Tải bản đầy đủ (.docx) (26 trang)

THẢO LUẬN DÂN SỰ 2 BÀI TẬP LỚN HỌC KỲ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (178.57 KB, 26 trang )

MỤC LỤC
VẤN ĐỀ 1: THÔNG TIN TRONG GIAO KÊT HỢP ĐỒNG
Câu 1.1. Theo Tồ án, bên bán có nghĩa vụ cung cấp thông tin cho bên mua về lô
đất chuyển nhượng khơng?........................................................................................1
Câu 1.2. Đối với hồn cảnh trong vụ án, BLDS 2015 có buộc bên bán phải cung cấp
thơng tin về lơ đất chuyển nhượng khơng? Vì sao?...................................................2
Câu 1.3. Việc Tịa án đã theo hướng giao dịch dân sự vơ hiệu do nhầm lẫn có thuyết
phục khơng?..............................................................................................................4
Câu 1.4. Đối với hồn cảnh như trong vụ án, BLDS 2015 có cho phép xử lý theo
hướng giao dịch chuyển nhượng vô hiệu do nhầm lẫn khơng? Vì sao?.....................4
VẤN ĐỀ 2:HỢP ĐỒNG VƠ HIỆU MỘT PHẦN VÀ HIỆU QUẢ HỢP ĐỒNG
VÔ HIỆU
Câu 2.1. Khi nào hợp đồng vô hiệu một phần, vô hiệu toàn bộ? Nêu cơ sở pháp lý
khi trả lời................................................................................................................... 6
Câu 2.2. Đoạn nào cho thấy trong Quyết định số 22 đã có việc chuyển nhượng tài
sản chung của hộ gia đình mà khơng có sự đồng ý của tất cả các thành viên của hộ
gia đình?.................................................................................................................... 7
Câu 2.3 Đoạn nào trong Quyết định số 22 cho thấy Hội đồng thẩm phán theo hướng
hợp đồng chuyển nhượng trên chỉ vô hiệu một phần?...............................................7
Câu 2.4. Suy nghĩ của anh/chị về việc Hội đồng thẩm phán theo hướng hợp đồng
chuyển nhượng trên chỉ vô hiệu một phần?...............................................................8
Câu 2.5 thay đổi về hậu quả của hợp đồng vô hiệu giữa BLDS 2005 và BLDS 2015
.................................................................................................................................. 8
Câu 2.6. Trong Quyết định số 319, lỗi của các bên được Toà giám đốc thẩm xác
định như thế nào?......................................................................................................9
Câu 2.7. Quyết định số 319, Tòa dân sự cho biết ông Vinh sẽ được bồi thường như
thé nào?................................................................................................................... 10
Câu 2.8. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tịa dân sự.................10
Câu 2.9. Với các thơng tin trong Quyết định số 319, ông Vinh sẽ được bồi thường
khoản tiền cụ thể là bao nhiêu? Vì sao?...................................................................10



VẤN ĐỀ 3: BIỆN PHÁP BẢO ĐẢM THỰC HIỆN NGHĨA VỤ CÓ THỜI
HẠN
Câu 3.1. Thư bảo lãnh của Ngân hàng có thời hạn như thế nào?.............................11
Câu 3.2. Nghĩa vụ của cơng ty Cửu Long với cơng ty KNV có phát sinh trong thời
hạn bảo lãnh của Ngân hàng không?.......................................................................12
Câu 3.3. Theo Tồ án nhân dân tối cao, khi người có quyền (Cty KNV) khởi
kiện Ngân hàng trả nợ thay sau khi thời hạn bảo lãnh kết thúc thì Ngân hàng có cịn
trách nhiệm của người bảo lãnh khơng? Đoạn nào của Quyết định có câu trả lời?12
Câu 3.4. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa án nhân dân tối
cao?......................................................................................................................... 13
VẤN ĐỀ 4: GIẢM MỨC BỒI THƯỜNG DO HỒN CẢNH KINH TẾ KHĨ
KHĂN
Câu 4.1. Từng điều kiện được quy định trong BLDS để giảm mức bồi thường do
thiệt hại quá lớn so với khả năng thực tế.................................................................15
Câu 4.2. Trong tình huống nêu trên, việc Tồ án áp dụng các quy định về giảm mức
bồi thường do thiệt hại quá lớn so với khả năng kinh tế của anh Nam để ấn định
mức bồi thường có thuyết phục khơng? Vì sao?......................................................16
VẤN ĐỀ 5: BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI DO NGUỒN NGUY HIỂM CAO ĐỘ
GÂY RA
Câu 5.1. Đoạn nào của Quyết định cho thấy Tòa án đã vận dụng chế định bồi
thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra................................................17
Câu 5.2. Suy nghĩ của anh/chị về việc Tòa án xác định đây là bồi thường thiệt hại
do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra..........................................................................18
Câu 5.3. Tòa dân sự có cho biết ai là chủ sở hữu đường dây điện hạ thế gây thiệt hại
không?..................................................................................................................... 18
Câu 5.4. Theo anh/chị, ai là chủ sở hữu đường dây hạ thế gây thiệt hại?................19
Câu 5.5. Theo Tòa dân sự, chủ thể nào sẽ chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho
gia đình nạn nhân?...................................................................................................19
Câu 5.6. Suy nghĩ của anh/chị về hướng xử lý trên của Tòa dân sự Tòa án nhân dân

tối cao liên quan đến xác định chủ thể chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho gia
đình nạn nhân..........................................................................................................19
VẤN ĐỀ 6: BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI DO NGƯỜI THI HÀNH CÔNG VỤ
GÂY RA


Câu 6.1: Những khác biệt cơ bản về thiệt hại được bồi thường khi một cá nhân chết
theo Luật trách nhiệm bồi thường của Nhà nước và BLDS.....................................21
Câu 6.2. Hoàn cảnh như trong vụ việc trên có được Luật trách nhiệm BT của nhà
nước điều chỉnh khơng............................................................................................23
Câu 6.3. Nếu hồn cảnh như trong vụ án trên xảy ra sau khi BLDS 2015 có hiệu
lực, hướng giải quyết có khác hướng giải quyết trong vụ án khơng? Vì sao?..........23
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


4

VẤN ĐỀ 1: THƠNG TIN TRONG GIAO KÊT HỢP ĐỒNG
Tóm tắt Bản án số 18A/2016/DSST ngày 15/06/2016 của Tòa án nhân dân TP.
Tuy Hòa tỉnh Phú Yên.
Nguyên đơn: vợ chồng ông Hà Văn Linh, bà Lê Thị Mỹ Lộc
Bị đơn: vợ chồng ông Đỗ Kim Khánh
Vợ chồng ông Linh, bà Lộc có giao kết hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng
đất, theo đó vợ chồng nguyên đơn đã đặt cọc 50 triệu đồng. Tuy nhiên, sau khi đặt
cọc ông Linh tìm hiểu thì mới biết lơ đất trên đã bị Ủy ban thông báo thu hồi. Bị
đơn khai rằng ông không hề biết về việc thu hồi này nên không trả lại số tiền. Nay
nguyên đơn khởi kiện yêu cầu bị đơn trả lại số tiền đặt cọc
Tòa xét thấy, diện tích đất mà vợ chồng ơng Thành bán là đất vườn và đã có
thơng báo thu hồi nhưng khi giao kết bị đơn không cung cấp cho bên nguyên đơn
biết, cộng với việc quyền sử dụng đất đang chuyển nhượng không thuộc quyền sở

hữu của sợ chống bị đơn. Do đó, hợp đồng đương nhiên vơ hiệu
Câu 1.1. Theo Tồ án, bên bán có nghĩa vụ cung cấp thơng tin cho bên mua về lơ
đất chuyển nhượng khơng?
Tồ án khơng đề cập đến vấn đề bên bán có nghĩa vụ cung cấp thông tin cho bên
mua về lô đất chuyển nhượng mà chỉ nhận định dựa trên những lời khai của nguyên
đơn và bị đơn. Cụ thể ở phần Xét thấy của Toà án:
Xét về yêu cầu khởi kiện của vợ chồng ơng Hà Văn Linh thì thấy rằng:
Mục đích vợ chồng ơng Linh mua đất là để xây dựng nhà ở mà phải là
đất thổ cư theo quy định pháp luật; Tuy nhiên diện tích đất mà vợ chồng
ông Thành bán cho vợ chồng ông Linh là đất vườn theo nghị định 64 của
Chính phủ và đã có thông báo thu hồi đất nhưng khi giao kết hợp đồng
đặt cọc vợ chồng ông Thành không cung cấp rõ thông tin về lô đất; Mặt
khác quyền sử dụng đất mà vợ chồng ông Thành chuyển nhượng cho vợ
chồng ông Linh khơng thuộc quyền sở hữu của mình mà của ông Trần
Dậu nhưng vợ chồng ông Thành chuyển nhượng cho vợ chồng ông Linh.


5

Vì vậy việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất là không hợp pháp nên
hợp đồng đặt cọc giữa vợ chồng ông Hà Văn Linh và vợ chồng ông Đỗ
Kim Thành đương nhiên vơ hiệu.
Qua phần xét thấy của Tồ án, mặc dù không đề cập đến việc bên bán phải cung
cấp thông tin cho bên mua về lô đất chuyển nhượng nhưng Toà án cũng đã chỉ ra lỗi
của các bên. Bên nguyên đơn có một phần lỗi khi tiến hành giao dịch nhưng không
kiểm tra đầy đủ thông tin, cịn bên bị đơn có lỗi khi biết tồn bộ diện tích đất mua
bán với vợ chồng nguyên đơn là thuộc nông nghiệp, nằm trong khu quy hoạch giải
toả và hơn nữa đất này không đứng tên của vợ chồng bị đơn nhưng đã cung cấp
thơng tin sai. Vì vậy Tồ án dù khơng đề cập rõ nhưng vẫn có hướng rằng khi giao
kết hợp đồng, hai bên phải thật cẩn thận, bên mua phải tìm hiểu, kiểm tra rõ ràng

trước khi giao kết và bên bán cũng phải có trách nhiệm cung cấp đầy đủ thông tin
dẫn đến hợp đồng vô hiệu như trong Bản án trên.
Câu 1.2. Đối với hồn cảnh trong vụ án, BLDS 2015 có buộc bên bán phải cung
cấp thông tin về lô đất chuyển nhượng khơng? Vì sao?
Đối với hồn cảnh trong vụ án, BLDS 2015 có buộc bên bán phải cung cấp
thơng tin về lơ đất chuyển nhượng. Vì theo khoản 1 Điều 387 BLDS 2015 quy
định: “Trường hợp một bên có thơng tin ảnh hưởng đến việc chấp nhận giao kết
hợp đồng của bên kia thì phải thơng báo cho bên kia biết. Bên vi phạm quy định
này mà gây thiệt hại thì phải bồi thường.” và Điều 443 BLDS năm 2015 quy định:
“Bên bán có nghĩa vụ cung cấp cho bên mua thông tin cần thiết về tài sản mua bán
và hướng dẫn cách sử dụng tài sản đó; nếu bên bán khơng thực hiện nghĩa vụ này
thì bên mua có quyền yêu cầu bên bán phải thực hiện trong một thời hạn hợp lý;
nếu bên bán vẫn không thực hiện làm cho bên mua khơng đạt được mục đích giao
kết hợp đồng thì bên mua có quyền hủy bỏ hợp đồng và yêu cầu bồi thường thiệt
hại.”
Cách quy định này đã chỉ ra rằng một bên phải có nghĩa vụ cung cấp thơng tin
cho đối tác của mình trước khi các bên giao kết hợp đồng. Đó là các thơng tin liên
quan trực tiếp như chất lượng, giá cả của đối tượng hợp đồng hay liên quan gián
tiếp như thông tin về thị trường của đối tượng hợp đồng thì BLDS năm 2015 không


6

đề cập. Tuy nhiên, có thể suy đốn rằng, loại thông tin này là rất quan trọng, thiết
yếu đối với bên được cung cấp; để xem xét tính quan trọng và thiết yếu đó sẽ dẫn
đến nhiều quan điểm trái chiều khi áp dụng vào các vụ việc thực tế.
Chẳng hạn như bên A (Bên mua) và Bên B (Bên Bán) giao kết hợp đồng mua
bán đất, theo đó, nếu Bên B biết được thông tin mà ảnh hưởng đến việc chấp nhận
giao kết hợp đồng của bên A thì phải thơng báo cho bên A biết. Do đó nếu Bên B
biết là miếng đất này bị giải tỏa nhưng khơng thơng báo cho bên A thì sẽ bị xem là

vi phạm nghĩa vụ.
Như vậy, trong vụ việc, thông tin lô đất chuyển nhượng là thông tin quan trọng,
cần thiết và sẽ ảnh hưởng nhiều đến việc chấp nhận giao kết hợp đồng của bên mua
nên bên bán buộc phải cung cấp cho bên mua là nguyên đơn.


7

Câu 1.3. Việc Tòa án đã theo hướng giao dịch dân sự vơ hiệu do nhầm lẫn có
thuyết phục khơng?
Theo nhóm, việc Tịa án đã theo hướng giao dịch dân sự vô hiệu do nhầm lẫn là
không thuyết phục.
Cho đến khi có BLDS 2015, văn bản cịn rất dè dặt khi đề cập đến nghĩa vụ
cung cấp thông tin trong quá trình giao kết hợp đồng. Chỉ trong một số trường hợp
nhất định, văn bản pháp luật mới buộc một bên phải cung cấp cho bên kia những
thông tin cần thiết.1 Theo nhận định của Tịa án, vợ chồng ơng Thành có thơng tin
quan trọng về tài sản mà khơng thơng báo cho vợ chồng ơng Linh là có lỗi. Tuy
nhiên, hành vi không cung cấp thông tin quan trọng về lơ đất đã có thơng báo thu
hồi của vợ chồng ông Thành nên được xem xét là hành vi lừa đối và phải chịu sự
điều chỉnh của các quy định về lừa dối. Trong trường hợp này, Tòa án cho rằng
hành vi không cung cấp thông tin về lô đất của vợ chồng ơng Thành là có lỗi nhưng
khơng vận dụng chế định lừa dối.
Câu 1.4. Đối với hoàn cảnh như trong vụ án, BLDS 2015 có cho phép xử lý theo
hướng giao dịch chuyển nhượng vô hiệu do nhầm lẫn khơng? Vì sao?
Đối với hồn cảnh trong vụ án trên, BLDS 2015 không cho phép xử lý theo
hướng giao dịch chuyển nhượng vô hiệu do nhầm lẫn. Theo Điều 127 BLDS 2015:
“Lừa dối trong giao dịch là hành vi cố ý của một bên hoặc của bên thứ ba nhằm
làm cho bên kia hiểu sai lệch về chủ thể, tính chất của đối tượng hoặc nội dung của
giao dịch dân sự nên đã xác lập giao dịch đó.”
Ở đây là do vợ chồng ông Thành không phải là người đứng tên mảnh đất này và

ông Thành đã cung cấp thông tin sai làm cho vợ chồng ông Linh hiểu sai nội dung,
tính chất khi đã xác lập giao dịch

1 Đỗ Văn Đại (2018), Luật hợp đồng Việt Nam – Bản án và Bình luận bản án Tập 1, Nxb. Hồng Đức – Hội
Luật gia Việt Nam, tr. 462.


8

VẤN ĐỀ 2:HỢP ĐỒNG VÔ HIỆU MỘT PHẦN VÀ HIỆU QUẢ HỢP
ĐỒNG VƠ HIỆU
Tóm tắt Quyết định số 22/2020/DS-GĐT ngày 23/04/2020 của Hội đồng thẩm
phán Tòa án nhân dân tối cao
Nguyên đơn: anh Vũ Ngọc Khánh, Vũ Ngọc Tuấn, chị Vũ Thị Tường Vy
Bị đơn: ông Trần Thiết Học, Đào Thị Mỹ
Ông Long mất để lại đất cho vợ là bà Dung và các con là nguyên đơn. Thời
điểm bà Dung là chủ hộ đã ký hợp đồng chuyển nhượng phần đất 252,6 m 2 cho vợ
chồng ông Học nhưng khơng có sự đồng ý của các ngun đơn. Do chứng thực hợp
đồng ủy quyền không đúng quy định của pháp luật nên hợp đồng chuyển nhượng vi
phạm cả hình thức lẫn nội dung. Hội đồng thẩm phán đã theo hướng phải xác định
rõ phần đất nêu trên là đất cấp cho hộ gia đình hay đất được thừa kếvà xác định hợp
đồng vô hiệu một phần: quyền sở hữu của bà Dung đã chuyển cho vợ chồng ông
Học nếu đúng quy định của pháp luật thì có hiệu lực. Bởi lẽ đó, hủy bản án sơ thẩm,
phúc thẩm, giám đốc thẩm, giao vụ án cho Tòa án nhân dân huyện Lộc Ninh xét xử
lại.
Tóm tắt Quyết định số 319/2011/DS-GĐT ngày 28/03/2011 của Tòa dân sự
Tòa án nhân dân tối cao.
Nguyên đơn: Ông Trịnh Văn Vinh
Bị đơn: Ông Đào Văn Lộc và bà Hồng Thị Lan
Vợ chồng ơng Lộc và bà Lan ký hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất

cho ơng Vinh với giá 120.000.000 đồng nhưng sau đó ký lại hợp đồng khác với giá
100.000.000 đồng. Ông Vinh đã đưa trước cho vợ chồng ông Lộc 45.000.000 đồng,
sau đó ơng Vinh phải trả thêm 2 đợt nữa. Ơng Lộc cam kết sau khi nhận tiền đợt 2
sẽ giao sổ đỏ cho ơng Vinh nhưng sau đó ơng Vinh không giao tiếp tiền cho ông
Lộc và ông Lộc cũng không giao giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông Vinh.


9

Tòa án nhân dân tối cao xét thấy Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất nêu
trên khơng được chính quyền địa phương cho phép chuyển nhượng. Hơn nữa, ông
Vinh mới trả cho ông Lộc được 45.000.000đ bằng 45% giá trị thửa đất mà hai bên
thỏa thuận trong hợp đồng. Do đó, hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
giữa ông Lộc với ông Vinh bị vô hiệu. Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm
hủy hợp đồng là có cơ sở.Tuy nhiên khi giải quyết hậu quả hợp đồng vơ hiệu Tịa án
cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm chưa xác minh xác định chính xác mức độ lỗi
của các đương sự làm cho hợp đồng vô hiệu. Việc xác định thiệt hại của hợp đồng
vơ hiệu cũng khơng chính xác. Trong trường hợp này ông Vinh mới trả được
45.000.000 đồng trên tổng giá trị thửa đất 100.000.000 đồng tức là mới trả 45% giá
trị thửa đất, cả hai bên cùng có lỗi thì khi giải quyết hậu quả của hợp đồng vô hiệu
ông Vinh chỉ được bồi thường thiệt hại là 1/2 chênh lệch giá của 45% giá trị thửa
đất theo giá thị trường, nhưng Tòa án cấp sơ thẩm, phúc thẩm lại buộc vợ chồng
ông Lộc bồi thường thiệt hại 1/2 giá trị của toàn bộ thửa đất theo giá thị trường là
không đúng.
Câu 2.1. Khi nào hợp đồng vô hiệu một phần, vơ hiệu tồn bộ? Nêu cơ sở pháp lý
khi trả lời.
Theo quy định tại Điều 117 BLDS 2015 Điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân
sự:
1. Giao dịch dân sự có hiệu lực khi có đủ các điều kiện sau đây:
a) Chủ thể có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự phù

hợp với giao dịch dân sự được xác lập;
b) Chủ thể tham gia giao dịch dân sự hoàn toàn tự nguyện;
c) Mục đích và nội dung của giao dịch dân sự khơng vi phạm điều cấm
của luật, không trái đạo đức xã hội.
2. Hình thức của giao dịch dân sự là điều kiện có hiệu lực của giao dịch
dân sự trong trường hợp luật có quy định.
Như vậy nếu khơng đáp ứng được các quy định trên thì hợp đồng sẽ vơ hiệu.
Tuy nhiên, hợp đồng vô hiệu một phần hoặc vô hiệu tồn bộ cịn tùy thuộc vào sự
ảnh hưởng giữa các phần của hợp đồng.


10

Theo quy định tại Điều 130 BLDS 2015 thì Giao dịch dân sự vô hiệu từng phần
khi một phần nội dung của giao dịch dân sự vô hiệu nhưng không ảnh hưởng đến
hiệu lực của phần còn lại của giao dịch. BLDS 2015 không quy định khi nào hợp
đồng sẽ vơ hiệu tồn bộ, nhưng ta có thể hiểu theo hướng loại trừ trường hợp hợp
đồng vô hiệu một phần thì hợp đồng sẽ vơ hiệu tồn bộ. Tức là khi một phần nội
dung của giao dịch dân sự vô hiệu gây ảnh hưởng đến hiệu lực của các phần còn lại
của giao dịch.
Câu 2.2. Đoạn nào cho thấy trong Quyết định số 22 đã có việc chuyển nhượng
tài sản chung của hộ gia đình mà khơng có sự đồng ý của tất cả các thành viên
của hộ gia đình?
Trong Quyết định số 22 đã có việc chuyển nhượng tài sản chung của hộ gia
đình mà khơng có sự đồng ý của tất cả các thành viên của hộ gia đình qua đoạn:
[2] Hợp đồng ủy quyền được Ủy ban nhân dân thị trấn Lộc Ninh chứng
thực ngày 27/7/2011 thể hiện các anh, chị Khánh, Tuấn, Vy cùng ủy
quyền cho bà Dung được làm thủ tục ký kết Hợp đồng chuyển nhượng
quyền sửa dụng đất và tài sản gắn liền với đất tại Tổ 2, khu phố Ninh
Thành, nhưng các anh, chị Khánh Tuấn, Vy không thừa nhận ký vào Hợp

đồng ủy quyền nêu trên.
Câu 2.3 Đoạn nào trong Quyết định số 22 cho thấy Hội đồng thẩm phán theo
hướng hợp đồng chuyển nhượng trên chỉ vô hiệu một phần?
Trong Quyết định số 22 có đoạn:
Trong trường hợp này, do các thành viên trong gia đình khơng có thỏa
thuận về quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất, nên
xác định quyền sử dụng đất và quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất của
tất cả các thành viên theo phần và áp dụng quy định về sở hữu chung
theo phần để giải quyết. Theo đó, phần quyền sử dụng, quyền sở hữu tài
sản của bà Dung đã chuyển nhượng cho vợ chồng ông Học nếu đúng
quy định của pháp luật thì có hiệu lực. Còn phần quyền sử dung, quyền
sở hữu của các anh, chị Khánh, Tuấn, Vy là vô hiệu theo quy định tại
Điều 135 Bộ luật Dân sự năm 2005.


11

Câu 2.4. Suy nghĩ của anh/chị về việc Hội đồng thẩm phán theo hướng hợp đồng
chuyển nhượng trên chỉ vô hiệu một phần?
Về việc Hội đồng thẩm phán theo hướng hợp đồng chuyển nhượng trên chỉ vô
hiệu một phần là hợp lý
Đầu tiên, Tòa án phải xác định rõ diện tích đất 252,6m 2 có phải một phần diện
tích đất được thừa kế trong số diện tích đất của ơng Long hay khơng. Tiếp theo đó
mới xét đến hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài sản. Hợp đồng
chuyển nhượng trên vơ hiệu cả về hình thức lẫn nội dung do việc chứng thực hợp
đồng ủy quyền không đúng với quy định của pháp luật nhưng hai bên vẫn ký kết
hợp đồng.
Hơn nữa, các anh chị Khánh, Tuấn, Vy không thừa nhận ký vào hợp đồng ủy
quyền và Ủy ban nhân dân thị trấn Lộc Ninh cũng thừa nhận khi chứng thực khơng
có mặt các anh chị nêu trên. Điều này cho thấy, bà Dung đã tự ý chuyển nhượng

nhưng khơng có sự đồng ý của các thành viên cịn lại thì hợp đồng đương nhiên vơ
hiệu. Theo khoản 2 Điều 146 của Nghị định số 181/2004/NĐ-CP thì khi một thành
viên đứng tên định đoạt tài sản, một đồng thừa kế đem tài sản là di sản đi giao dịch
mà khơng có sự ưng thuận của các đồng thừa kế khác. Và theo Điều 223 BLDS
2005 có quy định: “mỗi chủ sở hữu chung theo phần có quyền định đoạt phần
quyền sở hữu của mình theo thỏa thuận hoặc theo quy định của pháp luật”. Nên
Tòa án tuyên nếu quyền sở hữu của bà Dung đã chuyển nhượng cho vợ chồng ông
Học nếu đúng quy định của pháp luật thì có hiệu lực là hợp lý, phù hợp với lẽ công
bằng.
Câu 2.5 thay đổi về hậu quả của hợp đồng vô hiệu giữa BLDS 2005 và BLDS
2015
Tại BLDS 2005, “hoa lợi, lợi tức” là vấn đề của “khôi phục lại tình trạng ban
đầu”. Tuy nhiên ở thời điểm trước khi giao dịch được xác lập thì hoa lợi, lợi tức
chưa tồn tại nên nếu buộc bên nhận tài sản (như bên mua, bên được tặng cho) làm
phát sinh hoa lợi, lợi tức trả cho bên giao tài sản (như bên bán, bên tặng cho) thì sẽ
dẫn đến tình trạng bên giao tài sản được nhận những thứ không có ở tình trạng ban
đầu. Tức là đã khơng hề khơi phục lại tình trạng ban đầu mà làm cho bên giao tài
sản vào hồn cảnh hơn cả tình trạng ban đầu.


12

BLDS 2015 đã khắc phục được hạn chế, sai sót đó khi tách đã tách vấn đề “hoa
lợi, lợi tức” là đối tượng của hợp đồng vô hiệu ra khỏi quy định về khơi phục lại
tình trạng ban đầu ra thành một khoản riêng.
BLDS 2005 quy định về số phận của hoa lợi, lợi tức khi giao dịch dân sự vô
hiệu không thống nhất với Điều 601 BLDS 2005 (được duy trì trong BLDS 2015).
Tại Điều 601 thì tiêu chí để xác định số phận của hoa lợi, lợi tức khi giao dịch dân
sự vơ hiệu là sự ngay tình của người chiếm hữu tài sản khơng có căn cứ pháp luật
và trên thực tế Tòa án cũng giải quyết trên cơ sở Điều 601.

BLDS 2015 đã giải quyết được bất cập trên thông qua quy định tại Khoản 3
Điều 131: “Bên ngay tình trong việc thu hoa lợi, lợi tức khơng phải hồn trả lại hoa
lợi, lợi tức đó”. Tạo ra sự thống nhất với tiêu chí để xác định số phận của hoa lợi,
lợi tức của người chiếm hữu tài sản khơng có căn cứ pháp luật đó chính là dựa vào
có hay khơng có yếu tố “ngay tình”.
Câu 2.6. Trong Quyết định số 319, lỗi của các bên được Toà giám đốc thẩm xác
định như thế nào?
Trong Quyết định số 319, Tòa giám đốc thẩm xác định cả hai bên cùng có lỗi.
Vì trong trường hợp này, ông Vinh mới trả được 45.000.000 đồng trên tổng giá trị
thửa đất 100.000.000 đồng tức là chỉ mới trả được 45% giá trị thửa đất. Ông Lộc
cam kết sau khi nhận tiền đợt hai sẽ giao sổ đỏ cho ông Vinh. Sau đó ơng Vinh
khơng giao tiền tiếp cho ơng Lộc nên về phía ơng Lộc cũng khơng giao giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất cho ơng Vinh. Và Tịa xác định rằng cả hai hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất mà hai ông ký kết đều chưa được cơ quan nhà
nước có thẩm quyền cơng chứng hoặc chứng thực.
Câu 2.7. Quyết định số 319, Tòa dân sự cho biết ơng Vinh sẽ được bồi thường
như thé nào?
Tịa dân cho dân sự biết ông Vinh sẽ được bồi thường thiệt hại là ½ chệnh lệch
giá của 45% giá trị thửa đất theo giá trị trường


13

Câu 2.8. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tịa dân sự
Theo nhóm, hướng giải quyết trên của Tòa dân sự là hợp lý, thuyết phục. Tòa án
đã giải quyết vụ việc phù hợp với tinh thần của Nghị quyết 02/2004/QĐ-HĐTP về
thiệt hại khi tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất vô hiệu
Trong trường hợp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất không có
thoả thuận khác về việc áp dụng biện pháp phạt vi phạm hợp đồng và
bồi thường thiệt hại quy định tại Điều 379 Bộ luật dân sự để bảo đảm

thực hiện hợp đồng thì thiệt hại cịn bao gồm khoản tiền chênh lệch giá
trị quyền sử dụng đất do các bên thoả thuận với giá trị quyền sử dụng
đất tại thời điểm xét xử sơ thẩm hoặc các thiệt hại khác, nếu có.
Có thể thấy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa vợ chồng ông Lộc
và ông Vinh chưa được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cơng chứng hoặc chứng
thực và ông Vinh cũng không chứng minh được đã thực hiện nghĩa vụ thanh toán
đợt 2 đúng thỏa thuận, đất tranh chấp là đất trồng lúa không được chính quyền địa
phương cho phép chuyển nhượng nên trong trường hợp này Tịa án có căn cứ để
tun bố hợp đồng vơ hiệu một phần. Mặt khác, vì cả hai bên cùng có lỗi, ơng Vinh
cũng chỉ mới thanh tốn được 45% giá trị thửa đất nên Tịa án xác định ơng Vinh
chỉ được bồi thường ½ chênh lệch giá của 45% giá trị thửa đất theo giá thị trường là
có căn cứ.
Câu 2.9. Với các thơng tin trong Quyết định số 319, ông Vinh sẽ được bồi thường
khoản tiền cụ thể là bao nhiêu? Vì sao?
Khung giá đất của Ủy ban nhân dân tỉnh Bình Thuận ban hành đối với đất nông
nghiệp tại thị xã Lagi là 72.000đ/1m 2, diện tích đất trong giao dịch là 95m 2. Vì ơng
Vinh sẽ được bồi thường ½ chênh lệch giá của 45% giá trị thửa đất theo giá thị
trường nên khoản tiền bồi thường mà ông Vinh nhận được là (953*72.000) * 45% *
½ = 15.438.600 đồng.

VẤN ĐỀ 3: BIỆN PHÁP BẢO ĐẢM THỰC HIỆN NGHĨA VỤ CĨ
THỜI HẠN
Tóm tắt Quyết định số 05/2020/KDTM-GĐT ngày 26/01/2020 của HĐTP Tòa
án nhân dân tối cao.


14

Nguyên đơn: Công ty TNHH K.N.V.
Bị đơn: Công ty TNHH sản xuất và thương mại phân bón Cửu Long Việt Nam;

Ngân hàng TMCP Việt Á.
Bên mua là Công ty K.N.V (bên A) và bên bán là Công ty Cửu Long (bên B) có
ký kết hợp đồng về việc bên B đồng ý bán 3000 tấn phân bón Urea, đơn giá
5.100.000 đồng, thời hạn B giao hàng chậm nhất cho bên A là 20 ngày kể từ ngày B
nhận tiền ký quỹ tạm ứng của bên A, nếu vi phạm sẽ chịu phạt 5% giá trị hợp đồng
và trả tiền ký quỹ/tạm ứng cho bên A theo lãi suất ngân hàng. Ngày 15/4, bên A đã
chuyển số tiền 3.060.000.000 đồng vào tài khoản của bên B tại ngân hàng TMCP
Việt Á để đóng tiền ký quỹ/tạm ứng. Sau đó, ngân hàng phát hành thư bão lãnh tạm
ứng vào ngày 14/4 rồi phát hành “Thư tu chỉnh bảo lãnh”. Nhưng trong quá trình
thực hiện hợp đồng, bên B đã khơng giao hàng theo hợp đồng dẫn đến tranh chấp về
việc bồi thường thiệt hại giữa các bên. Tòa án quyết định Ngân hàng TMCP Việt Á
phải trả cho bên A số tiền tạm ứng còn thiếu là 1.510.000.000 đồng và bên B phải
thanh toán cho bên A số tiền 946.200.000 đồng
Câu 3.1. Thư bảo lãnh của Ngân hàng có thời hạn như thế nào?
Theo quy đinh tại Điều 19 Thông tư 07/2015/TT-NHNN về Thời hạn hiệu lực
của cam kết bảo lãnh, thỏa thuận cấp bảo lãnh:
1.Thời hạn hiệu lực của cam kết bảo lãnh được xác định từ ngày phát
hành cam kết bảo lãnh hoặc sau ngày phát hành cam kết bảo lãnh theo
thỏa thuận của các bên liên quan cho đến thời điểm hết hiệu lực của
nghĩa vụ bảo lãnh quy định tại Điều 23 của Thông tư này.
2. Thời hạn hiệu lực của thỏa thuận cấp bảo lãnh do các bên thỏa thuận
nhưng tối thiểu phải bằng thời hạn có hiệu lực của cam kết bảo lãnh.
3. Trường hợp ngày hết hiệu lực của cam kết bảo lãnh, thỏa thuận cấp
bảo lãnh trùng vào ngày nghỉ, ngày lễ, tết thì ngày hết hiệu lực được
chuyển sang ngày làm việc tiếp theo.
4. Việc gia hạn hiệu lực của cam kết bảo lãnh do các bên thỏa thuận phù
hợp với thỏa thuận cấp bảo lãnh.


15


Trong trường hợp này, thời hạn bảo lãnh của Ngân hàng bắt đầu từ ngày
14/04/2016 và hết hiệu lực lúc 17h00 ngày 19/05/2016.
Câu 3.2. Nghĩa vụ của công ty Cửu Long với cơng ty KNV có phát sinh trong
thời hạn bảo lãnh của Ngân hàng khơng?
Cơng ty Cửu Long có trách nhiệm phát sinh với công ty K.N.V thể hiển ở đoạn
sau:
Việc công ty Cửu Long cho rằng không vi phạm nghĩa vụ giao hàng và thời hạn
giao hàng chậm nhất là ngày 27/05/2016 là không đúng với thỏa thuận của các bên
trong hợp đồng. Tòa án sơ thẩm và phúc thẩm buộc công ty Cửu Long trả cho Công
ty K.N.V tổng số tiền là 946.200.000 đồng (gồm 5% tiền phạt giá trị hợp đồng, tiền
lãi của số tiền 1.510.000.000 đồng) là có căn cứ.
Câu 3.3. Theo Tồ án nhân dân tối cao, khi người có quyền (Cty KNV) khởi
kiện Ngân hàng trả nợ thay sau khi thời hạn bảo lãnh kết thúc thì Ngân hàng có
cịn trách nhiệm của người bảo lãnh khơng? Đoạn nào của Quyết định có câu
trả lời?
Theo Toà án nhân dân tối cao, khi người có quyền (Cty KNV) khởi kiện
Ngân hàng trả nợ thay sau khi thời hạn bảo lãnh kết thúc thì Ngân hàng vẫn còn
trách nhiệm của người bảo lãnh.
Trong bản án có đoạn:
Đến ngày 11/5/2016, khi đã hết thời hạn của hiệu lực của Thư bảo lãnh,
Ngân hàng Việt Á mới có Thơng báo số 56TB/CNBD/16 gửi cơng ty
K.N.V về việc không thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh với lý do chưa nhận
được Thư bảo lãnh bản gốc trước 17 giờ 00 phút ngày 09/5/2016. Sau
khi nhận được thông báo của Ngân hàng, ngày 12/5/2016, Công ty
K.N.V nộp bản gốc Thư bảo lãnh bản gốc cho Ngân hàng. Như vậy, lý
do từ chối thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh của Ngân hàng Việt Á là khơng
thể chấp nhận được.
Ngồi ra bản án cịn có đoạn: “…Tịa án cấp phúc thẩm buộc Ngân hàng Việt Á
phải thực hiện nghĩa vụ hoàn trả cho Cơng ty TNHH K.N.V số tiền tạm ứng cịn

thiếu 1.510.000.000 đồng là có căn cứ…”


16

Câu 3.4. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa án nhân dân tối
cao?
Hướng giải quyết của Tịa án nhân dân tối cao là hồn tồn hợp lý.
Trong điều khoản của hợp đồng đã ký kết vào ngày 12/4/2016 thì hai bên có
thỏa thuận bên B giao hàng chậm nhất cho bên A là 20 ngày làm việc kể từ ngày
bên B nhận tiền ký quỹ tạm ứng, nếu B cố tình trì hỗn, chậm giao hàng, khơng
giao hàng do lỗi của B thì B phải chịu phạt 5% giá trị hợp đồng và trả lãi tiền ký
quỹ. Mà ngày 15/4/2016 bên A đã gửi số tiền ký quỹ nên thời gian giao hàng chậm
nhất là ngày 9/5/2016 những bên B khơng hồn thành nghĩa vụ giao hàng. Cho nên
quyết định buộc bên B hoàn trả số tiền 946.000.000đ cho bên A là hồn tồn chính
xác.
Xét Thư bảo lãnh hoàn trả tiền ứng trước ngày 14/482016 và Thư tu chỉnh bảo
lãnh ngày 04/5/2016 gia hạn hiệu lực của Thư bảo lãnh đến ngày 09/5/2016 do
Ngân hàng Việt Á phát hành là đúng quy định pháp luật. Nhưng do bên công ty Cửu
Long vi phạm nghĩa vụ giao hàng nên ngày 09/5/2016 Cơng ty K.N.V đã có cơng
văn đề nghị ngân hàng thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh đồng thời cũng có thơng báo
cho Cơng ty Cửu Long. Trong cùng ngày ngân hàng Việt Á có thơng báo tạm ngừng
việc hồn trả tiền tạm ứng nhưng khơng đề cập nội dung ngân hàng từ chối trách
nhiệm bảo lãnh. Đồng thời không yêu cầu Công ty K.N.V gửi thư bảo lãnh gốc. Sau
khi nhận được thông báo không thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh thì Cơng ty K.N.V đã
gửi thư bảo lãnh bản gốc đến cho ngân hàng. Nên theo khoản 2 Điều 330 BLDS
2015 thì Tịa án buộc Ngân hàng Việt Á hoàn trả số tiền tạm ứng cịn thiếu cho cơng
ty K.N.V là hợp lý.



17

VẤN ĐỀ 4: GIẢM MỨC BỒI THƯỜNG DO HOÀN CẢNH KINH TẾ
KHÓ KHĂN
Câu 4.1. Từng điều kiện được quy định trong BLDS để giảm mức bồi thường do
thiệt hại quá lớn so với khả năng thực tế.
Theo quy định tại khoản 2 Điều 585 BLDS 2015: “Người chịu trách nhiệm bồi
thường thiệt hại có thể được giảm mức bồi thường nếu khơng có lỗi hoặc có lỗi vơ ý
và thiệt hại quá lớn so với khả năng kinh tế của mìn”.
Thì phải đáp ứng đủ hai điều kiện để giảm mức bồi thường thiệt hại (BTTH) do
thiệt hại quá lớn so với khả năng thực tế.
Thứ nhất, người chịu trách nhiệm BTTH gây thiệt hại với lỗi vô ý hoặc khơng
có lỗi, nếu trường hợp người này thực hiện với lỗi cố ý thì khơng có quyền được
u cầu hạ mức BTTH.
Thứ hai, thiệt hại đó phải vượt quá khả năng thực tế, điều này được định nghĩa
tại điểm c khoản 2.2 Điều 2 Mục 2 nghị quyết 03/2006/NQ-HĐTP, cụ thể: “Thiệt
hại xảy ra quá lớn so với khả năng kinh tế trước mắt và lâu dài của người gây thiệt
hại, có nghĩa là thiệt hại xảy ra mà họ có trách nhiệm bồi thường so với hồn cảnh
kinh tế trước mắt của họ cũng như về lâu dài họ khơng thể có khả năng bồi thường
được tồn bộ hoặc phần lớn thiệt hại đó”. Thì thiệt hại thực tế đó phải thuộc trường
hợp mà so với khả năng kinh tế lâu dài, trước mắt của người gây thiệt hại thì hồn
tồn khơng có khả năng bồi thường tồn bộ hay phần lớn thiệt hại.
Chẳng hạn, A thuộc diện hộ nghèo khơng có tài sản. khi vơ ý gây tài nạn dẫn đến
chết người, A bị Tòa án buộc BTTH với số tiền hơn 100tr đồng. Thì ở trong ví dụ
này, ta có thể thấy được A hồn tồn khơng có khả năng trả được hết số nợ trên ở cả
hiện tại lẫn về sau. Cho nên cộng với lỗi vơ ý A hồn tồn có khả năng được giảm
mức BTTH


18


Câu 4.2. Trong tình huống nêu trên, việc Tồ án áp dụng các quy định về giảm
mức bồi thường do thiệt hại quá lớn so với khả năng kinh tế của anh Nam để ấn
định mức bồi thường có thuyết phục khơng? Vì sao?
Trong tình huống nêu trên, việc Tịa án áp dụng các quy định về giảm mức bồi
thường do thiệt hại quá lớn so với khả năng kinh tế của anh Nam để ấn định mức
bồi thường là chưa thuyết phục. Căn cứ theo khoản 2 Điều 585 BLDS 2015 quy
định về Nguyên tắc Bồi thường thiệt hại: “Người chịu trách nhiệm bồi thường thiệt
hại có thể được giảm mức bồi thường nếu khơng có lỗi hoặc có lỗi vô ý và thiệt hại
quá lớn so với khả năng kinh tế của mình.”
Trong trường hợp này, người gây thiệt hại chỉ được giảm mức bồi thường nếu là
do “lỗi vơ ý” gây ra thiệt hại. Cịn nếu do “lỗi vơ ý” mà gây thiệt hại thì người gây
thiệt hại phải bồi thường toàn bộ thiệt hại, dù cho thiệt hại đó là quá lớn so với khả
năng kinh tế. Xét ở tình huống, anh Nam trong lúc thực hiện công việc do UBND
giao do vô ý gây thiệt hại cho bà Chính thì được giảm mức bồi thường. Tuy nhiên,
lỗi “vô ý” ở đây chưa được rõ ràng và ngoài ra cần phải làm rõ về điều kiện liên
quan đến hoàn cảnh kinh tế của người phải bồi thường. Việc Tòa án áp dụng các
quy định về giảm mức bồi thường do thiệt hại quá lớn so với khả năng kinh tế là
chưa thỏa đáng, vì Tịa án mới xem xét về hoàn cảnh, điều kiện để giảm thiệt hại
cần bồi thường là gì. Vì vậy, theo nhóm chưa đủ cơ sở để áp dụng việc giảm mức
bồi thường cho anh Nam.


19

VẤN ĐỀ 5: BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI DO NGUỒN NGUY HIỂM
CAO ĐỘ GÂY RA
Tóm tắt quyết định số 30/2010/DS-GĐT ngày 22/01/2010 của Tòa dân sự tòa 1n
nhân dân tối cao
Nguyên đơn: anh Nguyễn Hữu Công

Bị đơn: Chi nhánh điện Cái Bè
Công ty điện lực 2 do ông Nguyễn Văn Bạch (trưởng chi nhánh điện cái Bè) làm
đại diện có ký hợp đồng bán điện sinh hoạt cho anh Xua (Sua) (tổ trưởng tổ điện),
tuy anh Sua đứng tên nhưng người ký tên là anh Ri. Ngày 10/5/2003, cháu Nguyễn
Hữu Lợi (con nguyên đơn) bị điện giật chết nguyên nhân là do đường dây hạ thể bị
hở mạch điện
Tòa dân sự xét thấy anh Công không khởi kiện đúng đối tượng. và Tòa các cấp
cần phải hưởng dẫn lại cho anh. Đồng thời, Tòa các cấp cũng phải xác định rõ
đường dây điện đó là do ai quản lý, sử dụng, từ đó mới có căn cứ để ra quyết định.
Câu 5.1. Đoạn nào của Quyết định cho thấy Tòa án đã vận dụng chế định bồi
thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra
Đoạn của Quyết định cho thấy Tòa án đã vận dụng chế định bồi thường thiệt hại
do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra là
Hội đồng Giám đốc thẩm Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao: “Khi giải quyết
vụ án, Tòa án các cấp cần xác định rõ đường dây diện đó là do ai quản lý, sử dụng;
từ đó căn cứ vào Điều 623 Bộ luật dân sự và Nghị định số 45/2001/NĐ-CP…”
Chánh án Tòa án nhân dân tối cao kháng nghị bản án với nhận định: “…lẽ ra
phải làm rõ trách nhiệm của chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ (..) trong việc để
rò rỉ nguồn điện làm chết cháu Lợi, để có cơ sở giải quyết bồi thường thiệt hại cho
anh Công do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra.”


20

Câu 5.2. Suy nghĩ của anh/chị về việc Tòa án xác định đây là bồi thường thiệt
hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra.
Theo nhóm, hướng giải quyết của Tòa án về việc xác định đây là bồi thường
thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra là hợp lý, có căn cứ xác đáng. Để phát
sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại, điều kiện đầu tiên là phải có thiệt hại và điều
kiện này cũng tồn tại trong khoản 2 Điều 601 BLDS 2015: “Chủ sở hữu nguồn

nguy hiểm cao độ phải bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra; nếu
chủ sở hữu đã giao cho người khác chiếm hữu, sử dụng thì người này phải bồi
thường, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.” Điều kiện này đã được thỏa mãn trong
vụ việc khi cháu Lợi đi ngang qua chạm vào dây chằng thì bị điện giật chết tại chỗ.
Mặt khác, Tịa án đã khẳng định rằng “nguyên nhân cháu Lợi bị chết là do đường
dây điện hạ thế bị hở mạch điện”, từ đó có thể thấy rằng thiệt hại phát sinh là do
nguồn nguy hiểm cao độ gây ra. Như vậy, điều kiện nhân quả giữa thiệt hại và
nguồn nguy hiểm cao độ cũng được thỏa mãn trong vụ việc này. Ngồi ra, khơng có
yếu tố nào trong vụ việc cho phép khẳng định thiệt hại là do lỗi cố ý hoàn toàn của
cháu Lợi theo điểm a khoản 3 Điều 601: “Thiệt hại xảy ra hoàn toàn do lỗi cố ý
của người bị thiệt hại”, cũng khơng có yếu tố nào cho thấy thiệt hại xảy ra trong
trường hợp bất khả kháng hoặc tình thế cấp thiết theo như điểm b khoản 3 Điều
0601 quy định. Tuy nhiên, vẫn chưa làm rõ được ai là người Tòa án xác định là chủ
nguồn nguy hiểm cao độ và ai đang quản lý, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ nên
chưa biết có việc giao chiếm hữu, sử dụng hay khơng và cũng chưa biết ai là người
được giao chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ.2
Câu 5.3. Tòa dân sự có cho biết ai là chủ sở hữu đường dây điện hạ thế gây thiệt
hại khơng?
Tịa dân sự khơng cho biết ai là chủ sở hữu đường dây điện hạ thế gây ra thiệt
hại. Tuy nhiên, trong bản kháng nghị của Tịa án nhân dân tối cao có xác định chủ
sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ là Công ty điện lực 2.

2 Đỗ Văn Đại (2018), Luật bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng Việt Nam – Bản án và Bình luận bản án Tập
2, Nxb. Hồng Đức – Hội Luật gia Việt Nam, tr.286.


21

Câu 5.4. Theo anh/chị, ai là chủ sở hữu đường dây hạ thế gây thiệt hại?
Chánh án Tòa án nhân dân tối cao xác định “chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao

độ là Công ty điện lực 2”. Tuy nhiên, Tịa giám đốc thẩm khơng thừa nhận cũng
như khơng phủ nhận điều này. Và theo em thì nên xác định theo hướng phía điện
lực là chủ sở hữu đường dây hạ thế; còn những chủ thể khác là người chiếm hữu, sử
dụng như Tòa giám đốc thẩm đã định hướng khi xét rằng “Tòa án các cấp cần xác
định rõ đường dây điện đó do ai quản lý, sử dụng” để xác định trách nhiệm bồi
thường.
Câu 5.5. Theo Tòa dân sự, chủ thể nào sẽ chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại
cho gia đình nạn nhân?
Theo Tịa dân sự, chủ thể sẽ chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho gia đình
nạn nhân là: Tổ điện 4 thuộc ấp 3, xã Tân Hưng, huyện Cái Bè (do ông Trần Văn Ri
làm tổ trưởng).
Câu 5.6. Suy nghĩ của anh/chị về hướng xử lý trên của Tòa dân sự Tòa án nhân
dân tối cao liên quan đến xác định chủ thể chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại
cho gia đình nạn nhân.
Hướng xử lý của Tòa án nhân dân tối cao là hủy bản án sở thẩm và bản án phúc
thẩm là hoàn toàn hợp lý. Bởi lẽ 2 bản án này nhận định anh Công khởi kiện không
đúng đối tượng để bác yêu cầu khởi kiện của anh Công là không đúng, gây thiệt hại
đến quyền lợi của gia đình anh Công. Cả 2 bản án cũng không xác định rõ ai là chủ
sở hữu đường dây tải điện, qua đó có thể thấy cịn khó khăn trong việc xác định đối
tượng này.
Theo điểm i khoản 1 Điều 44 Nghị định số 45/2001/NĐCP ngày 02/08/2001 về
nghĩa vụ của bên mua điện thì: “Bồi thường cho bên bán những thiệt hại do lỗi của
mình gây ra theo quy định của pháp luật và các thoả thuận cụ thể trong hợp đồng
mua bán điện”. Trong hợp đồng có ghi rõ bên mua điện phải có nghĩa vụ sử dụng
điện an tồn, chịu trách nhiệm quản lý từ đầu dây ra của công tơ vào nhà. Việc
đường dây điện hạ thế bị hở mạch điện là do bên mua điện không thực hiện đúng
yêu cầu trong hợp đồng về việc chịu trách nhiệm quản lý đường dây điện.


22


Áp dụng theo khoản 2 Điều 601 BLDS 2015 về bồi thường thiệt hại do nguồn
nguy hiểm cao độ gây ra thì: “Chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ phải bồi thường
thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra; nếu chủ sở hữu đã giao cho người
khác chiếm hữu, sử dụng thì những người này phải bồi thường, trừ trường hợp có
thoả thuận khác”. Tuy là Cơng ty điện lực 2 là chủ sở hữu nhưng Công ty điện lực
2 đã ký hợp đồng cho ông Ri, nghĩa là ông Ri đang là chủ thể chiếm hữu và sử dụng
nguồn điện này. Vì thế ơng Ri phải là người bồi thường thiệt hại.


23

VẤN ĐỀ 6: BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI DO NGƯỜI THI HÀNH CƠNG
VỤ GÂY RA
Tóm tắt Bản án số 02/2015/HSST ngày 15/02/2015 của TAND tỉnh Phú Yên
Đêm ngày 11, rạng sáng 12/05/2012, Kiều cùng với Cường và Sơn sử dụng oto
đột nhập vào nhà bà Thuẫn trộm cắp tài sản gồm 14.000.000 đồng và 5 điện thoại di
động. Sơn bị cơ quan điều tra bắt giữ, Cường ra đầu thú ít lâu sau, và cuối cùng
Kiều bị bắt khi đang ở nhà. Phó trưởng CA Lê Đức Hồn phân cơng các trinh sát
viên là Quyền, Mẫn, Huy, Quang, Thành canh gác, xét hỏi Kiều. 5 người trên đã
đánh đập, tra tấn khiến cho Kiều tử vong trên đường đi cấp cứu. Giám định viên
khẳng định, chấn thương sọ não là nguyên nhân chính dẫn đến Kiều tử vong. Xét
tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, các tình tiết giảm nhẹ
trách nhiệm hình sự và nhân thân của từng bị cao để quyết định hình phạt.
Câu 6.1: Những khác biệt cơ bản về thiệt hại được bồi thường khi một cá nhân
chết theo Luật trách nhiệm bồi thường của Nhà nước và BLDS.
Những khác biệt cơ bản về thiệt hại được bồi thường khi một cá nhân chết theo
Luật trách nhiệm bồi thường của Nhà nước và BLDS 2015 là:
Luật trách nhiệm bồi
Tiêu chí

thường thiệt hại của Nhà
nước
Cơ sở pháp lí
Điều 25, Điều 27
Những chi phí phải bồi 1. Chi phí khám bệnh, chữa
thường
bệnh theo quy định của
pháp luật về khám bệnh,
chữa bệnh cho người bị
thiệt hại trước khi chết.
2. Chi phí bồi dưỡng sức
khỏe cho người bị thiệt hại
trước khi chết
3. Chi phí cho người chăm
sóc người bị thiệt hại trong
thời gian khám bệnh, chữa
bệnh trước khi chết
4. Chi phí cho việc mai
táng người bị thiệt hại chết
5. Tiền cấp dưỡng cho

BLDS 2015
Điều 591, Điều 593
Thiệt hại do sức khỏe bị
xâm phạm.
Chi phí hợp lý cho việc
mai táng
Tiền cấp dưỡng cho
những người mà người
bị thiệt hại có nghĩa vụ

cấp dưỡng
Thiệt hại khác do luật
quy định
Tiền bù đắp tổn thất về
tinh thần cho những
người thân thích thuộc
hàng thừa kế thứ nhất
của người bị thiệt hại


24

những người mà người bị
thiệt hại đang thực hiện
nghĩa vụ cấp dưỡng.
Xác định theo mức trợ cấp
mai táng theo quy định của
Chi phí mai táng
pháp luật về bảo hiểm xã
hội
Một tháng lương tối thiểu
vùng tại nơi người được
cấp dưỡng đang cư trú cho
Tiền cấp dưỡng cho
mỗi tháng thực hiện nghĩa
những người mà người vụ cấp dưỡng.
bị thiệt hại đang thực Trừ trường hợp pháp luật
hiện nghĩa vụ cấp
có quy định khác hoặc đã
dưỡng

được xác định theo bản án,
quyết định đã có hiệu lực
pháp luật của cơ quan nhà
nước có thẩm quyền.
Được xác định là 360 tháng
lương cơ sở.
Mức bồi thường thiệt Trường hợp người bị thiệt
hại về tinh thần cho gia hại chết thì khơng áp dụng
đình người bị thiệt hại bồi thường thiệt hại về tinh
về tính mạng
thần quy định tại các khoản
1,2,3 và 5 Điều 27

Chi phí hợp lý cho việc
mai táng
Không nêu rõ số tiền cụ
thể

Do các bên thỏa thuận.
Nếu khơng thỏa thuận
được thì mức tối đa cho
một người có tính mạng
bị xâm phạm khơng q
một trăm lần mức lương
cơ sở do Nhà nước quy
định.

Câu 6.2. Hoàn cảnh như trong vụ việc trên có được Luật trách nhiệm BT của
nhà nước điều chỉnh khơng
Hồn cảnh như trong vụ việc không được Luật trách nhiệm BT của nhà nước

điều chỉnh vì theo quy định tại Điều 18 Luật trách nhiệm bồi thường thiệt hại của
nhà nước 2017 thì chỉ những trường hợp người bị thiệt hại khơng có tội, lúc đó
phạm vi trách nhiệm bồi thường thiệt hại mới thuộc về nhà nước. Ở đây, các bị hại
Cường, Ngơ, Kiều đề đã có hành vi trái pháp luật được quy định tại BLHS, cụ thể là
cả 3 đã thuê xe ô tô thực hiện việc cướp tài sản.


25

Câu 6.3. Nếu hoàn cảnh như trong vụ án trên xảy ra sau khi BLDS 2015 có hiệu
lực, hướng giải quyết có khác hướng giải quyết trong vụ án khơng? Vì sao?
Nếu hồn cảnh như trong vụ án trên xảy ra sau khi BLDS 2015 có hiệu lực thì
hướng giải quyết trong vụ án cơ bản là không thay đổi.
Về mức bồi thường tổn thất tin thần khi tính mạng bị xâm phạm, điểm khác biệt
giữa BLDS 2005 và BLDS 2015 là mức bồi thường bù đắp về tổn thất về tin thần
khi các bên không thỏa thuận được. Ở BLDS 2005 mức tối đa không quá 60 tháng
lương tối thiểu do Nhà nước quy định, còn ở BLDS 2015 quy định mức tối đa
không quá một trăm lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy định. Và trong vụ án
này, các bị cáo đã tự nguyện bồi thường tổng số tiền cho khoản bù đắp tổn thất về
tinh thần và chi phí mai táng là cao hơn số tiền do Luật quy định. Vì vậy nên khơng
có sự thay đổi về mức phạt bồi thường tổn thất tinh thần.
Về việc bị cáo sử dụng nhục hình và thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm
trọng làm ảnh hưởng đến tính mạng của anh Kiều khơng thuộc phạm vi bồi thường
của Luật trách nhiệm bồi thường của Nhà nước (cụ thể là Điều 26 Luật Trách nhiệm
bồi thường của Nhà nước 2009) nên không được bồi thường tinh thần theo mức 360
lần mức lương cơ sở. Vì vậy dù là áp dụng BLDS 2005 hay BLDS 2015 thì cũng
khơng ảnh hưởng đến quyêt định này.



×