến dịch của quân đoàn 54 và dùng 6 sư đồn
tấn cơng đồng loạt trên nhiều hướng. Chiều ngày 4/3, một cánh quân Trung Quốc đã vượt
sông Kỳ Cùng, chiếm điểm cao 340 và vào tới thị xã Lạng Sơn, một cánh quân khác của
sư đoàn 128 Trung Quốc cũng chiếm sân bay Mai Pha, điểm cao 391 ở phía tây nam thị
xã.
18


Đến đây, phía Việt Nam đã điều các sư đồn chủ lực có xe tăng, pháo binh, khơng qn
hỗ trợ áp sát mặt trận, chuẩn bị phản cơng giải phóng các khu vực bị chiếm đóng. Qn
đồn 14 với các sư đồn 337, 327, 338 hầu như cịn ngun vẹn đang bố trí qn quanh thị
xã Lạng Sơn. Qn đồn 2, chủ lực của Quân đội Nhân dân Việt Nam đã tập kết sau lưng
Quân đoàn 14.
Tối ngày 4/3/1979, Bộ Tư lệnh Qn đồn 5 thơng qua và bắt đầu triển khai phương
án mở chiến dịch phản công. Cùng thời điểm này lực lượng tăng cường của Quân đoàn 1
cũng đã hồn tất triển khai vào vị trí chiến đấu trên tuyến Chi Lăng - Đồng Mỏ - Hữu Kiên

phía nam thị xã Lạng Sơn. Trung đoàn pháo binh 204 với 3 hệ thống (36 dàn phóng hỏa
tiễn 40 nịng BM-21) đã tập kết và lấy phần tử sẵn sàng khai hỏa. Quân đoàn 2 cũng thực
hiện chuyển quân thần tốc bằng cả đường biển, đường bộ, đường sắt và đường hàng không
bắt đầu từ ngày 6/3/1979 đến ngày 11/3/1979 những đơn vị đầu tiên của Quân đoàn gồm
Sư đoàn bộ binh 304 (đồn Bến Hải), Lữ đồn phịng khơng 673, tiểu đoàn trinh sát đã về
tới Hà Nội.
2.5.3 Trung Quốc rút quân
Ngày 5/3/1979, Việt Nam ra lệnh tổng động viên toàn quốc. Cùng ngày, Bắc Kinh
tuyên bố đã “hoàn thành mục tiêu chiến tranh”, “chiến thắng” và bắt đầu rút quân.
Ngày 7/3, Việt Nam tuyên bố rằng để thể hiện “thiện chí hịa bình”, Việt Nam sẽ cho
phép Trung Quốc rút quân. Bộ Quốc phòng Việt Nam quyết định cho dừng chiến dịch phản
công đã thông qua ngày 4/3.
Mặc dù Trung Quốc tuyên bố rút quân nhưng chiến sự vẫn tiếp diễn ở một số nơi dọc
biên giới 6 tỉnh phía Bắc. Ngày 18/3/1979, Trung Quốc rút hết quân khỏi biên giới Việt
Nam.
Mặc dù Trung Quốc tuyên bố rút quân, chiến sự vẫn tiếp diễn ở một số nơi. Dân
thường Việt Nam vẫn tiếp tục bị giết (vụ thảm sát ngày 9 tháng 3 tại thôn Đổng Chúc, xã
Hưng Đạo, huyện Hòa An, Cao Bằng, khi quân Trung Quốc đã dùng búa và dao giết 43
người, gồm 21 phụ nữ và 20 trẻ em, trong đó có 7 phụ nữ đang mang thai, rồi ném xác
xuống giếng hoặc chặt ra nhiều khúc rồi vứt hai bên bờ suối Trong thời gian chuẩn bị rút
quân, Trung Quốc còn phá hủy một cách có hệ thống tồn bộ các cơng trình xây dựng, từ
nhà dân hay cột điện, tại các thị xã, thị trấn Sapa, Đồng Đăng, Lạng Sơn,...)
19


2.5.4 Các hoạt động quân sự của Việt Nam sau đó
Để củng cố vùng biên giới, Việt Nam tiếp tục điều động qn chính quy lên phịng thủ
các vùng trọng điểm, tổ chức đánh trả các cuộc tập kích, tấn cơng có hệ thống nhằm giành
lại các điểm cao bị mất.
Để trả đũa, phía Quân đội Việt Nam cũng đã tổ chức các cuộc phản kích quy mơ lớn

đánh vào các thị trấn, thị xã, các huyện biên giới của Trung Quốc là Ma Lật Pha, Bằng
Tường, Ninh Minh, Hà Khẩu và Đơng Hưng. Sau đó rút qn về biên giới phòng thủ.
Ngày 1/3/1979, AFP và Tân Hoa Xã đều xác nhận có một cuộc đột kích vào phi trường
Ninh Minh trong tỉnh Quảng Tây, cách xa biên giới 40 km.
Các cuộc phản kích của Việt Nam vào đất Trung Quốc trong cuộc chiến được xem là
“nỗi nhục” của nước này khi mà từ ngày lập quốc, đây là lần đâu tiên và duy nhất Trung
Quốc bị tấn công, mà quốc gia tấn công lại là một nước nhỏ bé, thậm chí là cịn tấn cơng
sâu vào trong lãnh thổ Trung Quốc tới 40 km, lại có thể rút lui an toàn.
2.5.5 Chiến sự giai đoạn sau năm 1979
Sau ngày 18/3/1979, Trung Quốc vẫn còn để lại một bộ phận quân đội và chiếm đóng
trái phép một số cao điểm thuộc các tỉnh Lạng Sơn, Cao Bằng, Hà Tuyên, có nơi sâu vào
lãnh thổ Việt Nam từ 200 đến 300 mét.
Trong suốt thời kỳ từ năm 1979 đến năm 1989, dọc tuyến biến giới vẫn thường xuyên
xảy ra hàng loạt các cuộc xung đột vũ trang, biến toàn tuyến biên giới ln trong tình trạng
căng thằng. Một số cuộc xung đột lớn trong thời kỳ này là:
Cuộc tấn công vào Cao Bằng (1980)
Để gây sức ép lên Việt Nam nhằm buộc Việt Nam phải rút quân từ Campuchia về,
Trung Quốc tăng áp lực lên khu vực biên giới bằng cách triển khai nhiều quân đoàn đối
diện với biên giới Việt Nam.
Trong các ngày từ 28 tháng 6 cho tới 6 tháng 7, bên cạnh lớn tiếng chỉ trích Việt Nam
trên mặt ngoại giao, quân Trung Quốc liên tục bắn pháo vào lãnh thổ Việt Nam tại tỉnh Cao
Bằng. Đụng độ ở quy mô nhỏ cũng diễn ra trong thời gian sau đó, với 7 vụ việc xảy ra chỉ
riêng trong nửa đầu tháng 10.

20


Tuy nhiên Việt Nam cũng đã tăng cường lực lượng đồn trú tại biên giới, và Trung
Quốc khơng cịn có được ưu thế áp đảo về quân số như khi họ tiến hành chiến dịch tháng
2 năm 1979.

Cuộc tấn công các cao điểm ở Lạng Sơn và Hà Giang (1981)
Tháng 5, giao tranh ác liệt đột ngột bùng lên với việc qn Trung Quốc ở cấp trung
đồn tiến cơng đánh chiếm một dải đất hẹp ở huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn được phía
Việt Nam gọi là Cao điểm 400, còn Trung Quốc gọi là Pháp Tạp Sơn. Trên địa bàn tỉnh Hà
Tuyên, Trung Quốc tấn công và đánh chiếm một điểm cao chiến lược khác mang số hiệu
1688 vốn được Trung Quốc gọi là Khấu Lâm Sơn và một số vị trí lân cận. Giao tranh diễn
ra hết sức đẫm máu khiến hàng trăm người mỗi bên thiệt mạng. Hai trận đánh mở màn lần
lượt vào các ngày 5 và 7 tháng 5; riêng trận tại Cao điểm 400 kéo dài sang tới ngày 7 tháng
6 với một chuỗi các đợt phản cơng của phía Việt Nam nhằm giành lại ngọn đồi này. Để
biện minh cho các hoạt động quân sự này, Trung Quốc tuyên bố họ tấn công để đáp trả các
hành vi gây hấn của Việt Nam trong thời gian quý 1 năm đó.
Dù chiến cuộc bùng phát dữ dội, Trung Quốc thực sự không muốn leo thang và chỉ
dùng các lực lượng biên phịng chứ khơng huy động quân chủ lực cho các trận đánh. Các
quan sát viên phương Tây nhận định: “Dù tình hình căng thẳng tại biên giới gia tăng, khó
có khả năng diễn ra một “bài học” của Trung Quốc cho Việt Nam. Cái giá sẽ phải trả bằng
nhân mạng, tiền của và uy tín chính trị (của Trung Quốc) là quá đắt, đặc biệt là khi Việt
Nam đã tăng cường lực lượng quân chính quy tại biên giới và giành được ưu thế rõ rệt về
trang thiết bị”.
Xâm lấn biên giới ở Vị Xuyên – Hà Giang (1984)
Cuộc động độ ở Vị Xuyên có thể coi là cuộc chiến khốc liệt nhất trong toàn bộ thời
gian chiến sự.
Từ ngày 2 đến ngày 27 tháng 4 năm 1984, để hỗ trợ cho các lực lượng phiến quân tại
Campuchia, Trung Quốc tiến hành đợt pháo kích lớn nhất nhằm vào khu vực biên giới Việt
Nam kể từ sau năm 1979, với 60.000 quả đạn pháo bắn vào 16 huyện thuộc các tỉnh Lạng
Sơn, Cao Bằng, Hà Tuyên và Hoàng Liên Sơn. Phối hợp với cuộc pháo kích này là hàng
loạt đợt tấn cơng bộ binh ở cấp tiểu đồn vào các vị trí của Việt Nam trong ngày 6 tháng
4. Tại Hà Tuyên, trong tháng 4 đến tháng 7 năm 1984, quân Trung Quốc đánh vào dải đồi
thuộc huyện Vị Xuyên, mà Trung Quốc gọi là Lão Sơn, gần cột mốc biên giới số 13.
21



Trung Quốc mở màn cuộc tấn công lúc 5 giờ sáng ngày 28 tháng 4 năm 1984 sau một
đợt pháo kích ác liệt. Sư đồn 40 thuộc Qn đồn 14 của Trung Quốc vượt biên giới theo
bờ tây sông Lô, cịn Sư đồn 49 tấn cơng và đánh chiếm Cao điểm 1200. Lực lượng phòng
ngự Việt Nam bao gồm bộ binh từ Sư đoàn 313 và khẩu đội pháo binh từ Lữ đoàn pháo
binh 168 đành rút lui khỏi các ngọn đồi này.
Quân Trung Quốc chiếm được ấp Na La và các cao điểm 226, 685 và 468 tạo nên một
vùng lồi kéo dài khoảng 2,5 km hướng về phía Việt Nam. Vị trí này được bảo vệ bởi vách
đá dựng đứng có rừng bao phủ và dịng suối Thanh Thủy ở phía nam, chỉ có thể tiếp cận
được bằng cách băng qua khoảng đất trống thung lũng sông Lô ở phía đơng, và như vậy
rất thuận lợi cho phịng ngự.
Tại các nơi khác, chiến sự diễn ra giằng co từ ngày 28 tháng 4 cho tới 15 tháng 5, và
các cao điểm 1509 (Quốc gọi là Lão Sơn), 772, 233, 1200 (Giả Âm Sơn) và 1030 liên tục
đổi chủ. Từ ngày 15 tháng 5, phía Trung Quốc bước đầu kiểm soát được các ngọn đồi này;
đến ngày 12 tháng 6 và sau đó là 12 tháng 7, quân Việt Nam tổ chức phản cơng tái chiếm
các vị trí đã mất. Sau đó chiến sự dừng hẳn, chỉ có các cuộc chạm trán hoặc đọ pháo lẻ tẻ.
Giao tranh kéo dài dai dẳng, nhưng khơng có nơi nào qn Trung Quốc tiến sâu được
hơn vào lãnh thổ nước ta quá 5 km, dù quân đông hơn nhiều. Hai bên vẫn tiếp tục giành
giật các cao điểm này trong một loạt các đợt xung đột khác diễn ra cho đến sau năm 1986.
Theo cơng bố chính thức của Việt Nam vào tháng 6, chúng ta đã tiêu diệt một trung
đoàn và 8 tiểu đồn qn Trung Quốc, loại khỏi vịng chiến đấu 5.500 quân Trung Quốc.
Tới tháng 8, chúng ta tuyên bố nâng tổng số quân Trung Quốc bị loại ra khỏi vòng chiến
đấu lên đến 7.500 quân trong vòng 4 tháng. Trung Quốc tuyên bố loại khỏi vòng chiến
khoảng 2.000 qn Việt Nam, cịn về phía mình Trung Quốc có 939 lính và 64 dân cơng
chết trong vịng 5 tuần của chiến dịch tiến công Lão Sơn.
Trong cuộc chiến giành lại Vị Xuyên, Sư đoàn 356 đã chịu tổn thất nặng nề khi trong
một trận đánh có gần 600 binh sĩ thiệt mạng.
Chiến sự sau năm 1979 kéo dài dai dẳng tới năm 1989 mới kết thúc.

22



2.6 Kết quả chiến sự 1979
2.6.1 Thương vong và thiệt hại
2.6.1.1. Về phía Việt Nam
Theo VNExpress ngày 17/2/2015, các thị xã Lạng Sơn, Cao Bằng, thị trấn Cam
Đường bị hủy diệt hồn tồn, hàng chục nghìn người thiệt mạng trong đó có nhiều phụ
nữ và trẻ nhỏ; 400.000 gia súc bị giết và bị cướp; hàng chục nghìn ha hoa màu bị tàn phá.
Khoảng một nửa trong số 3.5 triệu dân các tỉnh biên giới phía Bắc bị mất nhà cửa, tài sản.
Hầu hết các thị xã, thị trấn mà Trung Quốc chiếm được đều bị phá hủy một cách có hệ
thống.
Tại thị xã Cao Bằng, quân Trung Quốc dùng thuốc nổ phá sập bất cứ cơng trình gì từ
cơng sở đến bưu điện, từ bệnh viện đến trường học, từ chợ đến cầu. Tại thị xã Cam Đường
trên bờ sơng Hồng, cách biên giới khoảng 10km, ngồi việc phá hủy thị xã, quân Trung
Quốc còn cho đốt cả mỏ apatit.
Những hoạt động này một phần nằm trong các phá hoại có kế hoạch và tổ chức với
mục đích đánh vào nền kinh tế Việt Nam, một phần do binh lính Trung Quốc sang Việt
Nam bị sốc vì sự khốc liệt, sức kháng cự của quân đội Việt Nam cũng như sự bất hợp tác,
xa lánh, chống đối của dân bản xứ. Giáo sư sử học Edward C. O’dowd tổng kết “người
Việt Nam rất yêu nước, thấm nhuần tư tưởng chính trị, giỏi chịu đựng, khơng dễ bị lung
lạc,…”.
Riêng tại mặt trận Vị Xuyên (Hà Giang), ngày 12/7/1984, trận mở màn chiến dịch
giành lại cao điểm 772 đã khiến hàng nghìn bộ đội ta hy sinh, trong đó Sư đồn 356 thiệt
hại nặng nề nhất, trong 1 trận mất khoảng 600 người. Chỉ để giữ được Vị Xuyên, theo
thống kê của Ban liên lạc cựu chiến binh, trong 10 năm (1979-1989), khoảng 4.000 bộ
đội hy sinh, hàng nghìn người bị thương, hơn 2.000 liệt sĩ chưa tìm thấy hài cốt.
Chiến tranh biên giới phía Bắc kéo dài suốt 10 năm. Nhiều đợt nhập ngũ diễn ra. Hàng
nghìn thanh niên Việt Nam tuổi 18 - 20 mãi mãi nằm lại biên cương Tổ Quốc. Đến nay,
chưa có tài liệu chính thức cơng bố tổng số thương vong của hai phía trong cuộc chiến.
Nhìn vào đây có thể thấy mức độ tàn nhẫn của Trung Quốc với những người dân vô tội.

“Dạy cho Việt Nam một bài học” theo Trung Quốc là làm hại hàng nghìn người dân của
một quốc gia khác!

23


×