Tải bản đầy đủ (.docx) (19 trang)

chuyên đề truyền nhiễm dại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (151.9 KB, 19 trang )

ĐẶT VẤN ĐỀ
NỘI DUNG
1. Đại cương về bệnh dại
1.1. Tác nhân gây bệnh
1.2. Nguồn và phương thức lây truyền bệnh
1.3. Cơ chế bệnh sinh
2. Cập nhật chẩn đốn
3. Dự phịng khi bị súc vật cắn
3.1. Xử trí vết thương ngay sau khi bị súc vật cắn.
3.2. Điều trị dự phòng sau phơi nhiễm
KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO

Danh mục hình
Hình 1. Cấu tạo virus dại
Danh mục bảng
Bảng 1. Tóm tắt chỉ định điều trị dự phòng bệnh dại


Đặt vấn đề

Bệnh dại (Rabies) là một bệnh truyền nhiễm nguy hiểm, được loài người biết đến
từ thế kỷ 23 TRƯỚC CÔNG NGUYÊN, bệnh này phân bố hầu hết trên tồn thế
giới. Các cơ chế kiểm sốt hiệu quả ở các nước phát triển làm lu mờ thực tế rằng
bệnh dại vẫn là một mối đe dọa to lớn đối với sức khỏe con người ở các nước đang


phát triển, với số người chết hàng năm là hơn 55.000 người. Vì vậy, bệnh dại được
coi là một bệnh truyền nhiễm bị bỏ quên. [11]
Bệnh dại do virut gây tổn thương hệ thần kinh trung ương của các loài có vú và
được lây truyền bằng các chất tiết nhiễm trùng thường là nước bọt. Đa số các tiếp


xúc với dại là do con vật bị nhiễm trùng cắn, nhưng đơi khi hít phải virut hay tiêm
cấy vào tổ chức bị nhiễm trùng có thể khởi động q trình bệnh. [3]
Theo báo cáo của tổ chức y tế thế giới (WHO), bệnh dại phổ biến trên toàn thế
giới. Mỗi năm có trên 10 triệu người bị súc vật dại hoặc nghi dại cắn phải điều trị
dự phòng bằng vacxin dại, có khoảng 60.000 – 70.000 người bị chết do bệnh dại,
phần lớn được báo cáo từ các nước thuộc vùng nhiệt đới, nơi có tới ¾ dân số thế
giới sinh sống. [1]
Ở các nước đông nam á, hàng năm tỉ lệ chết vì bệnh dại chiếm 80% trên tồn thế
giới. Từ năm 2004 đến nay bệnh dại tăng lên rõ rệt ở các nước trong khu vực trong
đó có Việt Nam
Ở Việt Nam trong giai đoạn 2017 - tháng 8/2021, cả nước ghi nhận 378 người tử
vong vì bệnh Dại tại 52/63 tỉnh, thành phố (chương trình phịng dại quốc gia). Mặt
khác Việt Nam hiện đã và đang là nước có tập tục ni chó từ lâu đời nay với
nhiều mục đích khác nhau như giữ nhà, chó cảnh, làm thực phẩm v.v… nhưng ý
thức của người dân còn chưa tốt, tình trạng ni chó thả rơng, chó khơng tiêm
phịng, chó ra đường khơng có rọ mõm ngày càng phổ biến ở cả nông thôn và
thành thị, dẫn tới số người bị chó cắn rất nhiều. Dựa vào thực tế trên, em tiến hành
chuyên đề “Cập nhật chẩn đoán, dự phòng bệnh Dại” nhằm các mục tiêu sau:
1. Cập nhật chẩn đốn của bệnh dại ở Việt Nam
2. Dự phịng bệnh dại ở Việt Nam


NỘI DUNG
1.Đại cương về bệnh dại
1.1. Tác nhân gây bệnh
Virus dại, loại virus hướng thần kinh nguyên mẫu, gây ra một trong những bệnh
lây truyền từ động vật sang người gây chết người nhiều nhất. Sự kết hợp của các
yếu tố độc lực cho phép vi rút xâm nhập vào tế bào thần kinh ở các vị trí ngoại vi
và di chuyển qua tủy sống đến não của vật chủ bị nhiễm, nơi nó thường gây hấn,
tạo điều kiện thuận lợi cho việc chuyển vi rút sang vật chủ mới.

Virus dại có hình dáng viên đạn, có vỏ bọc. Vi rút có chiều dài trung bình 100-300
nm, đường kính 70-80 nm, gen di truyền là đơn chuỗi ARN của virus có đường
kính 75-80mm và thuộc về nhóm Glycoprotein vỏ bọc được sắp xếp trong các cấu
trúc giống bướu tròn, che bọc bề mặt của hạt virus con. Glycoprotein của virus gắn
vào cảm thụ với acetylcholin, tham gia gây độc thần kinh của virus dại, biểu hiện
các kháng thể trung hòa và ức chế ngưng kết và kích thích miễn dịch của tế bào T.
Kháng nguyên vỏ nhân tạo kháng thể cố định C". Các kháng thể trung hòa với các
glycoprotein bề mặt có khả năng bảo vệ. Các kháng thể chống dại đã được sử dụng
trong các test chẩn đoán bằng miễn dịch huỳnh quang và thường trực tiếp chống
các kháng nguyên vỏ nhân. Các virus dại phân lập được từ các loài vật khác nhau
và tại những chỗ khác nhau thì có các đặc tính kháng ngun và sinh học khác
nhau. Các biến đổi này có thể gây các khác biệt trong độc tính giữa các virus phân
lập được. Interferon được cảm ứng bởi virus dại, đặc biệt trong các tổ chức có
nồng độ virus cao và có thể có một vài vai trị trong việc làm chậm q trình nhiễm
trùng. [3]
Ở nhiệt độ buồng, virus sống được 1 – 2 tuần. Vì vậy đồ dùng dính nước bọt động
vật bị dại hoặc nước bọt bệnh nhân được coi như nguy hiểm. Ở tủ lạnh thường
(4°C), virus sống được nhiều tháng. Virus có thể tồn tại lâu trong điều kiện đông
khô hoặc – 80°C. Ở 60°C, virus chết sau 5 phút, 100°C/ 1 phút. Tia cực tím, formol
0,05%, cloramin 5%, cồn iơt, xà phịng, các chất sát khuẩn bề mặt và các tác nhân
oxi hóa có khả năng làm virus bất hoạt nhanh. [2]


Hình 1: Cấu tạo virut dại
1.2. Nguồn và phương thức lây bệnh.
*Nguồn bệnh:
Trong đa số các vùng trên thế giới, chó là một vật mang truyền virus lại quan
trọng cho người. Song, chó sói (Đơng Âu, các vùng núi), cầy (Nam Phi, vùng
Caribe), chồn (Tây Âu), và con dơi quỷ (Mỹ la Tĩnh) cũng có thể là vật chủ trung
gian chủ yếu truyền bệnh. Các lồi gặm nhấm và nhóm răng cửa kép rất hiếm khi

bị nhiễm dại. [3]
Ở Việt Nam, chó là ổ chứa vi rút dại chủ yếu chiếm 96-97% sau đó là mèo: 3- 4%,
động vật khác (thỏ, chuột, sóc...) chưa phát hiện được.
Nguồn truyền bệnh dại: Nguồn truyền bệnh dại là động vật có vú hoang dã và
động vật sống gần người, nhiều nhất là chó, sau đó là mèo. Về mặt lý thuyết, sự lây
truyền từ người bệnh sang người lành có thể xẩy ra khi nước dãi của người bị bệnh
có chứa vi rút dại. Nhưng trong thực tế, chưa có tài liệu nào công bố, trừ trường
hợp cấy ghép giác mạc của người chết vì bệnh dại sang người được ghép. [1]
* Phương thức lây truyền:


Bệnh dại được lây truyền qua nước bọt của động vật mắc bệnh bài tiết ra ngoài và
theo vết cắn, vết liếm, vết xước trên da bị rách (hoặc qua màng niêm mạc cịn
ngun vẹn) vào cơ thể, từ đó theo dây thần kinh đến các hạch và thần kinh trung
ương. Khi đến thần kinh trung ương, vi rút sinh sản rất nhanh rồi lại theo dây thần
kinh ra tuyến nước bọt. Tại thời điểm này, thần kinh chưa bị tổn thương đáng kể vì
thế nhìn bề ngồi con vật vẫn bình thường nhưng nước bọt đã có vi rút dại. Sau đó,
vi rút dại hủy hoại dần các tế bào thần kinh làm xuất hiện các triệu chứng lâm sàng
điển hình của bệnh dại. [1]
Sự lây truyền bệnh dại qua đường khơng khí đã được chứng minh trong quần thể
lồi dơi sống ở hang động và ở mơi trường phịng thí nghiệm. Tuy vậy, cũng rất
hiếm xảy ra. Sự lây truyền từ loài dơi hút máu bị nhiễm vi rút dại đến súc vật nuôi
trong nhà cũng gặp ở Châu Mỹ La Tinh. Những loài dơi ăn sâu bọ bị nhiễm vi rút
dại ở Mỹ rất hiếm lây truyền bệnh dại sang những súc vật sống trên mặt đất, kể cả
súc vật hoang dã hoặc súc vật nuôi trong nhà. [1]

1.3: Cơ chế gây bệnh
Hiện tượng đầu tiên là virus sống thâm nhập vào thượng bì hay vào trong niêm
mạc. Sự nhân lên của virus đầu tiên hình như xuất hiện trong tế bào cơ vân tại vị trí
lây truyền. Hệ thần kinh ngoại vi tiếp xúc với virus tại bó thần kinh cơ và (hay) ở

bó thần kinh gân. Virus sau đó lan rộng hướng tâm đến các dây thần kinh trung
ương, có lẽ thơng qua bào tương sợi trục của dây thần kinh ngoại vi. Một khi virus
đến được hệ thần kinh trung ương, có nhân lên gần như độc quyền bên trong chất
xám và rồi đi qua ly tâm theo các sợi tự động để đến các tổ chức khác các tuyến
nước bọt, tủy, thượng thận, thận, phổi, gan cơ xương, da và tim. Sự đi qua các
tuyến nước bọt tạo thuận lợi cho lây truyền tiếp theo của bệnh thông qua nước bọt
bị nhiễm. Thời kỳ ủ bệnh dại cực kỳ thay đổi, từ 10 ngày đến trên 1 năm (trung
bình từ 1-2 tháng). Thời gian này có lẽ phụ thuộc vào số lượng virus đã đưa vào, số
lượng của tổ chức tổn thương, các cơ chế đề kháng của túc chủ và khoảng cách
thực mà virus phải đi từ chỗ lây truyền vào đến hệ thần kinh trung ương. Các đáp
ứng miễn dịch của túc chủ và các chủng virus cũng có thể ảnh hưởng đến sự biểu
lộ bệnh. Các đáp ứng miễn dịch tế bào đã được ghi chú ở các bệnh nhân bị viêm
não do dại nhưng khơng thấy có ở các bệnh nhân bị liệt do dại. Bệnh lý thần kinh
trong bệnh dại giống với các bệnh virus khác của hệ thần kinh trung trung: xung
huyết, các mức độ thay đổi phân hủy chất nhiễm sắc, nhân đông và thực bào thần
kinh của các 1 tế bào thần kinh, thâm nhiễm các tế bào lympho và các bào tương
của các khoang Virchow-Robin. Thâm nhiễm các tế bào (tế bào đệm) và phá hủy ở


các vùng nhu mô của tế bào thần kinh. Tổn thương đặc trưng của bệnh lại là thể
Negri. Các thể Negri được phân bố khắp não, đặc biệt trong sừng Animon, vỏ não,
thân não, tế bào Purkinje của tế bào tiểu não và hạch tủy sống lưng. Các thể Negri
đã được chứng minh trong ít nhất 20%. của bệnh dại, nhưng việc khơng có nó ở
chất nào khơng thể loại trừ chuẩn đoán.[3]

2. Chẩn đoán bệnh dại.
2.1.Chẩn đoán xác định
Chẩn đoán bệnh dại chủ yếu dựa vào triệu chứng lâm sàng và hồn cảnh bị động
vật cắn. Chẩn đốn xét nghiệm ít được dùng.
*Triệu chứng lâm sàng:

Các biểu hiện lâm sàng lại có thể được chia làm 4 giai đoạn:
1) Tiền triệu khơng đặc hiệu
2) Viêm não cấp tính giống các viêm não do virus khác
3) Rổi loạn sâu sắc các trung tâm não gây các đặc điểm cổ điển của viêm não do
dại
4) Hồi phục hiếm hoi.
Thời kỳ tiền triệu thường kéo dài 1-4 ngày và được nổi bật bằng sốt, đau đầu, khó
chịu, đau cơ, tăng mệt mỏi, chán ăn, buồn nơn và nơn mửa, viêm họng vì ho khan.
Triệu chứng tiền triệu gợi ý của dại là than phiền tê bì và hay co cứng cơ cục bộ ở
tại chỗ hay gần chỗ lây truyền virus và có thể liên quan với sự nhân lên của virus
trong rễ hạch lưng của thần kinh cảm giác chi phối vùng có vết cắn. Triệu chứng
này có trong 50-80% bệnh nhân.
Giai đoạn viêm não thường được mở đầu bằng các thời kỳ tăng quá mạnh hoạt
tính vận động, kích thích và xúc động. Nhanh chóng xuất hiện lú lẫn, ảo giác, tính
gây gổ, tổn thương tư duy kỳ lạ, co cơ, kích thích màng não, người tư thế lớn cong,
động kinh và liệt cục bộ. Một cách đặc trưng, các thời kỳ của tổn thương tinh thần
xen kẽ với các thời kỳ minh mẫn hoàn toàn, nhưng khi bệnh tiến triển, các thời kỳ
minh mẫn ngắn hơn cho đến khi bệnh nhân rơi vào hôn mê. Tăng cảm giác với
cảm giác tăng lên với ánh sáng nhẹ, tiếng ồn, sở và ngay cả với các cơn gió nhẹ là
rất phổ biến. Khi khám thực thể thấy có thể sốt cao đến 40° C (105°F). Các rối


loạn của hệ thần kinh tự động gồm đồng tử giãn hay không đều, tăng tiết lệ, tiết
nước bọt, ra mồ hôi và giảm huyết áp tư thế. Chứng cớ của liệt nơ ron vận động
phía trên với yếu, tăng phản xạ gân sâu và đáp ứng duỗi gan bàn chân là thường
gặp. Thường bị liệt dây thanh âm.
Các biểu hiện rối loạn thần não bắt đầu ngay sau đợt toàn phát của giai đoạn viêm
não. Tổn thương dây thần kinh sọ não gây nhìn đơi, liệt dây mặt, viêm dây thị giác
và khó nuốt đặc trưng. Sự phối hợp của bài tiết quá mức nước bọt và khó nuốt gây
hình ảnh cổ truyền là "sùi bọt mép". Sợ nước, đau, co mạnh cơ hồnh khơng theo ý

muốn, co cơ hô hấp phụ. các cơ họng, thanh quản bắt đầu khi nuốt dịch thấy ở
quãng 50% số ca. Tổn thương ở nhân hạnh nhân có thể gây cương đau dương vật
và phóng tinh tự phát. Bệnh nhân rơi vào hơn mê và tổn thương các trung tâm hô
hấp gây chết do ngừng thở. Sự nổi bật lên về rối loạn chức năng thân não phân biệt
được dại với các viêm não do virus khác và được cho là tiến triển giảm xuống
nhanh chóng. Thời gian sống trung bình sau đợt toàn phát các triệu chứng là 4
ngày, tối đa là 20 ngày, trừ khi tiến hành các biện pháp hỗ trợ nhân tạo. Nếu hô hấp
cấp cứu được hỗ trợ một số các biến chứng muộn có thể xuất hiện bao gồm: bài tiết
khơng thích hợp hormon chống bài niệu, đái nhạt, loạn nhịp tim, rối loạn vận
mạch, hội chứng suy hô hấp ở người trưởng thành, chảy máu dạ dày-ruột, giảm
tiểu cầu và liệt ruột. Hồi phục rất hiếm gặp, và nếu có thì cũng mang tính chất dần
dần. Đơi khi bệnh dại có thể biểu hiện bằng liệt lên cao dần giống như hội chứng
Landy - Guillain - Barré (đại câm lặng). Kiểu lâm sàng này xuất hiện chủ yếu
những người bị dơi quỷ cắn hay ở người đã được tiêm phịng đại sau tiếp xúc. Khó
khăn của đại "nghi ngờ" khi nó phối hợp với liệt đi lên cao dần được minh họa
bằng lây truyền virus từ người sang người do ghép mô. Ghép giác mạc từ người
cho đã bị hội chứng Landy - Guillain - Barré sẽ gây ra bệnh dại lâm sàng và chết ở
người nhận. Khám mô bệnh học hồi cứu não của cả hai bệnh nhân thấy có các thể
Negri, và sau đó phân lập được virus dại từ mắt đông lạnh của người cho. [3]

*Thể lâm sàng. [6]
*Thể hung dữ.
Phần lớn xuất hiện bớt chợt hoặc sau một sang chấn về tinh thần hoặc thể xác
Các triệu chứng sớm là các triệu chứng liên quan tới sự kích thích hành tủy
+Bệnh nhân thở không đều, thở dồn dập rồi ngừng thở rồi lại thở dồn dập


+Sợ nước, sợ gió do co bóp các cơ ở họng. Bệnh nhân rất khát nhưng không khi
nước hoặc thức ăn tới họng làm các cơ co bóp mạnh để tống ra ngồi, bệnh nhân
có nét mặt đau đớn sợ hãi, chân tay run, rú lên. Nhiều khi nhìn thấy nước hoặc

nghe tiếng nước chảy hoặc chỉ một luồng giios nhẹ cũng làm cho bệnh nhân lên cơ
thắt
Có thể có ảo ảnh do kích thích mạnh các giác quan
Tăng cảm giác ngũ quan: Nghe tính, nhìn tinh, mắt sáng long lanh, ngửi thính, do
vật ánh sáng, đồ vật sáng bóng, mùi đều làm bệnh nhân lên cơn.
Bộ máy sinh dục bị kích thích cực độ, nam giới xuất tinh liên tục
Rối loạn thần kinh thực vật: Vã mồ hôi, tăng tiết nước bọt nên bệnh nhân luôn nhổ
vặt, sùi bọt mép, sốt cao
Diễn biến: Các cơn hung dữ ngày càng tăng, bệnh nhân chết vì ngạt, vì ngừng tim
đột ngột hoặc sau 2-3 ngày bệnh nhân như lui bệnh. Nằm n hơn, có thể nuốt
được ít nước, thức ăn, nhưng chỉ sau một thời gian ngắn sẽ xuất hiện liệt rồi tử
vong sau vài giờ hoặc bệnh nhân gây gổ giống như bệnh nhân tâm thần sau đó hơn
mê rồi tử vong
Thời gian từ lúc khởi phát đến lúc chết từ 2-4 ngày, tối đa không quá 10 ngày
*Thể liệt: chiếm 20%
- Thường liệt hướng thượng kiểu Landry, lúc đầu 2 chân yếu sau liệt hẳn, bí đại
tiểu tiện, sau liệt chi trên, rồi liệt các cơ cổ, cuối cùng xuất hiện các biến loạn hành
tủy rồi tử vong
- Đôi khi chỉ biến loạn hành tủy rồi chết mà không xuất hiện liệt
Thể liệt diễn biến chậm hơn thể hung dữ, có thể kéo dài tới 20 ngày, dễ chẩn đốn
nhầm và dễ bỏ qua. Do đó trước một trường hợp liệt kiểu hướng thượng ta phải hỏi
kĩ tiền sử và nếu tiền sử chưa rõ ta cũng chưa loại trừ bệnh dại.
*Dại ở trẻ em:
- Thời kì nung bệnh ngăn
- ít gặp thể hung dữ, nếu có thì ít co thắt nên nhiều khi khơng có dấu hiệu sợ nước,
sợ gió.


- Trẻ khó chịu, nơn ọe, bần thần, buồn bã, li bì sau rối loạn hành tủy rồi tử vong
trong 2-3 ngày

*Chẩn đoán phân biệt: [4]
Thể hung dữ cần chẩn đoán phân biệt với:
- Chứng ngộ độc rượu cấp: cũng đột ngột xuất hiện điên cùng với nhiều ảo giác.
Nhưng khác lại là khơng có co thắt họng, khơng rối loạn hô hấp. Cơn điên cuồng
liên tục chứ không từng cơn như bệnh dại. Có tiền sử nghiện rượu. Khơng có tiền
sử bị chó, mèo cắn.
- Loạn tâm thần cáp: cũng kích động đập phá, la hét liên tục nhưng khơng có tiền
sử bị chó cắn... Nếu bị chó cắn thì rất khó phân biệt, phải điều trị thử và theo dõi
tiến triển để phân biệt
Thể co cứng có sợ nước cần chẩn đoán phân biệt với
- Viêm não do các virút khác: Khơng có tiền sử bị chó, mèo cắn, cào.
- Uốn ván thể sơ nước: Có dấu hiệu cứng hàm đầu tiên sau mới xuất hiện co thắt
họng. Co cứng tồn bộ cơ liên tục. Khơng nhất thời như bệnh dại.
- Bệnh thường bị bệnh dại sau khi bị chó thường cắn, gặp ở người lo sợ quá mức.
Bệnh nhân cũng sợ nước nhưng khơng sợ gió. Dùng thuốc an thần có thể bớt. Đơi
khi cũng phải theo dõi một thời gian mới phân định được,
Dại thể liệt cần chẩn đoán phân biệt với Bệnh bại liệt ở trẻ em.
- Thường nhức đầu có sốt cao, viêm đường hơ hấp. Rối loạn tiêu hóa và đau cơ.
Khi xuất hiện liệt thì có tính chất: khơng có thứ tự nhất định, liệt nhẽo, không đối
xứng, thường liệt ở ĐỐC chỉ - khơng có tiền sử bị chó cắn, mèo cào.
- Viêm não, tuỷ, viêm da rễ và dây thần kinh sau tiêm vacxin, chế từ tổ chức thần
kinh của súc vật đã trưởng thành (cừu, dê...). Xuất hiện liệt từ 1 đến 4 tuần sau
tiêm mũi đầu. Điều trị bằng Corticoid có hy vọng khỏi được. - Viêm tuỷ leo thể
Lundry do các nguyên nhân khác.


Chẩn đốn xét nghiệm ít được dùng . Tuy nhiên, trong những trường hợp đặc biệt
(điều tra dịch tễ học và các đặc điểm sinh học của typ gây bệnh) có thể dùng các
phương pháp XN sau: [2]
Một bộ xét nghiệm chẩn đoán miễn dịch nhanh để phát hiện vi rút dại được đánh

giá bằng cách sử dụng 51 mẫu lâm sàng và 4 phân lập vi rút dại. Việc phát hiện
nhanh vi rút dại trong điều kiện thực địa có thể hữu ích trong việc xác định xem có
cần điều trị dự phịng sau phơi nhiễm hay khơng, từ đó tránh được những điều trị
khơng cần thiết cũng như gánh nặng kinh tế khơng đáng có. Có một số phương
pháp chẩn đoán bệnh dại được sử dụng rộng rãi, bao gồm xét nghiệm kháng thể
huỳnh quang, phản ứng chuỗi polymerase phiên mã ngược và kính hiển vi điện
tử; tuy nhiên, các phương pháp này bao gồm các thủ tục tốn thời gian, phức tạp và
tốn kém. Thử nghiệm chẩn đốn miễn dịch nhanh có thể phát hiện vi rút dại trong
các mẫu lâm sàng, bao gồm mô não và nước bọt, ngoài 10 3,2 50% liều gây chết
(LD 50) / mL vi rút bệnh dại thích nghi với tế bào. Thử nghiệm khơng có phản ứng
chéo với vi sinh vật không phải vi rút bệnh dại. Khi hiệu suất của xét nghiệm chẩn
đoán miễn dịch nhanh được so sánh với xét nghiệm kháng thể huỳnh quang, xét
nghiệm chẩn đoán miễn dịch nhanh có độ nhạy là 91,7% và độ đặc hiệu là 100%
(KTC 95,8%). [10]
– Phân lập virus dại bằng cách nuôi cấy bệnh phẩm vào não chuột hoặc vào tế bào
ni có nguồn gốc thần kinh.
– Từ các bệnh phẩm là tổ chức thần kinh hoặc các tế bào ngâm ở axeton, người ta
có thể nhuộm tìm tiểu thể Nêgri.
– Phát hiện kháng thể IgG, IgM bằng phản ứng miễn dịch enzym (ELISA) hoặc
phản ứng miễn dịch huỳnh quang: Sự xuất hiện kháng thể trung hòa trong huyết
thanh người tiêm vacxin dại cho phép đánh giá khả năng miễn dịch và giúp cho
việc quyết định có tiêm nhắc lại hay không phải tiêm nhắc lại vacxin dại.
– PCR: mới được ứng dụng gần đây, có giá trị cao trong việc phát hiện ADN đặc
hiệu của virus trong DNT, nước bọt, mảnh sinh thiết. (Kỹ thuật dựa trên PCR hiện
khơng được WHO khuyến cáo để chẩn đốn bệnh dại sau khi chết thường quy)
- Xét nghiệm Kháng thể huỳnh quang (FAT) dựa vào khả năng của phân tử phát
hiện (thường là fluorescein isothiocyanate) kết hợp với kháng thể đặc hiệu bệnh dại
tạo thành liên hợp để liên kết và cho phép hình dung kháng nguyên bệnh dại bằng
kỹ thuật hiển vi huỳnh quang. Phân tích mẫu bằng kính hiển vi là phương pháp
trực tiếp duy nhất cho phép xác định kháng nguyên đặc hiệu của vi rút dại trong



thời gian ngắn với chi phí giảm, khơng phân biệt nguồn gốc địa lý và tình trạng của
vật chủ. Nó phải được coi là bước đầu tiên trong quy trình chẩn đốn cho tất cả các
phịng thí nghiệm. Tuy nhiên, các mẫu tự động có thể làm giảm độ nhạy và độ đặc
hiệu của FAT
+Các xét nghiệm chẩn đoán bệnh dại thông thường (FAT, RTCIT, MIT) không tốn
nhiều công sức và dựa vào thơng lượng thấp. FAT có thể được hồn thành trong
vịng chưa đầy hai giờ
+ Do tính chất hướng thần của vi rút dại, sự lây nhiễm dẫn đến sự nhân lên của vi
rút rất lớn trong hệ thần kinh trung ương trong giai đoạn cuối của bệnh dẫn đến
nồng độ kháng nguyên và bộ gen vi rút lớn. Điều này làm cho việc phát hiện kháng
nguyên vi rút trong mô não bằng các xét nghiệm như FAT hoặc dRIT rất mạnh mẽ
và tương đối đơn giản để thực hiện, và đây đã trở thành các xét nghiệm tiêu chuẩn
vàng nhanh chóng
* Trong hầu hết các phịng thí nghiệm, xét nghiệm kháng thể huỳnh quang (FAT)
được sử dụng làm xét nghiệm chính quan trọng nhất, với xét nghiệm nuôi cấy mô
bệnh dại (RTCIT) hoặc xét nghiệm cấy vào chuột (MIT) được sử dụng làm thủ tục
dự phòng khẳng định. Tuy nhiên, các phương pháp khác để phát hiện kháng
nguyên, chẳng hạn như xét nghiệm hấp thụ miễn dịch liên kết với enzym đặc hiệu
bệnh dại nhanh chóng (ELISA nhanh) và phát hiện axit nucleic của virus bằng
phản ứng chuỗi polymerase phiên mã ngược (RT-PCR) ngày càng được sử dụng
nhiều hơn để chẩn đoán. và, kết hợp với giải trình tự nucleotide, để điều tra dịch tễ
học.[8]

3. Dự phịng bệnh dại
Mặc dù bệnh viêm não do dại ở người vẫn không thể điều trị được, nhưng sự lây
nhiễm này hồn tồn có thể ngăn ngừa được, cả bằng cách điều trị dự phòng sau
phơi nhiễm (PEP) cho nạn nhân bị cắn, và bằng cách tiêm chủng ở mức độ dân số
đối với ổ chứa động vật, nơi hầu hết châu Phi và châu Á là vùng nội địa chó. Vắc

xin nuôi cấy tế bào hiện đại được sử dụng kết hợp với các globulin miễn dịch bệnh
dại hầu như có hiệu quả 100% trong việc ngăn ngừa tử vong ở người nếu được
tiêm kịp thời cho bệnh nhân phơi nhiễm với bệnh dại sau khi xử trí vết thương
thích hợp và việc tiêm phịng hàng loạt cho chó nhà đã loại bỏ hoặc kiểm sốt
thành cơng bệnh dại ở chó nhà ở nhiều người các vùng trên thế giới. [9]


3.1. Xử trí vết thương ngay sau khi bị súc vật cắn.
Người bị phơi nhiễm là người bị chó, mèo, động vật dại, nghi dại cắn, cào, liếm
hoặc bị nước bọt dính vào niêm mạc (như mắt, miệng, niêm mạc bị trầy xước)
hoặc tiếp xúc qua da bị tổn thương và niêm mạc với bệnh phẩm/vi rút dại tại phịng
thí nghiệm.
- Nếu bị bất kỳ động vật nào cắn cũng phải nghĩ đến dại và xử trí như dại.
- Ngay sau khi bị súc vật cắn (chó, mèo, hoặc súc vật khác) phải rửa nhiều lần bằng
nước xà phòng đặc 20% trong vòng 7-10 phút và xối dưới vòi nước chảy ít nhất 5
phút, trong khi rửa khơng được cầm máu, không nặn máu.
- Sát trùng vết thương bằng cồn 70 độ, cồn iod.
- Phong bế novocain quanh vết cắn để ngăn chặn sự tiến triển của virus theo trục
thần kinh.
- Vết cắn nguy hiểm phải tiêm huyết thanh kháng dại RIG (Rabies Immune
Globulin) được sản xuất từ huyết thanh ngựa liều dùng 40 đơn vị/kg hoặc huyết
thanh người liều dùng 20 đơn vị/kg.
- Không làm dập nát thêm vết thương hoặc làm tổn thương rộng hơn, tránh khâu
kín ngay vết thương. Trường hợp bắt buộc phải khâu thì nên trì hỗn khâu vết
thương sau vài giờ đến 3 ngày và nên khâu ngắt quãng/bỏ mũi sau khi đã tiêm
phòng bế huyết thanh kháng dại vào tất cả các vết thương.
- Tùy trường hợp cụ thể có thể sử dụng kháng sinh và tiêm phòng uốn ván.
3.2. Điều trị dự phòng sau phơi nhiễm
Điều trị dự phòng nên được tiến hành càng sớm càng tốt sau khi bị phơi nhiễm,
bao gồm: rửa vết thương, tiêm vắc xin phòng dại và sử dụng huyết thanh kháng dại

nếu có chỉ định [7].
Chỉ định điều trị dự phòng bệnh dại sau phơi nhiễm đối với những người chưa
được tiêm phòng bệnh dại theo bảng tóm tắt dưới đây.
Bảng 1. Tóm tắt chỉ định điều trị dự phòng bệnh dại. [5]


Phân
Tình trạng vết
độ vết
thương
thương
Độ I

Độ II

Độ III

Tình trạng (Kể cả động vật
đã được tiêm phòng dại)
Tại thời điểm Trong vòng
cắn người
10 ngày

Sờ, cho động vật
ăn, liếm trên da
lành
Vết xước, vết cào, Bình thường
liếm trên da bị tổn
thương, niêm mạc


Điều trị dự
phịng
Khơng điều trị

Bình thường

Ốm, có xuất
hiện triệu
chứng dại,
mất tích
Có triệu chứng
dại hoặc khơng
theo dõi được
con vật.
Vết cắn/cào chảy Bình thường
Bình thường
máu ở vùng xa
TKTW
Ốm, có xuất
hiện triệu
chứng dại,
mất tích.
Có triệu chứng
dại hoặc không
theo dõi được
con vật.
- Vết cắn/cào sâu, - Bình thường.
nhiều vết
-Có triệu chứng
- Vết cắn/cào gần dại

TKTW như đầu, - Không theo
mặt, cổ
dõi được con
- Vết cắn/cào ở
vật.
vùng có nhiều
dây thần kinh

Tiêm vắc xin dại
ngay, dừng tiêm
sau ngày thứ 10.
Tiêm vắc xin dại
ngay và đủ liều

Tiêm vắc xin dại
ngay và đủ liều.

Tiêm vắc xin dại
ngay, dừng tiêm
sau ngày thứ 10.
Tiêm vắc xin dại
ngay và đủ liều.

Tiêm huyết thanh
kháng dại và vắc
xin dại ngay và
đủ liều.
Tiêm huyết thanh
kháng dại và vắc
xin phòng dại

ngay và đủ liều.


Lưu ý:
- Các vết thương do động vật hoang dã cắn cần xử lý và điều trị như đối với động
vật bị bệnh dại. Nếu các con vật này được bắt ngay và làm xét nghiệm có kết quả
âm tính với bệnh dại thì có thể dừng điều trị dự phòng.
- Các vết thương do động vật gặm nhấm, gia súc cắn thì xem xét chỉ định tiêm vắc
xin dại mà không cần tiêm huyết thanh kháng dại.
- Sử dụng vắc xin phòng dại và huyết thanh kháng dại: đường tiêm, lịch tiêm và
liều lượng cần tuân thủ theo hướng dẫn của nhà sản xuất đã được Bộ Y tế Việt
Nam cấp phép.
Phác đồ điều trị dự phòng sau phơi nhiễm cho người chưa tiêm phòng dại
* Tiêm vắc xin phòng dại
- Nguyên tắc: Áp dụng 1 trong 2 phác đồ tiêm vắc xin phòng dại bằng phác đồ
tiêm bắp hoặc phác đồ tiêm trong da; mũi đầu tiên tiêm càng sớm càng tốt ngay sau
khi bị phơi nhiễm.
- Việc tiêm trong da sẽ giảm lượng vắc xin và giá thành, tuy nhiên tùy thuộc vào số
lượng người đến tiêm vắc xin phòng dại tại điểm tiêm trong ngày để lựa chọn phác
đồ tiêm bắp hay tiêm trong da nhằm bảo đảm chi phí hiệu quả.
Vắc xin dại: vắc xin dại tế bào là tốt nhất, đây là vắc xin an toàn và hiệu lực bảo vệ
cao. Nước ta từ năm 1992 đã dùng vắc xin dại tế bào Verorab, có 2 phác đồ dưới
đây được WHO đồng ý và khuyến cáo sử dụng:
Phác đồ tiêm bắp: 0,5ml x 5 liều cho một đợt điều trị dự phòng vào ngày 0, 3, 7,
14, 28.
Phác đồ tiêm trong da: liều đơn 0,1ml x 8 liều cho một đợt điều trị dự phòng vào
ngày 0, 3, 7, mỗi ngày tiêm 2 liều đơn vào 2 vị trí khác nhau của vùng cơ Delta,
tiêm tiếp vào ngày 28 và ngày 90 kể từ mũi tiêm thứ nhất, mỗi ngày 1 liều vào cơ
Delta.
* Tiêm huyết thanh kháng dại

- Nguyên tắc: Tiêm huyết thanh kháng dại càng sớm càng tốt ngay sau khi bị phơi
nhiễm và chỉ dùng 1 lần trong điều trị.


- Tiêm phong bế tại vùng vết thương bị động vật cắn để huyết thanh kháng dại
thấm sâu vào bên trong và xung quanh vết thương tới mức tối đa. Phần huyết thanh
cịn lại tiêm bắp sâu ở vị trí cách xa vị trí tiêm vắc xin dại. Các vết thương ở vị trí
giải phẫu đặc biệt (như các đầu ngón tay) phải thấm đẫm một cách cẩn thận. Trong
trường hợp bị nhiều vết cắn mà số lượng huyết thanh cần tiêm khơng đủ nhiều để
tiêm cho tồn bộ các vết thương (do cân nặng của bệnh nhân ít) thì pha loãng huyết
thanh từ 2-3 lần với nước muối sinh lý để đảm bảo tất cả các vết thương đều được
tiêm huyết thanh kháng dại.
- Trường hợp khơng có huyết thanh kháng dại tại điểm tiêm vắc xin có thể sử dụng
phác đồ tiêm bắp, nhưng tiêm 2 liều vắc xin phòng dại (ở 2 bên cánh tay) vào ngày
0 (ngày đầu tiên bệnh nhân đến), và giới thiệu bệnh nhân đến điểm tiêm khác để
tiêm huyết thanh kháng dại. Ngoài ra đối với vết thương độ II ở những người bị ức
chế miễn dịch nên sử dụng huyết thanh kháng dại.
- Thời gian chỉ định tiêm huyết thanh: Tiêm càng sớm càng tốt ngay sau khi bệnh
nhân bị động vật nghi dại cắn và chưa có dấu hiệu lên cơn dại. Không sử dụng
huyết thanh kháng dại sau 7 ngày kể từ mũi tiêm vắc xin đầu tiên.
Điều trị dự phòng sau phơi nhiễm cho người đã tiêm phòng dại
- Nguyên tắc:
+ Xử lý vết thương theo thường quy.
+ Không cần tiêm huyết thanh kháng dại.
+ Áp dụng 1 trong 2 phác đồ tiêm vắc xin phòng dại là phác đồ tiêm bắp hoặc phác
đồ tiêm trong da.
- Tiêm lại đầy đủ phác đồ điều trị dự phòng sau phơi nhiễm đối với các trường hợp
sau:
+ Những người đã tiêm phòng dại trước hoặc sau phơi nhiễm bằng vắc xin tế bào
nhưng chưa đủ 3 mũi.

+ Những người đã tiêm phòng dại sử dụng vắc xin dại sản xuất trên mô não.
+ Bệnh nhân nhiễm HIV/AIDS, những người bị ức chế miễn dịch do cơ địa hoặc
do các nguyên nhân khác.

 Tuyên truyền kiến thức phòng chống bệnh dại


Tun truyền tới từng hộ gia đình về tính chất nguy hiểm của bệnh dại, các biện
pháp phòng, chống bệnh dại trước và sau phơi nhiễm cho người và động vật để
người dân chủ động phòng bệnh cho bản thân và cộng đồng.
- Tuyên truyền, vận động các tổ chức, cá nhân nuôi, buôn bán, giết mổ, vận chuyển
kinh doanh chó, mèo trong từng thơn, xóm, xã, phường thực hiện các biện pháp
quản lý và phịng bệnh trên đàn chó nuôi theo hướng dẫn của cán bộ thú y
- Tuyên truyền cho những người có nguy cơ cao phơi nhiễm với vi rút dại thực
hiện tiêm phòng trước phơi nhiễm và những người bị phơi nhiễm với động vật bị
bệnh dại hoặc nghi mắc bệnh dại thực hiện điều trị dự phòng bằng vắc xin, huyết
thanh kháng dại theo hướng dẫn của cán bộ y tế.


KẾT LUẬN
Bệnh dại là một bệnh truyền nhiễm cấp tính nguy hiểm do vi rút dại gây ra,
lây truyền từ động vật sang người, chủ yếu là từ chó và mèo. Người nhiễm vi rút
dại khi đã xuất hiện triệu chứng lâm sàng thì 100% là tử vong. Mặc dù bệnh dại đã
có vắc xin và huyết thanh kháng dại rất có hiệu quả để phịng và điều trị dự phòng,
nhưng cho đến nay, bệnh dại vẫn là vấn đề y tế công cộng nghiêm trọng ở một số
nước trên thế giới.
Bệnh dại có tỷ lệ tử vong cao nhất tất cả các bệnh truyền nhiễm trên toàn thế giới,
hiện nay vẫn có khoảng 50.000-60.000 trường hợp tử vong hàng năm. Bệnh dại
hiện đang gia tăng và diễn biến phức tạp ở một số nước trong khu vực như Việt
Nam, Trung Quốc, Lào, Thái Lan và Indonesia.

Tại Việt Nam, trong giai đoạn năm 2001 - 2003, trung bình mỗi năm, cả nước chỉ
có khoảng 30 ca tử vong do bệnh dại, vài năm gần đây số người mắc căn bệnh
nguy hiểm này tăng mạnh, năm 2007: 131 ca tử vong, 2008: 91 ca, năm 2009: 64
ca.
Năm 2013, trên toàn quốc đã ghi nhận 102 trường hợp bệnh dại tử vong, tăng 4 ca
so với cùng kỳ năm 2012 (98 ca). Năm 2016 có 91 ca tử vong do dại (tăng 17% so
với năm 2015 và 38% so với năm 2014). Năm 2020 tình hình bệnh dại có chiều
hướng gia tăng. Tính hết tháng 8-2020 cả nước đã ghi nhận 48 trường hợp tử vong
do bệnh dại. Hầu hết các trường hợp tử vong do bệnh dại đã không đi tiêm vắc xin
điều trị dự phòng bệnh dại sau khi bị phơi nhiễm.
Do đó, bất kì trường hợp nào súc vật cắn cần phải chẩn đốn đúng và dự phịng
kịp thời để tránh hậu quả tử vong

TÀI LIỆU THAM KHẢO
TÀI LIỆU TIẾNG VIỆT
1.
2.

Bộ Y Tế (2016), "Cục Y Tế Dự Phòng", Bệnh Dại.
Học Viện Quân Y, "Bệnh Viện Quân Y", Bệnh Dại.


3.

Nhà Xuất Bản Y Học (1999), "Các Nguyên Lý Nội Khoa Harrison", Bệnh
Dại. 2.
4.
Nhà Xuất Bản Y Học (2005), "Bệnh Học Truyền Nhiễm", Bệnh Dại.
5.
World Health Organization (2020), "Bệnh Dại", Hợp Tác Và Tiêm Chủng

Chấm Dứt Bệnh Dại.
6.
Trường Đại Học Y Dược Thái Nguyên (2020), "Giáo Trình Truyền Nhiễm",
Dại.
TÀI LIỆU TIẾNG ANH
7.
Gilbert AT, Petersen BW, and al RecuencoS et (2012), "Evidence of Rabies
Virus Exposure among Humans in the Peruvian Amazon", pp. 87(2) pp.
206–215. .
8.
Anthony R Fooks, Johnson Nicholas, Freuling Conrad M, et al. (2009),
"Emerging technologies for the detection of rabies virus: challenges and
hopes in the 21st century", PLoS neglected tropical diseases. 3(9), p. e530.
9.
Katie Hampson, Dobson Andy, Kaare Magai, et al. (2008), "Rabies
exposures, post-exposure prophylaxis and deaths in a region of endemic
canine rabies", PLoS neglected tropical diseases. 2(11), p. e339.
10. BoKyu Kang, Oh JinSik, Lee ChulSeung, et al. (2007), "Evaluation of a
rapid immunodiagnostic test kit for rabies virus", Journal of virological
methods. 145(1), pp. 30-36.
11. Matthias J Schnell, McGettigan James P, Wirblich Christoph, et al. (2010),
"The cell biology of rabies virus: using stealth to reach the brain", Nature
reviews microbiology. 8(1), pp. 51-61.



×