Tải bản đầy đủ (.pdf) (31 trang)

Tiểu luận ý nghĩa văn hóa của họa tiết trên trống đồng đông sơn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.44 MB, 31 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHỆ TP. HCM

BÁO CÁO TIỂU LUẬN CUỐI KỲ
HỌC PHẦN: CƠ SỞ VĂN HÓA VIỆT NAM

TÊN ĐỀ TÀI: Ý NGHĨA VĂN HÓA CỦA HỌA TIẾT
TRÊN TRỐNG ĐỒNG ĐÔNG SƠN

Tên ngành đào tạo: Quản Trị Khách Sạn
Giảng viên hướng dẫn: ThS. Trần Thị Tự
Nhóm thực hiện: 05 – Nhóm học 10 - Lớp chiều thứ 3,6 - Ca 3
Sinh viên thực hiện:

STT

HỌ VÀ TÊN

MSSV

1

Võ Thị Minh Thư

2011161248

2

Wong Yến Nhi

2011166998



3

Huỳnh Văn Dư

2011163977

4

Trần Thị Mỹ Linh

1911204563

5

Nguyễn Thế Ân

1811220001

6

Trần Ngọc Hân

2011164421

7

Trần Đăng Khoa

2011250361


TP. Hồ Chí Minh, 2021


BẢNG ĐÁNH GIÁ MỨC ĐỘ HỒN THÀNH CƠNG VIỆC
ST

HỌ VÀ TÊN

MSSV

NỘI DUNG THỰC

MỨC ĐỘ

XÁC

HIỆN

HOÀN

NHẬN

T

THÀNH
I: Mở Đầu, Lịch Sử
Nghiên Cứu, Tổng hợp
1


Võ Thị Minh Thư

2011161248

tài liệu, Làm word, kiểm
tra lại tất cả nội dung, lời

100%

cảm ơn, Khái qt nền
văn hóa Đơng Sơn
Tổng

quan

về

trống

đồng, 2.2: Các họa tiết
2

Wong Yến Nhi

2011166998

về đời sống văn hóa vật
chất được khắc họa trên

90%


trống đồng.
Khái quát nền văn hóa
Đơng Sơn, Nghệ thuật
3

Huỳnh Văn Dư

2011163977

chạm khắc trong mĩ
thuật Đơng Sơn, 2.3.1.

95%

Quan niệm tín ngưỡng.
2.5. Bài học rút ra được
từ ý nghĩa nền văn hóa
4

Trần Thị Mỹ Linh

1911204563

5

Nguyễn Thế Ân

1811220001


Đơng Sơn.

95%

III. Kết Luận, 2.3.2.
Nghệ Thuật.

100%

2.3.2. Nghệ Thuật, Phân
6

Trần Ngọc Hân

2011164421

7

Trần Đăng Khoa

2011250361

loại trống

90%

2.4. Ứng dụng họa tiết
trống đồng Đông Sơn,
III. Kết Luận.


95%


LỜI CẢM ƠN
Đầu tiên, chúng tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành đến Trường Đại học
Công Nghệ TP HCM đã đưa mơn học Cơ sở văn hóa Việt Nam vào trương trình
giảng dạy. Đặc biệt, chúng tơi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến giảng viên bộ môn
– Cơ Trần Thị Tự đã nhiệt tình dạy dỗ, truyền đạt những kiến thức hữu ích cho
chúng tơi trong suốt thời gian học tập vừa qua. Trong thời gian tham gia lớp học
Cơ sở văn hóa Việt Nam, chúng tơi đã có thêm cho mình nhiều kiến thức bổ ích,
tinh thần học tập hiệu quả, nghiêm túc. Đây sẽ là những kiến thức cần thiết và
quan trọng để làm nền tảng hành trang phục vụ cho ngành học, cũng như công
việc của chúng tôi sau này.
Bộ môn Cơ sở văn hóa Việt Nam là mơn học thú vị, vơ cùng bổ ích và có tính
thực tế cao. Đã cung cấp đủ kiến thức về các nền văn hóa cũng như các phong
tục tín ngưỡng, gắn liền với nhu cầu thực tiễn của sinh viên cũng như là nhu cầu
của ngành nghề thiên về văn hóa, du lịch. Đặc biệt, cảm ơn cô đã dành thời gian
của cá nhân để đọc và xem qua bài tiểu luận nghiên cứu của chúng tơi. Do kiến
thức cịn hạn chế, và khả năng lý luận cịn nhiều thiếu sót, nên trong bài tiểu luận
chắc chắn sẽ khơng tránh khỏi những thiếu sót khơng mong muốn, mong cơ bỏ
qua. Kính mong nhận được lời nhận xét, góp ý, đóng góp của cơ để bài tiểu luận
hồn thiện hơn.
Chúng tơi xin chân thành cảm ơn.
TP Hồ Chí Minh, ngày 2 tháng 11 năm 2021


LỜI CAM KẾT
Chúng tôi xin cam đoan về tiểu luận với vấn đề "Ý NGHĨA VĂN HÓA CỦA
HỌA TIẾT TRÊN TRỐNG ĐỒNG ĐÔNG SƠN" do các tất cả các thành viên
trong nhóm đã cùng nhau hỗ trợ, nghiên cứu, tài liệu và tham khảo là trung thực,

chính xác và có nguồn trích dẫn rõ ràng đầy đủ, khồn sao chép.

Nhóm nghiên cứu
(trưởng nhóm)

Wong Yến Nhi


MỤC LỤC
DANH MỤC THUẬT NGỮ VIẾT TẮT..............................................................1
DANH MỤC BẢNG BIỂU VÀ HÌNH ẢNH....................................................... 2
Ý NGHĨA VĂN HĨA CỦA HỌA TIẾT TRÊN TRỐNG ĐỒNG ĐÔNG SƠN3
I. MỞ ĐẦU:.............................................................................................................3
1.1. Lý do chọn đề tài...................................................................................... 3
1.2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu..........................................................3
1.3. Phương pháp nghiên cứu.........................................................................4
1.4. Giới hạn và phạm vi nghiên cứu.............................................................4
1.5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài...................................................4
1.5.1. Ý nghĩa lý luận................................................................................. 4
1.5.2. Ý nghĩa thực tiễn.............................................................................. 4
II. NỘI DUNG.........................................................................................................4
2.1. Cơ sở lý luận............................................................................................. 4
2.1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề............................................................... 4
2.1.2. Các khái niệm liên quan đến đề tài nghiên cứu............................... 6
2.2. Các họa tiết về đời sống văn hóa vật chất được khắc họa trên trống
đồng.................................................................................................................11
2.3. Các họa tiết về đời sống văn hóa tinh thần được khắc họa trên trống
đồng.................................................................................................................16
2.3.1. Quan niệm tín ngưỡng....................................................................16
2.3.2.. Nghệ thuật..................................................................................... 17

2.4. Ứng dụng của hoạ tiết trống đồng Đông Sơn......................................21


2.5. Bài học rút ra được từ ý nghĩa và nền văn hóa qua các họa tiết trên
trống đồng Đơng Sơn.................................................................................... 22
III. Kết luận...........................................................................................................23
I.V. Tài liệu tham khảo........................................................................................23


DANH MỤC THUẬT NGỮ VIẾT TẮT
TK: Thế Kỷ
TCN: Trước Công Nguyên

1


DANH MỤC BẢNG BIỂU VÀ HÌNH ẢNH
Hình 2.2: Một số hoạt tiết đã nêu trên trống đồng về chim công, hưu, người
đối đáp, kho vựa và người đánh trống, người đánh cồng chiên.............13
Hình 2.3: Thuyền chiến với binh lính là chim, cá, rùa dưới nước và thuyền
chiến với người lính cầm đao, giáo.........................................................15
Hình 2.4: Hình người đứng trong nhà mái vòm tròn......................................18
(Nguồn: Thư viện trường Đại học Lâm Nghiệp, Trịnh Thanh Tâm,
10/05/2011)............................................................................................. 18
Hình 2.5: Hình người mặt trang phục cầm đao nhảy múa............................. 20
(Nguồn: Thư viện trường Đại học Lâm Nghiệp, Trịnh Thanh Tâm,
10/05/2011)............................................................................................. 20

2



Ý NGHĨA VĂN HÓA CỦA HỌA TIẾT TRÊN TRỐNG ĐỒNG ĐÔNG SƠN
I.

MỞ ĐẦU:

1.1.

Lý do chọn đề tài
Khởi nguồn của mĩ thuật Đơng Sơn được xem như một thời kì cực thịnh

của mĩ thuật kim khí và đặc sắc nhất đó chính là mĩ thuật chạm khắc. Những
đường nét được chạm khắc trên trống đồng được xem như là nơi cất giữ những
truyền thống văn hóa, xã hội và uy quyền của nước ta trong những thời kì đầu
như Nhà Nước Hùng Vương. Qua đó đã thể hiện lên tầm quan trọng về những
nét họa tiết trên trống đồng và nghệ thuật chạm khắc đặc sắc trong mĩ thuật Đông
Sơn với quá trình phát triển lịch sử của dân tộc.
Vì vậy, chúng tôi chọn đề tài nghiên cứu về “Ý nghĩa văn hóa của họa tiết
trên trống đồng Đơng Sơn” nhằm nâng cao sự hiểu biết của mình cũng như góp
phần tìm hiểu, củng cố lại về nghệ thuật chạm khắc và nền văn hóa của Đơng
Sơn.
1.2.

Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
 Mục đích nghiên cứu:
Chúng tơi nghiên cứu đề tài này nhằm tìm hiểu rõ hơn về ý nghĩa văn hóa

của họa tiết trên trống đồng Đơng Sơn để thấy được sự đắc sắc về nên văn hóa và
tính truyền thống của dân tộc. Từ đó, có thể đưa ra được các ứng dụng của họa
tiết trên trống đồng vào đời sống nhằm duy trì, bảo tồn và phát huy tinh hoa của

dân tộc.
 Nhiệm vụ nghiên cứu:
Hệ thống hóa các vấn đề lý luận liên quan đến ý nghĩa của họa tiết được
chạm khắc trên trống đồng trong mĩ thuật Đơng Sơn. Tìm hiểu về nền văn hóa,
đời sống qua các họa tiết trên trống đồng. Tìm hiểu về ứng dụng của các hoa văn
chạm khắc trong các ngành như kiến trúc, nội thất, đồ họa và thời trang. Đưa ra
các bài học được rút ra từ họa tiết trên trống đồng về nền văn hóa cổ xưa, từ đó
đề xuất ra các biện pháp giữ gìn nét đẹp văn hóa truyền thống của dân tộc.

3


1.3.

Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp phân tích tư liệu, phương pháp tổng hợp, phương pháp nghiên

cứu lý thuyết, tư liệu.
1.4.

Giới hạn và phạm vi nghiên cứu
Trong nền mĩ thuật Đông Sơn rất đa dạng về các loại hình nghệ thuật. Song

chúng tôi chỉ nghiên cứu về phần ý nghĩa nghệ thuật chạm khắc của các họa tiết
trên trống đồng Đông Sơn về đời sống văn hóa vật chất và đời sống văn hóa tinh
thần được thể hiện qua các họa tiết.
1.5.

Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài


1.5.1. Ý nghĩa lý luận
Bài báo cáo tiểu luận này nhằm tìm hiểu về ý nghĩa về cá họa tiết trên trống
đồng để có thể hiểu hơn về đời sống văn hóa Đơng Sơn thời bấy giờ, cũng như
một lần nữa đưa nền văn hóa, sự khéo về các họa tiết mang đầy ý nghĩa trên
trống đồng đến giới trẻ hiện nay như những người nghiên cứu trước đây đã làm
bằng việc tổng hợp lại đưa ra các ý nghĩa một cách thiết thực và hiệu quả và ứng
dụng được vào cuộc sống.
1.5.2. Ý nghĩa thực tiễn
Bài tiểu luận này đưa ra các thông tin về nghệ thuật chạm khắc trên đồ đồng,
cũng như là đưa ra các ứng dụng hữu ích trong khía cạnh nghệ thuật thiết kế nội
thất, kiến trúc và thời trang trong thời đại hiện nay. Chúng tơi hy vọng bài báo
cáo này có thể mang lại hữu ích cho các nhà nghiên cứu về đời sống văn hóa xã
hội.
II.

NỘI DUNG

2.1. Cơ sở lý luận
2.1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Sự nổi tiếng của Trống Đồng Đông Sơn về mặt cổ vật quý vì kỹ thuật luyện
kim thời ấy. Trống Đông Sơn là đỉnh cao của kỹ thuật hợp kim đồng, chì và thiếc,
4


nhờ vậy đồng có độ dai bền vơ cùng, có thể dát mỏng làm mặt trống mà tha hồ
đánh không thủng. Các hoa văn trên trống đồng cũng là những khắc chạm độc
đáo cùng với vẻ hòanh tráng của trống đồng đã làm các nhà khảo cổ quốc tế
ngưỡng mộ dẫn theo Đơng Lan (2009).
Thêm vào đó, theo Trần Văn Đạt (2014) “Các hoa văn này xuất hiện trên
mặt, tang, thân và ngay cả chân trống đồng, chủ yếu gồm có văn mặt trời, văn kỷ

hà, văn tả cảnh sinh hoạt và văn hình động vật.” Tác giả cịn khẳng định thêm:
“Tất cả những hoa văn trang trí nêu trên làm nổi bật vẻ đẹp sống động, hiện thực,
cách điệu theo thời gian của xã hội đương thời – một bức tranh lịch sử sống thực
của người Lạc Việt. Các hoa văn mặt trời, văn sinh hoạt con người lúc bấy giờ và
văn hình động vật của trống đồng đã mơ tả bức tranh nghề nơng tồn diện và rõ
ràng ngành nông nghiệp Cổ Đại gồm cả nông, lâm, ngư và súc đạt mức phồn
thịnh trong nền văn hóa Đơng Sơn.” Một nghiên cứu khác về các hoa văn trên
trống đồng. Theo Nguyễn Văn Hảo (2019), hoa văn “người lông chim” là hoa
văn của văn hóa Đơng Sơn, là tiêu chí của người Lạc Việt, cịn hoa văn người
mặc áo dài là hoa văn của văn hóa Điền, là tiêu chí của người Điền. Cơ sở của
hoa văn trang trí trên đồ gốm, đồ đồng của một văn hóa khảo cổ là sự tái hiện
tiêu chí của tộc thuộc, của dân tộc đã sáng tạo ra chúng.
Nghiên cứu của một nhà khảo cổ học người Áo đã khẳng định rằng: Trống
đồng xuất phát từ miền Bắc Việt Nam, phân chia 165 chiếc trống được biết đến
lúc ấy thành 04 loại Frans Heger (2019).
Theo Vi Quang Thọ (2017), khi trở thành trống đồng - thẩm mĩ - quyền uy
của nền văn hố Đơng Sơn rực rỡ, thì trống đồng khơng cịn là nhạc khí nữa, mà
trở thành báu vật được trưng bày trong các lễ hội để đông đảo nhân dân có điều
kiện và thời gian thưởng thức, chiêm ngưỡng. Đồng thời, trống đồng cũng được
trưng bày và tôn thờ ở những nơi quyền quý, sang trọng, kể cả nơi linh thiêng,
như đình, chùa, miếu, đền... Qua quá trình lịch sử phát triển của mình, vai trị
trống đồng - nhạc khí đơn thuần ban đầu đã chuyển hoá thành trống đồng - vật
linh”

5


Qua các kết quả nghiên cứu chúng tôi đã đưa ra được kết quả về nghệ thuật
chạm khắc, đặc biệt là những họa tiết được chạm khắc trên trên trống đồng Đơng
Sơn có nhiều ý nghĩa, mong muốn khác nhau, sự lưu giữ các nền văn hóa qua các

thời kì được gửi gắm qua các họa tiết ấy.
2.1.2. Các khái niệm liên quan đến đề tài nghiên cứu
 Khái quát nền văn hóa Đơng Sơn
Theo sách Sưu tập cổ vật tiêu biểu văn hóa Đơng Sơn Bảo tàng tỉnh Thanh
Hóa (2019) viết: “Văn hóa Đơng Sơn (khoảng thế kỷ 7 trước công nguyên đến
thế kỷ 1-2 sau công nguyên), là nền văn hóa khảo cổ học thuộc thời đại kim khí ở
Việt Nam. Thanh hóa là nơi đầu tiên phát hiện ra những di vật văn hóa Đơng Sơn
vào năm 1924 tại làng Đông Sơn ở ven bờ sông Mã (nay thuộc phường Hàm
Rồng, thành phố Thanh Hóa). Đến năm 1934 nhà khảo cổ người Áo R.Heine
Geldern đã đề nghị gọi tên nền văn hóa này là văn hóa Đơng Sơn”.
Bên cạnh đó, trong lược sử tộc việt ơng Trình Năng Chung (2019) cũng cho
rằng: “Thành tựu nghiên cứu khảo cổ học trong thời kỳ này có một ý nghĩa lớn là
xác lập được diện mạo của các văn hoá Tiền Đơng Sơn ở các vùng khác nhau.
Những văn hố này phát triển và hoà quyện với nhau để dần dần tiến lên một nền
văn hoá chung, thống nhất trong đa dạng: Văn hố Đơng Sơn”. Ơng cịn nói thêm:
“Các nhà khảo cổ học cũng đã đi sâu nghiên cứu nhiều vấn đề của văn hóa Đơng
Sơn như luyện kim, hoạt động kinh tế, đời sống vật chất, tinh thần, những loạt di
vật độc đáo như trống đồng Đông Sơn, các loại vũ khí, các đồ trang sức bằng
đồng.”. Và ơng cịn khẳng định: “Thời kỳ này cũng có nhiều phát hiện khảo cổ
học quan trọng ngẫu nhiên trong lòng đất. Tiêu biểu là việc phát lộ hơn hai chục
chiếc trống Đông Sơn trên những quả đồi ven sông Hồng ở thành phố Lào Cai,
hay như địa điểm tại Động Xá (Hưng Yên), một khu mộ Đông Sơn với những
quan tài thân cây khoét rỗng được phát hiện ngẫu nhiên trong quá trình nhân dân
đào mương làm thủy lợi. Đây là những đóng góp cho sự nhận thức về một trung
tâm văn hóa Đơng Sơn ở vùng cực Bắc.”.

6


Ngoài ra, theo Hoàng Thị Chiến (2007) đã nghiên cứu: “Ở thời kỳ văn hóa

Đơng Sơn, người Việt cổ xứ Thanh đã chế tạo ra những bộ công cụ sản xuất vũ
khí, đồ dùng sinh hoạt, nhạc khí,..bằng đồng vơ cùng độc đáo, hồn mỹ. Đồ đồng
Đơng Sơn Thanh Hóa không chỉ phong phú về chủng loại, đa dạng về kiểu dáng,
kích cỡ, mà cịn có giá trị cao về nghệ thuật.”. Bà cũng nói thêm: “ Trong bộ sưu
tập hiện vật văn hóa Đơng Sơn, sưu tập rìu đồng hết sức phong phú, đa dạng về
loại hình, kiểu dáng cũng như tính năng sử dụng. Sưu tập này có nhiều loại,
nhưng điển hình nhất là rìu lưỡi xéo gót trịn, rìu hình thuyền (có người cịn gọi
là rìu hình trăng khuyết).”. Bà Hồng Thị Chiến cịn cho rằng: “Bộ cơng cụ sản
xuất của cư dân trồng lúa nước có đầy đủ các loại: Lưỡi cày cánh bướm, rìu, đục,
thuổng, cuốc, liềm, hái… Trong đó, sưu tập lưỡi cày hình cánh bướm là loại hiện
vật đặc trưng của văn hóa Đơng Sơn ở Thanh Hóa. Bộ sưu tập lưỡi cày hình cánh
bướm, sưu tập liềm, hái, sưu tập tượng thú, cùng các hình tượng hoa văn hình Bị
U, hình bơng lúa… trang trí trên trống đồng, thạp đồng, rìu đồng đã phản ánh sự
phát triển vượt bật trong canh tác nơng nghiệp của cư dân văn hóa Đơng Sơn,
đưa xã hội Đông Sơn bước vào thời kỳ văn minh.”
Theo ông Nguyễn Văn Tiến cũng cho rằng: “Các di vật là đồ đồng rất
phong phú về số lượng và đa dạng về loại hình, mang sắc thái và diện mạo của
một nền văn hố riêng biệt khơng giống bất kỳ một nền văn hoá nào trong nước.”
Qua các nghiên cứu trên có thể thấy văn hóa Đơng Sơn đã xuất hiện từ rất
lâu TCN vào khoảng 800 năm, từng được tồn tại ở một số tỉnh miền Bắc và Bắc
Trung bộ Việt Nam như Phú Thọ, n Bái, Hịa Bình, Hà Nội, Nam Định, Ninh
Bình, Hà Nam, Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh với trung tâm là khu vực đền
Hùng, và ba con sơng lớn và chính của đồng bằng Bắc Bộ đó là sơng Hồng, sơng
Mã và sơng Lam. Đây là nền văn hóa được đặt tên theo địa phương nơi các dấu
tích đặt trưng lần đầu tiên được phát hiện ở gần khu vực sơng Mã, Thanh Hóa.
Trải qua 80 năm phát hiện và nghiên cứu, nền văn hóa này được xem như là cơ
sở vật chất cho sự ra đời của nhà nước Văn Lang – Âu Lạc, một nhà nước đầu
tiên thời đại các Vua Hùng và đi sâu hơn là các nền văn hóa như luyện kim, đồ

7



đồng, trang trí thạp đồng, văn hóa đời sống vật chất tinh thần và đặc biệt chạm
khắc là trống đồng Đông Sơn.
 Nghệ thuật chạm khắc trong mĩ thuật Đông Sơn
Theo Trần Thanh Hiền đã cho rằng: “Mĩ thuật Đông Sơn là một nền nghệ
thuật tạo hình đạt đên đỉnh cao về tạo dáng. Người cổ Đông Sơn đã tạo ra nhiều
loại hình hiện vật phong phú, đa dạng từ cơng cụ, vũ khí, đồ gia dụng, đến nhạc
khí, đồ trang sức và tượng nghệ thuật. Trống đồng Đông Sơn - một nhạc khí cổ là tác phẩm tiêu biểu nhất độc đáo nhất dặc trưng cho thời kì này. Với kĩ thuật
chạm khắc tinh xảo mang tính hoa truyền thống của dân tộc. Ở đó có vẻ đẹp về
hình dạng, tỉ lệ các hoa văn trang trí được cách điệu cao, phong phú về thể loại.”
Ngoài ra, theo bà Nguyễn Thị Bích Viên (2018) cho rằng: “Thời đại Hùng
Vương như ta đã biết tương ứng với các nền văn hóa lớn: Phùng Ngun, Đồng
Đậu, Gị Mun, Đơng Sơn, mỹ thuật thời Hùng Vương hiện diện trong những bộ
sưu tập hiện vật thời kỳ này: sưu tập đá, đồng, gốm với hàng ngàn các loại hình
phong phú, đa dạng với các kỹ thuật tạo dáng, tạo hình đăng đối hay hoa văn
chạm khắc cực kỳ tinh xảo, đỉnh cao là mỹ thuật Đơng Sơn.”.
Qua đó cho thấy nghệ thuật chạm khắc trong mĩ thuật Đơng Sơn là một loại
hình có thể nói là cực kì cơng phu và điêu luyện với những đồ vật được tạo ra
đầy phong phú và đa dạng với những hiện vật như công cụ, đồ dùng, đồ gia dụng,
dụng cụ nhạc khí, đồ trang sức, tượng nghệ thuật…v.v. Trong số đó thì trống
đồng Đơng Sơn là một tác phẩm tiêu biểu nhất với nét độc đáo của loại hình nhạc
khí cổ của thời kỳ này. Trống được điêu khắc một cách khéo léo với nhiều nét
tinh xảo, độc đáo mang tinh hoa truyền thống dân tộc. Với những hình ảnh được
điêu khắc trong từng đồ vật cực kỳ cầu kì và tinh tế làm cho những đồ vật ấy trở
nên sinh động hơn, bắt mắt hơn. Tổng thể về nghệ thuật chạm khắc trong mĩ
thuật Đơng Sơn đã làm cho loại hình này trở nên đặt sắc, nhiều ý nghĩa và mang
dấu ấn cho thời kỳ này.
 Tổng quan về trống đồng


8


Trống đồng là một loại nhạc cụ gõ bằng đồng hiện diện tại ở các vùng Đông
Nam Á và miền Nam Trung Quốc. Trống đã xuất hiện lúc thời đại đồ đồng.
Trống đồng khơng chỉ có chức năng nhạc khí mà nó cịn có những chức năng
khác ví dụ như là làm biểu tượng cho quyền lực, tôn giáo. Trống còn được dùng
trong các lễ hội, chống giặc ngoại xâm,… Trống thường thuộc về những người
thủ lĩnh , đứng đầu và còn là biểu tượng quyền lực. Nếu người thủ lĩnh quyền lực
càng lớn thì trống sẽ càng to và đẹp.
Theo tín ngưỡng của người Việt thì trống đồng là một vật linh vì có vị thần
tự xưng là thần đồng tức Đồng Cổ đã giúp rất nhiều triều đại Việt Nam trong việc
giữ nước cho dân từ thời vua Hùng đến thời nhà Lý, nhà Trần.
Và theo bà Hoàng Thị Chiến (2007) cũng đã cho rằng: “Trống đồng, di vật
tiêu biểu của văn hóa Đơng Sơn, cũng là biểu tượng của nền văn hóa dân tộc thời
các vua Hùng dựng nước.”. Trống đồng Đông Sơn là một loại trống tiêu biểu cho
văn hóa Đơng Sơn (700TCN-100) của người Việt cổ. Những loại trống này với
quy mơ rất lớn, hình dáng hài hồ, cân đối đã biểu hiện một trình độ rất cao về kỹ
năng và nghệ thuật. Đặc biệt là những hoa văn phong phú được điêu khắc tả về
đời sống một cách chân thật, lối sống sinh hoạt của con người thời kỳ dựng nước
mà ta vẫn cho là chìm trong đám mây mù của truyền thuyết Việt Nam.
Theo Vi Quang Thọ đã nghiên cứu: “Trống đồng Đông Sơn ra đời chắc
chắn là ở thời đại đồ đồng và ở giai đoạn mà nghệ thuật đúc đồng của người Việt
cổ đã đạt tới trình độ điêu luyện, tinh xảo.”.
- Công dụng:
+ Trong lễ mai táng các vị chức lớn như quan lang Mường và các ngày
hội mùa hè của người Mường, tỉnh Hịa Bình.
+ Trong buổi lễ tế “thần sấm” của người Lê, ở đảo Hải Nam, Trung
Quốc.
+ Trống được diễn tấu với dàn nhạc trong vương triều phong kiến thời

nhà Hậu Lê, trong sách “Cương mục”.

9


+ Trống đồng được sử dụng ở trong quân đội thời nhà Trần theo một bài
thơ của Trần Phu, sứ thần nhà Nguyên tại nước Đại Việt.
+ Trống biến thành vật chôn theo người chết như ở khu mộ tang Đơng
Sơn, tỉnh Thanh Hóa.
Nhìn chung thì ta thấy chức năng chủ yếu của trống vẫn là chức năng của
một nhạc khí. Trống đồng cịn tượng trưng cho quyền lực của các vị thủ lĩnh có
chức quyền ngày xưa. Thường thì các vị Vua sẽ thưởng cho các tù trưởng người
dân tộc những chiếc trống đồng. Điều đó sẽ thể hiện uy quyền của Nhà nước đối
với các vùng tự trị, tự do tương đối.
 Phân loại trống
Theo trang Bảo Tàng Lịch Sử Quốc Gia của Minh Vượng (2014): “Trống
loại I: có 3 phần tang, thân và chân phân biệt rõ ràng cân đối là loại trống có niên
đại sớm nhất và trang trí đẹp nhất, phát hiện được nhiều nhất ở Bắc Việt Nam và
Hoa Nam, mà tiêu biểu là loại trống Ngọc Lũ, Hoàng Hạ nước ta. Trống loại II
muộn hơn, có 3 phần tang, thân và chân trống phân biệt khơng thật rõ rang trang
trí các vành văn hoa chanh, văn đồng tiền, phát hiện được nhiều trong vùng đồng
bào Mường sinh sống từ Phú Thọ đến Nghệ An và miền Nam Trung Quốc.
Trống loại III có kiểu dáng hơi khác, mặt trống tràn rộng ra ngoài, tang, thân và
chân gần hình ống, phân bố chủ yếu ở vùng Shan Miến Điện, cho đến những năm
cuối TK XIX vẫn còn sản xuất. Trống loại IV gần giống kiểu dáng loại I nhưng
thấp nhỏ, trang trí 12 con giáp, hoa văn tiền đồng và chữ Hán, phân bố chủ yếu ở
vùng dân tộc Hoa Nam, trong những năm đầu TK XX người dân vùng này vẫn
sử dụng trong các dịp lễ. ”
Ngồi ra, Nguyễn Sỹ Tốn (2017) cho rằng: “Có nhiều quan điểm trong
việc phân loại trống Đơng Sơn thành các nhóm. Thực tế có nhà nghiên cứu chia

thành hai nhóm, trong khi một số nhà nghiên cứu khác lại chia thành 05 nhóm,
trong đó nhóm IV có niên đại hậu văn hóa Đơng Sơn, nhưng vẫn mang truyền
thống kỹ thuật sản xuất trống Đông Sơn truyền thống.”

10


Ơng cịn thêm: “Trống nhóm I có hình dáng chia ba phần cân đối hài hịa
(tang phình, thân thon, đế chỗi), dáng trống đẹp, trống có kích thước lớn, hoa
văn trang trí theo lối tả thực được phủ kín khắp mặt, thân và thậm chí có cả hoa
văn hình học ở chân (đế) trống.”; “Trống nhóm II hình dáng cũng chia ba phần
nhưng khơng hài hịa cân đối như nhóm I. Kính thước nhỏ hơn trống nhóm I, có
thể dễ dàng nhận thấy các trống thuộc dòng trống lưng thẳng dáng trống cao hơn
và các trống lưng choãi dáng trống thấp hẳn.”; “Trống nhóm III, đến nhóm này
hình dáng cũng chia ba phần và trở lại cân đối hài hòa như nhóm I. Trống nhóm
III có kích thước lớn, hoa văn trang trí giảm dần yếu tố tả thực mà theo lối cách
điệu hóa.”; “Trống nhóm IV, hình dáng cũng chia ba phần, nhưng xét về thẩm
mỹ thì đây là nhóm có hình dáng và hoa văn trang trí khơng đẹp như các nhóm
trên. Hình dáng nhìn xa như chiếc nồi đồng lật úp xuống, phần tang ngắn, thân và
chân dài và chỗi nên trống có dáng thấp và khơng cân đối.”
Qua đó chúng tơi có thể kết luận rằng trống đồng có 4 loại chính và các loại
hình trung gian. Trống loại I: có 3 phần tang, thân và chân phân biệt rõ ràng cân
đối là loại trống có niên đại sớm nhất và trang trí đẹp nhất, phát hiện được nhiều
nhất ở Bắc Việt Nam và Hoa Nam, Trống loại II muộn hơn, có 3 phần tang, thân
và chân trống phân biệt khơng thật rõ rang trang trí các vành văn hoa chanh, văn
đồng tiền, phát hiện được nhiều trong vùng đồng bào Mường sinh sống từ Phú
Thọ đến Nghệ An và miền Nam Trung Quốc. Trống loại III có kiểu dáng hơi
khác, mặt trống tràn rộng ra ngồi, tang, thân và chân gần hình ống, phân bố chủ
yếu ở vùng Shan Miến Điện.
2.2. Các họa tiết về đời sống văn hóa vật chất được khắc họa trên trống đồng

Theo ơng Nguyễn Đức Hiệp cho rằng: “Nhiều hình ảnh trên trống đồng
phản ảnh ngày hội mùa để gặt lúa nước và thu thập mùa màng.”
Giống ông Nguyễn Đức Hiệp, ông Trần Văn Đạt đã nghiên cứu: “Những
hoa văn như mặt trời, nhà sàn, người giã gạo, chim cò bay, đàn hươu biểu diễn,
thuyền ghe và người đánh trống, nhảy múa, đối đáp rất phổ cập, có thể tìm thấy
dễ dàng trên nhiều trống đồng ở các vành hình trịn trên mặt, tang và đơi khi trên

11


thân trống. Các hình ảnh đó phát họa một bức tranh đồng quê trong thời kỳ thịnh
vượng với chim cò tung bay ngoài đồng ruộng, người dân sinh hoạt với nghề
nông trong mưa nắng dưới ánh mặt trời, biết chăn nuôi gia súc, sắn bắn, biết
đánh bắt cá tôm, trồng trọt, nhứt là làm vụ lúa nước theo mùa, biết thu hoạch
theo thời tiết và hoan ca chào đón ngày cuối vụ hay chào mừng hạt thóc mới, hị
hát, giã gạo, nhảy múa kết đồn dưới trăng”.
Ngồi ra ơng Trần Phú cũng đã viết: “Trống đồng Đông Sơn đã đẹp về tạo
dáng lại càng đặc sắc hơn về lối tạo hình trong trang trí mang tính biểu tượng về
những ý niệm vũ trụ, phong tục tập quán của đời sống con người. Tất cả vũ trụ,
trời đất, sông núi, muôn lồi…chỉ có thể xác nhận bằng trí tuệ con người và
thống nhất một chủ đề là cuộc sống của cư dân nông nghiệp trồng lúa nước thời
đại các vua Hùng.”. Ơng cịn nói thêm: “Trong những hình trang trí trống đồng
Đơng Sơn, hoạt động ít người là hình đang giã gạo với đường nét đơn giản được
chắt lọc từ hiện thực đời sống.”
Qua đó cho thấy, trống đồng Đơng Sơn được xem là sản phẩm của nền văn
minh nông nghiệp phát triển và cả nghành kinh tế đặc trưng. Tiếp theo đó là đời
sống văn hóa vật chất cũng trở nên đa dạng phong phú hơn.
Đông Sơn được biết là một nơi rất thành thạo việc làm ruộng nước, và các
nhà nghiên cứu cũng đã chỉ ra được rằng tại thời kì của Đơng Sơn thì các hạt
thóc lúa ngày càng phổ biến. Các họa tiết như người giã gạo, đàn hưu biểu diễn,

người đánh trống, chin cò bay, người nhảy múa và đối đáp được nhìn thấy tại
tang, thân trống và các hình trịn trên mặt, đã khắc họa rõ nét đời sống văn hóa
vật chất của người dân Đông Sơn về một bức ttranh đồng quê trong thời kì thịnh
vượng nghề nơng nghiệp cũng như nền nơng nghiệp lúa nước với hình ảnh người
dân làm lúa nước theo mùa vụ, phía trên là cánh chim sải cánh bay lượn, bài hát
hoan ca chào đón ngày cuối vụ, họ cùng hát, cùng giã gạo, cùng đón chào hạt
thóc mới và cùng vui đùa ca hát đòan kết dưới ánh trăng, qua đó thể hiện nền văn
hóa văn minh của người dân Đơng Sơn. Bên cạnh đó các họa tiết như hình ảnh
kho chứa, thạp đồng, tượng cóc, hình trâu bị, rắn nước đã hiện hình ảnh nghành

12


nơng nghiệp lúa nước ở thời kì này vơ cùng phát triển, lượng sản xuất dư thừa,
các nhà có điều kiện hay khá giả sẽ có trong nhà những vựa thóc, thạp đồng lớn
và chạu bằng đồng.

Hình 2.2: Một số hoạt tiết đã nêu trên trống đồng về chim công, hưu, người
đối đáp, kho vựa và người đánh trống, người đánh cồng chiên
(Nguồn: Viện Việt Học, giáo sư Trần Văn Đạt, website: viethocjournal.com )
Ngoài ra, nghề đánh cá, săn bắt cũng phát triển ở thời kỳ này. Các hoa văn
như hình thuyền, thuyền đua, thuyền chiến, xương cá, rắn ,các loại cá, cho thấy
nghề đánh cá thời bấy giờ cũng quan trọng không kém. Người dân biết khai thác
cây rừng để làm thuyền bè làm phương tiện di chuyển cũng như cơng cụ sinh
hoạt như lưỡi câu, đinh ba, móc, rìu… dùng đi đánh bắt cá, ốc và cịn được dùng
để chống giặc ngoại xâm. Đặt biệt, họa tiết thuyền ghe còn được các nhà nghiên
cứu cho rằng đây là bước phát triển lớn, vì người dân biết mở rộng quan hệ với
các quốc gia láng giềng, bộ tộc bằng đường hàng hải để trao đổi các thương
phẩm. Bên cạnh đó, các họa tiết như hoa văn hưu nai, con cơng, chim trích, cá
sấu, chó săn, chàng bè,chim bay, chim đậu cũng đã thể hiện rõ nét về nghề săn

bắt của người dân Đơng Sơn để có thể có thêm thực phẩm để sinh tồn hoặc trao
đổi với các bộ tộc khác.
Theo Trần Văn Đạt nghiên cứu: “Các hoa văn hình thuyền, thuyền đua,
thuyền chiến, xương cá, các loại cá, rắn, nhà sàn, lầu gác cho thấy ngành ngư-

13


lâm cũng rất quan trọng trong xã hội bấy giờ. Nông dân biết khai thác cây rừng
để làm nhà ở, gỗ đóng ghe thuyền dùng trong ngư nghiệp, phương tiện di chuyển,
các dụng cụ sinh hoạt hàng ngày, và vũ khí gươm giáo chống xâm lăng. Trong
thời Cổ Đại, có một bộ phận cư dân không nhỏ chuyên sống với nghề biển, sơng
hồ. Do đó, họ biết khai thác các chiến thuyền để chống ngoại xâm bảo vệ xứ sở,
chuyên nghề đánh bắt cá, ốc sò để làm đa dạng lương thực hàng ngày. Ngành
hàng hải cũng phát triển từ thời đó, nhiều trống đồng được tìm thấy ở Miền
Trung, Tây Nguyên, Đông Nam Bộ và vài nước Đông Nam Á.”. Ơng cịn nói
thêm: “Các hoa văn hươu nai, chim bay, chim đậu, con cơng, chàng bè, chim
trích, cá sấu, chó săn cho thấy cư dân Việt Cổ vẫn cịn có một bộ phận khơng nhỏ
cịn sống về nghề săn bắn trong rừng núi.”
Ngoài ra, theo tác giả Gia Bảy cũng cho rằng: “Hình thuyền: nhiều trống
đồng hình chiếc thuyền được chạm khắc trên tang trống cho chúng ta thấy kỹ
thuật đi biển của người Việt xưa đạt đến mức khá cao. Hãy xem hình người
thuyền trưởng dùng trống đồng và một dụng cụ đo góc độ và phương giác dựa
vào các vì sao để tìm phương hướng ở thời kỳ mà các nhà hàng hải chưa sáng
chế ra địa bàn. Mỗi thuyền đều có một người cầm lái đầu đội mũ lơng chim, tay
lái có trang sức lơng chim. Trên sàn thuyền có một người bắn cung, khơng đội
mũ lơng chim mà búi tóc, đó là những thủy binh đánh xa. Họa tiết này chứng
minh cho ta thấy cuộc sống sông nước của cha ông ta.”
Theo ông Trần Phú cũng đã viết rằng: “Trong những hình trang trí trống
đồng Đơng Sơn, nổi trội lên là những hình sinh hoạt của con người, hầu hết là

những hoạt động tập thể.”; “Tính chủ đạo cho ta thấy con người hịa với thiên
nhiên lao động sản xuất, đánh bắt cá, săn bắn thú rừng, nhảy múa và thổi kèn.
Con người cầm vũ khí bảo vệ đất đai.”
Giống ơng Trần Phú, bà Nguyễn Thị Bích Viên cũng cho rằng: “Trong
nghệ thuật trang trí văn hóa Đơng Sơn, nổi trội lên là những hình sinh hoạt của
con người.”; “Tính chủ đạo cho ta thấy con người hòa với thiên nhiên lao động
sản xuất, đánh bắt cá, săn bắn thú rừng, nhảy múa và thổi kèn.”.

14


Hình 2.3: Thuyền chiến với binh lính là chim, cá, rùa dưới nước và thuyền
chiến với người lính cầm đao, giáo
(Nguồn: Viện Việt Học, giáo sư Trần Văn Đạt, website: viethocjournal.com )
Khi xưa đã phát hiện ra những lưỡi cày đồng và những hình bị được khắc
trên thân trống như minh chứng cho thời kì này đã biết chăn ni gia súc sử dụng
sức kéo động vật vào trong canh tác nông nghiệp. Họ biết nuôi và thuần dưỡng
động vật để dùng làm sức kéo cho nghề nông nghiệp, dùng để xới đất canh tác,
giúp tăng năng suất lao động, tăng sản lượng lương thực, thực phẩm được thể
hiện qua các hoa văn như trâu bị, gà, chó, chim trên thân và tang trống.
Như ông Trần Văn Đạt đã nghiên cứu rằng: “Các hoa văn hình động vật
như chim bay, chim đậu (trĩ, cơng, chàng bè, trích…), trâu bị,… trên mặt, tang,
thân hoặc chân trống đồng cho thấy nông dân biết thuần dưỡng thú rừng,
biết ni gia cầm để có thêm thức ăn, nhứt là nghề nông nghiệp dựa vào sức
kéo của trâu bị.”
Qua các hoa văn chúng tơi thấy được một nền văn hóa vơ cùng đa dạng
sống động của người dân Đông Sơn thời bấy giờ, với sự phát triển phồn vinh của
ngành nghề nông, lâm, ngư, nghiệp. Các hoa văn, họa tiết trên trống đồng đã lưu

15



giữ các thành quả, đời sống văn hóa vật chất và về sự hùng mạnh của nước Lạc
Việt một thời.
2.3. Các họa tiết về đời sống văn hóa tinh thần được khắc họa trên trống
đồng
2.3.1. Quan niệm tín ngưỡng
Theo nghiên cứu của ông Trần Quốc Vượng: “Biểu tượng Mặt trời chiếm
vai trò trung tâm trên trống đồng gắn liền với hình thái thờ mặt trời của cư dân
Đơng Sơn.”. Ơng cịn nói thêm: “Hình thái thờ mặt trời khơng chỉ biểu hiện mối
quan hệ của con người (người trồng trọt) với tự nhiên mà còn biểu hiện mối quan
hệ xã hội (tuân phục) giữa cư dân và thủ lĩnh (vua): Những ông "vua" cổ đại
thường tự đồng nhất với mặt trời.”
Ông Nguyễn Sỹ Toản cũng cho rằng: “Hoa văn trang trí chiếm khoảng một
nửa diện tích mặt trống, chính giữa mặt trống là hình ngơi sao (cánh nhỏ hoặc
khơng có cánh sao) nổi như hình mặt trời, niên đại muộn nhất so với các nhóm
trống Đơng Sơn.”. Ơng cũng nói thêm: “Các trống đồng này không chỉ được lưu
giữ, bảo quản trưng bày trong các bảo tàng và trong nhân dân, mà cịn ăn sâu
trong đời sống văn hóa tâm linh của người Việt, được tôn thờ ở nhiều di tích tín
ngưỡng tơn giáo.”
Do ở thời kì gắn chặt với nghề nơng lúa nước, u chuộng tín ngưỡng vật
linh nên việc khắc hình ngơi sao ở trung tâm mặt trống được người đân tượng
trưng cho việc thờ thần vị thần mặt trời đại diện cho biểu tượng tối cao của thiên
nhiên, mặt trời, lửa, nước, đất, gió và núi non là các hiện tượng huyền bí giúp họ
có đời sống bình an ấp no và hạnh phúc. Vì mặt trời được cho là nguồn năng
lượng, cung cấp ánh sáng và sự sống cho con người và thực vật để họ có thể làm
việc, trồng trọt và chăn ni. Điều đó dẫn đến sự biết ơn và tôn sùng được gửi
gắm qua họa tiết trên trống đồng. Không chỉ thể hiện quan niệm tín ngưỡng qua
việc tơn sùng vị thần thiên nhiên, người dân Đơng Sơn cịn thể hiện sự biết ơn,


16


tưởng nhớ tổ tiên qua họa tiết người hóa trang lơng chim, vì theo quan niệm cổ
xưa thì chim chính là tổ tiên lồi người.
Qua đó ta thấy người dân Đơng Sơn vốn theo nghề nơng nghiệp vì vậy họ
theo tín ngưỡng thờ phồn thực và tín ngưỡng thờ Thần Nông,.. nên các họa tiết
trên trống đồng không chỉ thể hiện văn hóa đời sống sinh hoạt, mà cịn là một nền
văn hóa về tín ngưỡng tâm linh, đã có nhiều nhà nghiên cứu chỉ ra đó cịn là các
buổi lễ thờ cúng như: lễ khánh thành rống đòng, lễ cầu mùa, lễ chiêu hồn và đám
tang, lễ mừng cơm mới,..
2.3.2.. Nghệ thuật
 Trang phục
Quần áo được tả trên trống có các loại như: áo hai vạt ngắn, áo hai vạt dài,
váy, khố,... họ đội nhiều các loại mũ, tết các kiểu tóc khác nhau của người giã
gạo và vũ công cho thấy trồng cây vải, bổ đai, trồng dâu ni tầm và dệt vải đã
có và phổ biến, họ sản xuất tơ sợi, làm cờ xí trong ngày lễ hội, khố che thân, cờ
hành quân. Trên thân trống còn xuất hiện hình người đưa cao tấm vải, tay phải
cầm khung gạt sợi hình tam giác.
Như ơng Nguyễn Văn Hảo nghiên cứu: “Trống của văn hóa Đơng Sơn, có
khoảng 2 – 3 chiếc hoa văn tả thực trang trí là hoa văn người mặc áo dài…”
Ông Nguyễn Đức Hiệp cũng nói thêm: “Họ mặc trang phục lơng chim, mũ
chim. Một số người mặc áo chồng lơng chim mà chỉ ngày lễ hội lớn mới mang
ra mặc.”
 Kiến trúc
Theo các nhà khảo cổ học trên mặt trống đồng xuất hiện các ngơi nhà sàn
với mái vịm cong và mái vịm trịn, 2 cột chống phía đầu nhà, hai đầu và ở giữa
có kê thang để lên sàn. Theo chúng tơi tổng hợp và phần tích thì các nhà nghiên
cứu cho rằng những ngơi nhà có vịm mái cong ấy là nhà ở của người dân và
cũng giống như những ngôi nhà mái cong, người dân Đơng Sơn ở thời này nói về

kiến trúc rất là phát triển khi phân biệt giữa nhà ở và nhà thờ bằng việt khắc họa

17


hoa văn nhà với 2 họa tiết mái khác nhau. Như mái cong là nhà ở thì với mái trịn
với một người đứng giữa, hai bên cửa có phiến chắn được các nhà nghiên cứu
xem đây như là nhà thờ vì nó được cho rằng có liên quan đến tín ngưỡng thờ
cúng ngày xưa.
Ơng Trần Văn Đạt cũng nói: “Các hoa văn hình thuyền, nhà sàn, lầu gác,
cho thấy nơng dân biết khai thác cây rừng để làm nhà ở, gỗ đóng ghe thuyền
dùng trong ngư nghiệp, phương tiện di chuyển, các cơng cụ sinh hoạt hằng
ngày.”
Bên cạnh đó, bà Nguyễn Thị Bích Viên cịn cho rằng: “Họa tiết hình “con
thuyền- ngơi nhà” trên trống đồng Đơng Sơn chính là hình ngơi nhà của người
Kinh- Mường- Thái phía bắc, hình “tuyền” trên trống đồng cịn hóa thân vào mái
ngơi nhà Rông của đồng bào các dân tộc Tây Nguyên.”
Giống hai người trên đã nghiên cứu thì ơng Nguyễn Đức Hiệp cũng cho
rằng: “Trên trống cũng có hình các loại nhà sàn: nhà sàn mái cong hình thuyền
với hai đầu vểnh trang trí hình chim và nhà sàn mái trịn. Trong nhà sàn hình trịn
có chia làm hai gian chứa lương thực. Các vết tích của nhà sàn như cọc, gỗ.. đã
được khai quật và khám phá trong những đợt khai quật đầu tiên của người Pháp ở
Đông Sơn. Cư dân Đông Sơn sống gần sông nước xây nhà sàn để tránh nước lên
và thú dữ.”

Hình 2.4: Hình người đứng trong nhà mái vòm tròn
(Nguồn: Thư viện trường Đại học Lâm Nghiệp, Trịnh Thanh Tâm,
10/05/2011)
 Tượng trang trí
18



Theo Hoàng Thị Chiến đã nghiên cứu: “ Trên mặt trống đồng đã xuất hiện 4
khối tượng cóc, tượng vịt.”
Bên cạnh đó, ơng Trần Văn Đạt cũng cho rằng: “Trong khi tượng cóc, cóc
giao phối trên trống đồng thể hiện sự mong mỏi của nơng dân về mưa thuận gió
hịa, vụ mùa thuận lợi.”
Ngồi ra, theo ơng Nguyễn Đức Hiệp cũng cho rằng: “Hình tượng cóc
thường gắn với sự cầu mưa vì “con cóc là cậu ơng Trời” như dân gian Việt
thường nói. Tiếng trống đồng cũng biểu hiện cho tiếng sấm. Người xưa trong hội
cầu mưa đánh trống để thức tỉnh thiên nhiên mang lại mưa cho vạn vật. Trống vì
vậy có mục đích quan trọng trong đời sống dân Đơng Sơn.”
Qua đó cho thấy đây được xem như bước tiến vượt bậc về nghệ thuật điêu
khắc ở thời đại đồ đồng lúc bấy giờ. Đồng thời, tượng cóc giao phối trên trống
đồng, giúp chúng tôi liên tưởng đến câu truyện cóc kiện và hoa văn đã nói lên
mong muốn của người dân về mưa thuận gió hịa, thuận lợi mùa vụ.
 Vũ nghệ
Ngoài các ý nghĩa về nền văn hóa, tín ngưỡng được nêu trên về trống đồng,
thì thời đại Đông Sơn lúc bấy giờ cũng rất phổ biến về vũ nghệ với họa tiết
những người múa mặc trang phục, đội mũ lông chim cao, đeo mặt nạ, tay cầm vũ
khí và họa tiết trên trống cịn cho thấy mỗi nhóm người múa này thường 6 đến 7
người được chuyển động từ trái sang phải một cách đều đặn. Tất cả các họa tiết
đó như lột tả lên một bức tranh vũ hội thời bấy giờ, mọi người cùng nhau hò reo,
đối đáp, thực hiện các buổi lễ.
Như ông Gia Bảy đã viết: “Hình người mặc váy dài, có hai vạt tỏa ra hai
phía, vừa đi vừa múa, có người tay cầm rìu, có người thổi khèn, có người cầm
giáo, cán giáo có trang trí lơng chim. Hoặc có thể người đang quay mặt về phía
nhà cầu mùa, xõa tóc, mặc váy hay có đơi trai gái đang cầm chày, đầu chày có
trang trí lơng chim.”
Ơng Trần Văn Đạt cũng nói rằng: “Các họa tiết độc đáo mơ tả hình ảnh vũ

cơng múa hát, hóa trang trong lễ hội, tục đối đáp khắc trên trống đồng, và hoạt

19


×