TRƯỜNG ĐẠI HỌC CƠNG NGHIỆP THỰC PHẨM
TP HỒ CHÍ MINH
BÀI TẬP LỚN
Đề tài 02: Phân tích những chính sách cai trị của thực dân Pháp ở Việt Nam và thái
độ chính trị của các giai cấp và tầng lớp sau khi thực dân Pháp xâm lược. Liên hệ
thực tiễn về vai trị của giai cấp cơng nhân trong xã hội Việt Nam giai đoạn hiện
nay.
Ngày 18, tháng 12, TPHCM
MỤC LỤC
1.
2.
PHẦN MỞ ĐẦU.....................................................................................................................................1
1.1.
Bối cảnh quốc tế.............................................................................................................................1
1.2.
Bối cảnh trong nước.......................................................................................................................1
PHẦN NỘI DUNG.................................................................................................................................1
2.1.
Tình hình thế giới và Việt Nam cuối TK19- đầu TK20.............................................................1
2.1.1.
Tình hình thế giới...................................................................................................................1
2.1.2.
Sự chuyển biến về kinh tế, xã hội Việt Nam cuối TK19- đầu TK20................................6
2.2.
Chính sách cai trị của thực dân Pháp........................................................................................11
2.2.1.
Về kinh tế..............................................................................................................................11
2.2.2.
Về chính trị...........................................................................................................................14
2.2.3.
Về văn hóa, xã hội, giáo dục...............................................................................................16
2.3.
Thái độ chính trị của các giai cấp và tầng lớp sau khi thực dân Pháp xâm lược.................16
2.3.1.
Giai cấp địa chủ....................................................................................................................16
2.3.2.
Giai cấp nông dân................................................................................................................17
2.3.3.
Giai cấp công nhân..............................................................................................................17
2.3.4.
Giai cấp tư sản......................................................................................................................17
2.3.5.
Tầng lớp tiểu tư sản.............................................................................................................18
2.4.
Liên hệ thực tiễn về vai trị của giai cấp cơng nhân trong xã hội Việt Nam trong giai đoạn
hiện nay .....................................................................................................................................................18
3.
PHẦN KẾT LUẬN...............................................................................................................................21
4.
TÀI LIỆU THAM KHẢO...................................................................................................................21
1. PHẦN MỞ ĐẦU
1.1.Bối cảnh quốc tế
- Cuối thế kỷ 19, chủ nghĩa tư bản chuyển từ giai đoạn tự do cạnh tranh
sang giai đoạn chủ nghĩa đế quốc. Các nước tư bản đế quốc thực hiện
các chính sách: bên trong tăng cường bóc lột nhân dân lao động, bên
ngồi tăng cường xâm lược, áp bức nhân dân thuộc địa. Sự thống trị
của chủ nghĩa đế quốc đã làm cho cuộc sống của nhân dân lao động
trên toàn thế giới trở nên cơ cực. Mâu thuẫn giữa nhân dân thuộc địa
với chủ nghĩa thực dân ngày càng gay gắt. Phong trào giải phóng dân
tộc diễn ra mạnh mẽ ở các nước thuộc địa.
- Năm 1917, với thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga, chủ nghĩa
Mác - Lê-nin từ lý luận thành hiện thực, mở ra kỷ nguyên mới trong
lịch sử nhân loại; là ngọn đèn sáng cho các dân tộc bị áp bức vùng lên
giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người.
1.2.Bối cảnh trong nước
- Về chính trị, thực dân Pháp thực hiện chính sách thống trị, tước đoạt
quyền lực đối nội và đối ngoại của nhà nước, đây là chính sách
chun chế điển hình, đàn áp đẫm máu các thế lực phong kiến. Mọi
quyền tự do trong phong trào và hành động yêu nước của nhân dân
Việt Nam đều bị cấm. Chúng chia cắt ba nước Đông Dương, chia Việt
Nam thành ba kỳ (Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ) và thi hành luật lệ
riêng cho từng thời kỳ.
- Về kinh tế, thực dân Pháp cấu kết với giai cấp địa chủ, thực hiện
chính sách bóc lột dã man, cướp đoạt ruộng đất để xây dựng đồn
điền; cướp bóc tài ngun và đánh thuế vơ lý; xây dựng một số cơ sở
công nghiệp, đường xá, hệ thống cảng biển phục vụ chính sách khai
thác thuộc địa.
- Về văn hóa, thực dân Pháp thực hiện những chính sách ngu dân, che
giấu, ngăn cản ảnh hưởng của các nền văn hóa tiến bộ trên thế giới,
cổ vũ cho văn hóa độc hại, xuyên tạc lịch sử và các giá trị của văn
hóa Việt Nam, dung túng và duy trì các hủ tục lạc hậu.
2. PHẦN NỘI DUNG
2.1.Tình hình thế giới và Việt Nam cuối TK19- đầu TK20.
2.1.1. Tình hình thế giới.
- Từ nửa sau thế kỷ XIX, chủ nghĩa tư bản phương Tây chuyển
nhanh từ giai đoạn tự do cạnh tranh sang giai đoạn độc quyền
1
(giai đoạn đế quốc chủ nghĩa). Nền kinh tế hàng hóa phát triển
mạnh, đặt ra yêu cầu bức thiết về thị trường. Đó chính là ngun
nhân sâu xa dẫn tới những cuộc chiến tranh xâm lược các quốc
gia phong kiến phương Đông, biến các quốc gia này thành thị
trường tiêu thụ sản phẩm hàng hóa, mua bán nguyên vật liệu, khai
thác sức lao động và xuất khẩu tư bản của các nước đế quốc. Đến
năm 1914, các nước đế quốc Anh, Nga, Pháp, Đức, Mỹ, Nhật
chiếm một khu vực thuộc địa rộng 65 triệu km2 với số dân 523,4
triệu người (so với diện tích các nước đó là 16,5 triệu km2 và dân
số 437,2 triệu). Riêng diện tích các thuộc địa của Pháp là 10,6
triệu km2 với số dân 55,5 triệu (so với diện tích nước Pháp là 0,5
triệu km2 và dân số 39,6 triệu người)1. Chủ nghĩa đế quốc xuất
khẩu tư bản, đầu tư khai thác thuộc địa đem lại lợi nhuận tối đa
cho tư bản chính quốc, trước hết là tư bản lũng đoạn; làm cho
quan hệ xã hội của các nước thuộc địa biến đổi một cách căn bản.
Các nước thuộc địa bị lôi cuốn vào con đường tư bản thực dân.
Sự áp bức và thơn tính dân tộc của chủ nghĩa đế quốc càng tăng
thì mâu thuẫn giữa dân tộc thuộc địa thực dân càng gay gắt, sự
phản ứng dân tộc của nhân dân các thuộc địa càng quyết liệt. Và
chính bản thân chủ nghĩa đế quốc xâm lược, thống trị các thuộc
địa lại tạo cho các dân tộc bị chinh phục những phương tiện và
phương pháp để tự giải phóng. Sự thức tỉnh về ý thức dân tộc và
phong trào đấu tranh dân tộc để tự giải phóng khỏi ách thực dân,
lập lại các quốc gia dân tộc độc lập trên thế giới chịu tác động sâu
sắc của chính sách xâm lược, thống trị của chủ nghĩa đế quốc
thực dân. Đầu thế kỷ XX, trên phạm vi quốc tế, sự thức tỉnh của
các dân tộc châu á cùng với phong trào dân chủ tư sản ở Đông Âu
bắt đầu từ Cách mạng 1905 ở Nga đã tạo thành một cao trào thức
tỉnh của các dân tộc phương Đông. Hàng trăm triệu người hướng
về một cuộc sống mới với ánh sáng tự do.Năm 1917, Cách mạng
Tháng Mười Nga thành cơng. Đối với nước Nga, đó là cuộc cách
mạng vô sản, nhưng đối với các dân tộc thuộc địa trong đế quốc
Nga thì đó cịn là một cuộc cáchmạng giải phóng dân tộc, bởi vì
trước cách mạng "nước Nga là nhà tù của các dân tộc". Cuộc cách
mạng vô sản ở nước Nga thành công, các dân tộc thuộc địa của đế
quốc Nga được giải phóng và được hưởng quyền dân tộc tự
quyết, kể cả quyền phân lập, hình thành nên các quốc gia độc lập
2
và quyền liên hợp, dẫn đến sự ra đời của Liên bang Cộng hồ xã
hội chủ nghĩa Xơ viết (1922). Cách mạng Tháng Mười đã nêu
tấm gương sáng về sự giải phóng dân tộc bị áp bức đã "mở ra
trước mắt họ thời đại cách mạng chống đế quốc, thời đại giải
phóng dân tộc"1. Nó làm cho phong trào cách mạng vô sản ở các
nước tư bản chủ nghĩa phương Tây và phong trào giải phóng dân
tộc ở các nước thuộc địa phương Đơng có quan hệ mật thiết với
nhau trong cuộc đấu tranh chống kẻ thù chung là chủ nghĩa đế
quốc. Tháng 3 - 1919, Quốc tế Cộng sản được thành lập. Tại Đại
hội II của Quốc tế Cộng sản (1920), Sơ thảo lần thứ nhất những
luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của V.I. Lênin
được công bố. Luận cương nổi tiếng này đã chỉ ra phương hướng
đấu tranh giải phóng các dân tộc bị áp bức. Với thắng lợi của
Cách mạng Tháng Mười Nga và sự ra đời của Quốc tế Cộng sản,
nhiều đảng cộng sản trên thế giới đã được thành lập. Tình hình
thế giới đầy biến động đó đã ảnh hưởng mạnh mẽ đến Việt Nam.
- Thế kỷ XX là một thế kỷ của bạo lực tột độ, được chứng kiến
bởi những năm 1914 và 1939 với sự bùng nổ của Chiến tranh
thế giới thứ nhất và sự bùng nổ của Chiến tranh thế giới thứ
hai. Tuy nhiên, trong cùng thế kỷ đó, cũng có những bước ngoặt
về bất bạo động đáng chú ý, như đã chứng kiến bằng “cuộc cách
mạng hịa bình” năm 1989, được thực hiện phần lớn mà không
đổ máu mặc dù kỳ vọng về sự tàn bạo thường đi kèm với việc
lật đổ một chế độ chính trị. Hai cuộc chiến tranh thế giới và sự
sụp đổ của đế chế Liên Xô không phải của Đức mà là những sự
kiện của Châu Âu. Tuy nhiên, người Đức chắc chắn đóng một
vai trị quyết định trong cả ba ngày, và ở mức độ thích hợp rằng
ba ngày này chủ yếu là những năm tưởng nhớ của người Đức.
- Năm 1914, người Đức cũng đóng một vai trị quyết định trong
việc bùng nổ Chiến tranh thế giới thứ nhất: khơng phải vì chính
sách của Đức chắc chắn muốn cuộc chiến này, như một số nhà
nghiên cứu tuyên bố, mà vì một số kết luận và quyết định của
họ đã góp phần biến cuộc xung đột thành một cuộc chiến nhấn
chìm tồn bộ Châu Âu. Người Đức có trách nhiệm đặc biệt
trong việc biến một cuộc xung đột khu vực thành Đại chiến do
vị trí địa chính trị của họ ở trung tâm lục địa: họ là cường quốc
mà các chính sách của họ có thể tập trung hoặc tách biệt nhiều
3
cuộc xung đột - đang hoạt động và không hoạt động - ở châu
Âu. Thậm chí hơn cả các quyết định chính trị, chính kế hoạch
quân sự của Đế chế Đức vào mùa hè năm 1914 đã dẫn đến một
cuộc xung đột hạn chế ở Balkan trở thành một cuộc chiến nhấn
chìm tồn bộ lục địa.
- Chiến tranh thế giới thứ nhất bao gồm (ít nhất) ba cuộc xung đột
chồng chéo, cùng nhau đóng một vai trị quan trọng trong việc
đảm bảo rằng cuộc chiến này phá vỡ mọi ranh giới không gian
và không thể kết thúc bằng các cuộc đàm phán chính trị. Do
thời gian tồn tại lâu dài, nó đã ăn sâu vào trật tự chính trị và cấu
trúc xã hội của châu Âu và cuối cùng phá hủy nó từ bên
trong. Một hệ quả của điều này là việc tưởng nhớ thông thường
của người châu Âu hầu như khơng thể xảy ra và nói một cách dễ
hiểu, ba nhóm tưởng nhớ đã hình thành: nhóm những người
tưởng nhớ chiến tranh như một chiến thắng; nhóm của những
người tưởng niệm hàng triệu người chết ở mọi phía trong u sầu
và đau buồn; và cuối cùng là nhóm của những người mà cuộc
chiến là bước quyết định đối với sự “tái sinh thành một quốc
gia-dân tộc” của họ và những người được tưởng niệm, do đó, sự
khởi đầu của nó ít quan trọng hơn sự kết thúc của nó. Những
hình thức tưởng nhớ khác nhau này về “thảm họa lớn của thế kỷ
XX” là một phần của sự đa dạng của châu Âu và không thể
được chuyển thành một hình thức kỷ niệm chung của châu Âu
chỉ bằng nét bút chính trị.
- Khi phân tích kỹ hơn, Chiến tranh thế giới thứ nhất - chủ yếu là về quyền bá chủ chính trị đối với Tây và Trung Âu. Xung đột
này đã nổ ra giữa Đức và Pháp. Sau khi thống nhất nước Đức
vào năm 1871, Đế chế Đức đã đạt được vị thế bán bá chủ được
củng cố bởi sự phát triển kinh tế năng động của nó từ cuối thế
kỷ XIX. Mặt khác, Pháp lại bị bỏ trống giữa việc mở rộng đế
chế thuộc địa và ký ức về vai trị chủ yếu trước đây của mình ở
châu Âu. Tuy nhiên, vào mùa hè năm 1914, cuộc xung đột này
khơng hoạt động. Chỉ riêng nó sẽ khơng dẫn đến chiến tranh.
- Một cuộc xung đột thứ hai đã nổ ra trong cuộc chiến này xoay
quanh câu hỏi về trật tự thế giới trong tương lai. Điều này đã trở
thành một phần của chương trình nghị sự chính trị sau sự suy
tàn tương đối của Đế chế Anh. Trong thế kỷ mười tám, Vương
quốc Anh đã hoàn thành vai trị của cảnh sát thế giới, một vị trí
dựa trên quyền lực thống trị các đại dương và vai trị của nó
trong việc duy trì cán cân quyền lực ở châu Âu. Người Anh đã
4
bảo vệ vị trí này trong hai cuộc chiến tranh chống lại người
Pháp và củng cố nó trong cuộc Cách mạng Cơng nghiệp. Tuy
nhiên, trong khi đó, các đối thủ cạnh tranh mới đã xuất hiện như
Mỹ, Nhật Bản và cuối cùng nhưng không kém phần quan trọng
là Đức. Do đó, có thể thấy trước rằng Anh sẽ khơng thể duy trì
vị trí này mãi mãi. Bởi vì người Đức là những người năng nổ
nhất trong việc hiện đại hóa và mở rộng hải quân của họ, họ trở
thành đối thủ chính, mặc dù Hoa Kỳ là đối thủ thực sự về tiềm
lực. Trước năm 1914, người ta không thực sự rõ ràng về nơi mà
các liên minh và ranh giới phân chia sẽ kết tinh trong cuộc xung
đột về trật tự thế giới trong tương lai, nhưng mọi người đều biết
rằng ít nhất hai trong số năm cường quốc thống trị châu Âu sẽ
khơng cịn vai trị gì ở một Cấp độ toàn cầu. Áo-Hungary là ứng
cử viên đầu tiên ở đây, nhưng ai là người thứ hai? Đức, Pháp hoặc có thể là Nga? Cuộc xung đột này cũng im lặng hơn là sôi
động vào mùa hè năm 1914. nhưng mọi người đều nhận thức
được rằng ít nhất hai trong số năm cường quốc thống trị châu
Âu sẽ khơng cịn vai trị ở cấp độ tồn cầu. Áo-Hungary là ứng
cử viên đầu tiên ở đây, nhưng ai là người thứ hai? Đức, Pháp hoặc có thể là Nga? Cuộc xung đột này cũng im lặng hơn là sôi
động vào mùa hè năm 1914. nhưng mọi người đều nhận thức
được rằng ít nhất hai trong số năm cường quốc thống trị châu
Âu sẽ khơng cịn vai trị ở cấp độ toàn cầu. Áo-Hungary là ứng
cử viên đầu tiên ở đây, nhưng ai là người thứ hai? Đức, Pháp hoặc có thể là Nga? Cuộc xung đột này cũng im lặng hơn là sôi
động vào mùa hè năm 1914.
- Tuy nhiên, về mặt chính trị gay gắt hơn, là câu hỏi thứ ba được
giải quyết trong cuộc chiến này, và các lựa chọn thay thế có thể
được đưa ra khơng có cách nào phù hợp với các liên minh quân
sự. Câu hỏi này liên quan đến tương lai chính trị của các đế chế
lớn đa quốc gia, đa ngôn ngữ và đa tôn giáo ở Trung và Đông
Âu và Trung Đông. Đế chế Hapsburg, Đế chế Nga và Đế chế
Ottoman đang bị thách thức bởi khái niệm quốc gia đang lan
rộng từ Tây sang Đơng. Do đó, cuộc chiến này là về sự tồn tại
tiếp tục của họ và không có nghĩa là chỉ có một vài biên giới
phải được di chuyển hoặc vẽ lại.
- Chính sự bùng nổ của ba cuộc xung đột này đã cho phép Chiến
tranh thế giới thứ nhất trở thành thảm họa lớn của thế kỷ XX
đối với châu Âu.
5
- Lịch sử của châu Âu trong thế kỷ XX có thể được mơ tả như
một cuộc kiểm tra liên tục về ba lĩnh vực xung đột này, một
trong đó một số cố gắng điều chỉnh kết quả của Chiến tranh thế
giới thứ nhất, trong khi những người khác tìm cách chấp nhận
những kết quả này và định hình trật tự chính trị mới và ổn
định. Theo đó, sự khởi đầu của Chiến tranh thế giới thứ hai có
thể được hiểu là một nỗ lực nhằm điều chỉnh lại kết quả của
Chiến tranh thế giới thứ nhất như đã được quy định trong Hiệp
ước Versailles. Việc sửa đổi này không chỉ bắt đầu vào năm
1939, mà đã bắt đầu vào năm 1938 với việc "Anschluss" của Áo
vào Đế chế Đức và sự hợp nhất của Sudetenland ngay sau
đó. Hiệp ước Hitler-Stalin lơi kéo Liên Xơ tham gia vào chính
sách sửa đổi này với tư cách là một bên hưởng lợi về địa chính
trị. Mặc dù chiến tranh đã trở thành một thảm họa chính trị và
đạo đức đối với nước Đức với tư cách là người khởi xướng
chính, về mặt chính trị, nó đã kết thúc khá thành cơng đối với
Liên Xô, bất chấp những hy sinh to lớn của nó: nó khơng chỉ
thành cơng trong việc chuyển biên giới lãnh thổ của mình sang
các biên giới được đặt ra trong Hiệp ước Hitler-Stalin, mà thậm
chí cịn có thể mở rộng vùng ảnh hưởng của mình tới Elbe và
khu rừng Bohemian. Kết quả là, châu Âu bị chia cắt thành Đông
và Tây. Trung Âu với tư cách là trọng tâm của quyền lực chính
trị đã khơng cịn tồn tại.Thoạt nhìn, việc xóa bỏ Trung Âu khỏi
bản đồ chính trị là kết quả của thất bại quân sự của Đế chế Đức
trong Chiến tranh thế giới thứ hai; Tuy nhiên, khi xem xét kỹ
hơn, nó cũng là hậu quả của sự suy thoái đạo đức của nước Đức
do hậu quả của tội ác chiến tranh và tội ác diệt chủng. Trong
một thời gian dài, hai quốc gia kế nhiệm của Đế chế Đức là
Cộng hòa Liên bang Đức và Cộng hòa Dân chủ Đức đã né tránh
thảo luận về những tội ác này. Việc xem xét kỹ hơn năm 1939
khi bắt đầu Chiến tranh thế giới thứ hai vẫn còn là một vấn đề
nhức nhối đối với người Đức ngay cả ngày nay. Tuy nhiên, đã
có một cuộc điều tra ráo riết về Holocaust từ những năm 1960
cho đến nay. Đôi khi việc chia nước Đức thành hai quốc gia
trong các liên minh đối lập được coi là “sự trừng phạt chính
đáng” cho những tội ác mà người Đức đã gây ra.
2.1.2. Sự chuyển biến về kinh tế, xã hội Việt Nam cuối TK19- đầu TK20.
- Trong phong trào xâm lược thuộc địa của chủ nghĩa tư bản phương
Tây, từ năm 1858 thực dân Pháp bắt đầu tấn công vào chiếm đóng
Việt Nam. Sau khi xâm lược nước ta, thực dân Pháp đã thiết lập bộ
6
-
-
-
-
-
máy cai trị thực dân. Tiến hành những cuộc khai thác cướp đoạt tài
nguyên, bóc lột sức lao động rẻ mạt, mở rộng thị trường tiêu thụ
hàng hóa. -Trong phong trào xâm lược thuộc địa của chủ nghĩa tư
bản phương Tây, từ năm 1858 thực dân Pháp bắt đầu tấn cơng vào
chiếm đóng Việt Nam. Sau khi xâm lược nước ta, thực dân Pháp đã
thiết lập bộ máy cai trị thực dân. Tiến hành những cuộc khai thác
cướp đoạt tài nguyên, bóc lột sức lao động rẻ mạt, mở rộng thị
trường tiêu thụ hàng hóa.
Với sự ra đời của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, tình hình
kinh tế Việt Nam đã thay đổi: Quan hệ kinh tế ở nông thôn bị phá
vỡ, lập nên khu đô thị mới, trung tâm kinh tế….Nhưng thực dân
Pháp khơng du nhập hồn toàn phương thức tư bản chủ nghĩa vào
nước ta mà vẫn duy trì quan hệ kinh tế phong kiến. Kết hợp hình
thức bóc lộ tư bản chủ nghĩa và chế độ phong kiến vì lợi nhuận. Vì
vậy nước ta khơng thể phát triển bình thường lên chủ nghĩa tư bản,
nền kinh tế Việt Nam ở chu kỳ lạc hậu và lệ thuộc vào kinh tế Pháp
Về chính trị, họ tiếp tục theo đuổi chính sách chuyên chế với bộ
máy hà khắc nặng nề, tồn bộ quyền lực đều thâu tóm trong tay
các nhà cầm quyền người Pháp. Chúng nhấn chìm tự do, dân chủ,
chúng thẳng tay đàn áp, khủng bố và nhấn chìm các cuộc đấu tranh
của nhân dân ta trong biển máu. Chia nước ta thành 3 thời kỳ, mỗi
thời kỳ thiết lập chế độ cai trị riêng và sát nhập ba kỳ này với Lào
và Campuchia để lập nên Liên bang Đơng Dương thuộc Pháp,
nhằm xóa tên nước ta trên bản đồ.
Về văn hóa, chúng đã triệt để thực hiện chính sách văn hóa nơ lệ,
dẫn đến tự ti và khuyến khích các hoạt động mê tín dị đoan, đồi
trụy và trác táng. Mọi hoạt động yêu nước của nhân dân ta bị cấm
đoán. Chúng cố gắng ngắn chặn khơng cho nền văn hóa tiên tiến
trên thế giới vào Việt Nam để dễ thống trị.
Giai cấp nông dân chiếm khoảng 90% dân số, họ bị đế quốc, địa
chủ phong kiến và giai cấp tư sản áp bức, bốc lột nặng nề. Ruộng
đất củng nông dân bị tư bản thực dân chiếm đoạt. Chính sách độc
quyền kinh tế, mua thấp bán cao, thuế co, đã đẩy nông dân vào con
đường bần cùng khơng lối thốt
Vì bị mất ruộng đất, nơng dân có mâu thuẫn với đế quốc và phong
kiến, đặc biệt sâu sắc nhất với bọn đế quốc và bọn tay sai phản
động. Cả hai đều đòi độc lập dân tộc và có được rộng đất. Giai cấp
7
-
-
-
-
-
-
nông dân khi được tổ chức lại và do đội tiên phong cách mạng lãnh
đạo sẽ có vai trị vơ cùng quan trọng trong cuộc đấu tranh giành
độc lập, tự do của dân tộc Việt Nam
Giai cấp tư sản hình thành trong quá trình khai thác thuộc địa của
bọn thống trị thực dân Pháp. Trước chiến tranh thế giới thứ nhất, tư
sản Việt Nam chỉ là tầng lớp nhỏ bé cịn sau chiến tranh đã hình
thành giai cấp rõ rệt và được ra đời dưới sự áp bức của Pháp
Giai cấp cơng nhân là sản phẩm trực tiếp của chính sách bóc lột
thuộc địa của Pháp. Trong cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất
của đế quốc Pháp, giai cấp công nhân đầu tiên xuất hiện vào cuối
thế kỷ 19. Đến cuộc khai thác thuộc địa lần thứ hai, giai cấp cơng
nhân đã phát triển nhanh chóng
Giai cấp cơng nhân Việt Nam có chung những đặc điểm của giai
cấp cơng nhân quốc tế và củng có những điểm riêng như phải chịu
ba tầng lớp áp bức, bốc lột.Sinh ra và lớn lên trên đất nước có
nhiều truyền thống văn hóa tốt đẹp, đặc biệt là truyền thống yêu
nước chống giặc ngoại xâm nên sớm là quen với những tinh hoa
văn hóa tiên tiến trong trài lưu tư tưởng của thời đại cách mạng.
Giai cấp công nhân Việt Nam là lực lượng xã hội tiến bộ tiêu biểu
cho phương thức sản xuất mới, tiến bộ có tổ chức kỷ luật cao,có
tinh thần cách mạng và bản lĩnh dân tộc
Tóm lại chính sách thống trị của thực dân Pháp đối với Việt Nam
và Đơng Dương nói là một chính sách chun chế về chính trị,
nặng nề bóc lột kinh tế để đạt được lợi ích kinh tế tối đa.Việt Nam
đã và đang có những thay đổi sâu sắc về chính trị, kinh tế, văn hóa,
xã hội. Việt Nam đã chuyển từ một xã hội phong kiến thuần túy
sang một xã hội thuộc địa.
Trong chế độ thuộc địa của thực dân Pháp ở Việt Nam có những
mâu đan xen, nhưng mâu thuẫn cơ bản và chủ yếu vẫn tồn tại giữa
nhân dân Việt Nam với thực dân Pháp phản động và tay sai. Sự
thống trị, áp bức, bóc lột càng gia tăng, mâu thuẫn càng sâu sắc, sự
phản kháng và đấu tranh vì sự tồn tại của dân tộc càng phát triển
mạnh mẽ, gay gắt và đa dạng về nội dung. Ngược lại, mâu thuẫn
và đấu tranh giành quyền lợi của mọi giai cấp trong dân tộc được
giảm thiểu và không quyết liệt như đấu tranh dân tộc. Hồ Chí Minh
đã chỉ rõ vấn đề này ngay từ năm 1924 rằng ‘Cuộc đấu tranh giai
8
-
-
-
-
-
-
cấp không diễn ra như ở phương Tây, xung đột lợi ích được giảm
thiểu. Điều đó khơng thể phủ nhận’
Với sự ra đời của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, tình hình
kinh tế Việt Nam đã thay đổi: Quan hệ kinh tế ở nông thôn bị phá
vỡ, lập nên khu đô thị mới, trung tâm kinh tế….Nhưng thực dân
Pháp khơng du nhập hồn tồn phương thức tư bản chủ nghĩa vào
nước ta mà vẫn duy trì quan hệ kinh tế phong kiến. Kết hợp hình
thức bóc lộ tư bản chủ nghĩa và chế độ phong kiến vì lợi nhuận. Vì
vậy nước ta khơng thể phát triển bình thường lên chủ nghĩa tư bản,
nền kinh tế Việt Nam ở chu kỳ lạc hậu và lệ thuộc vào kinh tế Pháp
Về chính trị, họ tiếp tục theo đuổi chính sách chuyên chế với bộ
máy hà khắc nặng nề, toàn bộ quyền lực đều thâu tóm trong tay
các nhà cầm quyền người Pháp. Chúng nhấn chìm tự do, dân chủ,
chúng thẳng tay đàn áp, khủng bố và nhấn chìm các cuộc đấu tranh
của nhân dân ta trong biển máu. Chia nước ta thành 3 thời kỳ, mỗi
thời kỳ thiết lập chế độ cai trị riêng và sát nhập ba kỳ này với Lào
và Campuchia để lập nên Liên bang Đông Dương thuộc Pháp,
nhằm xóa tên nước ta trên bản đồ.
Về văn hóa, chúng đã triệt để thực hiện chính sách văn hóa nơ lệ,
dẫn đến tự ti và khuyến khích các hoạt động mê tín dị đoan, đồi
trụy và trác táng. Mọi hoạt động yêu nước của nhân dân ta bị cấm
đốn. Chúng cố gắng ngắn chặn khơng cho nền văn hóa tiên tiến
trên thế giới vào Việt Nam để dễ thống trị.
Giai cấp nông dân chiếm khoảng 90% dân số, họ bị đế quốc, địa
chủ phong kiến và giai cấp tư sản áp bức, bốc lột nặng nề. Ruộng
đất củng nơng dân bị tư bản thực dân chiếm đoạt. Chính sách độc
quyền kinh tế, mua thấp bán cao, thuế co, đã đẩy nông dân vào con
đường bần cùng không lối thốt
Vì bị mất ruộng đất, nơng dân có mâu thuẫn với đế quốc và phong
kiến, đặc biệt sâu sắc nhất với bọn đế quốc và bọn tay sai phản
động. Cả hai đều địi độc lập dân tộc và có được rộng đất. Giai cấp
nông dân khi được tổ chức lại và do đội tiên phong cách mạng lãnh
đạo sẽ có vai trị vơ cùng quan trọng trong cuộc đấu tranh giành
độc lập, tự do của dân tộc Việt Nam
Giai cấp tư sản hình thành trong quá trình khai thác thuộc địa của
bọn thống trị thực dân Pháp. Trước chiến tranh thế giới thứ nhất, tư
9
-
-
-
-
-
sản Việt Nam chỉ là tầng lớp nhỏ bé còn sau chiến tranh đã hình
thành giai cấp rõ rệt và được ra đời dưới sự áp bức của Pháp
Giai cấp cơng nhân là sản phẩm trực tiếp của chính sách bóc lột
thuộc địa của Pháp. Trong cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất
của đế quốc Pháp, giai cấp công nhân đầu tiên xuất hiện vào cuối
thế kỷ 19. Đến cuộc khai thác thuộc địa lần thứ hai, giai cấp cơng
nhân đã phát triển nhanh chóng
Giai cấp cơng nhân Việt Nam có chung những đặc điểm của giai
cấp cơng nhân quốc tế và củng có những điểm riêng như phải chịu
ba tầng lớp áp bức, bốc lột.Sinh ra và lớn lên trên đất nước có
nhiều truyền thống văn hóa tốt đẹp, đặc biệt là truyền thống yêu
nước chống giặc ngoại xâm nên sớm là quen với những tinh hoa
văn hóa tiên tiến trong trài lưu tư tưởng của thời đại cách mạng.
Giai cấp công nhân Việt Nam là lực lượng xã hội tiến bộ tiêu biểu
cho phương thức sản xuất mới, tiến bộ có tổ chức kỷ luật cao,có
tinh thần cách mạng và bản lĩnh dân tộc
Tóm lại chính sách thống trị của thực dân Pháp đối với Việt Nam
và Đơng Dương nói là một chính sách chun chế về chính trị,
nặng nề bóc lột kinh tế để đạt được lợi ích kinh tế tối đa.Việt Nam
đã và đang có những thay đổi sâu sắc về chính trị, kinh tế, văn hóa,
xã hội. Việt Nam đã chuyển từ một xã hội phong kiến thuần túy
sang một xã hội thuộc địa.
Trong chế độ thuộc địa của thực dân Pháp ở Việt Nam có những
mâu đan xen, nhưng mâu thuẫn cơ bản và chủ yếu vẫn tồn tại giữa
nhân dân Việt Nam với thực dân Pháp phản động và tay sai. Sự
thống trị, áp bức, bóc lột càng gia tăng, mâu thuẫn càng sâu sắc, sự
phản kháng và đấu tranh vì sự tồn tại của dân tộc càng phát triển
mạnh mẽ, gay gắt và đa dạng về nội dung. Ngược lại, mâu thuẫn
và đấu tranh giành quyền lợi của mọi giai cấp trong dân tộc được
giảm thiểu và không quyết liệt như đấu tranh dân tộc. Hồ Chí Minh
đã chỉ rõ vấn đề này ngay từ năm 1924 rằng ‘Cuộc đấu tranh giai
cấp không diễn ra như ở phương Tây, xung đột lợi ích được giảm
thiểu. Điều đó khơng thể phủ nhận’
2.2.Chính sách cai trị của thực dân Pháp.
- Thực dân Pháp xâm lược nước ta năm 1858. Sau Hiệp ước Patros
(1884), nhà Nguyễn đầu hàng thực dân Pháp. Pháp bắt đầu khai
10
thác thuộc địa đầu tiên vào năm 1897, sau năm 1918 là dự án khai
thác thuộc địa thứ hai với quy mô và tốc độ lớn hơn lần trước. Sau
khi thực dân Pháp đặt gông cùm lên nước ta, chúng đã nhanh
chóng thiết lập một hệ thống chính trị cực kỳ phản động, chúng
bóc lột thuộc địa bằng mọi cách với mục tiêu cướp bóc, xuất khẩu
tư bản, bóc lột sức lao động và sức lao động. thị trường tiêu thụ:
2.2.1. Về kinh tế
- Thực dân Pháp thực hiện chính sách kinh tế thuộc địa phản động,
bảo thủ, biến nước ta thành thị trường tiêu thụ hàng hóa dư thừa và
cung cấp nguyên liệu:
Thực hiện chính sách độc quyền kinh tế trong mọi lĩnh vực
nông nghiệp, công nghiệp và thương mại.
Đặt ra nhiều loại thuế quân sự (thuế cá nhân, thuế chợ, thuế
phà ...)
Duy trì phương thức sản xuất phong kiến lạc hậu nhằm phát
triển tối đa chu kỳ lạc hậu của nền kinh tế quốc dân
Thực dân Pháp thiết lập một cách hạn chế phương thức sản
xuất tư bản chủ nghĩa.
- Bắt đầu từ năm 1897, thực dân Pháp thực hiện kế hoạch khai thác
thuộc địa lần thứ nhất, sau Chiến tranh thế giới thứ nhất (19141918), chúng tiến hành đầu tư tư bản với quy mơ lớn và nhanh
chóng vào Đơng Dương và thực hiện kế hoạch khai thác lần thứ
hai.
- Do sự ra đời của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, tình hình
kinh tế Việt Nam đã thay đổi:
Các quan hệ kinh tế nông thôn bị phá vỡ, các đô thị mới, các
trung tâm kinh tế và các khu định cư mới được hình thành.
Nhưng thực dân Pháp hồn tồn không du nhập phương thức
tư bản chủ nghĩa vào nước ta mà vẫn duy trì quan hệ kinh tế
phong kiến. Họ kết hợp giữa bóc lột tư bản chủ nghĩa và chế
độ phong kiến để thu lợi nhuận vượt mức. Vì vậy, Việt Nam
khơng thể phát triển bình thường lên chủ nghĩa tư bản, và
nền kinh tế Việt Nam luôn ở trong tình trạng lạc hậu, dựa
nhiều vào kinh tế Pháp.
11
Sau khi thực dân Pháp gơng cùm xiềng xích Việt Nam,
chúng đã bóc lột tài sản của nước ta. Cơ quan chủ quản được
thành lập. Chúng xây dựng nhà máy điện, nước, xi măng,
dệt may ..., xây đồn điền, mở rộng đường giao thông công
cộng để cướp đoạt tài nguyên và bóc lột sức lao động của
nhân dân ta.
Thực dân Pháp muốn biến nước ta thành thị trường tiêu thụ
hàng hóa, xăng dầu cho Pháp nhằm thu lợi tối đa cho tư bản
Pháp. Thời gian đầu, thực dân Pháp chỉ tập trung vào hai
lĩnh vực chính là nơng nghiệp và khai khống.
Về cơng nghiệp: Tập trung khai thác than và kim loại. Tuy
nhiên, Pháp chưa xây dựng nhà máy luyện kim ở Việt Nam,
và tất cả kim loại khai thác được đều được chuyển sang
Pháp. Hầu hết các công ty khai thác đều nằm trong tay các
công ty tư bản Pháp. Phương thức hoạt động là sử dụng lao
động giá rẻ để giảm thiểu chi phí sản xuất, thu lợi nhuận
cao.
Về nông nghiệp: Năm 1897, Pháp buộc nhà Nguyễn phải
tuyên thệ “nhường” quyền “khai khẩn đất hoang” cho họ.
Ngay sau đó, Pháp tăng cường chiếm đất và lập các đồn điền
lớn để trồng cao su, đây là loại cây kinh tế được Pháp coi
trọng lúc bấy giờ.
Về giao thông: Việc xây dựng hệ thống đường bộ hiện đại có
thể sử dụng lâu dài cho mục đích thương mại và quân sự.
Doanh nghiệp Việt Nam trở thành thị trường độc quyền của
tư bản Pháp, và Pháp độc quyền về thuế xuất nhập khẩu. Tất
cả hàng hóa của Việt Nam mà Pháp cần thì trước hết phải
xuất sang Pháp, không được xuất sang các nước khác, đối
với hàng của Pháp thừa kế hoặc hàng kém chất lượng so với
hàng của các nước khác thì Việt Nam vẫn phải mua hàng của
Pháp.
Thực hiện chính sách bóc lột, vơ vét tài ngun, bóc lột rẻ
mạt của cơng, mở rộng thị trường tiêu thụ hàng hoá của tư
bản Pháp, độc quyền về kinh tế để dễ bề ve vét, Kinh tế độc
quyền tạo điều kiện cho gia công, thuế khố, phân phối độc
quyền, duy trì hình thức bóc lột phong kiến, làm cho nền
12
kinh tế Việt Nam lạc hậu, làm cho nền kinh tế nước ta lệ
thuộc vào kinh tế Pháp.
- Đặc biệt, họ còn độc quyền về rượu, muối và thuốc phiện:
Về rượu: Trên thực tế, rượu được coi là rất quan trọng trong
đời sống văn hóa của bất kỳ xã hội nào, dù là văn minh hay
lạc hậu. Với sự ảnh hưởng của nền văn minh Nho giáo ở các
nước phương Đông, rượu đã trở thành một trong những yếu
tố quan trọng nhất trong đời sống văn hóa của người dân. Vì
vậy, hầu hết các lễ hội, đám cưới, đám tang, tế lễ, đồn tụ
gia đình, bạn bè, tiệc q, tiệc chiêu đãi đều sẽ có rượu. Ở
nước ta, rượu cũng rất quan trọng, trước đây làng nào cũng
có một hai gia đình sống dựa vào rượu để mưu sinh, rượu đã
trở thành một sản vật rất phổ biến và chưa bao giờ khan
hiếm. Nhà thờ La Mã và thực dân Pháp biết được tầm quan
trọng của rượu trong đời sống văn hóa của người Việt Nam,
quyết định độc quyền sản xuất và phân phối rượu bằng chính
sách cố hữu là kiểm sốt hồn tồn mọi ngành sinh hoạt xã
hội, rồi bắt nhân dân ta phải tiêu thụ cùng một lượng hàng
theo mục tiêu của họ. Dựa vào độc quyền sản xuất rượu
trong nước, thực dân Pháp không những thu lợi hàng năm
mà còn thừa cơ khống chế, đầu độc nhân dân ta.
Về muối: Muối là một trong những nhu cầu thiết yếu của
cuộc sống, đặc biệt là một sản phẩm vô cùng quan trọng
trong thực phẩm của người Việt, là ngun liệu vơ cùng cần
thiết trong q trình bảo quản và chế biến thực phẩm, ăn
uống và nấu nướng. Mắm, thịt ba chỉ, mắm ruốc, dưa cải
hay kim chi đều phải có muối. Bạn phải thêm muối vào
nước luộc cá, nước thịt, nấu gạo tẻ, nấu gạo nếp, cháo có
chất lỏng trong đó ăn. Tóm lại, món ăn nào cũng phải có
muối. Đây là lý do tại sao muối đã trở thành một sản phẩm
vô cùng quan trọng đối với người Việt Nam, giống như gạo.
Hơn nữa, ở nước ta khơng có mỏ muối nào.
Vì vậy, tất cả lượng muối tiêu thụ ở nước ta đều được sản
xuất bằng cách gạn nước biển, để nước biển bay hơi, muối
lắng đọng lại, sau đó gom vào rổ để bán. Do hoàn cảnh nảy
nở nên chỉ những vùng ven biển có bãi biển và đồng bằng lài
mới có điều kiện sản xuất muối. Bờ biển dốc khơng thích
13
hợp cho sản xuất muối. Những yếu tố này đã gây ra tình
trạng khan hiếm muối trên thị trường. Sau khi nắm được
những yếu tố quan trọng này, các nhà hoạch định chính sách
thuế của chính phủ Pháp-Vatican đã nghĩ ngay đến biện
pháp độc quyền phân phối muối. Thông qua chính sách thuế
vơ nhân đạo này, họ đã đánh cắp một số tiền khổng lồ từ
ngân sách của liên minh Pháp-Vatican, đủ để trả 50% tiền
lương của công chức ở Đông Dương.
Về thuốc phiện: Thuốc phiện được coi là sản phẩm vô cùng
nguy hại cho người hút và gia đình họ. Tuy nhiên, do nhân
dân ta bị ràng buộc bởi liên minh Pháp-Vatican nên chính
phủ tích cực nhập khẩu thuốc phiện, thiết lập cơ sở chế biến,
tổ chức hệ thống phân phối, khuyến khích mở cửa hàng, hút
thuốc và bán cơng khai cho người tiêu dùng, sau đó độc
quyền bán sản phẩm. Chính vì vậy, chính quyền đã tạo điều
kiện thuận lợi cho nhiều người, trong đó phần lớn là những
người giàu có, dễ bắt chước, nghiện ngập, hủy hoại cuộc
đời. Nói rộng ra, nếu có quá nhiều người trong một quốc gia
hút thuốc phiện, người dân của đất nước này sẽ khơng có ý
chí tự bảo vệ mình và họ sẽ bị người ngoài thao túng. Hậu
quả là đất nước sẽ sụp đổ, suy tàn, sớm muộn gì cũng rơi
vào cảnh lệ thuộc vào bên ngoài. Tuy nhiên, cho rằng ngồi
việc làm tiêu tan ý chí chiến đấu của dân tộc Việt Nam, Liên
minh Pháp-Vatican có chủ trương độc quyền nhập khẩu và
phân phối trái phép thuốc phiện để kiếm tiền cho bộ. Bộ
máy cai trị Đông Dương đã trả lương hậu hĩnh cho công
chức Pháp trong thể chế cai trị này, với mục đích khuyến
khích họ tích cực áp bức, bóc lột nhân dân ta và đầu độc
nhân dân ta.
2.2.2. Về chính trị
- Thực hiện chính sách chun chế về chính trị với bộ máy đàn áp
vơ cùng nặng nề.
- Dùng chính sách cai trị trực tiếp, duy trì bộ máy chính quyền
phong kiến từ trung ương xuống địa phương làm tay sai đắc lực
cho chúng
14
- Thực hiện chính sách chia để trị chúng chia đất nước ta ra thành 3
kỳ: Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ, với mỗi kỳ chúng lại thực hiện
một chế độ chính trị riêng
- Thủ tiêu mọi quyền dân chủ của nhân dân Việt Nam, đàn áp các
phong trào yêu nước của nhân dân ta.
- Chúng tiếp tục thi hành chính sách chuyên chế với bộ máy đàn áp
nặng nề. Mọi quyền hành đều thâu tóm trong tay các viên quan cai
trị người Pháp, từ toản quyền Đông Dương, thống đốc Nam Kỳ,
khâm sứ Trung Kỳ, thống sứ Bắc Kỳ, công sứ các tỉnh, đến các bộ
máy quân đội, cảnh sát, tồ án..., biến vua quan Nam triều thành bù
nhìn, tay sai.
- Chúng bóp nghẹt tự do, dân chủ, thẳng tay đàn áp, khủng bố, dìm
các cuộc đấu tranh của dân ta trong biển máu.
- Chúng tiếp tục thi hành chính sách chia để trị rất thâm độc, chia
nước ta làm ba kỳ, mỗi kỳ đặt một chế độ cai trị riêng và nhập ba
kỳ đó với nước Lào và nước Campuchia để lập ra liên bang Đông
Dương thuộc Pháp, xóa tên nước ta trên bản đồ thế giới. Chúng
gây chia rẽ và thù hận giữa Bắc, Trung, Nam, giữa các tơn giáo,
các dân tộc, các địa phương, thậm chí là giữa các dòng họ, giữa
dân tộc Việt Nam với các dân tộc trên bán đảo Đông Dương.
- Thực dân Pháp thành lập Liên bang Đông Dương, gồm Việt
Nam,Campuchia, Lào, đứng đầu là viên Toàn quyền người Pháp.
Thi hành chế độ chuyên chế, trực tiếp nắm mọi quyền hành: Dùng
chính sách "chia để trị": Thực dân Pháp chia rẽ 3 nước Đông
Dương, rồi lập ra xứ Đông Dương thuộc Pháp. ở VN, Pháp thực
hiện chia rẽ giữa 3 kỳ (theo chế độ cai trị khác nhau).
- Chúng chia rẽ người Kinh và các dân tộc khác, giữa miền xuôimiền núi, giữa các tôn giáo... Mỗi xứ gồm nhiều tỉnh, đứng đầu các
xứ và tinh là các viên quan người Pháp.Dưới tỉnh là phủ, huyện,
châu. Đơn vị hành chính cơ sở ở Việt Nam vẫn là làng xã, do các
chức tịch địa phương cai quản.
- Bộ máy chính quyền từ trung ương tới địa phương đều do thực dân
Pháp chi phối. Thủ tiêu mọi quyền tự do dân chủ, thẳng tay đàn áp
các phong trào yêu nước của nhân dân ta và khủng bố cấu kết với
địa chủ.
- Thực dân pháp tước bỏ quyền lực đối nội và đối ngoại của chính
quyền phong kiến nhà Nguyễn
2.2.3. Về văn hóa, xã hội, giáo dục.
15
- Thực dân Pháp triệt để thực hiện chính sách nơ dịch văn hố, gây
tâm lý tự ti, khuyến khích các hoạt động mê tín dị đoan. Mọi hoạt
động yêu nước của nhân dân ta đều bị ngăn cấm. Họ đã làm mọi
cách để che đậy và ngăn chặn ảnh hưởng của nền văn hóa tiến bộ
trên thế giới đối với Việt Nam, đồng thời thực hiện những chính
sách ngu xuẩn để dễ cai trị hơn.
- Thực dân Pháp đẩy mạnh chính sách giáo dục và văn hố thuộc
địa: dung túng và duy trì những hủ tục lạc hậu ...
- Cấm phá hoại bản sắc văn hóa truyền thống của dân tộc Việt Nam,
cấm du nhập văn hóa tiến bộ thế giới vào Việt Nam.
- Cho đến năm 1919, Pháp vẫn duy trì hệ thống giáo dục phong
kiến, nhưng tiếng Pháp được thêm vào một số kỳ thi nhất định. Sau
đó, do nhu cầu học tập của con em các quan chức thuộc địa và mở
các lớp học cho người dân địa phương để phục vụ cho những
người cai trị tương lai, chính quyền thực dân Pháp ở Đơng Dương
bắt đầu mở thêm nhiều trường học mới và mở một số cơ sở văn
hóa và y tế. .
- Kể từ đó, hệ thống giáo dục phổ thơng được chia thành ba cấp, đó
là:
Bậc Ấu học tập tại các làng xã, tập trung dạy chữ Hán và
tiếng phổ thông.
Bậc Tiểu học ở phủ, trọng điểm huyện dạy chữ Hán, tiếng
phổ thông, tiếng Pháp được xác định là môn học tự nguyện
Ở cấp trung học phổ thông của tỉnh, dạy tiếng Hoa, Quốc
ngữ và tiếng Pháp là môn học bắt buộc.
2.3.Thái độ chính trị của các giai cấp và tầng lớp sau khi thực dân Pháp
xâm lược
2.3.1. Giai cấp địa chủ
- Giai cấp địa chủ bị phân hóa , Một bộ phận địa chủ câu kết với
thực dân Pháp và làm tay sai đắc lực cho Pháp trong việc ra sức
đàn áp phong trào yêu nước và bóc lột nông dân . Một bộ phận
khác nêu cao tinh thần dân tộc khởi xướng và lãnh đạo các phong
trào chống Pháp và bảo vệ chế độ phong kiến, tiêu biểu là phong
trào Cần Vương . Một số trở thành lãnh đạo phong trào nông dân
chống thực dân Pháp và phong kiến phản động . Một bộ phận nhỏ
chuyển sang kinh doanh theo lối tư bản
2.3.2. Giai cấp nông dân
16
- Giai cấp nông dân chiếm số lượng đông đảo nhất (khoảng hơn
90% dân số), đồng thời là một giai cấp bị phong kiến, thực dân bóc
lột nặng nề nhất. Do vậy, ngồi mâu thuẫn giai cấp vốn có với giai
cấp địa chủ, từ khi thực dân Pháp xâm lược, giai cấp nơng dân cịn
có mâu thuẫn sâu sắc với thực dân xâm lược.“Tinh thần cách mạng
của nông dân không chỉ gắn liền với ruộng đất, với đời sống hằng
ngày của họ, mà cịn gắn bó một cách sâu sắc với tình cảm q
hương đất nước, với nền văn hóa hàng nghìn năm của dân tộc”.
Đây là lực lượng hùng hậu, có tinh thần đấu tranh kiên cường bất
khuất cho nền độc lập tự do của dân tộc và khao khát giành lại
ruộng đất cho dân cày, khi có lực lượng tiên phong lãnh đạo, giai
cấp nông dân sẵn sàng vùng dậy làm cách mạng lật đổ thực dân
phong kiến
2.3.3. Giai cấp công nhân
- Giai cấp công nhân Việt Nam được hình thành gắn với các cuộc
khai thác thuộc địa, với việc thực dân Pháp thiết lập các nhà máy,
xí nghiệp, cơng xưởng,khu đồn điền... Ngồi những đặc điểm của
giai cấp công nhân quốc tế, giai cấp công nhân Việt Nam có những
đặc điểm riêng vì ra đời trong hồn cảnh một nước thuộc địa nửa
phong kiến, chủ yếu xuất thân từ nông dân, cơ cấu chủ yếu là công
nhân khai thác mỏ, đồn điền, lực lượng còn nhỏ bé1, nhưng sớm
vươn lên tiếp nhận tư tưởng tiên tiến của thời đại, nhanh chóng
phát triển từ “tự phát” đến “tự giác”, thể hiện là giai cấp có năng
lực lãnh đạo cách mạng
2.3.4. Giai cấp tư sản
- Giai cấp tư sản Việt Nam xuất hiện muộn hơn giai cấp công
nhân.Được chi làm hai bộ phận . Một bộ phận gắn liền lợi ích với
tư bản Pháp, tham gia vào đời sống chính trị, kinh tế của chính
quyền thực dân Pháp, trở thành tầng lớp tư sản mại bản. Một bộ
phận là giai cấp tư sản dân tộc, họ bị thực dân Pháp chèn ép, kìm
hãm, bị lệ thuộc, yếu ớt về kinh tế. Vì vậy, phần lớn tư sản dân tộc
Việt Nam có tinh thần dân tộc, u nước nhưng khơng có khả năng
tập hợp các giai tầng để tiến hành cách mạng
2.3.5. Tầng lớp tiểu tư sản
- Tầng lớp tiểu tư sản (tiểu thương, tiểu chủ, sinh viên,…) bị đế
quốc, tư bản chèn ép, khinh miệt, do đó có tinh thần dân tộc, yêu
17
nước và rất nhạy cảm về chính trị và thời cuộc. Tuy nhiên, do địa
vị kinh tế bấp bênh, thái độ hay dao động, thiếu kiên định, do đó
tầng lớp tiểu tư sản không thể lãnh đạo cách mạng. Các sĩ phu
phong kiến cũng có sự phân hóa. Một bộ phận hướng sang tư
tưởng dân chủ tư sản hoặc tư tưởng vô sản. Một số người khởi
xướng các phong trào yêu nước có ảnh hưởng lớn
Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, Việt Nam đã có sự biến đổi rất quan trọngcả
về chính trị, kinh tế, xã hội. Chính sách cai trị và khai thác bóc lột của thực dân
Pháp đã làm phân hóa những giai cấp vốn là của chế độ phong kiến (địa chủ, nông
dân) đồng thời tạo nên những giai cấp, tầng lớp mới (công nhân, tư sản dân tộc,
tiểu tư sản) với thái độ chính trị khác nhau. Những mâu thuẫn mới trong xã hội
Việt Nam xuất hiện. Trong đó, mâu thuẫn giữa tồn thể dân tộc Việt Nam với thực
dân Pháp và phong kiến phản động trở thành mâu thuẫn chủ yếu nhất và ngày càng
gay gắt
2.4.Liên hệ thực tiễn về vai trò của giai cấp công nhân trong xã hội Việt
Nam trong giai đoạn hiện nay .
- Giai cấp công nhân nước ta là lực lượng đặc biệt quan trọng duy trì
và phát triển hoạt động sản xuất, tạo ra khối lượng lớn sản phẩm
cơng nghiệp, đóng góp chủ yếu vào ngân sách Nhà nước, góp phần
quan trọng tạo nên thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử trong 35
năm đổi mới.
Công nhân là lực lượng lao động trực tiếp thúc đẩy “Sản
xuất công nghiệp từng bước phục hồi, giá trị gia tăng ngành
cơng nghiệp, xây dựng tăng bình qn 6,9%/năm; tỷ trọng
công nghiệp chế biến, chế tạo trong cơ cấu công nghiệp
tăng… Giá trị ngành công nghiệp, xây dựng năm 2011 tăng
6,68%, năm 2012: 5,75%, năm 2013: 5,43%, năm 2014:
7,14%, năm 2015: 9,29%”
- Giai cấp công nhân nước ta đại diện cho phương thức sản xuất tiên
tiến.
- Trong những năm gần đây, phương thức sản xuất tiên tiến đã được
khởi sắc vượt bậc, điển hình là vào năm 2021, ghi nhận đã có thêm
nhiều phương thức đặc trưng theo từng vùng và từng chân đất. Các
hình thức gieo cấy tuy không mới như gieo thẳng, cấy hiệu ứng
hàng biên, hay cấy máy nhưng lại có ưu điểm vượt trội là giảm
18
trên 50% cơng lao động và chi phí sản xuất so với phương pháp
cấy lúa truyền thống. Trong đó, phải kể đến phương thức gieo cấy
lúa bằng phương pháp gieo thẳng, trong hơn 29 nghìn ha lúa xuân
của tỉnh năm nay được gieo cấy thì diện tích lúa gieo thẳng đã
chiếm gần 59% diện tích, tăng 10% so với vụ xuân 2020, tất cả 6
huyện, thị xã, thành phố đều có diện tích gieo thẳng trong đó
huyện Thanh Liêm, Lý Nhân, Bình Lục và thành phố Phủ Lý là
những địa phương có diện tích lúa gieo thẳng nhiều nhất, huyện
Thanh Liêm là trên 99 % diện tích, huyện Lý Nhân đạt trên 68%
diện tích. Cùng với gieo thẳng, cấy lúa bằng máy cũng đạt trên 600
ha, trong đó Huyện Kim Bảng 283 ha; huyện Duy Tiên 202 ha;
Bình Lục 120 ha. Máy cấy vào đồng ruộng đã giải quyết tốt việc
đẩy nhanh tiến độ thời vụ, vấn đề thiếu lao động, giảm chi phí sản
xuất. Bên cạnh gieo thẳng, cấy máy, điểm đặc biệt trong vụ xuân
2021 này là diện tích cấy lúa hiệu ứng hàng biên của tồn tỉnh đã
đạt gần 920 ha, cao nhất từ trước đến nay, huyện Bình Lục có diện
tích nhiều nhất trên 800 ha, huyện Kim Bảng 100 ha, và huyện Lý
Nhân là 11,5 ha. (Số liệu lấy từ đài phát thanh và truyền hình Hà
Nam)
Khơng những ở lĩnh vực nơng nghiệp, lĩnh vực công nghiệp
cũng cho thấy các công nhân đã sử dụng các phương thức
sản xuất tiên tiến như thế nào và giúp nước ta ngày càng đi
lên. Cụ thể, trong lĩnh vực khai thác và chế biến khoáng sản
tăng sản lượng than tồn ngành bình qn 9,4%/năm, đồng
thời giúp nâng cao chất lượng, giảm giá thành sản phẩm và
tạo ra các sản phẩm mới thay thế các sản phẩm nhập khẩu.
Theo đó, tỷ lệ cơ giới hóa trong khai thác hầm lò đã tăng
vượt bậc, từ 10% lên 80% trong những năm qua. Đáng chú
ý, là việc chế tạo thành công thiết bị, công nghệ thi công đào
giếng và trục tải giếng đứng ứng dụng cho mỏ than hầm lò
Núi Béo đã góp phần nâng cao năng lực kỹ thuật cho đội
ngũ các cán bộ nghiên cứu, kỹ sư, công nhân trong việc làm
chủ các vấn đề từ khâu thiết kế, lập quy trình cơng nghệ, chế
tạo thiết bị và thi cơng các cơng trình khai thác mỏ sâu.
Trong lĩnh vực năng lượng điện Các doanh nghiệp đã có khả
năng thiết kế chế tạo động cơ công suất đến 5MW, các
chủng loại biến áp đến 500 kV, chất lượng tương sản phẩm
19
của châu Âu, đã đưa Việt Nam trở thành một trong số ít
nước thuộc Đơng Nam Á có khả năng chế tạo máy biến áp
công suất lớn. Trong thời gian qua, các chính sách khoa học
và cơng nghệ cùng nhiều hoạt động hỗ trợ của Nhà nước, Bộ
Công Thương đã thúc đẩy hoạt động nghiên cứu, ứng dụng
khoa học và công nghệ trong phát triển của lĩnh vực công
nghiệp, cũng như từng doanh nghiệp. Nhờ đó, Nhiều mặt
hàng xuất khẩu của nước ta tính đến nay đã có vị trí quan
trọng trong xếp hạng thành tích xuất khẩu của thế giới như:
Dệt may (thứ 7 thế giới về xuất khẩu), da giày (xếp thứ 3 thế
giới về sản xuất, thứ 2 về xuất khẩu), điện tử (xếp thứ 12 thế
giới; trong đó, mặt hàng điện thoại di động đứng thứ 2 thế
giới), thủy sản (xếp thứ 4 thế giới), đồ gỗ (xếp thứ 5 thế
giới)… ( số liệu thuộc Báo cơng thương)
Có thể nói sự lớn mạnh của giai cấp công nhân là nhân tố
quan trọng để đưa công cuộc đổi mới đi vào chiều sâu, đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
- Giai cấp cơng nhân nước ta tăng nhanh về số lượng, đa dạng về cơ
cấu và ngành nghề.
Theo báo cáo của Tổng cục Thống kê năm 2020, hiện nay,
tổng số công nhân nước ta chiếm khoảng 13% số dân và
24% lực lượng lao động xã hội, bao gồm số công nhân làm
việc trong các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế
trong nước, đang làm việc theo hợp đồng ở nước ngoài và số
lao động giản đơn trong các cơ quan đảng, nhà nước, đồn
thể(6). Số lượng cơng nhân tăng nhanh chủ yếu ở các loại
hình doanh nghiệp tại những khu cơng nghiệp trọng điểm
như: Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Ninh, Vĩnh Phúc, Đà Nẵng,
thành phố Hồ Chí Minh, Bình Dương, Đồng Nai... ( số liệu
thuộc báo Lý luận chính trị).
- Giai cấp cơng nhân nước ta đang được trẻ hóa, trình độ học vấn,
chuyên môn nghề nghiệp từng bước được nâng lên.
Trình độ học vấn và trình độ chun mơn nghề nghiệp, có
khoảng 70% tổng số cơng nhân có trình độ trung học phổ
thơng, 27% có trình độ trung học cơ sở và 3% có trình độ
tiểu học. Cơng nhân có trình độ trung cấp chiếm 18%, trình
độ cao đẳng chiếm 7%, trình độ đại học chiếm 17%; cơng
20
nhân được đào tạo, đào tạo lại tại doanh nghiệp chiếm 48%.
Trong số gần 11 triệu người lao động đã qua đào tạo có
chứng chỉ, văn bằng hiện nay, thì trình độ đại học trở lên có
4,5 triệu người (chiếm 41%), trình độ cao đẳng có 1,6 triệu
người (chiếm 15%), trình độ trung cấp 2,9 triệu người
(chiếm 27,11%), trình độ sơ cấp có 1,8 triệu người (chiếm
16,4%) (số liệu thuộc báo Ban Quản lý khu kinh tế tỉnh
Quảng Trị).
3. PHẦN KẾT LUẬN
- Nhân dân có lịng u nước nồng nàn và tinh thần chiến đấu anh
dũng, có ý chí quyết tâm chống đế quốc, phong kiến, đấu tranh
giành lại độc lập cho Tổ quốc, đấu tranh giành lại những người chủ
chân chính cho mình.
- Đảng bộ đã kết hợp một cách sáng tạo các đường lối, chính sách
của trung ương đảng và Xứ uỷ Nam Kỳ vào điều kiện cụ thể của
địa phương để hướng dẫn nhân dân vùng lên làm cách mạng thắng
lợi.
- Tình hình khách quan thuận lợi: Nhật đầu hàng quân Đồng minh,
quân Nhật ở Mỹ Tho, Gị Cơng và chính phủ Nhật thua lỗ, bỏ
trống.
- Thắng lợi của nhân dân đã góp phần quan trọng vào thắng lợi toàn
diện của cách mạng Tháng Tám năm 1945: lật đổ ách thống trị của
bọn thực dân, chủ nghĩa phát xít; lật đổ chế độ quân chủ, mở ra kỷ
nguyên mới cho đất nước: độc lập, tự do và kỷ nguyên chủ nghĩa
xã hội; đồng thời cổ vũ, động viên nhân dân các nước đứng lên
chống thực dân, đấu tranh giành độc lập, tự do cho nhân dân.
4. TÀI LIỆU THAM KHẢO
/> /> /> />%91ng-tr%E1%BB%8B-va-khai-thac-thu%E1%BB%99c-d%E1%BB%8Ba-c
%E1%BB%A7a-th%E1%BB%B1c-dan-phap-d%E1%BB%91i-v%E1%BB
%9Bi-n%C6%B0%E1%BB%9Bc-ta-h%E1%BA%ADu-qu%E1%BA%A3-c
%E1%BB%A7/
21
/>
22