Tải bản đầy đủ (.docx) (16 trang)

hiệu chỉnh liều kháng sinh ở bệnh nhân suy thận

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (165.97 KB, 16 trang )

MỤC LỤC
ĐẶT VẤN ĐỀ
Chương 1: TỔNG QUAN
I. Đại cương về suy thận
1. Khái niệm về suy thận
1.1. Suy thận mạn
1.2. Suy thận cấp
2. Ảnh hưởng của suy giảm chức năng thận đến quá trình dược động học
II. Hiệu chỉnh liều kháng sinh cho bệnh nhân suy thận
1. Nguyên tắc hiệu chỉnh liều kháng sinh ở bệnh nhân suy thận
2. Đánh giá chức năng thận
3. Các phương pháp cụ thể để hiệu chỉnh liều ở bệnh nhân suy thận
4. Hiệu chỉnh liều ở một số kháng sinh.
Chương 2: BÀN LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO

Đặt vấn đề
Suy thận là một vấn đề sức khỏe quan trọng và gây tốn kém trong thực
hành lâm sàng (5). Đối tượng bệnh nhân suy thận cần được đặc biệt lưu ý
do việc sử dụng thuốc, với liều lượng không được hiệu chỉnh phù hợp
trên những bệnh nhân này có thể gây ra độc tính hoặc làm giảm hiệu quả
điều trị. Ngược lại, hiệu chỉnh liều thuốc phù hợp sẽ giúp tối ưu hóa hiệu


quả điều trị, giảm thiểu độc tính và chi phí điều trị (6). Các nghiên cứ hồi
cứu tiến hành tại một số nước trên thế giới đều cho thấy, tỷ lệ bệnh nhân
suy thận không được hiệu chỉnh liều thuốc phù hợp lên đến hơn 50%.
Trong đó, kháng sinh là nhóm thuốc có tần suất khơng được hiệu chỉnh
liều phù hợp cao nhất (7) (8) (9). Điều này dấy lên quan ngại, do sử dụng
kháng sinh là một trong những nguyên nhân phổ biến gây ra các biến cố
bất lợi cho bệnh nhân (10). Trong khi đó, các biến cố bất lợi này có thể


phịng tránh được nếu bệnh nhân sử dụng kháng sinh đã được hiệu chỉnh
liều tùy theo chức năng thận (11). Trên cơ sở đó việc phân tích hiệu chỉnh
liều kháng sinh cho bệnh nhân suy thận được thực hiện với mục đích:
- Các cách hiệu chỉnh liều kháng sinh cho những bệnh nhân suy thận
- Giảm các hậu quả của dùng thuốc kháng sinh trên bệnh nhân suy thận

Chương 1. Tổng quan
I. Đại cương về suy thận
1. Khái niệm về suy thận
1.1. Suy thận mạn


- Suy thận mạn là tình trạng suy giảm chức năng thận mạn tính khơng
hồi phục theo thời gian nhiều tháng, nhiều năm, do tổn thương không
hồi phục về số lượng và chức năng của các nephron (1)
Phân loại mức độ suy thận mạn
Bảng 1: Phân loại CKD và tần số theo dõi theo KDIGO 2012

1.2. Suy thận cấp
Suy thận cấp là hội chứng gây ra bởi nhiều nguyên nhân, có thể là
ngun nhân ngồi thận hoặc tại thận, làm suy sụp và mất chức năng
tạm thời, cấp tính của cả hai thận, do ngừng hoặc suy giảm nhanh chóng
mức lọc cầu thận. Biểu hiện lâm sàng là thiểu niệu hoặc vơ niệu xảy ra
cấp tính, tiếp theo là tăng nitơ phiprotein trong máu, rối loạn cân bằng
nước điện giải, rối loạn cân bằng kiềm toan, phù và tăng huyết áp. Suy
thận cấp có tỉ lệ từ vong cao, nhưng nếu được chẩn đốn và điều trị kịp
thời thì chức năng thận có thể hồi phục hồn tồn hoặc gần hoàn toàn. (2)


2. Ảnh hưởng của chức năng thận đến dược động học và dược lực học

của thuốc (3)
Sự suy giảm chức năng thận ảnh hưởng đến cả 4 quá trình hấp thu, phân
bố, chuyển hố và thải trừ thuốc, trong đó sự giảm sút thải trừ là quan
trọng nhất.
2.1. Sinh khả dụng (F%)
Do tổn thương thận, tuần hoàn máu bị ứ trệ và cơ thể bị phù. Trạng
thái bệnh lý này ảnh hưởng đến sinh khả dụng của các thuốc dùng theo
đường tiêm bắp và tiêm dưới da. Với thuốc đưa theo đường uống, tổn
thương chức năng thận, ngược lại có thể làm tăng sinh khả dụng của
những thuốc có hệ số chiết xuất ở gan cao, chịu sự khử hoạt mạnh ở
vịng tuần hồn đầu (first-pass) như propranolol, verapamil, các
hormon... Hậu quả là do bão hoà khả năng phá huỷ thuốc của gan, do
nồng độ thuốc trong máu tăng cao và do ứ trệ tuần hồn, trong đó có
tuần hồn gan - ruột chứ không phải do tăng hấp thu của thuốc.
2.2. Thể tích phân bố (Vd)
Một số tổn thương bệnh lý ở thận gây giảm lượng albumin trong
huyết thanh, thay đổi cấu trúc một số protein của huyết tương. Ngoài ra,
một số chất nội sinh như urê, creatinin, các acid béo... bị ứ trệ cũng là
nguyên nhân cạnh tranh với thuốc trong liên kết với protein của huyết
tương, làm tăng nồng độ thuốc tự do.


Sự tăng thể tích chất lỏng ở ngoại bào cộng với tăng nồng độ thuốc
tự do dẫn đến tăng thể tích phân bố (Vd) của nhiều thuốc.
Tuy nhiên, quy luật này không đúng với mọi loại thuốc và trong
một số trường hợp suy thận lại thấy giảm thể tích phân bố.
2.3. Độ thanh thải qua thận (Clearance-Thận, CLR)
Tổn thương thận rất ít ảnh hưởng đến chuyển hố thuốc tại gan. Sự
ứ trệ các chất chuyển hố khi suy thận có thể dẫn tới việc tăng bài xuất
qua mật các dạng liên hợp với acid glucuronic của những thuốc được bài

xuất nhiều ở dạng này như oxazepam, diflunisal... Các chất chuyển hoá
qua gan được bài xuất vào mật rồi đổ vào ruột, sau đó một phần được
thải ra ngồi theo phân, một phần được enzym glucuronidase của ruột
thuỷ phân, giải phóng thuốc trở lại dạng tự do và tái hấp thu trở lại từ
ruột vào máu. Quá trình này ảnh hưởng đến độ thanh thải thuốc qua thận
mà hậu quả là giảm ClR.
2.4. Thời gian bán thải (T1/2)
Các thuốc bài xuất qua thận trên 50% ở dạng cịn hoạt tính có t1/2
tăng rõ rệt khi sức lọc của cầu thận < 30ml/min. Trái lại, những thuốc bị
chuyển hoá gần như 100% ở gan lại có t1/2 khơng đổi khi thiểu năng thận
(hình 1).
Từ kết quả này, có ý kiến cho rằng trong trường hợp suy thận, nên
chọn những thuốc được chuyển hố ở gan để giảm bớt độc tính. Những
thuốc bài xuất gần như 100% ở dạng cịn hoạt tính qua thận như
gentamicin, tetracyclin... bắt buộc phải hiệu chỉnh lại liều ở bệnh nhân
suy thận.


II. Hiệu chỉnh liều kháng sinh cho bệnh nhân suy thận
1.Nguyên tắc hiệu chỉnh liều kháng sinh ở bệnh nhân suy thận
- Giảm liều điều trị so với liều bình thường
- Nới rộng khoảng cách giữa các lần đưa thuốc
- Mục tiêu thay đổi liều dùng sao cho nồng độ thuốc trung bình trong
huyết tương của bệnh nhân bị suy thận vẫn như vậy và trạng thái không
thay đổi đạt được sau 1 khoảng thời gian tương tự nếu so với bệnh nhân
có chức năng thận bình thường. Điều này đặc biệt thích hợp với những
thuốc có thời gian bán hủy dài và chủ số điều trị hẹp (4)
2.Đánh giá chức năng thận.
a, Các bước tiến hành:
* Đánh giá mức độ suy thận qua trị số Clcr.

Khả năng lọc của thận được đánh giá qua Clearance-creatinin (Clcr).
Đối với người bình thường, trị số này là 80 - 120 ml/min. Clearacecreatinin giảm ở bệnh nhân suy thận.
Mức độ suy thận được đánh giá qua hệ số RF:
RF =

Clcr-st.
Clcr- bt.

Trong đó:
Clcr-st: là clearance creatinin ở bệnh nhân suy thận
Clcr-bt: là clearance creatinin ở người có chức năng thận bình
thường
Như vậy, để đánh giá mức độ suy thận, người ta phải tiến hành đo
Clearance-creatinin ở người suy thận (Clcr-st.) thông qua xét nghiệm
mức creatinin trong huyết tương và tính Clcr-st từ cơng thức Cockroft &
Gault.


(140-tuổi) x Thể trọng (kg)
Clcr = ------------------------------------Cr/HT x 72
(Công thức trên dành cho nam giới, nếu bệnh nhân là nữ sẽ × 0,85)
- Tuổi bệnh nhân tính theo năm
- Cr/HT là nồng độ creatinin trong huyết thanh tính theo mg/dl. Nếu
Cr/HT tính theo đơn vị µmol/l thì thay vì x72, ta sẽ nhân với 0,88.
- Đơn vị Clcr là ml/phút
Trị số Clcr-bt đã biết là 80 - 120 mL/min, có thể lấy trung bình là 100.
3.Các phương pháp cụ thể để hiệu chỉnh liều ở bệnh nhân suy thận
* Đánh giá mức độ giảm bài xuất thuốc ở người suy thận so với người
bình thường:
Q=


1
1 - fe (1 - RF)

Trong đó:
Q là hệ số hiệu chỉnh cho bệnh nhân có suy giảm chức năng thận.
- fe là tỷ lệ thuốc được bài xuất qua thận ở dạng cịn hoạt tính (được
biết từ đặc tính dược động học của thuốc ở người có chức năng thận
bình thường).
- RF như vừa nêu trên là tỷ lệ suy giảm của chức năng thận.
Như vậy thực ra chúng ta chỉ hiệu chỉnh lại liều của phần thuốc thải
trừ ở dạng cịn hoạt tính qua thận. Phần thuốc bài xuất qua gan khơng tính
-


được vì khơng có một thơng số nào cho biết chức năng bài xuất thuốc qua
gan sẽ giảm bao nhiêu trong trường hợp chức năng gan bị suy giảm. Đấy
cũng là lý do tại sao khi chức năng gan bị suy giảm, người ta khuyên nên
chọn các thuốc không bị chuyển hóa qua gan mà bài xuất chủ yếu qua thận
ở dạng cịn hoạt tính.
* Cách hiệu chỉnh liều ở bệnh nhân suy thận sau khi đã có hệ số Q
Có 3 cách hiệu chỉnh:
1/ Giữ nguyên khoảng cách đưa thuốc và giảm liều:
D-st =

D-bth
Q

2/ Giữ nguyên liều nhưng nới rộng khoảng cách đưa thuốc:
τ-st. = τ x Q

Trong đó: τ là khoảng cách đưa thuốc; D là liều dùng
3/ Vừa giảm liều, vừa nới rộng khoảng cách đưa thuốc:
Nhiều trường hợp, nếu dùng hệ số Q để giảm liều thì liều mới
khơng bao giờ đáp ứng được nồng độ thuốc trong huyết tương ở mức
điều trị. Nếu giữ nguyên liều thì tại thời điểm ngay sau khi đưa thuốc,
nồng độ lại quá cao nhưng sau đó do khoảng cách quá dài nên giai đoạn
thuốc có nồng độ ở dưới mức điều trị cũng kéo dài, do đó hiệu quả điều
trị thấp. Những trường hợp này, ta có thể chọn một hệ số Q khác trung
gian và dùng kết hợp cả 2 phương pháp: vừa giảm liều vừa nới rộng
khoảng cách.
Ví dụ:
Một bệnh nhân suy thận có hệ số Q tính được là 4. Khi dùng Q = 4
ta gặp phải 2 nhược điểm như vừa nêu. Căn cứ vào kinh nghiệm điều trị,
bác sĩ đã lựa chọn hệ số Q là 2 và dùng cả 2 phương pháp:
- Giảm liều theo Q = 2



- Nới rộng khoảng cách cũng với Q = 2.
Như vậy, xu hướng chung vẫn nên tập trung theo dõi đáp ứng lâm
sàng và giám sát nồng độ thuốc trong máu để điều chỉnh liều. Đáng tiếc
là hiện tại ở nước ta chưa đo được nồng độ thuốc trong máu nên việc
hiệu chỉnh liều sẽ khó khăn và căn cứ chủ yếu vào kinh nghiệm của bác
sĩ điều trị.
Tuy nhiên, trong thực tế mức liều cho bệnh nhân suy thận thường
được nhà bào chế tính sẵn và ghi rõ trong bản hướng dẫn sử dụng thuốc.
4. Hiệu chỉnh liều ở một số kháng sinh.
Cephalosporin
Cephalosporin thế hệ I có tác dụng trên tất cả các cầu khuẩn Gram
dương ngoại trừ Enterococcus faecalis (12). Kháng sinh đường uống

thường được sử dụng bởi các bác sĩ phẫu thuật chi dưới nhất là
cephalexin (KEFLEX). T1/2 ở bệnh nhân có chức năng thận bình
thường là khoảng 40 phút, nhưng ở bệnh nhân có bệnh thận nặng, nó có
thể kéo dài đến 16 giờ. Liều dùng đường uống bình thường của
cephalexin là 250-500 mg mỗi 6 giờ nhưng khoảng đưa liều có thể cần
phải được tăng lên thành mỗi 8 hoặc 12 giờ tùy thuộc vào tốc độ lọc cầu
thận. Cephalexin là một thuốc liên kết mạnh với protein, do đó làm giảm
nồng độ CSF ở bệnh nhân có chức năng thận bình thường. Tuy nhiên,
trong tình trạng urê huyết, tỷ lệ thuốc liên kết với protein giảm khiến
thuốc ở dạng tự do đi vào hệ thần kinh trung ương (CNS). Do đó có thể
gây nhiễm độc thần kinh với các triệu chứng như nói lắp (chứng loạn
cận ngôn - dysarthria), lú lẫn, rung giật cơ, co giật, và hôn mê (13).
Cephalexin cũng liên quan đến độc tính trên tai ở bệnh nhân suy thận.
Cephalosporin thế hệ I tiêm tĩnh mạch IV được sử dụng phổ biến nhất
bởi bác sĩ phẫu thuật chi dưới trong dự phòng phẫu thuật là cefazolin
(Acef). T1/2 của cefazolin thường là 1,5 giờ nhưng có thể tăng đến 36-70
giở ở bệnh nhân suy thận Acef thường được dùng ở liều 0,5 - 2,0 g mỗi


8 giờ, nhưng sẽ có khoảng đưa liều tăng thành mỗi 12 hay 24-48 giờ phụ
thuộc vào GFRP. Cefazolin cũng liên quan đến các triệu chứng nhiễm
độc thần kinh trung ương, q trình giải độc có thể bị chậm ngay cả sau
khi ngừng điều trị Cephalosporin từ thế hệ II đến IV gia tăng hoạt tính
trên vi khuẩn gram âm và giảm hoạt tính trên vi khuẩn gram dương.
Carbapenem Imipenem
Cilis tatin là một kháng sinh phổ rộng và có hiệu lực mạnh trên vi khuẩn
gram dương (ngoại trừ MRSA), gram âm và kỵ khí. Imipenem nhanh
chóng bị phân hủy ở tế bào ống thận bởi enzyme dehydropeptidase, làm
giảm sự hấp thu thuốc và do đó làm độc thận, vì vậy, nó được dùng với
cilistatin, một chất ức chế dehydropeptidase. T ½ của imipenem bình

thường nhỏ hơn 1 gở, nhưng tăng đến 4 giờ ở bệnh nhân thận. Điều này
rất quan trọng bởi nồng độ cao imipenem trong huyết thanh có thể gây
co giật. Liều dùng có thể cần phải được giảm xuống cịn 25%-50% liều
bình thường phụ thuộc vào GFR(14)
Fluoroquinolon
Các fluoroquinolon có sinh khả dụng đường uống tốt và có tác dụng
trên phần lớn các trực khuẩn gram âm kế cả Pseudomonas aeruginosa
(12)
. Ciprofloxacin (Cipro) là một 4-quinolon phổ rộng, tác dụng trên
nhiều vi khuẩn gram dương và gram âm, thường được sử dụng để điều
trị viêm tủy xương (15)
T 1/2 ciprofloxacin tăng từ 3-6 giờ thành 6-9 giờ với bệnh thận. Liều
dùng có thể cần phải giảm xuống cịn 75-50% liều bình thường, phụ
thuộc vào GFR nhưng vẫn có những độc tính tối thiểu liên quan đến
nhóm này.
Vancomycin
Vancomycin là một glycopeptide ba vịng có tác dụng diệt khuẩn chống
lại hầu hết các vi khuẩn gram dương và cầu khuẩn đường ruột
enterococci (12 ). Vancomycin là thuốc được lựa chọn để điều trị
Staphylococcus aureus kháng methicillin (MRSA). Vancomycin thường


được dùng với liều 1 gam mỗi 72 giờ truyền chậm trong hơn một giờ ở
người có chức năng thận bình thường (16). Thời gian bán thải của thuốc là
0,5-1,5 giờ và thuốc được khuyến nghị xây dựng nồng độ đỉnh (peak) và
nồng độ tối thiểu (trough) để tránh độc tính. Nồng độ trough được xác
định để đảm bảo rằng nồng độ vancomycin huyết thanh giữ ở trên mức
khuyến cáo để duy trì hiệu quả(17) . Nồng độ trough nên được duy trì ở
mức 5-10 ng/ml và nồng độ peak ở 20-40 ng/ml. Nồng độ trough cần
xác định từ mẫu máu lấy từ 1 tiếng trước và nồng độ peak một giờ sau

khi đưa thuốc. Trong trường hợp suy thận, liều có thể được điều chỉnh
thành 500mg mỗi 12-6 giờ tùy thuộc vào GFR (14). Nồng độ vancomycin
ngẫu nhiên trong máu cũng có thể được xác định và thuốc có thể được
đưa vào khi nồng độ giảm xuống còn 7-10ug (18). Một số nghiên cứu chỉ
ra rằng việc dùng đồng thời vancomycin với aminoglycosid có thể gây
độc thân vì vậy nên tránh nếu có thể Clindamycin
Clindamycin
Clindamycin là một dẫn xuất 7-chloro của lincomycin có hoạt lực tốt
trên Staphylococcus aureus và hầu hết các vi khuẩn kỵ khí bao gồm cả
Bacteroides fragilis (12). Clindamycin chủ yếu được chuyển hóa ở gan,
thời gian bán thải của thuốc không kéo dài ở bệnh nhân suy thận và hiệu
chỉnh liều là không cần thiết.
Metronidazole
Metronizazole (Flagyl) có hoạt tính diệt khuẩn rất tốt trên các vi khuẩn
kỵ khí và được dùng phổ biến trong điều trị các nhiễm khuẩn kỵ khí như
Bacteroides và Clostrodium Metronidazol (12) có T1/2 = bằng 6-10 giờ và
khơng được thải trừ ra khỏi cơ thể qua thận với một tỷ lệ lớn. Nên giảm
liều xuống cịn 75% liều bình thường trên các bệnh nhân thận giai đoạn
cuối (ESRD), nhưng nếu khơng, vẫn có thể dùng liều bình thường. Có
thể có mối liên quan giữa metronidazole với bệnh thần kinh ngoại vi và
độc tính trên tiền đình (17)
Sulfamethoxazole-Trimethoprim


Sulfamethoxazole-Trimethoprim
Sulfamethoxazole-Trimethoprim (SMX/TMP) là dạng phối hợp 160mg
Trimethoprim và 800mg Sulfamethoxazol, thuốc ngăn chặn sự sinh tổng
hợp của folate bởi các vi sinh vật (12) SMX/TMP được sử dụng bởi các
bác sĩ phẫu thuật chi dưới để điều trị trực khuẩn gram âm còn nhạy cảm
trong viêm tủy xương. Các phản ứng bất lợi như rối loạn tạo máu, buồn

nôn/nôn, phát ban và hội chứng Stevens- Johnson có liên quan tới thuốc
thường là do thành phần sulfamethoxazole (16 ). Liều dùng thông thường
của thuốc là một viên mỗi 12 giờ. T 1/2 của SMX là 8-10 giờ và TMP là
10-12 giờ. T 1/2 có thể tăng gấp đơi trong suy thận nên liều có thể cần
phải được giảm xuống 25% so với bình thường mỗi 12 giờ.

Chương 2: Bàn luận
Ở bệnh nhân suy thận, các thông số dược động học của thuốc thay đổi
dẫn đến cần hiệu chỉnh liều thuốc cho những đối tượng này. Việc sử
dụng liều không phù hợp sẽ dẫn tới nguy cơ gây ra độc tính hoặc giảm
liều điều trị. Một nghiên cứu được thực hiện sẽ dẫn tới nguy cơ gây ra
độc tính hoặc giảm hiệu quả điều trị. Một nghiên cứu được thực hiện tại
sáu bệnh viện ở Mỹ năm 2006 đã chỉ ra rằng có tới hơn 65% bệnh nhân
gặp các biến cố bất lợi hoặc biến cố bất lợi tiềm tang có thể phòng tránh
được nếu được hiệu chỉnh liều hợp lý (19). Cũng theo nghiên cứu này,
kháng sinh là nhóm liên quan nhiều nhất dến các biến cố bất lợi. Điều
này rất đáng lo ngại do kháng sinh là nhóm thuốc được sử dụng tương
đối phổ biến ở bệnh nhân suy thận. Sử dụng liều kháng sinh khơng phù
hợp có thể làm tích lũy thuốc trong cơ thể, dẫn đến tăng độc tính và gây
ra các hậu quả như: Nhiễm độc thần kinh, co giật, thậm chí hơn mê (20).


Ngồi ra, sử dụng liều kháng sinh khơng hợp lý có thể dẫn đến nguy cơ
thiếu liều, khơng đạt được hiệu quả điều trị, thậm chí cịn góp phần gây
ra kháng thuốc.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiếng việt:
1.
2.


3.
4.

Bộ môn nội-Trường đại học y dược thái nguyên- giáo trình nội
khoa tập 1- bệnh thận mạn và suy thận mạn
HƯỚNG DẪN CHẨN ĐOÁN VÀ ĐIỀU TRỊ MỘT SỐ BỆNH VỀ
THẬN - TIẾT NIỆU (Ban hành kèm theo Quyết định số 3931/QĐBYT ngày 21/9/2015 của Bộ trưởng Bộ Y tế
Bộ môn dược lâm sàng-Trường đại học y dược THái NguyênGiáo trình dược lâm sàng
các nguyên lý y học nội khoa Harrison trang 616-619)

Tiếng anh
5.

Khanal A., Castelino R. L., Peterson G. M., Jose M. D. (2014),
"Dose

adjustment guidelines for medications in patients with renal impairment:
how consistent are drug information sources?", Intern Med J, 44(1), pp.
77-85.
6.

Falconnier A. D., Haefeli W. E., Schoenenberger R. A., Surber C.,
Martin-

Facklam M. (2001), "Drug Dosage in Patients with Renal Failure
Optimized by Immediate Concurrent Feedback", J Gen Intern Med,
16(6),
pp. 369-75.



7.

Arpit Prajapati Barna Ganguly (2013), "Appropriateness of drug
dose and

frequency in patients with renal dysfunction in a tertiary care hospital: A
cross-sectional study", J Pharm Bioallied Sci, 5(2), pp
8.

Decloedt E., Leisegang R., Blockman M., Cohen K. (2010),
"Dosage

adjustment in medical patients with renal impairment at Groote Schuur
Hospital", S Afr Med J, 100(5), pp. 304-6
9.

Getachew H., Tadesse Y., Shibeshi W. (2015), "Drug dosage
adjustment

in hospitalized patients with renal impairment at Tikur Anbessa
specialized hospital, Addis Ababa, Ethiopia", BMC Nephrol, 16, pp.
158.
10. Gurwitz J. H., Field T. S., Harrold L. R., Rothschild J., Debellis
K., Seger
A. C., Cadoret C., Fish L. S., Garber L., Kelleher M., Bates D. W.
(2003),
"Incidence and preventability of adverse drug events among older
persons
in the ambulatory setting", JAMA, 289(9), pp. 1107-16.
11. Hug B. L., Witkowski D. J., Sox C. M., Keohane C. A., Seger D.

L., Yoon
C., Matheny M. E., Bates D. W. (2009), "Occurrence of adverse, often
preventable, events in community hospitals involving nephrotoxic drugs
or those excreted by the kidney", Kidney Int, 76(11), pp. 1192-8


12. Woeltje KF, Ritchie DJ. Antimicrobials. In Carey DF, Lee HH.
Woeltje KF, eclitors. The Washington manual of medical therapeutics.
Philadelphia; Lippincott, Williarns & Wilkins; 1998
13. Tannenberg AM, Potter GK. Khoury CS. Considerations in the
treatment of patients with renal disease. Clin Pod Med Surg
1998:15:513-22.).
14. Livornese LL, Slavin DS, Benz RL, et al. Use of antibacterial
agents in renal failure. Infect Dis Clin N Am 2000;14:371-90.
15. Davies SP. Azadian BS, Kox WJ, et al Pharmacokinetics of
ciprofloxacin and vancomycin in patients with acute renal failure treated
by continuos hemodialysis. Nephol Dial Transplant 1992:7:848-54.
16. Bernstein JM, Erk SD: Choice of antibiotics, pharmacokinetics and
dose adjustments in acute and chronic renal failure. Med Clin N Am
1990:74:1059-75.
17. Gilbert DN, Bennett WM. Use of antimicrobial agents in renal
failure. Infec Dis Clin N Am 1989;3:577-31.
18. Saunders NJ. Want SV. Adams DJ Assay of vancomycin by
fluorescence polarization immunoassay and EMIT in patients with renal
failure. J Antimic Chemo 1995;36:411-5.
19. Hug B. L., Witkowski D. J., Sox C. M., Keohane C. A., Seger D. L.,
Yoon
C., Matheny M. E., Bates D. W. (2009), "Occurrence of adverse, often
preventable, events in community hospitals involving nephrotoxic drugs
or those excreted by the kidney", Kidney Int, 76(11), pp. 1192-8.

20. Munar M. Y., Singh H. (2007), "Drug dosing adjustments in patients
with
chronic kidney disease", Am Fam Physician, 75(10), pp. 1487-96.


Tài liệu tham khảo thêm
-

Lưu Quang Huy:” phân tích việc hiệu chỉnh liều kháng sinh cho bệnh
nhân suy thận tại bệnh viên Bạch Mai”
Hiệu chỉnh liều kháng sinh ở bệnh nhân suy thận-Võ Thị Hà



×