Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

sáng kiến rèn kĩ năng viết văn miêu tả lớp 4

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (137.44 KB, 20 trang )

MỤC LỤC
Nội dung
1. Mở đầu
1.1. Lí do chọn đề tài
1.2. Mục đích nghiên cứu
1.3. Đối tượng nghiên cứu
1.4. Phương pháp nghiên cứu
2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm
2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm
2.2. Thực trạng của vấn đề nghiên cứu
a. Một số lỗi thường gặp
b. Nguyên nhân
c. Nội dung chương trình Tập làm văn miêu tả lớp 4
d. Kết quả điều tra đầu năm
2.3. Các giải pháp
a. Tạo động cơ học văn miêu tả ở học sinh
b. Giúp học sinh hiểu rõ đặc điểm cơ bản của văn miêu tả
c. Hướng dẫn học sinh cách quan sát đối tượng miêu tả, cách lựa chọn
hình ảnh, nội dung miêu tả
d. Giúp học sinh tích luỹ vốn từ miêu tả và làm giàu tưởng tượng của
các em trong làm văn miêu tả
e. Hướng dẫn xây dựng đoạn văn mở bài, thân bài, kết bài và xây dựng
bố cục bài văn
g. Luyện tập cách sử dụng các biện pháp tu từ, biện pháp nghệ thuật
trong viết văn
h. Thực hiện nghiêm túc tiết trả bài tập làm văn
i. Khen ngợi, động viên kịp thời
2.4. Hiệu quả
3. Kết luận, kiến nghị
3.1. Kết luận
3.2. Kiến nghị



Trang
1
1
2
2
2
2
2
3
3
4
4
8
8
8
9
11
12
13
15
16
17
17
17
17
18


1. Mở đầu

1.1 . Lí do chọn đề tài.
Trường Tiểu học là nơi đầu tiên trẻ em được học tập tiếng Việt, chữ viết với
phương pháp nhà trường, phương pháp học tập tiếng mẹ đẻ một cách khoa học.
Học sinh tiểu học chỉ có thể học tập các mơn học khác khi có kiến thức tiếng Việt.
Bởi đối với người Việt, tiếng Việt là phương tiện giao tiếp, là công cụ trao đổi
thông tin và chiếm lĩnh tri thức. Môn Tiếng Việt trong chương trình Tiểu học có
nhiệm vụ hồn thành năng lực hoạt động ngôn ngữ cho học sinh. Năng lực hoạt
động ngôn ngữ được thể hiện trong 4 dạng hoạt động, tương ứng với bốn kỹ năng:
nghe, nói, đọc, viết. Từ đó, các em có thể giúp học sinh có cơ sở để tiếp thu kiến
thức ở lớp trên.
Ở Tiểu học, phân môn Tập làm văn rèn cho học sinh các kĩ năng sản sinh
ngơn bản. Nó có vị trí đặc biệt trong q trình dạy học tiếng mẹ đẻ bởi vì phân mơn
Tập làm văn sử dụng và hoàn thiện một cách tổng hợp các kiến thức và kĩ năng
tiếng Việt mà các phân môn Tiếng Việt khác đã hình thành; rèn cho học sinh kĩ
năng sản sinh ngơn bản, nhờ đó tiếng Việt khơng chỉ được xem xét từng phần, từng
mặt qua từng phân môn và trở thành một công cụ tổng hợp để giao tiếp. Do vậy,
phân môn Tập làm văn đã thực hiện mục tiêu cuối cùng, quan trọng nhất của dạy
học tiếng mẹ đẻ là dạy học sinh sử dụng được tiếng Việt để giao tiếp, tư duy, học
tập.
Trong mơn Tiếng Việt có nhiều phân mơn( Học vần, Tập viết, Chính tả, Tập
đọc, Luyện từ và câu), mỗi phân môn chứa đựng một bộ phận kiến thức nhất định,
chúng bổ trợ cho nhau để người học học tốt Tiếng Việt. Trong đó, Tập làm văn là
phân mơn mang tính chất tổng hợp, sáng tạo, thực hành, thể hiện đậm nét dấu ấn cá
nhân. Tập làm văn, viết văn, hành văn là cái đích cuối cùng cao nhất của việc học
tiếng Việt ở tiểu học. Đối với học sinh tiểu học, biết nói đúng, viết đúng, diễn đạt
mạch lạc đã là khó; để nói, viết hay, có cảm xúc, giàu hình ảnh lại khó hơn nhiều.
Cái khó ấy chính là cái đích mà phân mơn Tập làm văn địi hỏi người học cần dần
đạt tới. Từ đó, các em được mở rộng vốn sống, rèn luyện tư duy, bồi dưỡng tâm
hồn, cảm xúc thẩm mỹ, hình thành nhân cách.
Chương trình Tập làm văn ở tiểu học chủ yếu là dạy văn miêu tả. Ngay từ

lớp 2, 3, các em đã được làm quen với văn miêu tả khi được tập quan sát và trả lời
câu hỏi. Lên lớp 4, các em phải hiểu thế nào là văn miêu tả, biết cách quan sát, tìm
ý, lập dàn ý, viết đoạn văn và liên kết đoạn văn thành một bài văn miêu tả đồ vật,
cây cối hoặc con vật- những đối tượng gần gũi và thân thiết của các em. Để hoàn
thành bài văn miêu tả đối với học sinh lớp 4 thường rất khó khăn. Do đặc điểm tâm
lí, học sinh tiểu học cịn ham chơi, khả năng tập trung chú ý quan sát chưa tinh
tế,năng lực sử dụng ngôn ngữ chưa phát triển tốt, dẫn đến khi viết văn miêu tả, học
sinh còn thiếu vốn hiểu biết về đối tượng miêu tả,…hoặc không biết cách diễn đạt
điều muốn tả.


Đối với giáo viên đây cũng là loại bài khó dạy. Giáo viên còn thiếu linh hoạt
trong vận dụng phương pháp và chưa sáng tạo trong việc tổ chức các hoạt động


2
học tập của học sinh. Vìthế, khơng phải giờ dạy văn miêu tả nào cũng đạt hiệu quả
mong muốn, và không phải giáo viên giáo viên nào cũng dạy tốt văn miêu tả. Việc
tìm tịi phương pháp để hướng dẫn học sinh quan sát, tìm ý, lập dàn ý, tưởng
tượng,…cịn nhiều hạn chế. Vì vậy, tơi mạnh dạn nghiên cứu, chọn đề tài “Một số
giải pháp rèn kĩ năng viết văn miêu tả theo hướng phát triển năng lực, phẩm chất
cho học sinh lớp 4A Trường Tiểu học Phú Thanh – Quan Hóa – Thanh Hóa”.
1.2. Mục đích nghiên cứu.
a. Giúp học sinh lớp 4:
- Rèn kĩ năng quan sát, tìm ý, lập dàn ý.
- Rèn kĩ năng dùng từ, đặt câu, viết đoạn, liên kết đoạn, diễn đạt lưu lốt, mạch lạc.
- Rèn kĩ năng viết văn giàu hình ảnh, cảm xúc.
- Bồi dưỡng tình cảm yêu mến, gắn bó, biết trân trọng những gì xung quanh các
em.
- Có tiền đề tốt để học viết văn miêu tả lớp 5.

b. Giúp giáo viên:
- Nhìn nhận lại sâu sắc hơn việc dạy văn miêu tả cho học sinh lớp 4 để vận dụng
phương pháp, biện pháp và hình thức tổ chức dạy học một cách linh hoạt.
- Tự tòm tòi, nâng cao tay nghề, đúc rút kinh nghiệm trong giảng dạy Tập làm văn
nói chung và trong dạy học sinh viết văn miêu tả nói riêng.
- Nâng cao khả năng nghiên cứu khoa học.
1.3. Đối tượng nghiên cứu.
- Phương pháp làm văn miêu tả lớp 4.
1.4. Phương pháp nghiên cứu.
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu: Đọc các tài liệu liên quan đến dạy học môn
Tiếng Việt lớp 4.
- Phương pháp quan sát: Dự giờ đồng nghiệp, quan sát việc dạy của giáo viên và
việc học của học sinh trong các giờ Tập làm văn lớp 4.
- Phương pháp thực nghiệm.
- Phương pháp phân tích tổng hợp và tổng kết kinh nghiệm.
2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm
2.1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm
Từ điển tiếng Việt do Hoàng Phê chủ biên định nghĩa: “Miêu tả là dùng ngơn
ngữ hoặc một phương tiện nghệ thuật nào đó làm cho người khác có thể hình dung
được cụ thể sự vật, sự việc hoặc thế giới nội tâm của con người.” Nhà văn Phạm
Hổ:" Miêu tả là khi đọc những gì chúng ta biết, người đọc như thấy cái đó hiện ra
trước mắt mình: một con người, con vật, một dịng sơng, người đọc có thể nghe
được cả tiếng nói, tiếng kêu, tiếng nước chảy, thậm chí cịn ngửi thấy mùi hôi,
mùi sữa, mùi nước hoa hay mùi rêu, mùi ẩm mốc... Nhưng đó chỉ là miêu tả
bên ngồi, còn sự miêu tả bên trong nữa là miêu tả tâm trạng vui, buồn, yêu, ghét
của con người, con vật và cả cây cỏ."


3
Như vậy, miêu tả là thể loại văn dùng lời nói có hình ảnh và có cảm xúc làm

cho người nghe, người đọc hình dung một cách rõ nét, cụ thể về người, vật, cảnh
vật, sự việc như nó vốn có trong đời sống. Một bài văn miêu tả hay khơng những
phải thể hiện rõ nét, chính xác, sinh động đối tượng miêu tả mà cịn thể hiện được
trí tưởng tượng, cảm xúc và đánh giá của người viết với đối tượng được miêu tả.
Bởi vì trong thực tế, khơng ai tả mà để tả, mà thường tả để gửi gắm suy nghĩ, cảm
xúc, sự đánh giá, những tình cảm yêu ghét cụ thể của mình. Các bài văn miêu tả ở
tiểu học chỉ yêu cầu tả những đối tượng mà học sinh u mến, thích thú. Vì vậy,
qua bài làm của mình, các em phải gửi gắm tình yêu thương với những gì mình
miêu tả.
Mục tiêu của dạy viết văn miêu tả lớp 4:
+ Yêu cầu kiến thức:
- Học sinh phải hiểu thế nào là miêu tả?
- Miêu tả đồ vật: Biết cách quan sát, tìm ý, lập dàn ý bài văn miêu tả đồ vật.
- Miêu tả cây cối: Biết cách quan sát, tìm ý, lập dàn ý bài văn miêu tả cây cối.
- Miêu tả con vật : Biết cách quan sát, tìm ý, lập dàn ý bài văn miêu tả con vật.
+ Yêu cầu kỹ năng: Chương trình tập làm văn, dạng văn miêu tả nhằm trang bị cho
học sinh những kĩ năng sản sinh ngôn bản, cụ thể:
- Kĩ năng định hướng hoạt động giao tiếp: Nhận diện đặc điểm văn bản; phân tích
đề bài, xác định yêu cầu.
- Kĩ năng lập chương trình hoạt động giao tiếp: Xác định dàn ý của bài văn đã cho;
quan sát đối tượng tìm ý và sắp xếp ý thành dàn ý trong bài văn miêu tả.
- Kĩ năng thực hiện hoá hoạt động giao tiếp: Đối chiếu văn bản nói, viết của bản
thân với mục đích giao tiếp; sửa lỗi về nội dung và hình thức diễn đạt.
2.2. Thực trạng của vấn đề nghiên cứu.
a. Một số lỗi thường gặp:
Bài văn miêu tả của học sinh lớp 4 hầu hết mắc những lỗi: Sai âm đầu, lỗi
dấu câu, lỗi đặt câu, lỗi lạc đề. Cụ thể như sau:
- Lỗi dùng sai âm đầu: Học sinh chủ yếu vẫn thường sai phụ âm đầu s/x, d/r/gi,
ch/tr.
- Lỗi dấu câu: Không dùng dấu câu: Xảy ra nhiều với học sinh chưa hồn thành,

các em khơng sử dụng hoặc ít sử dụng dấu chấm, dấu phẩy trong một câu hoặc
trong một bài văn. Hoặc sử dụng dấu câu sai.
Ví dụ: Cây bàng cao thân cây. Xù xì.
- Lỗi đặt câu:
+ Câu khơng đủ thành phần.
Ví dụ: Có nhiều cành, nhiều lá rậm rạp.
+ Câu có nội dung trùng lặp với câu khác trong bài văn.Ví du: Con gà trống dậy
rất sớm. Nó dậy sớm để báo thức mọi người.
+ Câu sai nghĩa.
Ví dụ: Con mèo nặng khoảng 2 tạ.


4
+ Câu khơng rõ nghĩa.
Ví dụ: Con mèo lơng trắng mắt nó em u chú lắm.
+ Câu khơng có sự tương hợp về nghĩa giữa các thành phần câu, giữa các vế câu.
Ví dụ: Chiếc cặp của em màu đỏ giúp em học tốt.
+ Các câu trong bài mâu thuẫn nhau: Cây bàng to, mập mạp. Thân cây khẳng khiu.
- Lỗi lạc đề: Các bài văn miêu tả mà đa số học sinh làm thành văn kể chuyện.
Bài văn miêu tả của học sinh lớp 4: Bài văn ngắn, câu cụt, kể lể, ít hình ảnh,

Ví dụ: Cái cặp của em nhiều màu. Mặt trước có siêu nhân rất đẹp. Nó có ba
ngăn. Một ngăn em để bút, một ngăn em để vở, một ngăn để sách.
Đoạn văn như vậy được coi là tạm được vì đúng ý. Câu văn rõ nghĩa. Nhưng
miêu tả như vậy chỉ cần vài câu là tả xong một đồ vật, một cây. Và nó cũng rất
chung chung, không làm nổi bật được nét riêng của đồ vật đó, cây đó.
Đọc bài văn miêu tả của các em, ta cịn thấy sự khơ khan, nghèo cảm xúc, sự
liệt kê lan man, dài dòng, lủng củng, lộn xộn, không lột tả được đối tượng miêu tả.
Nhiều em muốn bắt chước cho bài văn hay hơn đã sử dụng biện pháp so
sánh, nhân hoá một cách tuỳ tiện. Ví dụ: Quả bàng to như con lợn con.

Như vậy, ta thấy bài văn miêu tả của học sinh lớp 4 mắc rất nhiều lỗi. Tuỳ
theo mức độ, học sinh hồn thành tốt có khả năng hạn chế hơn một số lỗi cơ bản.
Ở đây đặt ra một vấn đề cấp thiết là dạy học sinh viết văn sao cho mạch lạc,
giàu hình ảnh, tái hiện được cụ thể, sinh động đối tượng miêu tả.
b. Nguyên nhân:
+ Về phía giáo viên:
- Chưa khơi gợi được sự ham học, yêu thích miêu tả đồ vật, con vật, cây cối,...xung
quanh, chưa tạo được động cơ học văn miêu tả ở các em.
- Chưa thực hiện nghiêm túc tiết trả bài tập làm văn.
+ Về phía học sinh:
- Các em chưa hiểu rõ đặc điểm cơ bản của văn miêu tả, chưa phân biệt được sự
khác biệt giữa văn bản miêu tả với các kiểu bài văn khác.
- Khả năng quan sát và lựa chọn hình ảnh để quan sát và miêu tả chưa tinh tế.
- Vốn từ miêu tả còn nghèo nàn. Chưa có thói quen tích luỹ các từ ngữ gợi tả.
- Kĩ năng lựa chọn từ ngữ, dùng từ, đặt câu, viết đoạn văn, kĩ năng diễn đạt,… còn
hạn chế. Các em chưa biết cách sắp xếp ý khi viết bài.
- Khơng có thói quen sử dụng các biện pháp so sánh, nhân hoá khi viết văn.
c. Nội dung chương trình Tập làm văn miêu tả lớp 4:
Chương trình Tập làm văn lớp 4 được thiết kế tổng cộng 62 tiết/ năm. Trong đó,
văn miêu tả gồm có 30 tiết được phân bố như sau:
Tuần
Tên bài
Mục tiêu
Tuần 1. Thế nào là Hiểu được thế nào là miêu tả.
14 văn miêu tả
Nhận biết được câu văn miêu tả trong truyện Chú Đất
Nung; bước đầu viết được 1,2 câu miêu tả một trong


5

2. Cấu tạo
bài văn miêu
tả đồ vật
1. Luyện tập
miêu tả đồ
vật
Tuần
15

Tuần
16

2. Quan sát
đồ vật
Luyện tập
miêu tả đồ
vật

những hình ảnh yêu thích trong bài thơ Mưa.
Nắm được cấu tạo bài văn miêu tả đồ vật, các kiểu mở
bài, kết bài, trình tự miêu tả trong phần thân bài.
Biết vận dụng để viết mở bài, kết bài cho một bài văn miêu
tả cái trống trường.
Nắm vững cấu tạo 3 phần( mở bài, thân bài, kết bài) của
bài văn miêu tả đồ vật và trình tự miêu tả; hiểu vai trị của
quan sát trong việc miêu tả những chi tiết của bài văn, sự
xen kẽ của lời tả với lời kể.
Lập được dàn ý cho bài văn tả chiếc áo mặc đến lớp.
Biết quan sát đồ vật theo một trình tự hợp lí, bằng nhiều
cách khác nhau; phát hiện được đặc điểm phân biệt đồ vật

đó với đồ vật khác; dựa vào kết quả quan sát, biết lập dàn
ý để tả một đồ chơi quen thuộc.
Dựa vào dàn ý đã lập(TLV, tuần 15), viết được một bài
văn miêu tả đồ chơi em thích với ba phần: mở bài, thân
bài, kết bài.

1. Đoạn văn
Hiểu được cấu tạo cơ bản của đoạn văn trong bài văn
trong bài văn miêu tả đồ vật, hình thức thể hiện giúp nhận biết mỗi đoạn
miêu tả đồ văn.
vật.
Nhận biết được cấu tạo của đoạn văn; viết được một đoạn
Tuần
văn tả bao quát một chiếc bút.
17
2. Luyện tập
Nhận biết được đoạn văn thuộc phần nào trong bài văn
xây dựng
miêu tả, nội dung miêu tả của từng đoạn, dấu hiệu mở đầu
đoạn văn
đoạn văn; viết được đoạn văn tả hình dáng bên ngoài, đoạn
miêu tả đồ
văn tả đặc điểm bên trong của chiếc cặp sách.
vật
1. Luyện tập
Nắm vững hai cách mở bài (trực tiếp, gián tiếp) trong bài
xây dựng mở văn tả đồ vật.
bài trong bài
Viết được đoạn mở bài cho một bài văn miêu tả đồ vật
văn miêu tả đồ theo hai cách trên.

vật.
Tuần 2. Luyện tập
Nắm vững hai cách kết bài (mở rộng, không mở rộng)
19 xây dựng kết trong bài văn tả đồ vật.
bài trong bài
Viết được đoạn kết bài mở rộng cho một bài văn miêu tả
văn miêu tả đồ đồ vật.
vật


6
Miêu tả đồ
Biết viết hoàn chỉnh bài văn tả đồ vật đúng yêu cầu của
Tuần vật( Kiểm tra đề bài, có đủ 3 phần( mở bài, thân bài, kết bài), diễn đạt
20 viết)
thành câu rõ ý.
1. Trả bài
văn miêu tả
đồ vật
Tuần
2. Cấu tạo
21
bài văn miêu
tả cây cối

Tuần
22

1. Luyện tập
qua sát cây

cối
2. LT miêu tả
các bộ phận
của cây cối
1. LT miêu tả
các bộ phận
của cây cối

Tuần
23 2. Đoạn văn
trong bài văn
miêu tả cây
cối
Luyện tập xây
Tuần dựng đoạn
24 văn miêutả
cây cố

Biết rút kinh nghiệm về bài TLV tả đồ vật( đúng ý, bố cục
rõ, dùng từ, đặt câu và viết đúng chính tả,…); tự sửa được
các lỗi đã mắc trong bài viết theo sự hướng dẫn của GV.
Nắm được cấu tạo 3 phần (mở bài, thân bài, kết bài) của
một bài văn tả cây cối.
Nhận biết được trình tự miêu tả trong bài văn tả cây cối;
biết lập dàn ý miêu tả một cây ăn quả quen thuộc theo 1
trong 2 cách đã học.
Biết quan sát cây cối theo trình tự hợp lí, kết hợp các
giác quan khi quan sát; bước đầu nhận ra được sự giống
nhau giữa miêu tả một loài cây với miêu tả một cái cây.
Ghi lại được các ý quan sát về một cây em thích theo một

trình tự nhất định.
Nhận biết được một số điểm đặc sắc trong cách quan sát và
miêu tả các bộ phận của cây cối trong đoạn văn mẫu; viết
được một đoạn văn ngắn tả lá( thân, gốc) một cây em thích.
Nhận biết được một số điểm đặc sắc trong cách quan sát
và miêu tả các bộ phận của cây cối (hoa, quả) trong đoạn
văn mẫu; viết được một đoạn văn ngắn tả một lồi hoa em
thích.
Nắm được đặc điểm nội dung và hình thức của đoạn văn
trong bài văn miêu tả cây cối.
Nhận biết và bước đầu biết cách xây dựng một đoạn nói
về lợi ích của lồi cây em biết.
Vận dụng những hiểu biết về đoạn văn trong bài văn tả
cây cối đã học để viết được một số đoạn văn( cịn thiếu ý)
cho hồn chỉnh.

Luyện tập xây Nắm được 2 cách mở bài (trực tiếp, gián tiếp) trong bài
dựng mở bài văn miêu tả cây cối; vận dụng kiến thức đã biết để viết
Tuần
trong bài văn được đoạn mở bài cho bài văn tả một cây mà em biết.
25
miêu tả cây
cối


7
1. Luyện tập
xây dựng mở
bài trong bài
Tuần văn miêu tả

26 cây cối
2. Luyện tập
miêu tả cây
cối
1. Miêu tả
cây cối
(Kiểm tra
Tuần viết)
27 2. Trả bài
văn miêu tả
cây cối

Nắm được 2 cách kết bài (mở rộng, không mở rộng)
trong bài văn miêu tả cây cối; vận dụng kiến thức đã biết
để bước đầu viết được đoạn kết bài mở rộng cho bài văn tả
một cây mà em thích.
Lập được dàn ý sơ lược bài văn tả cây cối nêu trong đề bài.
Dựa vào dàn ý đã lập, bước đầu viết được các đoạn thân
bài, mở bài, kết bài cho bài văn tả cây cối xác định.

Viết được một bài văn hoàn chỉnh bài văn tả cây cối
theo gợi ý đề bài trong sgk( hoặc đề bài do GV lựa chọn),
biết viết đủ 3 phần( mở bài, thân bài, kết bài), diễn đạt
thành câu, lời tả tự nhiên, rõ ý.
Biết rút kinh nghiệm về bài TLV tả cây cối ( đúng ý, bố
cục rõ, dùng từ, đặt câu và viết đúng chính tả,…); tự sửa
được các lỗi đã mắc trong bài viết theo sự hướng dẫn của
GV.
Nhận biết được 3 phần (mở bài, thân bài, kết bài) của bài
Cấu tạo của văn tả con vật.

Tuần
bài văn miêu
Biết vận dụng những hiểu biết về cấu tạo bài văn tả con
29
tả con vật
vật để lập dàn ý tả một con vật nuôi trong nhà.
Luyện tập
Tuần
quan sát con
30
vật
1. Luyện tập
miêu tả các
bộ phận của
con vật
Tuần
2. Luyện tập
31
xây dựng
đoạn văn
miêu tả con
vật
Tuần 1. Luyện tập
32 xây dựng
đoạn văn
miêu tả con
vật

Nêu được nhận xét về cách quan sát và miêu tả con vật
qua bài văn Đàn ngan mới nở; bước đầu biết cách quan sát

một con vật để chọn lọc các chi tiết nổi bật về ngoại hình,
hoạt động và tìm từ ngữ để miêu tả con vật đó.
Nhận biết được những nét tả bộ phận chính của con vật
trong đoạn văn; quan sát các bộ phận của con vật em u
thích và bước đầu tìm được những từ ngữ miêu tả thích
hợp.
Nhận biết được đoạn văn và ý chính của từng đoạn trong
bài văn tả con chuồn chuồn nước; biết sắp xếp các câu cho
trước thành một đoạn văn; bước đầu viết được một đoạn
văn có câu mở đầu cho sẵn.
Nhận biết được: đoạn văn và ý chính của đoạn trong bài
văn tả vật, đặc điểm hình dáng bên ngoài và hoạt động của
con vật được miêu tả trong bài văn; bước đầu vận dụng
kiến thức đã học để viết được đoạn văn tả ngoại hình, tả
hoạt động của một con vật em yêu thích.
Nắm vững kiến thức đã học về đoạn mở bài, kết bài


8
2. Luyện tập trong bài văn miêu tả con vật để thực hành luyện tập; bước
xây dựng mở đầu viết được đoạn mở bài gián tiếp, kết bài mở rộng cho
bài, kết bài
bài văn tả con vật yêu thích.
trong bài văn
miêu tả con
vật.
Dạy học văn miêu tả có thể chia thành hai phần: Dạy lí thuyết và dạy thực hành.
d. Kết quả điều tra đầu năm.
Điều tra chất lượng viết văn miêu tả của học sinh lớp 4A có số liệu cụ thể như
sau:

Lớp
Sĩ số
Hoàn thành tốt
Hoàn thành
Chưa hoàn thành
4A
23
7 em = 30,38%
10 em = 43,47%
6 em = 26,15%
Qua đây, tôi xin nêu lên những giải pháp tiến hành trên cơ sở các phương
pháp đặc trưng của phân môn mà Bộ Giáo dục và Đào tạo quy định, nhằm rèn kĩ
năng viết văn miêu tả cho học sinh lớp 4 có hiệu quả.
2.3. Các giải pháp.
a. Tạo động cơ học văn miêu tả ở học sinh.
Sản phẩm của phân môn Tập làm văn là các bài văn nói hoặc viết theo các
kiểu bài do chương trình qui định. Để sản sinh các bài văn này, học sinh phải có
thêm nhiều kỹ năng khác ngồi các kỹ năng nghe, nói, đọc, viết tiếng Việt, kỹ năng
dùng từ đặt câu. Đó là các kỹ năng phân tích đề, tìm ý và lựa chọn ý, kỹ năng lập
dàn ý, viết đoạn và liên kết đoạn.
Nhiệm vụ của phân môn Tập làm văn bậc tiểu học, mở rộng vốn sống, rèn
luyện tư duy, bồi dưỡng tâm hồn, cảm xúc thẩm mĩ, hình thành nhân cách cho học
sinh. Trong đó, học văn miêu tả góp phần phát triển tư duy hình tượng của trẻ được
rèn luyện phát triển nhờ các biện pháp so sánh, nhân hoá,…khi miêu tả.Nhưng làm
thế nào để thực hiện được nhiệm vụ trên mà không biến các em thành những “thợ”
viết văn? Vậy ta cần kích thích các em yêu văn và có nhu cầu viết văn.
- Trước hết, hãy tạo tình huống khiến các em háo hức khám phá điều thú vị trong
đối tượng miêu tả. Ví dụ: Giáo viên cho học sinh quan sát bức tranh cây hoa
phượng đang ra hoa đỏ rực và hỏi: Quan sát tranh, em thấy cây hoa có đặc điểm gì
mà Xn Diệu đã ví “như mn ngàn con bướm thắm đậu khít nhau”?

Học sinh sẽ phân tích, tìm ra đặc điểm tương đồng của bộ phận nào đó của
cây hoa với mn ngàn con bướm đậu khít nhau. Qua đây sẽ rèn cho các em óc
quan sát tinh tế, sự liên tưởng và tư duy phân tích, kích thích các em suy luận.
- Dạy học sinh viết văn miêu tả phải gắn liền với việc hình thành những kĩ năng
sống khác. Như dạy các em biết giữ gìn đồ vật, tổ chức học sinh trồng, chăm sóc
và bảo vệ cây… Học sinh được trau dồi vốn sống, có những cảm xúc, tình cảm. Từ
đó, mới dạy các em cách thể hiện suy nghĩ bằng ngơn ngữ nói, viết.


9
- Khi ra đề Tập làm văn, giáo viên nên chú ý đề bài yêu cầu viết về những gì gần
gũi với học sinh, kích thích các em muốn nói, viết về nội dung đề bài đã yêu cầu.
Trong tiết Kiểm tra viết (sách Tiếng Việt 4 tập 2- trang 92) có 4 đề bài gợi ý.
Giáo viên nên dựa vào đó để ra đề khác nhằm gợi cảm xúc cho các em trước khi
viết bài.
Ví dụ:
Đề 1: Hãy tả một cây ở trường gắn với nhiều kỉ niệm của em.
Đề 2: Hãy tả một cây do chính tay em vun trồng.
Đề 3: Em thích lồi hoa nào nhất? Hãy tả lồi hoa đó.
- Khi học sinh đã có hứng thú học văn miêu tả, ta tiếp tục duy trì điều đó trong suốt
q trình học tập và tích cực rèn các kĩ năng khác theo yêu cầu khi viết văn. Ngồi
ra, bên cạnh u cầu duy trì chủ đề, để đạt mục đích giao tiếp, bài văn phải có sự
phát triển, chủ đề phải được triển khai. Giáo viên cần chỉ ra các hướng cho học
sinh viết bài: viết theo trình tự thời gian, khơng gian hay từ tồn thể đến bộ phận…
Các bài văn miêu tả của học sinh phải thể hiện được tình cảm, cảm xúc. Điều
này chi phối kĩ thuật viết đồng thời đòi hỏi dạy viết văn miêu tả phải được bắt đầu
từ việc hình thành tình cảm đối với đối tượng được miêu tả.
b. Giúp học sinh hiểu rõ đặc điểm cơ bản của văn miêu tả.
Miêu tả là thể loại văn dùng lời nói có hình ảnh và có cảm xúc làm cho
người nghe người đọc hình dung một cách rõ nét, cụ thể về người, vật, cảnh vật, sự

việc như nó vốn có trong đời sống. Một bài văn miêu tả hay khơng những phải thể
hiện rõ nét, chính xác, sinh động đối tượng miêu tả mà cịn thể hiện được trí tưởng
tượng, cảm xúc và đánh giá của người viết với đối tượng được miêu tả. Bởi vì
trong thực tế khơng ai tả mà để tả, mà thường tả để gửi gắm suy nghĩ, cảm xúc, sự
đánh giá, những tình cảm yêu ghét cụ thể của mình. Các bài văn miêu tả ở tiểu học
chỉ yêu cầu tả những đối tượng mà học sinh u mến, thích thú. Vì vậy, qua bài
làm của mình, các em phải gửi gắm tình yêu thương với những gì mình miêu tả.
Đối tượng của văn miêu tả trong chương trình lớp 4 gồm có miêu tả đồ vật, cây
cối, con vật.
Tả đồ vật:
Đối tượng của văn miêu tả đồ vật ở lớp 4 là những vật học sinh thường thấy
trong đời sống hàng ngày gần gũi với các em, vì vậy cũng dễ trở thành gần gũi với
các em. Đó có thể là cái trống, cái bút, quyển vở, cặp sách, cái đồng hồ báo thức,…
Chúng là những đồ vật vô tri, vô giác nhưng gần gũi và có ích đối với học sinh.
Mỗi đồ vật đều có một hình dáng, màu sắc, kích thước, chất liệu cụ thể. Học
sinh miêu tả những đặc điểm này trong bài văn của mình. Với những đồ vật có
nhiều bộ phận, các em cần tập trung tả những bộ phận quan trọng nhất. Đó chính là
những nét tiêu biểu để phân biệt đồ vật này với đồ vật khác.
Đồ vật lại thường gắn liền với cuộc sống con người nên khi miêu tả phải nói tới
cơng dụng, lợi ích của đồ vật cũng như tình cảm của con người đối với nó. Có như
vậy, đồ vật mới hiện lên một cách sinh động và có hồn.


10
Tả cây cối:
Đối tượng của văn miêu tả cây cối là những cây trồng xung quanh. Đó có thể
là một cây hoa, cây ăn quả hay cây cho bóng mát,… - những cây có ích và gần gũi
với các em. Mỗi loại cây có một hình dáng, đặc điểm, lợi ích nhất định. Vì vậy, khi
miêu tả chúng, học sinh phải làm nổi bật những đặc điểm này. Tả cây ăn quả cần
tập trung miêu tả hình dáng của cây, mùi vị của qủa; tả cây lấy hoa cần tả hương

sắc của hoa; tả cây cho bóng mát phải làm rõ dáng cây, tán lá,…
Cây cối luôn sống trong thiên nhiên. Khi miêu tả, cần gắn chúng với miêu tả
sơ lược khung cảnh xung quanh như mặt trời, đám mây, chim chóc, ao hồ và cả
con người. Ta cũng cần chú ý tới lợi ích của chúng và tình cảm u mến gắn bó của
người tả đối với cây.
Tả lồi vật:
Đối tượng của văn miêu tả loài vật là những con vật quen thuộc gần gũi với
học sinh. Đó là những con gà mái, gà trống, cún con, chú mèo,…Mỗi con vật đều
có đặc điểm về hình dáng, đặc tính giống nòi riêng. Khi miêu tả, ta miêu tả cái
chung, và cả những nét tiêu biểu của loài vật như màu sắc, vóc dáng, tính nết.
Những con vật miêu tả là những con vật gần gũi thân thiết và có nhiều lợi ích nên
bài văn phải thể hiện được sự chăm sóc, tình cảm u mến của học sinh đối với
chúng.
Ở Tiểu học, phân mơn Tập làm văn có nhiệm vụ rèn kĩ năng nói theo nghi
thức lời nói, nói, viết các ngôn bản thông thường, viết một số văn bản nghệ thuật
như miêu tả. Viết văn miêu tả, học sinh phải có kĩ năng đặc thù là quan sát, diễn đạt
một cách có hình ảnh. Tập làm văn cũng góp phần rèn luyện tư duy hình tượng, từ
óc quan sát đến trí tưởng tượng, từ khả năng tái hiện các chi tiết đã quan sát được.
Khả năng tư duy logic của học sinh cũng được phát triển trong quá trình phân tích
đề, lập dàn ý viết đoạn …. Trong quá trình sản sinh văn bản cũng giúp học sinh có
kĩ năng phân tích, tổng hợp, phân loại, lựa chọn. Thơng qua viết văn miêu tả học
sinh có sự hiểu biết và tình cảm u mến, gắn bó với đồ vật, cây cỏ, thiên nhiên với
con người và vạn vật xung quanh: Từ một quyển sách, đến một cây hoa, một chú
gà trống…Từ đây, tâm hồn, nhân cách của các em sẽ được hình thành và phát triển.
Để dạy tốt các bài tập làm văn miêu tả ở Tiểu học, giáo viên cần vận dụng
các tri thức về miêu tả, …hiểu biết về loại thể văn học; cần hiểu rõ tính đặc thù của
kĩ năng viết văn miêu tả. Để “vẽ được bằng lời” phải dạy tìm ý trong văn miêu tả
bằng cách dạy quan sát và ghi chép các nhận xét. Giáo viên cần hướng dẫn cho học
sinh biết cách vận dụng các giác quan để quan sát, biết cách lựa chọn vị trí và thời
gian quan sát, biết cách liên tưởng và tưởng tượng khi nhận xét sự vật và phải biết

diễn đạt điều quan sát được một cách gợi tả, gợi cảm, tức là có hình ảnh và cảm
xúc…
Bài văn miêu tả được xây dựng trên cơ sở những hình ảnh, những ấn tượng
về đối tượng mà người viết thu lượm, cảm nhận được thông qua các giác quan trực
tiếp của mình. Bài văn miêu tả thể loại mang tính chất nghệ thuật cao, mang tính


11
sáng tạo, tính cá thể của người viết. Ngơn ngữ trong văn miêu tả là thứ ngôn ngữ
nghệ thuật giàu sức gợi tả, gợi cảm và là ngôn ngữ của những biện pháp tu từ. Tả là
mô phỏng, tô vẽ lại, là so sánh ví von, nhân hố bằng hình ảnh…chứ khơng phải là
kể lể.
Văn miêu tả mang tính chất thông báo thẩm mĩ. Dù miêu tả đối tượng nào,
dù có bám sát thực tế đến đâu thì văn miêu tả cũng khơng bao giờ sao chép, chụp
ảnh máy móc những sự vật hiện tượng mà là kết quả của sự nhận xét, tưởng tượng,
đánh giá hết sức phong phú. Đó là sự miêu tả thể hiện được cái mới, cái riêng biệt
của đối tượng thông qua cảm nhận của mỗi người.
Với mỗi học sinh, mỗi bài tập làm văn là một sản phẩm của từng cá nhân các
em trước một đề tài. Sản phẩm này ít nhiều in dấu ấn riêng của từng em trong cách
suy nghĩ, cách tả, cách diễn đạt,…Giáo viên cần có thái độ tơn trọng sự độc lập suy
nghĩ sáng tạo nếu nó khơng biểu lộ những lệch lạc.
Văn miêu tả không hạn chế sự tưởng tượng, không ngăn cản sự sáng tạo của
người viết, nhưng khơng có nghĩa là cho phép người viết “bịa” một cách tuỳ ý. Để
tả hay, tả đúng thì phải tả chân thật. Giáo viên cần uốn nắn để học sinh tránh thái
độ giả tạo, sáo rỗng…
c. Hướng dẫn học sinh cách quan sát đối tượng miêu tả, cách lựa chọn hình
ảnh, nội dung miêu tả.
Quan sát đối tượng miêu tả cần chú ý:
- Quan sát tổng thể đối tượng; chú ý cả trạng thái động và tĩnh; quan sát bằng tất cả
các giác quan thính giác, thị giác, xúc giác,…

- Lựa chọn điểm đặc trưng, đặc biệt, tiêu biểu của đối tượng để quan sát thật kĩ.
- Quan sát và so sánh điểm giống và khác nhau với các đối tượng khác có ở xung
quanh bằng sự liên tưởng hay quan sát trước đó.
- Quan sát hình ảnh, hoạt động và những tác động của đối tượng đến các sự vật
xung quanh.
- Ghi chép cẩn thận, đầy đủ khi quan sát.
Lựa chọn hình ảnh miêu tả và nội dung miêu tả:
- Căn cứ vào hình ảnh đã lựa chọn khi quan sát.
- Căn cứ vào nội dung đã ghi chép.
- Chọn lọc những hình ảnh, chi tiết, hoạt động đặc sắc, đặc trưng riêng, đẹp và
khác biệt của đối tượng để miêu tả chi tiết.
- Lựa chọn hình ảnh, hoạt động khác của đối tượng để tả khái quát, bổ trợ tạo nên
hình ảnh tổng thể về đối tượng; có thể lồng ghép các hình ảnh, sự việc gắn bó mật
thiết với đối tượng.
Sắp xếp ý, đoạn:
- Căn cứ vào nội dung đã lựa chọn để sắp xếp từng ý (theo một thứ tự nào đó: từ
ngồi vào trong, từ trước ra sau, từ xa đến gần, từ trên xuống dưới, …).
- Sắp xếp các ý theo đoạn với thứ tự đã lựa chọn cho phù hợp.


12
Để viết được bài văn, học sinh cần tập viết đoạn. Trong chương trình tập làm
văn, bài tập viết đoạn chiếm số lượng nhiều. Đoạn văn được phân loại theo chức
năng: đoạn mở bài, đoạn thân bài, đoạn kết bài. Cách phân loại này chi phối cách
xây dựng các kiểu bài viết đoạn mở bài, viết đoạn thân bài và đoạn kết bài. Mỗi
đoạn văn theo chức năng này lại được phân loại nhỏ hơn: mở bài trực tiếp, mở bài
gián tiếp, kết bài mở rộng, kết bài tự nhiên (khơng mở rộng).
d. Giúp học sinh tích luỹ vốn từ miêu tả và làm giàu tưởng tượng của các em
trong làm văn miêu tả.
Muốn lựa chọn từ ngữ để đặt câu, viết thành những câu văn có hình ảnh, học

sinh phải có vốn từ phong phú. Do vậy, giáo viên cần giúp học sinh tích luỹ vốn từ
miêu tả và làm giàu tưởng tượng của các em trong làm văn miêu tả:
Tích luỹ vốn từ:
- Vốn từ được tích luỹ từ nhiều nguồn: giao tiếp hàng ngày; đọc sách, báo; xem,
nghe truyền hình truyền thanh; trao đổi với bạn bè; cô giáo cung cấp;..
- Ghi chép khi được nhận các từ ngữ dùng để miêu tả theo các chủ đề, cụ thể như:
+ Các từ thường dùng trong miêu tả cây cối: xanh mướt, mơn mởn; khẳng khiu;
xum xuê; rực rỡ; đo đỏ;…
+ Các từ thường dùng trong miêu tả đồ vật: tròn xoe, nhỏ nhắn,…
+ Các từ thường dùng trong miêu tả con vật: tinh nhanh, rón rén, oai vệ,…
- Các từ miêu tả đó thường là những từ láy, gợi lên hình ảnh, âm thanh,… để miêu
tả cho sinh động.
Giúp học sinh làm giàu thêm trí tưởng tượng:
Tưởng tượng trong miêu tả rất quan trọng. Có tưởng tượng mới có hình ảnh
hồn chỉnh về đối tượng miêu tả. Tưởng tượng như một sự hình dung về đối tượng
mà ta nhắm mắt lại thì đối tượng sẽ hiện ra rõ nét hơn, cụ thể hơn, gần gũi hơn.
Tưởng tượng giúp ta thấy được nét đặc sắc của đối tượng, thấy được những điểm
tương đồng với đối tượng khác, thấy được mối quan hệ của đối tượng với sự vật
hiện tượng xung quanh, với những kỉ niệm hay kí ức mang dấu ấn sâu sắc trong
lòng người viết. Từ tưởng tượng, học sinh sẽ cảm nhận được đối tượng miêu tả
bằng tình cảm, tình u của chính mình, thấy được tầm quan trọng của đối tượng
được tả đối với chính mình và cả với những người xung quanh. Miêu tả gắn với
tưởng tượng là một cách bộc lộ cảm xúc, tình cảm và khả năng cảm thụ cái đẹp của
người viết văn miêu tả. Tưởng tượng làm cho đối tượng miêu tả hoàn thiện hơn,
sống động và gần gũi hơn.
Giáo viên có thể hướng dẫn học sinh tưởng tượng theo cách:
- Không trực tiếp quan sát, tập trung tất cả các giác quan vào đối tượng.
- Nhắm mắt, hình dung về đối tượng: hình ảnh, hoạt động của đối tượng, những
ảnh hưởng, tác động của đối tượng đến sự vật xung quanh.
- So sánh đối tượng được miêu tả với các đối tượng khác tương đồng.

- Phân tích, đánh giá cái hay, cái đẹp có ở đối tượng.
- Nhân hố hay tự nhiên hố một vài hình ảnh đặc sắc ở đối tượng.


13
- Dự đoán trước khả năng và những điều tốt đẹp mà đối tượng có thể vươn tới.
- Liên tưởng với những điều mình đã biết; đã nghe, đọc, cảm nhận được về đối
tượng từ trước tới nay.
- Ghi chép lại những gì mình đã tưởng tượng để lựa chọn, chắt lọc đưa vào bài viết.
e. Hướng dẫn xây dựng đoạn văn mở bài, thân bài, kết bài và xây dựng bố cục
bài văn.
Bài tập luyện viết văn miêu tả là những bài tập viết thành đoạn, bài.
Khi học sinh thực hiện viết bài văn miêu tả cần có thời gian suy nghĩ tìm
cách diễn đạt (dùng từ, đặt câu, sử dụng các biện pháp tu từ so sánh, nhân hố, …).
Vì vậy, u cầu đặt ra là lời văn cần rõ ý, miêu tả sinh động, bộc lộ được cảm xúc,
bố cục bài văn chặt chẽ, hợp lí trong từng đoạn, trong toàn bài để tạo ra một “chỉnh
thể”.
Các bài tập được xây dựng trên cơ sở quy trình sản sinh ngơn bản và chứa
đựng trong nó nhiều bài tập hình thành những kĩ năng bộ phận (xác định u cầu
nói, viết và tìm ý, sắp xếp ý thành bài đến viết đoạn văn, liên kết đoạn văn thành
bài,…). Kĩ năng viết của học sinh được rèn luyện chủ yếu qua các bài tập viết đoạn
văn trước khi viết một bài văn hồn chỉnh. Do đó, trong q trình thực hiện các bài
tập rèn luyện kĩ năng viết, giáo viên cần giúp học sinh thực hiện tốt những yêu cầu
trong các nhóm bài tập sau:
- Nhóm bài tập tiền sản sinh ngơn bản: gồm các bài tập phân tích đề bài, xác định
nội dung viết, tìm ý, sắp xếp ý để chuẩn bị thực hiện yêu câu viết (miêu tả). Việc
phân tích tìm hiểu đề giúp học sinh xác định được yêu cầu, nội dung, giới hạn của
đề bài. Với mỗi đề bài cụ thể, khi phân tích tìm hiểu đề, các em phải trả lời được
câu hỏi: Viết để làm gì? Viết về cái gì? Viết cho ai?Thái độ cần được bộc lộ trong
bài viết như thế nào? Tình cảm của người viết phải thể hiện được qua cách miêu tả.

- Nhóm bài tập sản sinh ngơn bản gồm bài tập viết đoạn và bài tập viết bài văn:
+ Bài tập viết đoạn văn: rèn cho học sinh kĩ năng tạo lập được đoạn văn đảm bảo
sự liên kết chặt chẽ về ý. Các đoạn văn được luyện viết là đoạn mở bài (trực tiếp,
gián tiếp), đoạn thân bài (mở rộng, khơng mở rộng). Các đoạn phải có sự liền mạch
về ý (không rời rạc, lộn xộn), các ý trong đoạn được diễn tả theo một trình tự nhất
định nhằm minh hoạ, cụ thể hố ý chính (có mở đầu, triển khai và kết thúc).
Hướng dẫn học sinh viết các đoạn văn:
- Đoạn văn mở bài: Học sinh được học hai cách mở bài: mở bài trực tiếp và mở bài
gián tiếp. Giáo viên nên để học sinh lựa chọn cách mở bài mà mình cho là hợp lí
nhất và phù hợp với khả năng của từng em. Mở bài gián tiếp có thể xuất phát từ
một vấn đề khác rồi mới dẫn vào vấn đề mình cần nói tới, có thể bắt đầu bằng một
sự kiện, hồn cảnh xuất hiện vật định miêu tả; hoặc bắt đầu bằng những câu thơ, ca
dao…có liên quan đến yêu cầu của đề bài.
- Thân bài: Có thể gồm một số đoạn văn, là toàn bộ nội dung miêu tả được viết
theo từng phần, từng ý đã được sắp xếp khi quan sát, chuẩn bị viết bài. Trong đó,


14
thể hiện được hình ảnh về đối tượng miêu tả với ngôn từ và các biện pháp nghệ
thuật mà người viết vận dụng để miêu tả.
- Đoạn văn kết bài: Kết bài tuy chỉ là một phần nhỏ trong một bài văn nhưng lại rất
quan trọng bởi đoạn kết bài thể hiện được nhiều nhất tình cảm của người viết với
đối tượng miêu tả. Thực tế cho thấy học sinh thường hay liệt kê cảm xúc của mình
làm phần kết bài khơ cứng, gị bó, thiếu chân thực. Các em thường làm kết bài
khơng mở rộng, điều đó khiến bài văn chưa có sự hấp dẫn. Do đó, giáo viên cần
hướng dẫn, gợi ý để học sinh biết cách và viết được phần kết bài mở rộng bằng
cảm xúc của mình một cách tự nhiên. Giáo viên có thể dùng câu hỏi gợi mở để
khêu gợi cảm xúc của học sinh trong quá khứ, hiện tại, tương lai; hoặc trong hồn
cảnh nào đó đối với đối tượng được tả.
Ví dụ: Tả cái trống trường: Ngày mới vào lớp 1, khi nghe tiếng trống trường,

em có cảm giác gì? Bây giờ học lớp 4 rồi, ngày nào cũng nghe tiếng trống, em
càng thấy như thế nào?...
+ Bài tập viết bài văn: Thường được thực hiện trong cả một tiết học. Chúng luyện
cho học sinh triển khai nhiệm vụ giao tiếp thành một bài. Bài văn phải có bố cục
chặt chẽ, có lời văn phù hợp với yêu cầu nội dung và thể loại, các đoạn văn trong
bài phải liên kết với nhau thành một bài văn hoàn chỉnh, được bố cục chặt chẽ theo
ba phần:
Mở bài: Giới thiệu đối tượng miêu tả, thể hiện tình cảm, quan hệ của người
miêu tả với đối tượng miêu tả.
Thân bài: Dùng lời văn để tả, tái hiện, sao chụp chân dung của đối tượng
miêu tả ở những góc nhìn nhất định. Có thể sử dụng các biện pháp nghệ thuật để
lột tả hình ảnh một cách sinh động.
Kết luận: Nêu những nhận thức, suy nghĩ, tình cảm, thái độ trực tiếp của
người miêu tả và của mọi người nói chung đối với đối tượng miêu tả.
- Nhóm bài tập viết đoạn, bài là những bài tập khó nhất, địi hỏi sự sáng tạo nhất,
u cầu học sinh phải vận dụng một cách tổng hợp sự hiểu biết, cảm xúc về cuộc
sống, về các đối tượng được tả và các kĩ năng ngôn ngữ đã được hình thành trước
đó để tạo lập được đoạn, bài. Đây là một quá trình chuyển từ ý đến lời. Giáo viên
phải luyện cho học sinh diễn đạt đúng những gì muốn tả. Ý có thể được diễn tả
thành những lời khác nhau. Học sinh phải biết lựa chọn cách diễn đạt có hiệu quả
nhất.
Để rèn luyện kĩ năng viết văn miêu tả cho học sinh, giáo viên phải giúp học
sinh xác định được mục đích của bài viết, chủ đề của bài viết và duy trì chủ đề này
trong suốt bài viết để bài văn khơng lan man.
Thật khó khi phân định đúng, sai ở một bài văn, mà ta đánh giá bài văn đó
có hay khơng, có đặc sắc khơng? Vì thế, bài văn phải bộc lộ tình cảm chân thành,
hồn nhiên của các em ở từng câu, từng đoạn của bài, và cô đọng lại ở phần kết bài.
Do vậy, giáo viên cần chú ý rèn cho học sinh cách tưởng tượng, bộc lộ cảm xúc



15
trong bài văn một cách thường xuyên, liên tục; từ tiết đầu tiên của mỗi loại bài đến
những tiết xây dựng đoạn văn, tiết viết bài và cả trong tiết trả bài.
g. Luyện tập cách sử dụng các biện pháp tu từ, biện pháp nghệ thuật trong
viết văn.
Để bồi dưỡng kĩ năng diễn đạt, học sinh sẽ thực hành một số bài tập luyện
viết như: với các từ cho sẵn, viết thành câu, luyện dùng từ bằng cách sửa lỗi dùng
từ; từ ý đã cho viết thành câu gợi tả, gợi cảm, viết có sử dụng biện pháp tu từ theo
yêu cầu, làm các bài tập mở rộng thành phần câu… để cách diễn đạt được sinh
động, gợi tả, gợi cảm hơn. Giáo viên cần tiến hành theo mức độ tăng dần, bước đầu
chỉ yêu cầu học sinh đặt câu đúng, sau yêu cầu cao hơn là phải đặt câu có sử dụng
biện pháp so sánh, nhân hố, có dùng những từ láy, từ ngữ gợi tả hình ảnh, âm
thanh hay những từ biểu lộ tình cảm.
Ví dụ: Một học sinh tả chiếc bàn học:
Mỗi lúc học bài mệt quá, em thường gối má lên mặt bàn để cảm nhận hương thơm
dìu dịu của một người bạn thân đã cần mẫn, miệt mài cùng em giải những bài tốn
khó.
Miêu tả như vậy vừa sinh động, tinh tế vừa rất tình cảm và sẽ cuốn hút người
đọc, người nghe.
Tuy nhiên, không phải học sinh nào cũng biết sử dụng các biện pháp nghệ
thuật khi miêu tả và cũng không phải tự các em có sẵn tâm hồn văn chương như
vậy. Học sinh có thể phát hiện tốt chi tiết có sử dụng biện pháp nghệ thuật gì nhưng
khi viết văn lại khó vận dụng được. Giáo viên cần có biện pháp nào giúp các em?
Tôi đã giúp các em bằng cách như sau:
Ví dụ: Mỗi hoa chỉ là một phần tử của cả xã hội thắm tươi; người ta quên
đoá hoa, chỉ nghĩ đến cây, đến hàng, đến những tán lớn x ra như mn ngàn con
bướm thắm đậu khít nhau.
- Cho học sinh phát hiện biện pháp nghệ thuật trong câu trên.
- Nêu tác dụng của việc so sánh như vậy.
- Giải thích vì sao có thể so sánh hoa phượng với muôn ngàn con bướm thắm (mà

không phải một con).
- Tập vận dụng so sánh tương tự: So sánh hoa phượng với hình ảnh khác theo cảm
nhận của các em, hoặc so sánh loài hoa hay cây khác với hình ảnh nào đó. Chú ý
giúp học sinh nhận ra những cách so sánh thú vị, giàu sức gợi tả và những so sánh
khơng có giá trị.
- u cầu các em ghi chép vào sổ tay những câu văn, thơ có sử dụng hiệu quả biện
pháp nghệ thuật.
- Lựa chọn những đặc điểm, hình ảnh tiêu biểu để viết bài.
h. Thực hiện nghiêm túc tiết trả bài tập làm văn.
Kĩ năng tập làm văn trước hết được chia thành kĩ năng nói, kĩ năng viết. Ở
lớp đầu cấp, khẩu ngữ của các em phát triển hơn còn kĩ năng viết mới được hình
thành nên bị ảnh hưởng của khẩu ngữ, các em nói thế nào, viết thế ấy, mắc các lỗi


16
được tính vào lỗi vi phạm phong cách. Về sau, kĩ năng viết sẽ phát triển và sẽ ảnh
hưởng tích cực trở lại với khẩu ngữ. Lên lớp 4, lớp 5 kĩ năng viết ngày càng phát
triển. Tập làm văn có vai trị hàng đầu trong việc phát triển kĩ năng này. Đặc biệt,
khi học viết văn miêu tả, học sinh lớp 4 bước đầu được học diễn đạt lưu lốt, giàu
hình ảnh.
Mặt khác, sự liên kết nội dung là liên kết bên trong khó nhận thấy, nhiều
người thường chú ý đến hình thức ngơn từ mà khơng coi trọng đến logic của các ý
trong bài. Trong khi chữa văn cho học sinh, nhiều giáo viên thường chú ý chữa lỗi
chính tả, chữa lời mà khơng chữa ý.
Người giáo viên cần hiểu rõ mục tiêu của tiết trả bài để thực hiện một cách
nghiêm túc, kĩ lưỡng, tránh làm “lấy lệ”, không thể qua loa, đại khái. Muốn làm
được như vậy, giáo viên phải tiến hành như sau:
+ Chuẩn bị:
- Chấm bài thật kĩ, thấy rõ ưu điểm, nhược điểm của từng bài viết; chữa lỗi tiêu
biểu cần khắc phục ngay cho các em.

- Ghi lại các lỗi của học sinh theo từng loại: Lỗi chính tả, lỗi dùng từ, lỗi đặt câu,
lỗi diễn đạt,…; Ghi lại các từ, câu, đoạn văn hay.
- Thống kê và phân loại bài theo các mức: Hoàn thành tốt, hoàn thành, chưa hoàn
thành. Nhận xét chung về ưu, nhược điểm trong bài viết của học sinh.
+ Trong giờ trả bài:
Đây là tiết học thực hiện nhóm bài tập kiểm tra điều chỉnh. Giáo viên yêu
cầu học sinh đọc lại đoạn đã viết, tự kiểm tra đối chiếu với mục đích yêu cầu đặt ra
lúc đầu để tự đánh giá, sửa chữa bài viết của mình. Giáo viên cần hướng dẫn học
sinh xem xét cả nội dung và hình thức diễn đạt. Phải cho học sinh luyện viết lại
đoạn, bài chưa đạt theo yêu cầu.
- Tiến hành đúng như quy trình đã hướng dẫn (Linh hoạt về thời gian thực hiện các
bước, hình thức tổ chức sửa lỗi như thảo luận nhóm, tuỳ theo kết quả bài viết của
học sinh).
- Lưu ý: Học sinh phải thấy được lỗi trong bài văn của mình và của bạn; sửa được
lỗi đó và ghi nhớ nó; hiểu rõ để học hỏi những từ, câu, đoạn văn hay, giàu hình ảnh
và sức gợi tả. Tơi muốn nhấn mạnh rằng: Trước khi cho học sinh học hỏi những từ,
câu, đoạn văn hay cần lưu ý cho các em đọc lên (thành tiếng và đọc thầm) một
cách diễn cảm thì tất cả các em mới cảm nhận được sự thú vị của cái hay đó.
Tuy nhiên, ta cũng khơng nên địi hỏi quá cao ở học sinh. Tuỳ vào đối tượng
học sinh mà đặt ra các em sửa lỗi hay học từ, câu, đoạn hay ở mức độ nào. Giáo
viên cần kiên trì, bền bỉ, khơng thể nóng vội, kịp thời ghi nhận những tiến bộ của
học sinh dù là nhỏ nhất.
Do vậy, khi học sinh biết viết văn miêu tả và viết được hay là khi các em đã
bước đầu hiểu được đặc điểm của văn miêu tả, biết cách quan sát đối tượng, tích
luỹ được vốn từ miêu tả nhất định, biết xây dựng đoạn văn mở bài, thân bài, kết
bài; cách diễn đạt và xây dựng bố cục bài văn; biết cách tưởng tượng và sử dụng


17
các biện pháp tu từ, biện pháp nghệ thuật trong viết văn; được sửa lỗi kĩ lưỡng sau

mỗi bài viết. Từ đó, các em viết bài dễ dàng hơn, thích thú hơn, có cảm xúc hơn,
chất lượng bài viết được nâng cao.
i. Khen ngợi, động viên kịp thời.
Để kích thích học sinh học tập nói chung, học văn miêu tả nói riêng, khơng
nhất thiết giáo viên ln tặng hoa điểm tốt, mà hãy dành cho các em những lời
khen thích đáng. Các em sẽ phấn khởi, tự tin hơn và phát huy được khả năng tiềm
tàng của bản thân, từ đó loại bỏ được những lo âu, tự ti.
Việc khen ngợi sẽ làm tăng khả năng hợp tác, sự tham gia, nỗ lực trong các
nhiệm vụ học tập. Việc khen ngợi vẫn có tác dụng ngay cả đối với những học sinh
có vấn đề ai lệch về hành vi. Có lẽ trong chúng ta, ai cũng đều trải nghiệm cảm
giác được ngợi khen. Nó đã làm thay đổi cả người khen và người được khen.
Để thúc đẩy học sinh ngày càng tiến bộ, việc khen ngợi nên:
- Thể hiện sự chân thành và trung thực.
- Mang tính cá nhân.
- Khơng phải những câu nói chung chung.
- Khen ngay lập tức.
- Khen ngợi phải gây bất ngờ cho học sinh.
2.4. Hiệu quả.
Cuối tiết dạy, tôi thu bài học sinh đã viết để chấm khảo sát.
Kết quả thu được:
Thời điểm
Sĩ số
Hoàn thành tốt
Hoàn thành
Chưa hoàn thành
Đầu năm
23
5 em = 21,7%
12 em = 52,08%
6 em = 26,22%

Giữa HK 2
23
12 em = 52,08% 10 em = 43,58%
1 em = 4,34%
3. Kết luận, kiến nghị
3.1. Kết luận.
Trong q trình tìm tịi để thực hiện một số biện pháp rèn kĩ năng viết văn
miêu tả theo hướng phát triển năng lực, phẩm chất cho học sinh lớp 4, tôi thấy học
sinh rất lười viết tập làm văn. Tập làm văn như một thứ gì đó khủng khiếp lắm, ám
ảnh theo suốt quá trình học tập của các em. Các em có suy nghĩ bài tập làm văn
càng dài thì chất lượng càng cao. Học sinh chưa nắm được mục đích của tập làm
văn là gì ? Vì vậy, giáo viên phải vận dụng linh hoạt các phương pháp tổ chức dạy
sao cho phù hợp với đối tượng học sinh của mình.
Thực ra, tập làm văn (nhất là văn miêu tả) ở lớp 4 đơn giản theo từng bước,
đầu tiên chỉ đơn giản là mô tả lại đặc điểm nổi bật của những thứ xung quanh như
đồ vật, cây cối, con vật, ... Sau đó mới xây dựng tái hiện suy nghĩ của mình về các
sự vật được tả. Tiếp theo sẽ đẩy lên cao một chút là đặt mình vào các sự vật, sự
việc, địi hỏi sự quan sát cao hơn về mọi sự vật, đó là tả vật tĩnh, là tả vật hoạt
động. Việc tả các hoạt động đòi hỏi sự quan sát cao hơn ở học sinh. Từ đó, tạo cho
các em biết quan tâm tới mọi thứ xung quanh hơn.


18
Qua một bài tập làm văn, ta có thể biết được tính cách của học sinh cũng như
cách học sinh quan sát mọi thứ. Trí tưởng tượng của học trị ln là vơ tận. Giáo
viên khơng nên gị bó theo những suy nghĩ của người lớn, hãy để các em sáng tạo,
tự do được làm chủ trong thế giới tưởng tượng của mình. Nên hướng dẫn học sinh
đọc nhiều sách, truyện cổ tích nhiều hơn là làm những việc khơng cần thiết. Không
nên để các em phụ thuộc vào sách tham khảo, văn mẫu.
3.2. Kiến nghị.

3.2.1. Đối với nhà trường và các cấp quản lí:
Ln tạo điều kiện cho tất cả các giáo viên có cơ hội được trao đổi, học hỏi
kinh nghiệm lẫn nhau qua các buổi sinh hoạt chuyên môn cụm, Hội thảo về các
giải pháp rèn kĩ năng viết văn miêu tả cho học sinh khối lớp 4 trong phạm vi toàn
huyện.
3.2.2. Đối với giáo viên:
Nắm chắc mục tiêu môn học, bài học. Linh hoạt trong phương pháp giảng
dạy. Phối hợp với các hoạt động ngoài giờ để tích luỹ vốn hiểu biết và bồi dưỡng
tâm hồn giàu cảm xúc của các em. Thường xuyên kiểm tra, đánh giá mức độ và kịp
thời ghi nhận sự tiến bộ của học sinh.
3.2.3. Đối với cha mẹ học sinh:
Cần phải kiểm tra sát sao việc tự học, tự rèn luyện ở nhà của các em. Phải
kịp thời có thơng tin với giáo viên về tình hình học tập của con để phối hợp rèn kĩ
năng cho các em.
Trên đây là một số giải pháp của cá nhân tôi về rèn kĩ năng viết văn miêu tả cho
học sinh lớp 4A – Trường Tiểu học Phú Thanh, huyện Quan Hóa. Rất mong được
sự góp ý của đồng nghiệp để đề tài của tơi được hồn thiện hơn.
Xác nhận của
Thủ trưởng đơn vị

Quan Hóa, ngày 09 tháng 4 năm 2021
Tơi xin cam đoan đây là SKKN của nình viết,
khơng sao chép nội dung của người khác.
Người viết



×