Tải bản đầy đủ (.pdf) (72 trang)

Huyền thoại con người Việt Nam - Võ Thị Sáu: Phần 2

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.03 MB, 72 trang )

5. MÙA XUÂN CHƯA KỊP ĐẾN
Những biến động trên chiến trường Đông
Dương trong những năm 1951 - 1952 đã để lại
nhiều dấu ấn trong chính sách trị tù của thực
dân Pháp.
Mùa hè năm 1951, tên quan hai Bécna Đờ
Lát, con trai đại tướng Đờ Lát đờ Tátxinhi (Jean
de Lattre de Tassigny) bị bắn chết trong chiến
dịch Hà Nam Ninh. Tháng Giêng năm 1952,
trung úy Lơcléc (Leclerc), con trai đại tướng
Lơcléc bị bắt sống trên phòng tuyến sông Đáy.
Quân Pháp sa lầy trên mặt trận Hòa Bình.
Tướng Đờ Lát đờ Tátxinhi, tổng chỉ huy kiêm
cao ủy Pháp ở Đông Dương về Pháp và từ trần.
Ngày 17-1-1952, Thủ tướng Pháp Étga Phô
(Edgar Faure) tuyên bố trước Quốc hội Pháp:
“Chiến tranh vẫn được thúc đẩy, mặc dù Đờ
Lát qua đời”.
Để tỏ rõ dã tâm thúc đẩy chiến tranh và
cũng là để trả thù cho những trận thua đau,
65


thực dân Pháp đã xử bắn hàng loạt chiến só
cách mạng. Riêng năm 1952, chúng đã xử bắn
35 người tại Côn Đảo, chiếm 56,4% số người bị
xử bắn tại đảo suốt 9 năm kháng chiến (19461954). Ngay trong tháng Giêng năm 1952, chúng
đã xử bắn ba đợt, tổng cộng 16 người, trong đó
có Võ Thị Sáu.
Những ngày cuối cùng ở Khám Chí Hòa,
Sáu vẫn học văn hóa, thêu thùa, ca hát. Kẻ run


sợ trước bản án tử hình lại là thực dân Pháp.
Chúng không dám xử tại Sài Gòn mà phải lén
lút đưa chị ra Côn Đảo hành hình. Vụ sát hại
trò Ơn hơn một năm trước đã làm cả Sài Gòn
phẫn nộ. Nửa triệu người xuống đường.
***
Bốn giờ sáng ngày 21-1-1952, bọn Pháp
còng tay Võ Thị Sáu đưa xuống chiếc hải vận
hạm đậu ở bến Bạch Đằng. Cùng ra Côn Đảo
chuyến ấy còn có 40 tù án chính trị và 3 tử tù
nữa. Võ Thị Sáu là người phụ nữ duy nhất và
trẻ tuổi nhất trong đoàn tù, tay mang còng,
chân bị xiềng chặt vào boong tàu. Áp tải chị
xuống tàu có cả một tiểu đội lính lê dương mũ
đỏ, bọn lính chuyên hành quyết tử tù. Những
người bạn tù nhìn Sáu xót xa, thương cảm. Họ
đều biết chuyến đi này chị sẽ vónh viễn không
trở về.
66


Trưa ấy, tàu neo tại Bãi Trước, Vũng Tàu.
Một chiếc canô nhỏ của sở hoa tiêu từ Cầu Đá
đưa linh mục và chánh án lên tàu. Sáu đưa mắt
nhìn đau đáu về dãy núi Châu Viên. Phía sau
dãy núi ấy là Đất Đỏ, quê hương chị. Mùa hoa
lêkima đang nở.
Tàu chạy suốt đêm, rạng sáng hôm sau thì
đến Côn Đảo và neo tại Đá Trắng, phía mũi
Cá Mập.

Ba hồi trống dài gióng lên từ Sở Lưới làm
toàn thể tù nhân Côn Đảo tỉnh giấc. Trống báo
có chuyến tàu đã cập đảo. Mấy tên thầy chú1
chạy lăng xăng khua tù nhân Sở Lưới dậy chuẩn
bị canô và cắt một kíp tù khổ sai Sở Chỉ Tồn
chuẩn bị ra dọn tàu.
Chỉ còn năm ngày nữa là Tết. Tù nhân Côn
Đảo bồn chồn. Tàu ra có thêm thực phẩm, Tết
tươi hơn một chút; sẽ có người được nhận thư
từ, tin tức hoặc bưu phẩm của gia đình. Nhưng
lần này họ bồn chồn còn vì một lẽ khác. Trước
đó năm ngày, một người tù làm bồi ở văn phòng
quản đốc đã thông báo cho Liên đoàn Tù nhân
kháng chiến Côn Đảo biết, trong danh sách
những người bị đưa ra đảo xử bắn trên chuyến
tàu này có thiếu nữ Võ Thị Sáu.
1. Giám thị người Vieät.

67


Liên đoàn Tù nhân kháng chiến chỉ thị cho
Ban Chấp hành Tù nhân khu Huỳnh Phan Hộ
(kíp tù làm bồi bếp, thư ký)1 tìm mọi cách tiếp
xúc với Võ Thị Sáu để động viên chị giữ vững
khí tiết lúc ra pháp trường, đồng thời tìm hiểu
hồ sơ của chị để làm bằng chứng tố cáo tội ác
thực dân Pháp. Võ Thị Sáu là người phụ nữ đầu
tiên và duy nhất trong lớp tù nhân kháng chiến
(1946 - 1954) bị đưa ra đảo và hành hình tại đây.

***
Rặng bàng ven Cầu Tàu đã rụng gần hết lá.
Gió chướng thổi từng cơn, quăng quật những
cành bàng khẳng khiu, trơ trụi. Người con gái
mảnh mai, khó nhọc bước lên những tảng đá gập
ghềnh mé Cầu Tàu. Theo sau chị là tốp lính lê
dương mũ đỏ, tên đại tá chánh án và linh mục.
Cả bọn theo ra để giết hại một người con gái bị
kết án tử hình từ lúc chưa đủ tuổi thành niên.
Đó là hình ảnh của “tự do, bình đẳng, bác ái” mà
thực dân Pháp nhân danh bảo hộ đất nước này.
Thiếu tá Giátty, giám đốc quần đảo và nhà
tù Côn Đảo đã chờ sẵn ở Cầu Tàu cùng một tiểu
đội lính Âu - Phi và một tốp giám thị Pháp. Hắn
1. Tù nhân kháng chiến thường lấy tên những người cộng
sản nổi tiếng hoặc các anh hùng liệt só đặt tên cho tổ chức
Liên đoàn Tù nhân kháng chiến ở các khám tù, sở tù như các
khu: Phạm Văn Đồng, Lê Duẩn, Trường Chinh, Võ Nguyên
Giáp, Huỳnh Phan Hộ, Thái Vaên Lung...

68


đứng nghiêm chào tên đại tá chánh án rồi gườm
gườm nhìn Võ Thị Sáu, hỏi:
- Nó đây?
- Nó đó!
Tên chánh án trả lời rồi nói nhỏ một câu gì
đó vào tai Giátty. Chúa đảo Giátty ra lệnh giải
Võ Thị Sáu về xà lim Sở Cò.

Chuông nhà thờ gióng lên một hồi dài. Linh
mục dừng bước làm dấu. Tượng Chúa Giêsu đặt
phía trước nhà thờ. Chúa nhân từ nhìn bọn đao
phủ giải người thiếu nữ về nơi hành hình. Bình
minh vừa hé lên, chiếu tia nắng ấm áp trên
gương mặt chị.
Năm ấy, Côn Đảo có 548 tù binh và 1.739 tù
án, phần đông là án chính trị. Tù binh bị giam
ở Banh III và một phần ở Banh II. Tù án tập
trung ở Banh I, một bộ phận ở Banh II và các
sở khổ sai. Tù án tử hình ở riêng một khám
trong Banh I. Nơi ấy trước đây đày ải những
người tù làm khổ sai nặng nhọc ở hầm xay lúa.
Chúa đảo Giátty không đưa Võ Thị Sáu về
banh mà đã ra lệnh giam chị tại xà lim Sở Cò,
cách ly hoàn toàn với khối tù nhân kháng chiến.
Ngay buổi sáng 22-1-1952, Ban Chấp hành
Liên đoàn Tù nhân kháng chiến Côn Đảo ở các
khu đã phổ biến chỉ thị của Liên đoàn về hình
69


thức phản đối cuộc hành hình Võ Thị Sáu, sẽ
diễn ra vào sáng ngày hôm sau (23-1-1952). Lần
này, Liên đoàn Tù nhân kháng chiến Côn Đảo
chủ trương nhiều hình thức phản đối, mạnh
mẽ và đồng loạt, bởi Võ Thị Sáu là người thiếu
nữ đầu tiên bị đưa ra hành hình ở Côn Đảo;
người thiếu nữ bị bắt và bị kết án từ lúc tuổi
vị thành niên.

Buổi trưa, người tù làm bồi của Sở Cò đưa
cơm vào xà lim. Anh chuyển lời chào của Đảo
ủy và Liên đoàn Tù nhân đến Võ Thị Sáu, động
viên chị nêu cao khí tiết trước kẻ thù và trước
cái chết. Võ Thị Sáu xúc động trả lời:
- Mấy anh yên tâm. Em đã chọn con đường
chiến đấu cho độc lập, tự do của dân tộc thì em
cũng sẽ biết chọn cho mình một cái chết xứng
đáng. Em gửi lời chào hết mấy anh.
Ba giờ chiều, vợ cò bảo người bồi mang cà
phê sữa và bánh ngọt vào xà lim cho Võ Thị
Sáu. Hai vợ chồng cò Vôn Pêtơ (Vol Peter)
đều là người Pháp gốc Đức. Vợ cò thường liếc
nhanh mỗi lần cánh cửa xà lim hé mở rồi bần
thần. Dường như cuộc hành quyết người thiếu
nữ trẻ tuổi này đã làm thức dậy trong lòng bà
một cảm xúc khó tả. Luật ở nước Pháp không
áp dụng án tử hình đối với phụ nữ và tuổi vị
thành niên.
70


Chiều ấy Võ Thị Sáu xin nước tắm gội. Người
bồi hỏi chị cần gì nữa không? Sáu tần ngần. Chị
chỉ ước ao được ra sân một lát. Người bồi nhanh
trí đến chỗ hai vợ chồng cò, lễ phép nói:
- Thưa ông bà! Người tử tù kia sớm mai bị
hành quyết. Cô ấy muốn xin ông bà một ân
huệ nhỏ.
- Cô ấy muốn gì? Vợ cò sốt sắng lên tiếng.

- Thưa bà, cô ấy muốn được vài phút ra sân
tắm nắng để được ngắm đất trời quê hương mình.
- Ồ...
Vợ cò thốt lên khe khẽ rồi nhìn chồng thỉnh
cầu. Bà ta muốn bằng quyền lực của chồng mình,
ban cho con người sắp từ giã cõi đời kia một
chút ân huệ. Bà nghó rằng việc ấy đâu có gì khó
khăn. Cò Vôn Pêtơ miễn cưỡng gật đầu với vợ
rồi quay ra nói với người tù làm bồi:
- Mười phút.
Võ Thị Sáu bước ra sân xõa tóc ra hong gió.
Tia nắng chiều yếu ớt rọi qua những nhánh bàng
gầy guộc, in trên nền cát những đốm màu vàng
nhạt. Vợ chồng cò và người bồi đứng ở hành
lang cạnh đó, không ai nói lời nào. Sáu dạo vài
bước đến bên khóm hoa dừa đất, ngắt một bông.
Hương sắc xuân sớm của đất trời đọng lại trên
nhành hoa bé bỏng ấy.
71


Vợ cò trở về phòng, úp mặt xuống giường thổn
thức. Gương mặt trẻ trung, hồn nhiên của người
thiếu nữ và nhánh hoa đồng nội khiến bà ta bối
rối. Bà ta linh cảm rằng chính nghóa thuộc về
người thiếu nữ này, thuộc về dân tộc này.
***
Màn đêm buông xuống. Hòn đảo tù âm u, dãy
phố tù vắng lặng. Thỉnh thoảng mới có bước
chân bọn lính đi tuần. Từ xà lim, một giọng

hát trẻ trung, sôi nổi cất lên. Võ Thị Sáu hát
suốt đêm, những bài hào hùng của thời kháng
chiến: Lên đàng, Cùng nhau đi hùng binh, Tiểu
đoàn 307...
Cò Vôn Pêtơ không ngủ. Hồi lâu hắn trở dậy
ra đốc gác. Vợ cò thao thức lắng nghe, mặc dù
bà ta chưa sõi tiếng Việt. Bà hiểu rằng những
giai điệu hào hùng ấy chứng tỏ người thiếu nữ
này và dân tộc này không dễ gì khuất phục.
Đêm ấy, tù nhân trong các khám đều họp.
Ban chấp hành các khu phổ biến tiểu sử tóm
tắt của chị Võ Thị Sáu mà Liên đoàn Tù nhân
kháng chiến Côn Đảo vừa gửi tới. Mỗi khám đều
cử người thảo đơn tố cáo cuộc hành hình phi
pháp của thực dân Pháp, gửi đến Liên đoàn Tù
nhân kháng chiến Côn Đảo để anh Tư Hà, Tổng
đại diện đấu tranh ngoại giao. Riêng kíp tù làm
thợ hồ (ở Khám 2 - Banh I) được Liên đoàn Tù
72


nhân giao nhiệm vụ đúc bia mộ Võ Thị Sáu. Họ
bàn kỹ phương án, quyết tâm đúc xong trong
ngày mai và đặt lên mộ chị vào lúc chiều tối.
Vợ con gác ngục cũng không ngủ. Họ túm
năm, tụm ba ở nhà này, nhà nọ, bàn tán về
cuộc hành hình đặc biệt này. Họ đồn rằng, cô
gái Việt Minh này có tài xuất quỷ nhập thần,
có tên ác ôn nào nổi lên trong vùng là cô xuất
hiện và trừng trị ngay.

Có người đọc báo nói rằng, thủ tướng Pháp
đã đưa bản án tử hình của cô ra Quốc hội Pháp
bàn suốt một ngày ròng, tranh luận nảy lửa.
Nhiều ý kiến phản đối, cho rằng hành hình phụ
nữ là trái với luật pháp nước Pháp và truyền
thống văn minh Pháp. Có người sợ rằng, cuộc
hành hình này sẽ dẫn đến những hậu quả xấu
đối với tình hình chính trị ở Pháp và chiến sự
ở Đông Dương. Việt Minh có thể trả thù, bắn tù
binh Pháp. Dân chúng có thể biểu tình, trong
tình trạng bị kích động có thể dẫn đến bạo
loạn... Nhưng cuối cùng thủ tướng Pháp bảo:
“Chiến tranh là chiến tranh. Để thắng trong
cuộc chiến tranh này, nước Pháp không từ một
thủ đoạn nào”.
Có người khoe đã nhìn rõ mặt cô Sáu ở sân
sau Sở Cò. Cô ấy dường như mới 15 tuổi. Trông
cô thật hiền, cặp mắt trong veo, nhưng nhìn vào
73


thấy lóe lên những ánh chớp. Cô ấy mới liếc
nhìn vợ cò mà bà ta đã xây xẩm mặt mày rồi.
Có người tò mò, dạn dó, rủ nhau sớm mai đi
xem cuộc hành hình.
***
Bốn giờ sáng ngày 23-1-1952, chủ Sở Cò áp
giải Võ Thị Sáu về văn phòng giám thị trưởng.
Chúa đảo, chánh án, đội lính hành quyết và
cố đạo đã chờ sẵn. Tên chánh án làm thủ tục

thi hành án trước sự chứng kiến của chúa đảo
Giátty.
Viên cố đạo ôn tồn lên tiếng:
- Bây giờ cha sẽ rửa tội cho con...
Võ Thị Sáu gạt phắt:
- Tôi không có tội! Nếu cha muốn rửa tội, xin
hãy rửa tội cho những kẻ sắp giết tôi đây.
- Lạy chúa! Trước khi chết con có ân hận gì
không?
- Tôi chỉ ân hận là chưa tiêu diệt hết bọn thực
dân cướp nước và tay sai bán nước.
- Lạy chúa tôi!
Cố đạo làm dấu và quay mặt đi trong khi bọn
lính còng tay giải Võ Thị Sáu ra pháp trường.
Gió chướng rít từng hồi. Bình minh chưa lên.
Mùa xuân chưa kịp đến.
74


Gác ngục, binh lính và vợ con họ lấp ló nghển
cổ trước cửa nhà, dọc theo dãy phố tù. Cô Liễu,
vợ giám thị Rubi (Ruby) rủ một tốp mấy cô nữa
đi theo phía sau. Chúa đảo Giátty quay lại văng
một câu rất tục rồi quát:
- Về ngay!
Con đường ra nghóa địa Hàng Dương cây cỏ
xác xơ, không một tiếng chim kêu, không một
nhành hoa, mầm lá. Chỉ có tiếng hát trầm hùng
của hai ngàn tù nhân đưa tiễn chị. Hai ngàn
trái tim đã thổn thức suốt đêm qua. Họ đã chờ

đợi từng khoảnh khắc thời gian đến giây phút
đau thương này! Họ ghé tai nghe tiếng cửa sắt
phòng giám thị trưởng mở, nghe bước chân bọn
đao phủ tới giải Võ Thị Sáu đi. Họ đã cố lắng
nghe tiếng bước chân trần của người thiếu nữ
anh hùng giữa những tiếng hỗn độn, đầy sát
khí của lũ âm binh tử thần.
Đúng vào lúc ấy, bài hát Chiến só ca, bài ca
không quên thời ấy, dành để đưa tiễn những
người đồng đội ra pháp trường đã vang lên từ
khám này, tiếp qua khám khác:
Bao chiến só anh hùng lạnh lùng vung gươm
ra sa trường.
... Là trang nam nhi, quyết chiến sa trường
Sống thác coi thường...
75


Tiếng hát cất lên từ Banh I, nơi giáp văn
phòng giám thị trưởng rồi lần lượt vọng đến
Banh II và Banh III. Từng khúc hát điệp trùng
ngân lên từ khám này qua khám khác, từ banh
này qua banh khác hòa thành một bản hùng ca
về những con người bất tử.
Tất cả tù nhân đều đứng cả dậy. Họ đứng hát
suốt một giờ, hát mãi ca khúc ấy. Họ hát từ khi
nghe bước chân trần của người em gái bé nhỏ
chìm trong tiếng giày đinh, tiếng còng, tiếng
binh khí của bọn đao phủ cho đến lúc loạt súng
tàn bạo vang lên thì họ mới ngừng hát để đồng

loạt thét vang cả hòn đảo tù, để phản đối cuộc
hành hình man rợ và phi pháp này.
Chúa đảo Giátty đã cho đào sẵn hai huyệt,
cắm cạnh đó hai cây cọc. Anh Hồ Văn Năm ở
khám tử hình trong Banh I cũng bị chúng đưa
ra trói vào cọc bên cạnh chị Võ Thị Sáu. Trước
phút hành hình, tên chánh án Pháp hỏi chị có
yêu cầu gì trước khi chết.
Võ Thị Sáu yêu cầu không bịt mắt để chị
được nhìn đất nước mình đến giây phút cuối.
Tên chánh án từ chối, với lý do là luật pháp đã
quy định khi thi hành án tử hình. Võ Thị Sáu
hỏi lại hắn:
- Vậy ông không nhìn nhận rằng bản án tử
hình áp dụng cho một người phụ nữ chưa đủ
76


tuổi thành niên là một “ngoại lệ” của luật pháp
nước Pháp sao?
Tên chánh án lúng túng và do dự, nói:
- Tất nhiên là vẫn có ngoại lệ, song tôi sợ
điều đó sẽ ảnh hưởng đến tâm lý của cô.
- Không sao. Tôi có đủ can đảm để nhìn thẳng
vào họng súng của các người.
- Thôi được...
Khi tên chánh án quay ra đọc lệnh thi hành
án thì Võ Thị Sáu bắt đầu hát. Chị cất lời hát
bài Tiến quân ca, bài quốc ca của nước Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa. Giọng chị thiết tha, trong

trẻo, vút lên ngân vang theo gió sớm.
Võ Thị Sáu không để ý đến bọn đao phủ.
Chị ngước mắt nhìn từng nhành cây, ngọn cỏ,
chị nhìn khắp đất trời, núi non, biển cả. Trước
mắt chị, xa xa ngoài Hàng Dương là biển.
Chân trời phía Hòn Cau đã ửng hồng. Bình
minh sắp lên. Sau lưng chị là ngọn núi Chúa
đứng sừng sững, im lìm. Quanh chị là những
nấm mồ nhấp nhô trùng trùng điệp điệp. Đã
có hơn một vạn người ngã xuống nơi này. Bây
giờ đến lượt chị. Chị sẽ được làm đứa em gái
út duy nhất ở “thiên đường” này, thiên đường
của những người phấn đấu, hy sinh cho độc lập
tự do của dân tộc.
77


Võ Thị Sáu vẫn hát. Chị không nghe tiếng
tên chánh án đọc lệnh thi hành án tử hình.
Chị không nghe tiếng tên đội trưởng lê dương
chỉ huy bắn hô tụi lính lên đạn. Chị đưa mắt
nhìn thẳng vào bảy tên đao phủ, bảy nòng súng
đen ngòm chỉ cách chị có mười thước. Bọn lính
giương súng đợi lệnh. Chị không nghe tiếng
bọn lính lên đạn. Chị vẫn nhìn đăm đắm như
muốn thu cả đất trời vào đôi mắt mình, để
rồi giây phút nữa thôi, chị cũng tan biến vào
trời đất.
Khúc hát vừa dứt, chị nhìn thẳng vào bảy tên
đao phủ. Bảy nòng súng đen ngòm ngọ nguậy.

Tên đội trưởng đội hành quyết hô:
- Mục tiêu... chuẩn bị...
Võ Thị Sáu ngừng hát và thét lớn:
- Đả đảo thực dân Pháp!
- Việt Nam độc lập muôn năm!
- Chủ tịch Hồ Chí Minh muôn năm!
Bảy tên đao phủ giật nảy người. Bảy tiếng
súng khô khốc chuệch choạc nổ.
Một tiếng rú ghê rợn thốt lên từ đồi cát phía
Nam gần đó. Bầy đao phủ hoảng hốt quay lại.
Chúa đảo Giátty lăm lăm khẩu súng ngắn, hùng
hổ chạy về phía bụi cây.
78


Bốn chị vợ giám thị túm tụm dưới lùm cây,
mặt xám ngoét. Họ đã núp ở đây để mục kích
cuộc hành hình. Người vừa rú lên là Nguyễn
Thị Liễu, vợ giám thị Rubi. Chị ta vừa bất tỉnh
sau loạt súng.
Khi đã hiểu điều gì xảy ra sau tiếng rú ghê
người, bọn đao phủ quay lại pháp trường. Khói
súng đã tan, nhưng chúng kinh hoàng.
Võ Thị Sáu vẫn đứng đó. Chị nhìn chúng,
ngạo nghễ và giễu cợt. Hai vệt máu từ vai và
sườn chị tuôn đỏ vạt áo. Chị hát tiếp khúc Tiến
quân ca:
“Đoàn quân Việt Nam đi
Sao vàng phấp phới
Dắt giống nòi quê hương qua nơi lầm than...”

Tên chánh án gầm lên chửi bọn lính là “đồ
ăn hại” và ra lệnh bắn tiếp. Bọn lính chống
súng lắc đầu. Chưa bao giờ bọn đao phủ lại rơi
vào tâm lý hoảng loạn như lần này. Cặp mắt
trong trẻo của người thiếu nữ kia như có một
ma lực xoáy vào tim gan, khiến chúng nôn nao
run rẩy.
Nhiều tên đã nhắm mắt bóp cò. Loạt đạn ấy
chỉ có hai viên găm vào bả vai và sườn trái chị,
một viên sượt mang tai. Tên đội lê dương lầm lũi
bước đến gí khẩu súng ngắn vào tai chị bóp cò.
79


Cả bọn đều chưa hết hoàn hồn sau tiếng súng
lại nhớn nhác nhìn nhau khi nghe tiếng hô la
phản đối rần rần của hơn hai ngàn tù nhân từ
phía Banh III vọng tới:
- Đả đảo thực dân Pháp!
- Đả đảo hành hình!
- Tinh thần Võ Thị Sáu bất diệt!
Một tên giám thị hớt hải đạp xe lên pháp trường
báo cho Giátty là tù nhân Banh I, Banh II cũng
đang hò la phản đối náo động cả trung tâm thị
trấn. Chúa đảo Giátty hoảng hốt nhảy lên xe
jeep phóng như điên veà dinh.

80



6. HUYỀN THOẠI VỀ CHỊ SÁU
Tốp lính lê dương trở lại công quán đợi tàu về
Sài Gòn. Ngôi nhà kiến trúc kiểu Tây phương,
nằm dưới tán bàng cạnh Cầu Tàu mát mẻ. Cạnh
đấy là một trạm tiền tiêu của hải quân Pháp
thuộc hạm đội Viễn Đông do quan tư hải quân
Mêniơ (Ménier) chỉ huy. Công quán là nơi dừng
chân của lữ khách đến thi hành công vụ tại đảo.
Nhạc só kỳ tài người Pháp Camille Saint
Sặns đã từng lưu lại đây tròn một tháng, kể từ
ngày 20-3 đến ngày 19-4-1895. Thời gian ấy ông
đã hoàn tất vở nhạc kịch nổi tiếng Brunehilda.
Đó là dấu ấn đẹp đẽ duy nhất của nước Pháp
văn minh trên hòn đảo tù. Những dấu ấn còn
lại là của nước Pháp thực dân.
Toán lính lê dương đang sám hối dưới vòm
nhà này là một bằng chứng. Chúng đang kể về
những cuộc hành hình, về những nạn nhân mà
chúng từng tham dự vào tội ác. Một người lính
lê dương già bỏ ăn suốt ngày, nằm khóc.
81


Sáng 24-1-1952, người tù làm bồi đến công
quán quét dọn và pha cà phê. Bọn lính còn
ngủ lăn lóc, riêng chỉ có một người lính lê
dương già ngồi trên phiến đá cạnh Cầu Tàu,
dáng thẫn thờ, mắt trũng sâu, gương mặt hốc
hác. Ông ta đã khóc, bỏ ăn suốt ngày qua, và
ngồi đấy từ đêm. Người bồi đặt ly cà phê trên

phiến đá, lễ phép mời:
- Ông dùng cà phê.
- Cảm ơn. Ngồi xuống đây một chút, anh bạn.
- Dường như đêm qua ông không ngủ?
- Không sao ngủ được. Đôi mắt cô gái ấy đã
ám ảnh tôi và sẽ ám ảnh tôi suốt đời. Tôi phải
bỏ nghề, không bắn được nữa.
- (...)
- Tôi bắn không tồi, nhưng hôm qua tôi đã
nhắm mắt, ghếch nòng súng lên trời.
- (...)
- Tôi đã gặp nhiều kẻ phát điên phát khùng,
nhiều kẻ sợ hãi đến ngất lịm phải dựng lên
bắn. Còn cô ấy bình thản đến lạ lùng, yêu đời
đến phút chết, dũng khí tỏa ra ngay cả khi
đã ngã xuống rồi. Đó mới chính là một người
anh hùng.
- (...)
82


- Cô ấy tin vào chính nghóa của dân tộc mình,
còn chúng tôi thì chỉ biết bắn giết...
Người lính lê dương già thẫn thờ nhìn ra biển
mà nói với những tảng đá. Người tù làm bồi đã
lui về làm phận sự của mình.
***
Ngày hôm ấy, đến bất cứ chỗ nào trên đảo,
người ta cũng có thể nghe chuyện về chị Sáu.
Tại nhà thương, bác só Dương Thúc Huy nói với

những người tù chính trị phục vụ tại đó:
- Thật là một con người gang thép.
Bác só Dương Thúc Huy thường trầm trồ khi
kể chuyện về Võ Thị Sáu. Ông vừa tốt nghiệp
ở Pháp về, được bổ nhiệm làm lương y trưởng
tại nhà thương Côn Đảo. Làm nhiệm vụ khám
nghiệm tử thi, ông chứng kiến từ đầu đến cuối
cái chết anh hùng của Võ Thị Sáu. Hồi học ở
Pháp, ông từng được nghe chuyện về Gian Đa
(Jeanne D’Are), nữ anh hùng của nước Pháp.
Chuyện xảy ra vào thế kỷ XV, Gian Đa đã
dũng cảm cầm vũ khí chống lại ách thống trị
của Anh, bảo vệ nước Pháp. Kẻ thù bắt được
và chất củi thiêu sống chị. Bọn lính châm lửa,
và Gian Đa đã hát. Khi lửa cháy đến miệng,
chị ngừng hát, từ miệng chị, một con bồ câu
bay ra...
83


Bác só Huy gỡ cặp kiếng, lấy khăn chấm
những giọt nước mắt và nói: “Chuyện con bồ
câu bay ra chỉ là huyền thoại. Còn ở đây, tôi
đã tận mắt thấy một người anh hùng thật sự,
một người anh hùng bằng xương bằng thịt. Chị
ấy đã hát cho đến lúc chết”.
Mỗi lần nhắc đến Võ Thị Sáu là một lần ông
xúc động và trầm trồ: “Thật là một con người
gang thép”. Từ lòng kính trọng Võ Thị Sáu,
Dương Thúc Huy ngày càng có cảm tình với

những người tù kháng chiến. Ông tích cực giúp
đỡ họ trong các việc điều trị bệnh, cấp thuốc và
bí mật chuyển tài liệu cho họ.
***
Trong lúc chúa đảo Giátty và giám thị trưởng
Pátxi đang tổ chức đập phá bia mộ của Võ Thị
Sáu và khủng bố tù nhân, truy tìm người đúc
bia mộ thì vợ con gác ngục đồn ầm lên là Cô
Sáu hiện về.
Cô Liễu, người đã té xỉu khi chứng kiến cuộc
hành hình kể rằng, xẩm tối hôm 30 Tết, cô lén
chồng đem hương hoa lên viếng mộ Võ Thị Sáu.
Khi đến gần mộ, cô ta bỗng thoáng thấy một
người con gái mặc áo dài trắng từ ngôi mộ đi
ra, thong thả dạo bước về phía thị trấn. Liễu
sụp lạy hồi lâu rồi mới dám bước tới mộ dâng
hương hoa.
84


Trên đường trở về nhà, đi tới đâu, Liễu cũng
thấy bóng người con gái ở trước mặt. Thế là Tết
ấy, bên cạnh bàn thờ Trời, thờ Phật, thờ tổ tiên,
Liễu lập thêm bàn thờ Cô Sáu. Không có bài vị,
hình ảnh, hoành phi, câu đối, nhưng bàn thờ
Cô Sáu được đặt nơi trang trọng, sớm tối hương
khói, ngày một, ngày rằm có hoa trái bốn mùa.
Chuyện Cô Sáu hiện về lan rất nhanh. Nhiều
gia đình gác ngục lập bàn thờ Cô Sáu. Họ tin
rằng, một người con gái chết trẻ và chết thiêng

như vậy ắt sẽ hóa thần.
Tết ấy, nghóa trang Hàng Dương có nhiều
bóng người qua lại, thoắt đến, thoắt đi, đầy
bí ẩn. Có người đem theo một viên đá đặt lên
mộ chị Sáu. Có người đến cắm một nén nhang,
người đặt một nải chuối hay vài trái mận, một
nhánh hoa rừng. Có người là tù án, tù binh, tù
chính trị, tù thường phạm; người là công chức,
gác ngục; đàn ông, đàn bà. Vào những lúc bình
minh và hoàng hôn, họ tới, họ lui, lúc ẩn, lúc
hiện như người, như ma, có cả những cặp mắt
rình mò, xoi mói.
Buổi sớm ngày mồng một Tết Nhâm Thìn
(1952), vợ chồng viên cò Vôn Pêtơ cũng lên
Hàng Dương. Ngôi mộ Võ Thị Sáu đã rực rỡ đủ
loại hoa rừng, khói hương nghi ngút. Viên cò
mang súng ngắn, chống can, vẻ như đi thị sát.
85


Vợ y vụng về xới đất trồng quanh mộ Võ Thị
Sáu mấy bụi hoa dừa đất mà bà ta mới bứng
trong sân Sở Cò.
Bà ta bần thần đứng ngắm ngôi mộ còn tươi
cát mới và mấy bụi hoa đồng nội vừa trồng. Trong
mắt bà tái hiện hình ảnh người con gái bé nhỏ
xõa tóc bên khóm hoa dừa đất trong sân Sở Cò
bữa đó. Bà ta không hiểu vì sao cho đến phút ấy
mà cô bé vẫn hồn nhiên như bông hoa, quên cả
xà lim, xiềng xích và án tử hình đang đợi.

Cho đến nay, những bụi dừa đất vẫn trổ bông
bên mộ chị Sáu. Loài hoa đồng nội ấy có sức
sống diệu kỳ. Nó thản nhiên trước thời gian,
nắng gió và cát bỏng Hàng Dương.
***

Đoàn cán bộ, chiến só Quân đội nhân dân Việt Nam
viếng mộ Anh hùng, Liệt só Võ Thị Sáu. Ảnh: T.L

86


Dân đảo xôn xao về cái chết của tên tù gian
Nguyễn Văn Tân. Một buổi sớm, người ta thấy
xác hắn co quắp treo trên cây bằng lăng trong
vườn nhà giám thị trưởng Pátxi. Nguyễn Văn
Tân cầm đầu đám tù theo xu hướng “quốc gia”
làm tay sai cho bọn gác ngục để chống lại tù
nhân kháng chiến. Hắn đã tập hợp tất cả số
tù nhân lưu manh trong tổ chức “Liên minh
Dân chủ Xã hội” (gọi tắt là Liên Xã) để chống
lại Liên đoàn Tù nhân kháng chiến.
Có người bảo rằng, hắn bị bức tử để bịt đầu
mối vụ thất thoát 200.000 đồng (tiền Đông
Dương) của Hợp tác xã Tiêu thụ Côn Đảo mà
hắn là kế toán. Đoàn thanh tra ở Sài Gòn mới
ra đảo để điều tra vụ này. Có người lại quả
quyết rằng, Tân bị Cô Sáu bắt tội vì hắn đã cho
tay chân đập phá bia mộ Cô Sáu và theo dõi,
chỉ điểm những người đã làm bia, đắp mộ cô.

Chuyện thực hư thế nào chỉ có trời mới biết.
Tân chết, đám tù gian Liên Xã như rắn mất
đầu, co lại. Chúng bắt đầu ngán, không dám kéo
nhau lên đập bia, phá mộ Cô Sáu nữa.
Cũng khoảng thời gian ấy, chúa đảo Giátty rơi
sao, mất chức vì vụ vượt ngục của 198 tù binh ở
Bến Đầm (12-12-1952). Chỉ trong khoảnh khắc,
trung đội lính Âu - Phi canh giữ bị tước vũ khí
và chịu trói. Lần ấy gió không thuận, chuyến
87


vượt biển không thành, song cuộc võ trang giải
thoát quy mô nhất của tù nhân Côn Đảo tại Bến
Đầm đã làm rung chuyển và rối loạn nền thống
trị của bọn thực dân trên đảo.
Điều lạ lùng mà bọn thực dân không sao hiểu
nổi là những người tù kháng chiến đã đào được
hầm và đóng thuyền ngay dưới nền trại giam,
trước sự kiểm soát ngặt nghèo của chúng. Hai
căn hầm bí mật dài 20m, rộng 2,6m, cao 1,8m
được chèn chống theo kiểu hầm lò của thợ mỏ.
Năm con thuyền có kích thước gần bằng căn
hầm ấy đã được hoàn thành trong hai căn hầm,
đủ sức chở 200 người vượt biển.
Bằng cách nào mà tù nhân đã chuyển hàng
trăm khối đất, đá lên, rồi đưa hàng chục mét
khối tre, gỗ, mây, song cùng với hàng chục
thùng sơn, hàng tạ nhựa đường và không biết
bao nhiêu dụng cụ, phương tiện khác?

Bọn hiến binh ở Sài Gòn ra điều tra ba tháng
không kết quả. Đám thầy chú (gác ngục người
Việt) thì kháo nhau rằng, tù kháng chiến có
phép thần thông, xuất quỷ nhập thần, có Cô
Sáu phù trợ.
***
Từ thû ấy, dân đảo không còn thề có trời
đất quỷ thần nữa mà thề có Cô Sáu chứng giám.
88


Lời thề ấy linh thiêng và ứng nghiệm, từ người
tù đến công chức, gác ngục và chúa đảo.
Thiếu tá Bạch Văn Bốn, tên chúa đảo đầu
tiên thời Mỹ - ngụy bày trò cưỡng bức tù chính
trị ly khai Đảng Cộng sản. Bốn sùng bái bạo
lực, lấy việc đánh giết tù để tiến thân. Bốn
không tin có thánh thần. Chuyện Cô Sáu linh
thiêng chỉ là luận điệu tuyên truyền của Việt
Cộng. Hắn thường bảo tụi đàn em như vậy.
Cho đến một đêm khuya, Bạch Văn Bốn thấy
bóng người con gái áo trắng dạo bước ra Cầu
Tàu. Bán tín bán nghi, hắn rút súng cầm tay,
lăm lăm bước ra cổng. Chợt cô gái quay phắt lại,
nhìn thẳng vào mặt hắn, đôi mắt cô có những
tia sáng sắc lạnh tỏa ra. Bạch Văn Bốn rụng rời
chân tay, để rớt khẩu súng. Hắn chới với chạy
vào dinh, đóng chặt cửa lại. Từ đó, Bốn bắt đầu
để tai nghe những lời đồn đại về Cô Sáu. Không
ít lần, hắn bắt thuộc cấp và cả tù nhân “Thề có

Cô Sáu chứng giám” khi thấy hoài nghi.
Năm 1959, y phạt xà lim gần 50 tù nhân
Trại II đã ba lần chống ký kiến nghị ủng hộ
Ngô Đình Diệm. Sau một tuần lễ, Bạch Văn Bốn
xuống mở cửa xà lim bảo:
- Mấy người cứ chống hoài, làm sao tôi dám
đề nghị trả tự do cho mấy người được. Bây giờ
89


×