ĐHQG-HCM
Ngày nhận hồ sơ
Trường ĐHKHXH&NV
Do P.ĐN&QLKH ghi
Mẫu:
ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC SINH VIÊN CẤP TRƯỜNG
NĂM HỌC 2020 - 2021
Tên đề tài:
VỀ CÁCH HỌC CHỮ HÁN LÝ TƯỞNG
Thành phần tham gia thực hiện đề tài
Chịu trách
nhiệm
Điện thoại
Email
Lý Lệ Quân
Chủ nhiệm
0896407098
2.
Lữ Như Huân
Tham gia
0916264612
3.
Đại Chí Nguyên
Tham gia
0937629803
4.
Hà Giang
Tham gia
0911588002
Tham gia
0792150608
STT
1.
5.
Họ và tên
Nguyễn Thị Hương Lan
!
1
ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
Khoa/Bộ môn Ngôn ngữ Trung Quốc
TÊN ĐỀ TÀI
CÁCH HỌC CHỮ HÁN LÝ TƯỞNG
Ngày… tháng… năm 20…
Ngày… tháng… năm 20…
Người hướng dẫn
Chủ nhiệm đề tài
(Ký và ghi họ tên)
(Ký và ghi họ tên)
Ngày… tháng… năm 20…
Ngày… tháng… năm 20…
Chủ tịch Hội đồng
Phòng ĐN&QLKH
(Ký và ghi họ tên)
(Ký và ghi họ tên)
TP. HỒ CHÍ MINH, 2021
2
MỤC LỤC
TÓM TẮT NỘI DUNG
4
MỞ ĐẦU
5
1. Lý do chọn đề tài
5
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu đề tài
5
3. Mục tiêu nghiên cứu
6
4. Phương pháp nghiên cứu
6
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
6
6. Đóng góp khoa học của đề tài/ ý nghĩa thực tiễn
6
7. Bố cục của đề tài
7
CHƯƠNG 1
8
CHỮ HÁN VÀ THỰC TRẠNG HỌC CHỮ HÁN Ở VIỆT NAM
8
1.1 Khái lược chữ Hán
8
1.1.1 Nguồn gốc
8
1.1.2 Quá trình phát triển
9
1.1.3 Cấu tạo
1.2 Thực trạng học chữ Hán hiện nay
10
17
1.2.1 Những cách học chữ Hán phổ biến
17
1.2.2 Những khó khăn trong quá trình học chữ Hán
27
Tiểu kết chương 1
30
CHƯƠNG 2
32
VỀ CÁCH HỌC CHỮ HÁN LÝ TƯỞNG
32
2.1 Về vấn đề viết chữ Hán
32
3
2.1.1 Quy luật 6 nét
32
2.2.4 Chữ hoàn chỉnh
41
2.3 Về vấn đề ghi nhớ chữ Hán
2.3.1 Ghi nhớ chữ Hán thông qua lục thư
Tiểu kết chương 2
44
44
52
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
52
TÀI LIỆU THAM KHẢO
54
PHỤ LỤC
55
4
TĨM T Ắ T N ỘI DUNG
Học tiếng Hán ln phải song hành với việc học chữ Hán. Nhưng chữ Hán có
số lượng lớn, kết cấu phức tạp dẫn đến khó khăn trong việc viết, hiểu và nhớ
cho người học. Nhóm chúng tơi trên cơ sở khảo sát tình hình học chữ Hán
hiện nay, đã thu được hai điểm khó khăn mà người học thường gặp phải, đó
là việc viết và nhớ chữ. Bài viết này thông qua việc phân tích hệ thống nét chữ
và hệ thống bộ kiện tham gia cấu tạo thành chữ Hán hoàn chỉnh, đồng thời
phân tích cách thức ghi chép chữ Hán nhằm giải quyết khó khăn cho người
học ở khía cạnh viết và nhớ chữ. Bố cục bài viết gồm ba phần chính: phần 1
về khái lược chữ Hán và thực trạng học chữ Hán ở Việt Nam; phần 2: giải
quyết vấn đề viết chữ Hán; phần 3: giải quyết vấn đề nhớ chữ Hán và kết
luận.
Từ khoá: chữ Hán, cách học chữ Hán, nét bút (笔画), bộ kiện, văn tự biểu ý,
văn tự biểu âm.
5
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Khác với hệ thống chữ cái Tiếng Việt được cấu tạo từ bộ chữ Latinh, mỗi một
chữ Hán đều bao gồm ba thành tố hình, âm và nghĩa. Vì thế chữ Hán địi hỏi
ở người học không chỉ phải hiểu, phải nhớ âm đọc mà cịn phải ghi nhớ cả
mặt chữ. Do chưa tìm được phương pháp phù hợp cộng thêm số lượng từ
vựng quá nhiều đã gây rất nhiều khó khăn cho người học chữ Hán. Do đó
chúng tơi đã lựa chọn chủ đề nghiên cứu là “Về cách học chữ Hán lý tưởng”
với hy vọng mong muốn được giúp mọi người, đặc biệt là những bạn đã và
đang học chữ Hán, tìm ra những điểm mấu chốt trong cách học Hán tự.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu đề tài
Đầu tiên ở Trung Quốc, đây là một quốc gia với các công trình nghiên cứu đồ
sộ về Hán tự gồm chuyên khảo, giáo trình, sách tham khảo, bài báo khoa học,
vân vân. Nhưng do khả năng và trình độ chun mơn của nhóm nghiên cứu có
hạn nên khó nắm bắt và hiểu sâu hết được những kiến thức trong các tài liệu
chuyên ngành, cộng thêm chúng tôi cũng chưa thực sự bắt gặp được những
cơng trình nghiên cứu hướng về các phương pháp ghi nh ớ chữ Hán cho các
đối tượng học tập nước ngoài.
Thứ hai, tại Việt Nam, do nhu cầu tăng cao nên những bài báo nghiên cứu, tư
liệu tham khảo về chữ Hán cũng ngày một được phát hành và sử dụng rộng
rãi. Gần đây vào năm 2015, nhóm tác giả gồm Nguyễn Đình Phức, Trương
Gia Quyền, Lê Quang Trường đã xuất bản Giáo trình Văn tự học chữ Hán;
tháng 9 năm 2020, trên tạp chí Ngơn ngữ & Đời sống, nhóm tác giả gồm
Nguyễn Đình Phức, Nguyễn Minh Thúy, Trần Tuyết Nhung, Võ Ngọc Tuấn
Kiệt đã công bố bài viết Về việc giảng dạy chữ Hán cho sinh viên chuyên
ngành Ngôn ngữ Trung Quốc. Những bài nghiên cứu này tuy bàn rất chuyên
6
sâu và kĩ càng về chữ Hán nhưng về cách thức học tập và ghi nhớ mặt chữ vẫn
chưa được khai thác một cách kỹ càng.
3. Mục tiêu nghiên cứu
Nghiên cứu cách học chữ Hán lý tưởng là tìm ra phương pháp học chữ Hán
phù hợp với nhu cầu và trình độ của mọi người, giúp người học có thể dễ dàng
viết và ghi nhớ được mặt chữ. Ngoài ra người học còn hiểu được cách thức
ghi chép và cấu tạo của chữ Hán.
4. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài trong quá trình nghiên cứu, sử dụng một số phương pháp sau:
- Phương pháp hệ thống: xem xét phương pháp ghi nhớ chữ Hán trong quan
hệ tổng hòa với các vấn đề thuộc chữ Hán nói riêng, với việc học tập tiếng
Hán nói chung.
- Phương pháp miêu tả ngơn ngữ: dựa trên các tiêu chí miêu tả của ngơn ngữ
học miêu tả, tiến hành miêu tả cấu trúc chữ Hán trong việc ghi chép ngôn ngữ.
- Phương pháp bảng câu hỏi: khảo sát các đối tượng người học chữ Hán về
những khó khăn mà họ gặp phải về việc viết và ghi nhớ chữ Hán.
- Phương pháp phân tích: từ cứ liệu về những bất cập trong việc viết và nhớ
chữ Hán đi tới chủ trương học chữ Hán lý tưởng.
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là về cách học chữ Hán lý tưởng. Những vấn
đề bên ngồi nội dung nêu trên, khơng thuộc phạm vi nghiên cứu của đề tài.
6. Đóng góp khoa học của đề tài/ ý nghĩa thực tiễn
Về ý nghĩa khoa học, đề tài sau khi nghiệm thu sẽ góp phần củng cố về cách
học chữ Hán ở tất cả các khía cạnh và tìm ra được phương pháp học chữ Hán
một cách hợp lý. Nhìn từ khía cạnh thực tiễn, kết quả của đề tài có giá trị tích
7
cực và hữu ích trong việc thúc đẩy, nâng cao hiệu quả học tiếng Hán của nhóm
nghiên cứu, cũng như là tài liệu tham khảo cho sinh viên có nhu cầu học ngành
Ngữ văn Trung Quốc.
7. Bố cục của đề tài
Đề tài ngoài phần dẫn nhập, kết luận, phụ lục, phần nội dung chính được phân
thành 02 chương như sau:
Chương 1. Chữ Hán và thực trạng học chữ Hán ở Việt Nam
Chương 2. Về cách học chữ Hán lý tưởng.
8
CHƯƠNG 1
CH Ữ HÁN VÀ THỰC TR Ạ NG H Ọ C CH Ữ HÁN Ở VI ỆT NAM
1.1 Khái lược chữ Hán
1.1.1 Nguồn gốc
Chữ Hán có nguồn gốc từ Trung Quốc, cụ thể là từ các hình vẽ. Trên con
đường tạo ra chữ viết, người Trung Quốc cổ dựa vào sự quan sát mọi thứ
quanh họ, sau đó chuyển chúng dưới dạng hình vẽ để biểu đạt ý nghĩa nên chữ
Hán còn được biết đến cơ bản là chữ biểu ý. Về nguồn gốc của chữ Hán, có
vơ số các truyền thuyết được lưu truyền, trong đó khơng thể không nhắc đến
thuyết “Thương Hiệt tạo chữ”.
Tương truyền rằng Thương Hiệt là một người rất thần kỳ và đặc biệt là ơng
có bốn con mắt. Vì thế việc có thể quan sát hết tất cả mọi thứ trên trần đời
này đối với ông là một việc hết sức hiển nhiên. Từ những vì sao trên bầu trời
rộng lớn, những dấu chân từ nhỏ đến lớn của muôn vật, ông cảm nhận được
chúng có các hình dáng khác nhau, có thể phân biệt được. Điều đó đã giúp ơng
trong cơng cuộc tạo ra các con chữ. Nhưng cũng vì đó là truyền thuyết, nên
khi chúng ta nhìn lại vẫn thấy khó mà tin được.
Thực tế, chữ Hán được tạo ra do nhu cầu trong cuộc sống lúc bấy giờ của tổ
tiên người Trung Quốc. Song, thuyết “Thương Hiệt tạo chữ” đã để lại cho đời
sống một giá trị vô cùng lớn trong việc tìm lại sự khởi nguồn của chữ Hán.
Điều này có ý nghĩa rất quan trọng trong sự nghiệp nghiên cứu sự phát triển
của chữ Hán.
Những năm gần đây, các nhà khảo cổ đã phát hiện ra ở trên các mai rùa, xương
động vật, đồ đá, đồ gốm,… được khai quật ở khắp nơi của Trung Quốc (Ninh
9
Hạ, Hà Nam) có các ký tự giống như hình vẽ được kh ắc trên đó. Từ đây các
nhà khảo cổ có thể ước lượng được thời gian xuất hiện của chữ Hán ở Trung
Quốc là vào khoảng 1800 năm Trước Công Nguyên, vào thời kỳ nhà Thương.
Những chữ viết đó được gọi là Giáp cốt văn (chữ Giáp cốt). Cho đến nay, chữ
Giáp cốt được cho là văn tự cổ nhất hiện nay của chữ Hán.
1.1.2 Quá trình phát triển
Quá trình phát triển chữ Hán là một quá trình phát triển lịch sử lâu dài. Hình
thể của chữ Hán qua hơn 3.000 năm đã trải qua quá trình diễn biến từ Giáp cốt
văn, Kim văn, Tiểu triện, Lệ thư và Khải thư.
Vào thời nhà Thương (1600 - 1046 Trước Công Nguyên) và Tây Chu (1046 771 Trước Công Nguyên) đã xuất hiện một loại văn tự cổ xưa, khá giống với
hình vẽ, là một hệ thống chữ viết tương đối hoàn chỉnh. Đây là loại chữ viết
được coi là hợp thể của hình, âm và nghĩa. Loại chữ này được khắc trên mai
rùa và xương thú nên gọi là Giáp cốt văn.
Kim văn phát triển từ Giáp cốt văn, có hình thể cịn khá giống hình vẽ nhưng
cân đối và đẹp hơn Giáp cốt văn, có nét bút trịn và to hơn. Kim văn được
khắc trên đồ đồng thau, chủ yếu là trên các đồ cúng tế như chung và đỉnh
đồng vào thời kỳ Thương – Chu. Do thời đó gọi đồng là “kim”, nên đã gọi
những chữ trên đồ đồng thau là “Kim văn”, ngồi ra cịn được gọi là “Chung
đỉnh văn”.
Vào thời kỳ Chiến quốc (475 - 221 năm Trước Cơng Ngun), do hình thể
của chữ Hán không thống nhất, chữ dị thể quá nhiều, cùng một chữ nhưng ở
các nước Tề, Sở, Yên, Hàn, Triệu, Tần mỗi nước đều có cách ghi và âm đọc
khác nhau. Cho nên sau khi thống nhất Trung Quốc, Tần Thủy Hồng đã thi
hành chính sách “Thư Đồng Văn”, thống nhất lại chữ viết, và thế là chữ Tiểu
triện ra đời. Những loại chữ Giáp cốt văn, Kim văn, Chiến quốc văn được gọi
chung là “Đại triện”, còn loại chữ viết được Tần Thủy Hồng thống nhất có
hình thể giản lược hơn nên được gọi là “Tiểu triện”. Chữ Tiểu triện lưu hành
10
đến những năm cuối thời Tây Hán và là giai đoạn cuối của cổ văn tự Trung
Quốc.
Vào thời Tần, có một chữ thể viết lưu hành song song với chữ Tiểu triện, đó
là Lệ thư. Thời kỳ đó, các văn bản được viết bằng bút lông trên thẻ tre, nhằm
nâng cao tốc độ viết chữ, những viên chức cấp thấp phụ trách viết công văn
đã viết chữ Tiểu triện theo cách viết trong dân gian và đã tạo ra Lệ thư. Đến
thời Hán thì Lệ th ư hồn tồn hồn thiện, nét bút tương đối bằng, thẳng, hình
thể được đơn giản hóa, hồn tồn khơng cịn giống hình vẽ. Lệ thư biến thành
loại chữ viết thuần túy là ký hiệu, kết thúc giai đoạn cổ văn tự và bắt đầu giai
đoạn kim văn tự.
Và thể chữ ở giai đoạn cuối của diễn biến chữ Hán chính là Khải thư. Khải
thư diễn biến từ Lệ thư, do hình thể đoan chính, vng vức, góc cạnh rõ ràng,
nét bút ngay thẳng có thể làm “Khải mô” (khuôn phép, mẫu mực) để học tập
viết chữ nên được gọi là “Khải thư” hay còn được gọi là “Chân thư” hoặc
“Chính thư”.
Ngồi ra cịn có 2 thể chữ viết khác là Thảo thư và Hành thư. Thảo thư là cách
viết giản lược và viết liền của Lệ thư, phá vỡ khối hình vng của chữ Hán.
Hành thư, xuất hiện vào thời Đơng Hán, được hình thành từ cách viết nhanh
của chữ Khải, không chỉnh tề như Khải th ư nhưng cũng không thô lược như
Thảo thư, rất dễ đọc.
1.1.3 C ấu tạ o
1.1.3.1 Chữ Hán được tạo ra từ lục thư
Lục thư là một hệ thống bao gồm 6 phương pháp cấu tạo chữ Hán. Lục thư
phân tích cấu tạo, cách hình thành và phương pháp sử dụng chữ Hán, bao
gồm: tượng hình, chỉ sự, hội ý, hình thanh, chuyển chú và giả tá.
Tượng hình(象形)
11
Chữ tượng hình là cơ sở để hình thành và phát triển hệ thống chữ Hán, là
phương pháp tạo chữ sử dụng nét bút để vẽ ra hình dạng của sự vật hiện tượng,
tương đối giống với hình vẽ. Chữ tượng hình qua nhiều cuộc biến đổi, từ
những hình vẽ cụ thể ban đầu dần được đường nét hóa, nét bút hóa. Chữ tượng
hình hiện nay mang tính tượng trưng cao nhưng vẫn miêu tả được những đặc
trưng điển hình của sự vật, hiện tượng.
Ví dụ: chữ “khẩu” (口 - cái miệng) có hình hình dạng như cái miệng đang mở
rộng; chữ “mục” (目 - con mắt) có hình dạng con mắt với đồng tử ở giữa.
Chỉ sự (指事)
Chỉ sự là phương pháp tạo chữ, được hình thành dựa trên hệ thống chữ tượng
hình, bằng cách sử dụng kí hiệu để chỉ ra sự vật hiện tượng, nhìn chữ có thể
đốn được nghĩa. Chữ chỉ sự hình thành bằng hai cách:
- Dựa trên cơ sở của chữ tượng hình vẽ thêm kí hiệu tạo thành chữ chỉ sự, chỉ
ra ý nghĩa muốn biểu đạt. Ví dụ: từ chữ 木 (mộc - cây) thêm một nét bên trên
để chỉ ngọn cây 末, thêm một nét bên dưới để chỉ gốc cây 本; 刀 (đao - con
dao) thêm một nét để chỉ lưỡi dao 刃,...
- Sử dụng kí hiệu đơn mang tính tượng trưng để chỉ khái niệm, con số. Ví dụ:
一 (số một), 二 (số hai), 三 (số ba),...
Hội ý (会意)
Hội ý là phương pháp tạo chữ bằng cách kết hợp từ hai trở lên các chữ tượng
hình để tạo thành một chữ mới, có âm - nghĩa mới. Chữ hội ý gồm 2 cách thức
cấu tạo chính:
- Chữ hội ý đồng thể: tạo chữ bằng cách kết hợp từ 2 chữ Hán giống nhau trở
lên. Ví dụ: 森, 炎, 比,...
- Chữ hội ý dị thể: tạo chữ bằng cách kết hợp từ 2 chữ Hán khác nhau trở lên.
Ví dụ: 看 (nhìn) được kết hợp bởi bộ 手 (cái tay) và 目 (con mắt) để gợi hình
12
ảnh lấy tay che mắt để nhìn được xa hơn; 卡 (mắc kẹt) không 上 (lên, trên)
cũng không 下 (xuống, dưới) miêu tả trạng thái bị kẹt ở giữa.
Hình thanh(形声)
Hình thanh là phương pháp tạo chữ bằng cách kết hợp hai bộ phận gồm hình
bàng (ghi ý) và thanh bàng (ghi âm). Cụ thể hơn, hình bàng cho biết ý nghĩa
khái quát nhất và thường là chữ tượng hình, thanh bàng cho biết âm thanh
giống hoặc gần giống của từ, có thể là chữ chỉ sự, hội ý hoặc hình thanh. Có
6 vị trí sắp xếp của hình bàng và thanh bàng để tạo ra được một chữ hình thanh:
- Hình trái thanh phải: 江, 河, 妈, 娘,...
- Hình phải thanh trái: 政, 攻, 领, 功,...
- Hình trên thanh dưới: 笙, 宇, 零, 草,...
- Hình dưới thanh trên: 志, 忠, 忍, 婆,...
- Hình ngồi thanh trong: 园, 固, 圆, 阁,...
- Hình trong thanh ngồi: 问, 闻,...
Chuyển chú ( 转注)
Chuyển chú là không phải là phương pháp tạo chữ mà là phương pháp dùng
chữ, “chuyển chú” tức là chú giải nghĩa lẫn nhau. Nói cách khác, chuyển chú
là việc ứng dụng văn tự để tiện nhớ chữ, sử dụng cũng như giải thích chữ.
Chuyển chú là hình thức “dị âm đồng nghĩa”, các chữ có liên quan hoặc tương
đồng nhau về nghĩa nhưng có thể gần giống hoặc khác nhau hồn tồn về mặt
âm thanh cũng như hình thể. Các cặp từ chuyển chú thường được dùng trong
tự điển để giải nghĩa cho nhau. Ví dụ: 江 - 河 (dịng sơng), 京 - 都 (kinh
đô), 老 - 考 (chỉ người già),...
Giả tá(假借)
13
“Giả tá” tức là vay mượn, chữ giả tá theo như Hứa Thận định nghĩa “vốn
khơng có chữ, nhờ thanh mà gởi sự”. Giả tá được sử dụng bằng cách khi có
từ mới xuất hiện đã có âm đọc nhưng chưa có chữ viết, thay vì tạo ra một chữ
mới để thể hiện ý nghĩa của nó, người ta sẽ mượn một từ đồng âm có sẵn để
biểu đạt.
Ví dụ: 打 “dǎ” nghĩa động từ là “đánh”, người ta mượn chữ để biểu đạt giới
từ có nghĩa là “bắt đầu từ… ” chỉ sự khởi điểm về thời gian, không gian. Sau
này mượn thêm để chỉ “tá” (số lượng 12 cái, hoặc chỉ một bầy, một đám).
Giả tá xuất hiện giúp làm giảm bớt số lượng chữ Hán được tạo ra thêm, bởi
nếu mỗi chữ mới xuất hiện lại tạo ra một văn tự mới thì khó có thể đặt cho đủ
chữ. Tuy nhiên, trong khi sử dụng xảy ra nhiều hạn chế, dẫn đến việc là sự ra
đời của hàng loạt chữ hình thanh. Đa số các chữ hình thanh ra đời là nhờ vào
giả tá, nói cách khác, giả tá đã thúc đẩy sự hình thành và phát triển của chữ
hình thanh.
1.1.3.2 Những nét cơ bản của chữ Hán và cách viết
Chữ Hán hiện nay có hình thể khối vuông, được cấu thành bởi nét bút và kết
cấu hình thể có ba tầng bậc: nét bút – bộ kiện – chữ hồn chỉnh. Chữ Hán lấy
chữ tượng hình làm cơ sở cho kết cấu hình thể chính, vì thế mà cho tới ngày
nay chữ Hán về cơ bản là loại chữ biểu ý.
Đơn vị kết cấu
Nét bút:
Nét bút là đơn vị kết cấu nhỏ nhất của chữ Hán. Khi viết, từ lúc hạ bút đến
khi nhấc bút chính là một nét. Vì chữ Hán có hình khối vng nên nét bút chữ
Hán cơ bản là đường thẳng, chỉ có nét phẩy và nét mác là hơi có độ cong. Chữ
Hán gồm 6 nét cơ bản bao gồm: chấm, ngang, sổ, hất, phẩy, mác. Ngoài ra,
từ 6 nét cơ bản hình thành nên 22 nét phái sinh như sổ hất, ngang sổ, mác,...
14
Các hình thức tổ hợp của nét bút:
Có 3 hình thức tổ hợp đó là tách nhau, chạm nhau, giao nhau:
- Tách nhau: các nét bút tách rời nhau, không có điểm tiếp xúc như 二, 儿,
川,...
- Chạm nhau: các nét bút có điểm tiếp xúc nhau như 上,人,几,...
- Giao nhau: các nét bút giao cắt nhau như 也,九,十,...
Chú ý: các nét bút và quy tắc bút thuận giống nhau nhưng hình thức tổ hợp
khác nhau sẽ hình thành chữ Hán khác nhau, ví dụ như: 刀 và 力, 人 và 八,...
Bộ kiện – bộ thủ
Bộ kiện:
Bộ kiện do nét bút cấu thành, là đơn vị cấu tạo chữ cơ bản của chữ Hán. Bộ
kiện được phân thành 2 loại là bộ kiện thành chữ và bộ kiện không thành chữ.
Trong đó bộ kiện thành chữ tức là chữ độc thể do một bộ kiện cấu thành, là
loại chữ có kết cấu đơn giản như 人, 中, 王, 川 và cũng là bộ kiện của chữ
hợp thể. Còn bộ kiện không thành chữ là những thiên bàng do chữ độc thể biến
hình mà ra như 彡, 讠,...
Bộ thủ:
Bộ thủ là đem những chữ có thành phần tương đồng trong tự điển làm thành
một bộ, được sắp xếp ở đầu mỗi bộ để làm ký hiệu đánh dấu. Hiểu một cách
đơn giản chính là chữ có ý nghĩa xuất hiện thường xuyên.
Ví dụ: “木”, “人” những chữ trong bộ 木 đều có bộ thủ 木, cũng như những
chữ trong bộ 人 đều có bộ thủ 人.
Phần lớn thì các bộ thủ đều là chữ tượng hình và hầu như dùng làm bộ phận
chỉ ý nghĩa trong các chữ theo cấu tạo hình thanh. Mỗi một ch ữ hình thanh
đều gồm bộ phận chỉ ý nghĩa và một bộ phận chỉ âm thanh. Hình dạng của bộ
thủ được căn cứ vào số nét, ít nhất là 1 nét và nhiều nhất là 17 nét.
15
Bộ thủ có vị trí khơng cố định, tùy thuộc vào mỗi chữ mà có thể ở trên, dưới,
bên trái hay bên phải của chữ. Bộ thủ biểu thị một “loại” lớn, trong tự điển
thơng thường có hơn hai trăm bộ thủ đại diện cho hơn hai trăm loại sự vật,
mỗi lo ại bao gồm rất nhiều sự vật cụ thể cho nên có thể “thống lĩnh” hàng vạn
chữ Hán.
Chữ hoàn chỉnh
Chữ hoàn chỉnh là chữ Hán được sử dụng ngày nay do bộ kiện cấu thành, là
thể thống nhất gồm hình – âm – nghĩa. Được chia làm 2 loại: chữ độc thể và
chữ hợp thể.
- Chữ độc thể lấy nét bút là đơn vị cấu tạo chính, là một chữ hồn chỉnh, khơng
thể tách rời và là cơ sở thể tạo nên chữ hợp thể. Ví dụ: 人, 中, 王,...
- Chữ hợp thể được cấu tạo từ hai chữ độc thể trở lên. Chữ hợp thể có 3 kết
cấu chính là trái – phải, trên – dưới, ngồi – trong. Trong đó một bên thể hiện
ý nghĩa, một bên thể hiện âm đọc. Ví dụ: 好, 笑, 德,...
1.1.3.3 Nguyên tắc viết chữ hán - nét bút thuận
Chữ Hán không phải văn tự ghi âm nên cách thức ghi chép có nhiều điểm đặc
thù. Chữ Hán như đã nói ở trên, được cấu tạo bởi 6 nét bút cơ bản để hình
thành nên hệ thống chữ đồ sộ như ngày nay. Chữ Hán có nhiều chữ gồm rất
nhiều nét, gây khơng ít trở ngại cho người học trong việc ghi chép, không biết
bắt đầu đặt bút từ đâu. Để giải quyết vấn đề này quy tắc nét bút thuận ra đời,
nó quy định thứ tự viết của các nét trong chữ Hán, giúp chữ viết đẹp và có quy
củ hơn.
16
Ví dụ
Thứ tự nét bút
Ngang trước sổ sau
十
一丨
Phẩy trước mác sau
八
ノ乀
Trên trước dưới sau
亏
一一
Trái trước phải sau
孔
Ngoài trước trong sau
月
Quy tắc bút thuận
Quy tắc cơ bản
Vào trong trước đóng cửa sau 日
Ở giữa trước hai bên sau
Nét chấm ở giữa bên trên
→ viết nét chấm trước
Chữ có
nét
chấm
Nét chấm ở trên bên trái
→"viết nét chấm trước
Nét chấm ở trên bên phải
→ viết nét chấm sau cùng
Nét chấm bên trong
→ viết nét chấm sau cùng
Quy
tắc bổ
sung
Bao mặt trên bên phải
Chữ có → viết ngoài trước trong sau
kết cấu Bao mặt trên bên trái
bao
mặt
2 → viết ngoài trước trong sau
Bao mặt dưới bên trái
→ viết trong trước ngồi sau
Chữ có Bao 3 mặt dưới →" trong
kết cấu trước ngoài sau
bao
mặt
3 Bao 3 mặt trên →"ngoài trước
trong sau
小
门
为
ノ
犬
瓦
勺
庆
近
击
内
17
Bao 3 mặt trái →" từ trên
xuống dưới, từ trái qua phải
区
Bảng 1.1 Quy tắc nét bút thuận
Nguồn: www.5156edu.com (nhóm tác giả tự dịch)
1.2 Thực trạng học chữ Hán hiện nay
1.2.1 Những cách học chữ Hán phổ biến
Vì bài luận nghiên cứu về cách học chữ Hán lý tưởng, nên đầu tiên nhóm
chúng tơi cần nắm được tình hình học chữ Hán hiện nay của người học, lấy
đó làm tư liệu để đề xuất ra phương pháp học lí tưởng. chúng tơi đã lập ra bản
khảo sát “Về tình hình học chữ Hán hiện nay” với sự tham gia của 206 người
đang theo học chữ Hán, không phân độ tuổi. Tuy quy mô của bài khảo sát chưa
đủ lớn nhưng cũng phần nào cho thấy được tình hình học tập chữ Hán của
một bộ phận người học hiện nay. Trong đó, chủ yếu là sinh viên và người có
chuyên ngành về chữ Hán, chiếm 63.6% (tương đương 131 người) và 36.4%
cịn lại (tương đương 75 người) là những người khơng chuyên về chữ Hán,
học chữ Hán với các mục đích cá nhân khác nhau.
Ở câu 1, chúng tôi chia ra 4 mốc thời gian học, tương ứng với 4 giai đoạn học
chữ Hán khác nhau (dưới 1 năm; từ 1 đến 2 năm; từ 2 đến 3 năm và trên 4
năm). Trong bản khảo sát của chúng tôi, chiếm tỉ lệ cao nhất, hơn một nửa số
lượng 53.4% (tương đương 110 người) là người có thời gian học chữ Hán
dưới 1 năm, tức là những người chỉ mới bắt đầu học và tiếp xúc với chữ Hán.
Tiếp đến là người học từ 1-2 năm, chiếm tỉ lệ 21.8% là (tương đương 45
người). Người đã học chữ Hán trên 4 năm là người học lâu năm, chiếm 14.6%
(tương đương 30 người). Chiếm tỉ lệ thấp nhất là người học từ 2-3 năm chỉ
chiếm 10.2% (tương đương 21 người).
18
GIAI ĐOẠN CỦA NGƯỜI HỌC
THAM GIA KHẢO SÁT
15%
học <1 năm
10%
học 1-2 năm
53%
22%
học 2-3 năm
học >=4 năm
Biểu đồ 1.1 Giai đoạn của người học tham gia khảo sát
Nguồn: nhóm tác giả tự thực hiện
Ở câu thứ 2, chúng tôi đi vào tìm hiểu xu hướng lựa chọn mơi trường học chữ
Hán của người học. Chiếm tỉ lệ cao nhất với 61.7% (tương đương 127 người)
là người học chữ Hán thông qua trường lớp chuyên ngành, tìm hiểu chuyên
sâu về chữ Hán. Cho thấy khảo sát của chúng tôi tiếp cận được đến các bạn
học chuyên ngành là chủ yếu. Xếp thứ 2 chiếm 41.3% (tương đương với 85
người) là các bạn lựa chọn tự học chữ Hán. Tuy việc tự học chữ Hán gặp phải
khó khăn trong thời gian đầu tiếp cận do khơng có sự dẫn dắt và giám sát của
giáo viên, nhưng trái lại người học được tự do trong việc quản lý thời gian.
Chiếm 21.8% (tương đương với 45 người đã tham gia khảo sát) là những
người chọn học chữ Hán thông qua trường lớp như một ngoại ngữ khơng
chun. Cuối cùng chiếm tỉ lệ ít nhất với 8.3% (tương đương với 17 người)
là người học chữ Hán thơng qua gia đình. Cách tiếp cận chữ Hán này u cầu
người học phải có gia đình là người gốc Hoa hoặc có thành viên trong gia đình
đã học từ trước mới có thể tiếp cận.
19
Biểu đồ 1.2 Môi trường học của người tham gia khảo sát
Nguồn: nhóm tác giả tự thực hiện
Với những mơi trường học khác nhau thì xu hướng lựa chọn phương pháp học
cụ thể của người học sẽ như thế nào? Để khảo sát về vấn đề này, chúng tôi đã
chọn và đưa ra 3 cách học chữ Hán phổ biến nhất hiện nay để người học lựa
chọn (mỗi người có thể chọn cùng lúc nhiều phương án). Phương án đầu tiên,
là cách học chữ Hán theo lục thư; hiểu và ghi nhớ chữ từ phương pháp tạo chữ
Hán. Phương án thứ 2, học từ các bộ kiện, bộ thủ. Phương án thứ 3, học theo
phương pháp chiết tự. Chiết tự ở đây tức là phân tách chữ, chia chữ thành
những thành phần nhỏ, học từ những đơn vị nhỏ cấu thành chữ rồi nhớ được
cả chữ. Chữ Hán được hình thành trên cơ sở sự kết hợp của ba mặt hình – âm
– nghĩa, nên chiết tự cũng sẽ được chia thành 3 kiểu chính:
- Chiết tự về mặt hình thể: “Chim trích (彳) mà đậu cành tre, thập (十) trên tứ
(四) dưới nhất (一) đè chữ tâm (心)” → 德 – đức.
- Chiết tự về m ặt âm thanh: “Con gái (女) mà đứng éo le, chồng con chưa có
kè kè mang thai (台 – thai)” → 始 – thủy, bắt đầu.
- Chiết tự về mặt ý nghĩa: Người con gái (女) đứng dưới mái nhà (宀) tức
người con gái ấy được che chở, bảo vệ an toàn → 安 – an.
Vậy người học đã lựa chọn cách nào để học và ghi nhớ chữ Hán? Biểu đồ bên
dưới cho thấy tổng quan sự lựa chọn cách học của 4 đối tượng người học (mỗi
20
người học có thể chọn một hoặc nhiều cách học chúng tơi đề ra). Theo số liệu
cho thấy, tuy trình độ học khác nhau nhưng sự lựa chọn cách học về cơ bản là
không khác biệt. Cụ thể, cách học bằng phương pháp chiết tự được lựa chọn
nhiều nhất ở cả 4 trình độ (chiếm 41% tương đương 140 người lựa chọn trên
tổng số 206 người khảo sát), tiếp đến là bộ kiện, bộ thủ cũng chiếm số cao
với 36% (tương đương 120 người lựa chọn) và cuối cùng là lục thư chiếm số
lượng ít nhất, với 23% (tương đương 44 người lựa chọn).
90.00%
80.00%
70.00%
60.00%
50.00%
40.00%
30.00%
20.00%
10.00%
0.00%
học <1 năm
học 1-2 năm
học 2-3 năm
học >= 4 năm
lục thư
33.60%
42.20%
42%
40%
bộ thủ
59.10%
60%
61.90%
50%
chiết tự
63.30%
80%
71.40%
63.30%
Biểu đồ 1.3 Tỉ lệ các phương pháp học được lựa chọn qua từng giai đoạn
Nguồn: nhóm tác giả tự thực hiện
21
77,
23%
140,
41%
120,
36%
lục thư
bộ kiện, bộ thủ
chiết tự
Biểu đồ 1.4 Tỉ lệ các phương pháp học được lựa chọn của tất cả người
tham gia khảo sát
Nguồn: nhóm tác giả tự thực hiện
Vậy tại sao lại có sự phân hóa rõ rệt như vậy giữa các phương pháp học? Dưới
đây là một số nhận xét chúng tôi đưa ra về 3 cách học trên.
Đầu tiên xét về cách học theo lục thư. Lục thư là phương pháp tạo chữ Hán
hay cách thức chữ Hán ghi chép ngôn ngữ, bao gồm chữ ghi ý (tượng hình,
chỉ sự), chữ ghi âm (giả tá), chữ ghi cả ý lẫn âm (tượng thanh). Người học
nắm rõ về lục thư sẽ hiểu được quy luật ghi chép chung của chữ Hán, có thể
phân loại được loại chữ, biết chữ ấy có cách thức ghi chép ra sao, là chữ ghi
ý hay ghi âm hay ghi cả ý lẫn âm. Từ đó, hỗ trợ rất nhiều cho việc học, hiểu
và nhớ chữ Hán, khả năng mở rộng vốn từ cũng nhờ đó mà được nâng cao
hơn. Bên cạnh đó, chuyển chú tuy là cách dùng chữ nhưng cũng có giúp ích
rất lớn trong việc giúp hệ thống những chữ có cùng ý nghĩa với nhau.
Khái niệm lục thư tuy quen thuộc với những người học chuyên ngành tiếng
Hán nhưng đối với người học khơng chun thì khái niệm này còn tương đối
xa lạ. Tuy vậy, những nội dung của lục thư v ẫn luôn được sử dụng trong việc
dạy và học chữ Hán. Ví dụ như, dù khơng biết khái niệm cụ thể về lục thư hay
chữ tượng hình thì người học vẫn biết chữ 日 (nhật, mặt trời) được hình thành
22
bởi việc mơ phỏng lại hình dáng mặt trời. Điều đó đó cho thấy, nội dung của
lục thư đã được chọn lọc để người học không chuyên dễ hiểu và tiếp cận hơn.
Nội dung đầy đủ của lục thư bao gồm 6 loại tuy nhiên chỉ có nội dung của 4
phương pháp tạo chữ là tượng hình, chỉ sự, hội ý, hình thanh được biết đến
và vận dụng nhiều. Cịn với giả tá và chuyển chú, hai phương pháp dùng chữ
này đối với người học khơng chun cịn rất mới lạ vì chúng tương đối phức
tạp, khó nhớ nên ít được dạy hay nhắc đến. Theo chúng tôi việc khái niệm cụ
thể và đầy đủ của lục thư chưa được phổ biến rộng khắp với ng ười học cũng
là lý do chính khiến phương pháp này có tỉ lệ người học trong phạm vi khảo
sát lựa chọn ít nhất.
Học theo bộ kiện, bộ thủ là m ột cách học được lựa chọn tương đối nhiều. Theo
chúng tôi nguyên do là vì bộ kiện là đơn vị cấu tạo nên chữ Hán, thêm vào đó
214 bộ thủ hỗ trợ người học trong việc tra cứu ý nghĩa và cách đọc của từ
vựng.
Chữ Hán chiếm phần lớn là chữ hợp thể, tạo thành bởi sự kết hợp giữa các
bộ kiện, bộ thủ. Đặc biệt với các chữ hình thanh, nắm bộ thủ là hình bàng để
biết được ý khái quát của chữ và dựa vào bộ kiện là thanh bàng để phán đoán
cách đọc.
Chiết tự là phương pháp được lựa chọn nhiều nhất, bất kể ở giai đoạn học
nào. Với cách học này, mỗi ch ữ Hán sẽ mang một câu chuyện và người học
học chữ Hán bằng những câu ca dao, tục ngữ hay những câu chuyện chiết tự
có sẵn, hoặc có thể dựa vào cách hiểu của bản thân mà đưa ra cách phân tách
chữ, cách kể những câu chuyện chữ Hán riêng. Ưu điểm lớn nhất của chiết tự
là mang lại sự thích thú cho người học, tạo ấn tượng sâu với chữ, từ đó giúp
nhớ chữ lâu hơn. Tuy nhiên, chúng tôi cũng nhận thấy cách học này vẫn cịn
phát sinh nhiều điểm bất cập. Trước hết, khơng phải chữ Hán nào cũng có thể
chiết tự để giải nghĩa, có những chữ có cấu tạo rất phức tạp, nhiều nét, khó
phân tách. Khơng những vậy, số lượng chữ Hán lớn lên đến 60.370 chữ đơn
(theo “Hán ngữ đại tự điển” xuất bản năm 2010), nếu mỗi chữ Hán đều được
23
chiết tự thành một câu thơ hay một đoạn văn thì số lượng thơ văn cần nhớ
cũng lên đến hàng chục ngàn câu, người học khó thể có thể nhớ hết khối lượng
thơ văn cũng như lượng chữ Hán khổng lồ ấy. Phương pháp chiết tự tuy tạo
sự hứng thú cho người học nhưng nhìn chung đây khơng ph ải phương pháp
để học chữ Hán lâu dài.
Bên cạnh việc học chữ, việc viết đúng chữ Hán cũng chiếm vai trò quan trọng.
Ở đây chúng tôi đã đưa ra khảo sát về sự lựa chọn của người học giữa việc
chăm luyện viết chữ và nắm rõ quy tắc bút thuận.
100.00%
90.00%
80.00%
70.00%
60.00%
50.00%
40.00%
30.00%
20.00%
10.00%
0.00%
học <1 năm
học 1-2
năm
học 2-3
năm
học >=4
năm
chăm luyện viết
80.90%
80%
90%
66.70%
quy tắc bút thuận
57.30%
66.70%
42.90%
76.70%
Biểu đồ 1.6 Tỉ lệ lựa chọn cách viết chữ qua từng giai đoạn
Nguồn: nhóm tác giả tự thực hiện
24
43%
57%
chăm luyện viết
quy tắc bút thuận
Biểu đồ 1.7 Tỉ lệ lựa chọn cách viết chữ của tất cả người tham gia khảo sát
Nguồn: nhóm tác giả tự thực hiện
Theo số liệu khảo sát cho thấy, các bạn đã học chữ Hán dưới 3 n ăm có xu
hướng lựa chọn việc chăm luyện viết chữ hơn là học viết theo quy tắc nét bút
thuận (tỉ lệ người lựa chọn việc chăm luyện viết chiếm từ 80% - 90% trong
khi học theo quy t ắc bút thuận chỉ chiếm từ 42% - 66%). Theo chúng tơi, lý do
vì thời gian đầu khi tiếp xúc với chữ Hán, người học có xu hướng chăm luyện
viết thật nhiều để làm quen với cách thức ghi chép của chữ biểu ý. Thế nhưng,
cách học này lại tốn khá nhiều thời gian, tùy khả năng người học cũng như độ
phức tạp của chữ, để ghi nhớ một chữ Hán có thể chỉ cần luyện viết từ 1-2 lần
cũng có khi lên đến hàng chục lần. Đồng thời, nếu chỉ chăm luyện viết một
cách máy móc mà khơng có phương pháp học đúng đắn thì khi gặp những chữ
mới có số lượng nét lớn và cấu tạo phức tạp, người h ọc sẽ lúng túng, không
biết nên bắt đầu từ đâu, khiến việc ghi chép và học chữ trở nên khó khăn.
Chăm luyện viết chưa thực sự là cách học tối ưu và lâu dài.
Tuy nhiên thực tế cho thấy, xu hướng lựa chọn có sự thay đổi ở người học lâu
năm, từ 4 năm trở lên, tỉ lệ lựa chọn học viết chữ theo quy tắc nét bút thuận
tăng cao, chiếm 76.7% trong khi chăm luyện viết giảm xuống cịn 66.7%. Có
thể nói, sau một khoảng thời gian nhất định, người học nhận ra để viết tốt chữ
25