GVHD : Ths. Huỳnh Mộng Nghi
SVTH: Nguyễn Sĩ Quốc Dũng
Lớp: DH20TD
MSSV: 20036030
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Là đảng duy nhất cầm quyền, Đảng Cộng sản Việt Nam đã thực hiện thành cơng vai trị
lãnh đạo, cầm quyền của mình đối với Nhà nước và xã hội, đem lại những thắng lợi và thành
tựu to lớn trong công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Mặc dù vậy, phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng vẫn còn một số hạn chế, bất cập
cần được nhận diện một cách nghiêm túc, khoa học.
Nhìn lại 47 năm, sau ngày đất nước thống nhất (1975-2022), từ thực tiễn lịch sử, nhất
là trong lãnh đạo công cuộc đổi mới, xây dựng và phát triển đất nước, Đảng càng thấm
nhuần sâu sắc và vận dụng sáng tạo các bài học, kinh nghiệm rút ra từ công cuộc đấu tranh
giải phóng dân tộc.
Ngày nay, nhân dân Việt Nam, đặc biệt là thế hệ trẻ đã và đang được trực tiếp hưởng
thụ những thành quả của quá trình lãnh đạo cơng cuộc đổi mới tồn diện cách mạng, từ sự
lãnh đạo tài tình, sáng suốt của Đảng, việc giáo dục cho các thế hệ thấy được vai trò và sự
cống hiến to lớn của Đảng và đặc biệt là thấy được ý nghĩa to lớn từ quá trình lãnh đạo cơng
cuộc đổi mới tồn diện và những vấn đề đặt ra đối với Việt Nam hiện nay.
Với giá trị lịch sử, kiến thức và thực tiễn như vậy, em đã chọn đề tài: “Vai trò lãnh đạo
của Đảng trong cơng cuộc đổi mới tồn diện đất nước và những vấn đề đặt ra đối với Việt
Nam hiện nay.” làm tiểu luận cuối học phần môn Lịch sử Đảng.
2. Lời Cảm Ơn
Đầu tiên, em xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến Trường Đại Học Bà Rịa – Vũng Tàu đã
đưa bộ môn Lịch Sử Đảng Cộng Sản Việt Nam vào chương trình giảng dạy. Đặc biệt, em xin
bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến giảng viên bộ mơn cơ Huỳnh Mộng Nghi. Chính cơ là người
đã tận tình dạy dỗ và truyền đạt những kiến thức quý báu cho em trong suốt học kỳ vừa qua.
Trong thời gian tham dự lớp học của cô, em đã được tiếp cận với nhiều kiến thức bổ ích và
rất cần thiết cho quá trình học tập, làm việc sau này của em.
Bộ môn Lịch Sử Đảng Cộng Sản Việt Nam là một mơn học ý nghĩa và vơ cùng bổ
ích. Tuy nhiên, những kiến thức và kỹ năng về môn học này của em vẫn cịn nhiều hạn chế.
Do đó, bài tiểu luận của em khó tránh khỏi những sai sót. Kính mong cơ xem xét và góp ý
giúp bài tiểu luận của em được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn.
Page 3
PHẦN 1
ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM VÀ VAI TRÒ
LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG TRONG CƠNG CUỘC
ĐỔI MỚI TỒN DIỆN ĐẤT NƯỚC
1.1.
ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM VÀ SỰ RA ĐỜI CỦA ĐẢNG
Đảng Cộng sản Việt Nam là đảng cầm quyền và là chính đảng duy nhất được phép
hoạt động tại Việt Nam theo Hiến pháp. Theo Cương lĩnh và Điều lệ chính thức hiện nay,
Đảng là đại diện của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, lấy Chủ nghĩa
Mac-Lenin và Tư tưởng Hồ Chí Minh làm kim chỉ nam cho mọi hoạt động. Trong ngữ cảnh
không chính thức cũng dùng từ "Đảng" (hoặc "Đảng ta") để nói về Đảng Cộng sản Việt
Nam.
Cơ quan cao nhất của Đảng là Đại hội Đại biểu toàn quốc, nơi sẽ bầu ra Ban Chấp
hành Trung ương. Giữa các kỳ Đại hội Đảng, Ban Chấp hành Trung ương Đảng là cơ quan
tối cao quyết định các vấn đề của Đảng. Sau Đại hội, Trung ương sẽ bầu ra Bộ Chính trị,
Ban Bí thư và Ủy ban Kiểm tra Trung ương và bầu một Ủy viên Bộ Chính trị làm Tổng Bí
thư.
Sự ra đời của Đảng Cộng Sản Việt Nam trong giai đoạn giữa lúc cách mạng Việt Nam
đang chìm trong cuộc khủng hoảng về đường lối cứu nước, Người con quê hương Nguyễn
Tất Thành rời Tổ quốc đi tìm đường cứu nước. Bước ngoặt lớn trong tư tưởng của Nguyễn
Ái Quốc diễn ra khi Người đọc toàn văn: Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề
dân tộc và thuộc địa của Lênin. Người hiểu sâu sắc những vấn đề cơ bản của đường lối giải
phóng dân tộc, đó là con đường cách mạng vơ sản, giải phóng dân tộc gắn với giải phóng
giai cấp, độc lập dân tộc gắn với chủ nghĩa xã hội, giai cấp vô sản phải nắm lấy ngọn cờ giải
phóng dân tộc, gắn cách mạng giải phóng dân tộc từng nước với phong trào cách mạng vơ
sản thế giới. Từ đây Người dứt khốt đi theo con đường cách mạng của Lênin. Nguyễn Ái
Quốc là người Việt Nam đầu tiên tiếp thu sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, tìm ra con đường
đúng đắn giải phóng dân tộc Việt Nam.
Trở thành chiến sĩ cộng sản, Nguyễn Ái Quốc đã tham gia hoạt động trong phong trào
cộng sản và cơng nhân quốc tế, tích cực vận động phong trào cách mạng thuộc địa, nghiên
cứu và truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin về Việt Nam. Tháng 12-1924, Nguyễn Ái Quốc về
Quảng Châu Trung Quốc trực tiếp chỉ đạo việc chuẩn bị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.
Chủ nghĩa Mác-Lênin và những tài liệu tuyên truyền của Nguyễn Ái Quốc được giai
cấp công nhân và nhân dân Việt Nam đón nhận như "người đi đường đang khát mà có nước
uống, đang đói mà có cơm ăn". Nó lơi cuốn những người yêu nước Việt Nam đi theo con
Page 4
đường cách mạng vô sản. Phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân và nhiều tầng lớp
nhân dân phát triển mạnh mẽ, địi hỏi phải có tổ chức Đảng chính trị lãnh đạo.
Chỉ trong một thời gian ngắn ở Việt Nam đã có ba tổ chức cộng sản được tun bố
thành lập: Ở Bắc Kỳ có Đơng Dương Cộng sản Đảng (6-1929).Ở Nam Kỳ có An Nam Cộng
sản Đảng (7-1929). Ở Trung Kỳ có Đơng Dương Cộng sản Liên đồn (9-1929). Điều đó
phản ánh xu thế tất yếu của cách mạng Việt Nam. Song, sự tồn tại của ba tổ chức cộng sản
hoạt động biệt lập trong một quốc gia có nguy cơ dẫn đến chia rẽ lớn. Yêu cầu bức thiết của
cách mạng là cần có một đảng thống nhất lãnh đạo. Nguyễn Ái Quốc, người chiến sĩ cách
mạng lỗi lạc của dân tộc Việt Nam, người duy nhất có đủ năng lực và uy tín đáp ứng nhu cầu
đó của lịch sử: thống nhất các tổ chức cộng sản thành Đảng Cộng sản duy nhất ở Việt Nam.
Ngày 3-2-1930, Hội nghi hợp nhất ba tổ chức cộng sản họp tại Cửu Long (Hương
Cảng, Trung Quốc) dưới sự chủ trì của đồng chí Nguyễn Ái Quốc đã diễn ra. Hội nghị nhất
trí thành lập đảng thống nhất, lấy tên là Đảng Cộng sản Việt Nam, thông qua Chánh cương
vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Chương trình tóm tắt và Điều lệ vắn tắt của Đảng, Điều lệ tóm tắt
của các hội quần chúng.
Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản Việt Nam mang tầm vóc lịch sử như là một
Đại hội thành lập Đảng. Đảng được thành lập là kết quả của cuộc đấu tranh giai cấp và đấu
tranh dân tộc ở nước ta trong những năm đầu thế kỷ XX; là sản phẩm của sự kết hợp chủ
nghĩa Mác-Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước; là kết quả của quá trình
lựa chọn, sàng lọc nghiêm khắc của lịch sử và là kết quả của q trình chuẩn bị đầy đủ về
chính trị, tư tưởng và tổ chức của một tập thể chiến sĩ cách mạng, đứng đầu là đồng chí
Nguyễn Ái Quốc. Đó là một mốc lớn đánh dấu bước ngoặt trọng đại trong lịch sử cách mạng
Việt Nam, chấm dứt cuộc khủng hoảng về đường lối cứu nước.
Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam với Cương lĩnh, đường lối cách mạng đúng
đắn chứng tỏ giai cấp công nhân Việt Nam đã trưởng thành, đủ sức lãnh đạo cách mạng.
1.2.
VAI TRỊ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG TRONG CƠNG CUỘC ĐỔI MỚI TỒN DIỆN
ĐẤT NƯỚC
Nhìn lại 47 năm, sau ngày đất nước thống nhất (1975-2022), từ thực tiễn lịch sử, nhất
là trong lãnh đạo công cuộc đổi mới, xây dựng và phát triển đất nước, Đảng càng thấm
nhuần sâu sắc và vận dụng sáng tạo các bài học, kinh nghiệm rút ra từ cơng cuộc đấu tranh
giải phóng dân tộc.
Page 5
Sau ngày thống nhất, cả nước bước vào công cuộc xây dựng CNXH, phải đối diện với
những thách thức, khó khăn gay gắt cả trong nước, khu vực và trên trường quốc tế. Sự
nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội là nhiệm vụ nặng nề của Đảng. Trong quá trình lãnh đạo,
tuy đã có được những thành tựu quan trọng, song cũng bộc lộ những hạn chế, yếu kém, thậm
chí sai lầm, khuyết điểm. Thực tế đó địi hỏi Đảng phải chú trọng nắm bắt đặc điểm, thực
tiễn của đất nước, đổi mới tư duy lý luận, khắc phục bệnh giáo điều, chủ quan, duy ý chí,
nóng vội để nhận thức và vận dụng đúng đắn các quy luật khách quan, những đặc trưng của
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Đường lối đổi mới của Đảng tại Đại hội VI (12-1986)
đã được hoạch định trên cơ sở đó.
Đặc biệt, vào thập kỉ 90 của thế kỉ XX, trong bối cảnh quốc tế hết sức phức tạp và
tình hình đất nước có mn vàn khó khăn, nhất là sau sự kiện chế độ XHCN ở Đông Âu và
Liên Xô sụp đổ, các thế lực thù địch không ngừng chống phá, Đảng kiên định mục tiêu mà
Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lựa chọn, giữ vững vai trò lãnh đạo, chèo lái con thuyền
cách mạng vượt qua sóng gió, tiếp tục tiến lên, tiến hành cơng cuộc đổi mới đạt nhiều thành
tựu quan trọng. Đảng đã kiên trì lãnh đạo và từng bước bổ sung, hồn thiện đường lối đổi
mới, thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội tại
Đại hội VII (6-1991) và bổ sung Cương lĩnh 1991 tại Đại hội XI của Đảng (1-2011). Trên cơ
sở đó, bước đầu hình thành một hệ thống các quan điểm và nguyên tắc chỉ đạo công cuộc đổi
mới, khai phá con đường đi lên chủ nghĩa xã hội phù hợp với thực tế của đất nước. Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng (1-2016) khẳng định quyết tâm tiếp tục sự nghiệp
đổi mới, đẩy mạnh sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc
tế, phấn đấu sớm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Đây
là kết quả của một quá trình trăn trở, tìm tòi, tổng kết, đổi mới tư duy lý luận nhận thức đúng
đắn hơn về thực tiễn cách mạng Việt Nam của Đảng.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, công cuộc đổi mới ở Việt Nam đạt được những thành tựu
to lớn và rất quan trọng, đã làm biến đổi và phát triển đất nước cả về chính trị, kinh tế, xã
hội, không ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân, nâng cao và khẳng
định vị thế của đất nước trong đời sống chính trị, kinh tế của thế giới.
Trên lĩnh vực kinh tế, đất nước ra khỏi khủng hoảng kinh tế -xã hội, kinh tế tăng trưởng
tương đối nhanh và ổn định, cơ sở vật chất - kỹ thuật được tăng cường, đời sống của nhân
dân không ngừng được cải thiện. Tăng trưởng kinh tế trung bình hàng năm đạt gần 7%. Tái
cơ cấu nền kinh tế đạt kết quả bước đầu. Thu nhập bình quân đầu người tăng từ 200 USD
năm 1990 lên 2.200 USD năm 2015 và 2.587 USD năm 2018. Hình thành một số ngành kinh
tế mũi nhọn: dầu khí, dệt may, da giày, thủy hải sản, lương thực, cây công nghiệp, lắp ráp
linh kiện điện tử... Giải quyết vững chắc vấn đề lương thực. Thể chế kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa từng bước được hình thành. Kinh tế Việt Nam hội nhập mạnh mẽ
với khu vực và thế giới. Hiện nay, Việt Nam có quan hệ thương mại với hơn 200 quốc gia và
Page 6
vùng lãnh thổ, ký hiệp định thương mại song phương với hơn 100 nước, trong đó có 20 hiệp
định thế hệ mới.
Về văn hóa, xã hội, đời sống vật chất và tinh thần của các tầng lớp nhân dân được cải thiện
rõ rệt. Văn hóa - xã hội có nhiều tiến bộ, an sinh xã hội được bảo đảm, đời sống nhân dân
được cải thiện một bước. Chú trọng xây dựng văn hóa và phát triển con người Việt Nam phát
triển tồn diện. Cơng tác giải quyết việc làm và xóa đói, giảm nghèo đạt được những kết quả
tốt: tỷ lệ nghèo đói giảm từ 53 % năm 1993 xuống còn 6% năm 2015. Đến nay, Việt Nam đã
cơ bản hoàn thành các mục tiêu Thiên niên kỷ do Liên Hợp quốc đề ra.
Về xây dựng hệ thống chính trị, việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của
nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân đã đạt được những kết quả bước đầu. Quốc hội đẩy
mạnh xây dựng luật pháp. Nền hành chính quốc gia được cải cách một bước. Quốc hội đã
từng bước hoàn thiện cơ cấu tổ chức và phương thức hoạt động theo hình thức nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Bộ máy Chính phủ và chính quyền địa phương được kiện toàn
một bước. Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức thành viên từng bước đổi mới về tổ chức và
phương thức hoạt động cho phù hợp với tình hình mới.
Về đối ngoại, Việt Nam đã phá thế bao vây, cấm vận, mở rộng quan hệ đối ngoại theo
hướng đa phương hóa, đa dạng hóa; giữ vững độc lập chủ quyền quốc gia. Bình thường hóa
quan hệ với Trung Quốc (năm 1991), Hoa Kỳ (năm 1995); gia nhập ASEAN (năm 1995);
gia nhập WTO (năm 2006); mở rộng quan hệ hợp tác với hầu hết các nước lớn như: Trung
Quốc, Nga, Ấn Độ và các nước tư bản phát triển: Mỹ, Nhật, Anh, Pháp, Đức, Ý…; ký kết
Hiệp ước chiến lược và Hiệp ước toàn diện với nhiều nước trên thế giới. Từng bước giải
quyết hịa bình các vấn đề biên giới, lãnh thổ biển, đảo với các nước liên quan. Đồng thời,
tăng cường đàm phán, ký kết các Hiệp ước Thương mại tự do với ASEAN, EU, Mỹ…Tranh
thủ ODA, thu hút FDI, mở rộng thị trường ngoài nước, chủ động hội nhập quốc tế.
Về quốc phòng - an ninh, thành tựu cơ bản, bao trùm là giữ vững độc lập, chủ quyền, thống
nhất, toàn vẹn lãnh thổ của đất nước, bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng và chế độ xã hội chủ
nghĩa, cơ bản giữ vững an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội. Thực hiện có hiệu quả
nhiệm vụ củng cố an ninh, quốc phịng với chống "diễn biến hịa bình", bạo loạn lật đổ; vơ
hiệu hóa hoạt động của các đối tượng phản động trong và ngoài nước lợi dụng các vấn đề
dân tộc, tôn giáo, nhân quyền, để gây mất ổn định. Chú trọng xây dựng, phát triển tiềm lực
quốc phòng, an ninh của đất nước; xây dựng lực lượng vũ trang, đặc biệt là qn đội và cơng
an theo hướng chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại; xây dựng được thế trận quốc phịng
tồn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân.
Về công tác xây dựng Đảng, trong bối cảnh tình hình thế giới có nhiều diễn biến phức tạp,
các thế lực thù địch tấn cơng tồn diện vào Đảng và chế độ chính trị của đất nước, Đảng vẫn
Page 7
vững vàng, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Từng bước nâng cao
nhận thức, đổi mới tư duy, thống nhất tư tưởng trên những vấn đề cơ bản của công cuộc đổi
mới, xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa trong điều kiện mới;
đấu tranh bảo vệ quan điểm, đường lối đúng đắn; phê phán các quan điểm sai trái địi đa
ngun chính trị, đa đảng đối lập, dân chủ cực đoan, phủ nhận thành tựu của quá khứ... Thực
hiện có hiệu quả cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”.
Nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu và tầm trí tuệ của Đảng. Đảng lãnh đạo, cầm
quyền thơng qua Nhà nước và hệ thống chính trị. Hệ thống tổ chức của Đảng và Nhà nước
từng bước được kiện toàn theo hướng tinh gọn, giảm bớt đầu mối trung gian. Đến năm 2015,
đội ngũ của Đảng đã lên tới 4 triệu đảng viên trong tổng số hơn 90 triệu dân. Tiến hành đổi
mới công tác cán bộ trên cơ sở lấy hiệu quả thực hiện nhiệm vụ chính trị làm thước đo phẩm
chất, năng lực của cán bộ; bước đầu đổi mới phương thức lãnh đạo trên cơ sở coi trọng lãnh
đạo thể chế hóa nghị quyết, lãnh đạo xây dựng luật và pháp lệnh, khắc phục tình trạng áp
đặt, bao biện, làm thay.
Từ thành tựu của công cuộc đổi mới mà nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường
đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam ngày càng sáng tỏ hơn. Sáng tỏ hơn về mục tiêu và mơ
hình của xã hội xã hội chủ nghĩa do nhân dân ta xây dựng. Những vấn đề về kinh tế, chính
trị, xã hội, văn hóa, con người và chặng đường bước đi của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội cũng được thực tiễn làm rõ để nhận thức đúng đắn hơn.
Hơn 30 năm thực hiện công cuộc đổi mới, hướng tới mục tiêu: Dân giàu, nước mạnh,
dân chủ, công bằng, văn minh, Đảng Cộng sản Việt Nam ngày càng trưởng thành và có thêm
kinh nghiệm lãnh đạo xây dựng và bảo vệ đất nước trong hồn cảnh mới. Những thành tựu
to lớn có ý nghĩa lịch sử của đất nước sau 47 năm thống nhất càng khẳng định vai trò lãnh
đạo xuất sắc của Đảng và minh chứng rõ ràng Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định mọi
thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
Page 8
PHẦN 2
THỰC TẾ VỀ VAI TRÒ LÃNH ĐẠO CỦA
ĐẢNG TRONG CƠNG CUỘC ĐỔI MỚI TỒN
DIỆN ĐẤT NƯỚC VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT
RA ĐỐI VỚI VIỆT NAM HIỆN NAY
2.1.
THỰC TẾ VAI TRỊ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG TRONG CƠNG CUỘC ĐỔI MỚI
TỒN DIỆN ĐẤT NƯỚC
Là đảng duy nhất cầm quyền, Đảng Cộng sản Việt Nam đã thực hiện thành cơng vai
trị lãnh đạo, cầm quyền của mình đối với Nhà nước và xã hội, đem lại những thắng lợi và
thành tựu to lớn trong công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ
nghĩa. Mặc dù vậy, phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng vẫn còn một số hạn chế, bất
cập cần được nhận diện một cách nghiêm túc, khoa học.
Với thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, Đảng Cộng sản Việt Nam, chính
đảng đã chèo lái con thuyền cách mạng Việt Nam ngay từ khi ra đời đã trở thành đảng cầm
quyền. Từ đó đến nay, Đảng Cộng sản Việt Nam là đảng duy nhất cầm quyền, lãnh đạo Nhà
nước, các thành viên trong hệ thống chính trị và tồn xã hội. Sự lãnh đạo của Đảng là nhân
tố quyết định mọi thắng lợi của sự nghiệp cách mạng Việt Nam.
Trên cơ sở vận dụng các nguyên lý về đảng chính trị và lý luận xây dựng Đảng của
chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, từ thực tiễn, kinh nghiệm thế giới và thực
tiễn cách mạng Việt Nam, Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác định được các phương thức lãnh
đạo, phương thức cầm quyền đúng đắn, phù hợp. Đó là hệ thống các phương pháp, cách thức
mà Đảng xác lập để tác động, định hướng, chế định, điều khiển, kiểm soát việc tổ chức và
hoạt động của các thành viên trong hệ thống chính trị, đặc biệt là bộ máy nhà nước để cụ thể
hóa, thể chế hóa và tổ chức thực hiện mục tiêu, lý tưởng, các chủ trương, đường lối, chính
sách của Đảng qua mỗi giai đoạn, mỗi thời kỳ. Qua thực tiễn lãnh đạo sự nghiệp cách mạng,
nhất là trong công cuộc đổi mới, nội dung và phương thức lãnh đạo, phương thức cầm quyền
của Đảng ngày càng được xác định rõ và hoàn thiện hơn. Nhờ đó, các cơ sở, thể chế cầm
quyền, điều kiện bảo đảm cho sự cầm quyền và năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng
ngày càng được củng cố, với những thành tựu nổi bật sau đây:
Thứ nhất, Đảng trở thành lực lượng chính trị duy nhất có quyền xác lập, đưa ra
Cương lĩnh, chủ trương, đường lối lãnh đạo Nhà nước, các thành viên trong hệ thống chính
Page 9
trị và các lĩnh vực trọng yếu của đời sống xã hội. Bằng đường lối lãnh đạo, cầm quyền đúng
đắn, Đảng đã đưa sự nghiệp cách mạng nước ta đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Vai
trò lãnh đạo, cầm quyền của Đảng đối với Nhà nước và xã hội được khẳng định trong các
bản Hiến pháp của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Vai trị này khơng chỉ được
xác lập ở cấp Trung ương mà còn được xác lập và tổ chức thực hiện, được chấp hành ở các
cấp hành chính lãnh thổ địa phương, ở các cơ quan, đơn vị trong toàn bộ hệ thống chính trị.
Cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ” đã sớm được khẳng định và
thực thi bằng các quy định chặt chẽ trong Điều lệ Đảng, Hiến pháp và các quy định của pháp
luật, cũng như các quy chế, quy định của các tổ chức khác trong hệ thống chính trị, các hội
quần chúng.
Thứ hai, Đảng xây dựng và thiết lập được hệ thống tổ chức của Đảng chặt chẽ và
tương ứng với hệ thống tổ chức hành chính 4 cấp của Nhà nước, được lập ở tất cả các đơn vị
hành chính lãnh thổ từ cơ sở trở lên, ở các cơ quan của các tổ chức trong hệ thống chính trị.
Hiện nay, hệ thống tổ chức của Đảng gồm 67 đảng bộ trực thuộc Trung ương, trên 1.285
đảng bộ cấp huyện, 54.349 tổ chức cơ sở đảng. Tồn Đảng có trên 5,1 triệu đảng viên hoạt
động trong tất cả các tổ chức, bộ máy của Đảng, Nhà nước, các thành viên khác của hệ thống
chính trị; các tập đồn kinh tế, tổng công ty nhà nước, các đơn vị sự nghiệp công lập; các
lĩnh vực trọng yếu của đời sống xã hội. Các cấp đảng bộ, với hạt nhân là các cấp ủy, là cơ
quan lãnh đạo của Đảng ở mỗi cấp giữa hai kỳ đại hội, do đại hội đảng bộ cùng cấp bầu ra.
Các tổ chức cơ sở đảng là những hạt nhân chính trị, thực hiện sự lãnh đạo để bảo đảm mọi
hoạt động ở cơ sở theo đúng chủ trương, đường lối, nghị quyết của Đảng, tiến hành công tác
xây dựng Đảng, đồng thời là “cầu nối” giữa Đảng với nhân dân. Đội ngũ đảng viên của
Đảng có vai trị, trách nhiệm tiên phong, gương mẫu đi đầu trong tuyên truyền, vận động và
tổ chức quần chúng thực hiện các chủ trương, đường lối, nghị quyết của Đảng, chính sách,
pháp luật của Nhà nước.
Thứ ba, Đảng thống nhất lãnh đạo công tác tư tưởng đối với hệ thống chính trị và
tồn xã hội, từ việc xác lập, xây dựng đến truyền bá, phổ biến, giáo dục, bổ sung, phát triển
nền tảng tư tưởng, đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.
Đồng thời, Đảng thường xuyên lãnh đạo xây dựng tổ chức, bộ máy, cán bộ và hoạt động của
hệ thống thiết chế công tác tư tưởng, lý luận của Đảng, Nhà nước và hệ thống chính trị, đó là
các hội đồng lý luận ở Trung ương, các cơ quan tuyên giáo, cơ quan thơng tấn, báo chí, xuất
bản, đội ngũ báo cáo viên, phóng viên, biên tập viên, phát thanh viên và đội ngũ giáo viên,
giảng viên lý luận chính trị ở các cơ sở đào tạo, các học viện, nhà trường... để phục vụ cho
sự lãnh đạo của Đảng trong từng giai đoạn, từng thời kỳ, với từng đối tượng.
Thứ tư, Đảng thống nhất lãnh đạo công tác tổ chức, cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ
của cả hệ thống chính trị, các tập đồn kinh tế, doanh nghiệp nhà nước, các đơn vị sự nghiệp
cơng lập. Vai trị lãnh đạo công tác tổ chức, cán bộ của Đảng đã được quy định chặt chẽ
Page 10
trong Điều lệ, nghị quyết, quy chế, quy định của Đảng; quy chế hoạt động của cấp ủy, tổ
chức đảng các cấp; trong điều lệ, quy chế, quy định về tổ chức, hoạt động của các tổ chức
chính trị - xã hội, các doanh nghiệp, tập đoàn kinh tế nhà nước và các đơn vị sự nghiệp công
lập. Đây là cơ sở chính trị, pháp lý hết sức quan trọng, giúp Đảng xây dựng và kiểm sốt
được tồn bộ hoạt động của các tổ chức trong hệ thống chính trị, đặc biệt là bộ máy nhà
nước cũng như các lĩnh vực trọng yếu của đời sống xã hội. Tuyệt đại đa số các vị trí quan
trọng trong cơ quan, bộ máy nhà nước và các tổ chức khác của hệ thống chính trị, ở các lĩnh
vực trọng yếu đều do cán bộ là đảng viên đảm nhiệm. Đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là cán
bộ lãnh đạo, quản lý các cấp có trách nhiệm tổ chức thực hiện các chủ trương, đường lối,
nghị quyết của Đảng trong phạm vi địa phương, cơ quan, đơn vị, tổ chức, lĩnh vực và thẩm
quyền, trách nhiệm được Đảng giao phó.
Thứ năm, Đảng thống nhất lãnh đạo trực tiếp, tuyệt đối, về mọi mặt đối với lực lượng
vũ trang nhân dân. Đây vừa là quyền, là nguyên tắc cơ bản, tất yếu; vừa là điều kiện tiên
quyết bảo đảm cho vai trò lãnh đạo, vai trò cầm quyền của Đảng được xác lập và củng cố; là
nhân tố bảo đảm sự ổn định chế độ chính trị, an ninh, trật tự, giữ vững độc lập, chủ quyền,
toàn vẹn lãnh thổ và bảo toàn lợi ích quốc gia. Vai trị lãnh đạo này của Đảng ngày càng
được tăng cường và củng cố bởi các quy định của Điều lệ Đảng, của Hiến pháp, pháp luật và
các thiết chế, cơ chế, quy chế, quy định, điều lệnh, kỷ luật trong Quân đội và Công an. Dưới
sự lãnh đạo của Đảng, lực lượng Quân đội và Cơng an ngày càng được xây dựng chính quy,
tinh nhuệ, từng bước hiện đại.
Thứ sáu, Đảng thực hiện có hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật
đảng. Chấp hành kỷ luật đảng cũng đồng thời đòi hỏi phải chấp hành pháp luật của Nhà
nước và ngược lại. Với bộ máy kiểm tra, giám sát của Đảng từ Trung ương đến cơ sở; với hệ
thống các quy chế, quy định điều chỉnh, kiểm soát hoạt động của mọi tổ chức đảng và cán
bộ, đảng viên; cùng với việc phát huy vai trò của nhân dân tham gia xây dựng Đảng và Nhà
nước, những biểu hiện lệch lạc, vi phạm quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước đều có
thể bị phát hiện và xử lý nghiêm minh. Kết quả kiểm tra, giám sát trong Đảng, nhất là nhiệm
kỳ Đại hội XII của Đảng vừa qua, là minh chứng nổi bật cho cách thức thực hiện này. Bằng
công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật mà Đảng giữ vững được kỷ luật, kỷ cương, nâng cao
năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu, năng lực cầm quyền, thể hiện ý chí và quyết tâm chính
trị của Đảng, thực hiện có hiệu quả Cương lĩnh chính trị, Điều lệ, chỉ thị, nghị quyết của
Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.
Với các phương pháp, cách thức cầm quyền dân chủ, khoa học và phù hợp với yêu
cầu, nhiệm vụ từng thời kỳ của Đảng, nên sự nghiệp cách mạng Việt Nam nói chung, sự
nghiệp đổi mới đất nước nói riêng đã đạt được những thắng lợi và thành tựu to lớn, có ý
nghĩa lịch sử. Đó là thắng lợi của hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ
xâm lược, giành độc lập dân tộc, thống nhất đất nước, đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội.
Page 11
Đó là những thành tựu to lớn của cơng cuộc đổi mới, đưa nước Việt Nam từ một nước nông
nghiệp nghèo, thiếu lương thực, kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội thấp kém so với các nước
trong khu vực trở thành một nước đang phát triển, một cường quốc xuất khẩu gạo và thủy
sản; nền kinh tế luôn duy trì mức tăng trưởng cao, bình quân GDP 10 năm trở lại đây đạt
trung bình 6%/năm. Việt Nam là một trong 16 nền kinh tế mới nổi thành công nhất thế giới;
dự trữ ngoại hối tăng nhanh qua các năm, đạt mức kỷ lục gần 100 tỷ USD năm 2020; hệ
thống chính trị ổn định; quốc phịng, an ninh được giữ vững; dân chủ trong Đảng và trong xã
hội được phát huy. Những thành tựu tổng hợp nói trên đã đưa đến những kết quả thuyết phục
trên mọi lĩnh vực, như đời sống vật chất và tinh thần của người dân ngày càng được nâng
lên, thu nhập bình quân đầu người năm 2020 đạt 2.779 USD; quy mô nền kinh tế đạt 343,6
tỷ USD; tổng kim ngạch xuất - nhập khẩu năm 2020 đạt 543,9 tỷ USD, tăng 3,6 lần so với
năm 2010; hạ tầng kinh tế - xã hội có bước phát triển nhảy vọt, với mức đầu tư 9% - 10%
GDP hằng năm; quan hệ đối ngoại ngày càng rộng mở, với trên 190 nước, trong đó có quan
hệ đối tác chiến lược và đối tác tồn diện với tất cả các nước lớn; có quan hệ kinh tế thương mại với trên 220 nước và vùng lãnh thổ, tạo điều kiện cho thế và lực của Việt Nam
trên trường quốc tế ngày càng tăng. Những thành tựu đó đã được Tổng Bí thư, Chủ tịch nước
Nguyễn Phú Trọng khẳng định tại Đại hội XIII của Đảng: “Đất nước ta chưa bao giờ có
được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”[1].
Cùng với những thành tựu to lớn về phát triển kinh tế - xã hội, thước đo khẳng định
vững chắc năng lực lãnh đạo và cầm quyền của Đảng, Đảng đã xây dựng được thể chế chính
trị ổn định với cơ chế tổng thể “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ”. Hệ
thống chính trị, với nịng cốt, trụ cột là bộ máy Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của
nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân đang được xây dựng và củng cố, có đủ khả năng quản
lý và điều hành mọi hoạt động của đời sống xã hội. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là tổ chức
liên minh chính trị, liên hiệp tự nguyện của tổ chức chính trị, các tổ chức chính trị - xã hội,
tổ chức xã hội và các cá nhân tiêu biểu trong các giai cấp, các tầng lớp xã hội, các dân tộc,
các tôn giáo và người Việt Nam định cư ở nước ngoài, là cơ sở chính trị của chính quyền
nhân dân; đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân; tập hợp,
phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, thực hiện dân chủ, tăng cường đồng thuận xã
hội; giám sát, phản biện xã hội; tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước.
Các tổ chức chính trị - xã hội là tổ chức đại diện cho quyền và lợi ích hợp pháp, chính
đáng của các giai cấp, tầng lớp nhân dân; đoàn kết, tập hợp, tuyên truyền, vận động nhân
dân tích cực thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng. Thể chế đó ngày càng khẳng định sự
phù hợp và tính ưu việt của chế độ chính trị ở nước ta, cả trong thời kỳ kháng chiến cũng
như trong xây dựng, bảo vệ Tổ quốc hiện nay; được tuyệt đại đa số cán bộ, đảng viên, các
tầng lớp nhân dân tin tưởng, ủng hộ.
Page 12
2.2.
NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA ĐỐI VỚI VIỆT NAM HIỆN NAY
Bên cạnh những thành công và những thắng lợi, thành tựu là cơ bản, phương thức
lãnh đạo, cầm quyền của Đảng còn một số hạn chế, bất cập, cần được nhận diện một cách
nghiêm túc, khoa học.
Thứ nhất, hạn chế, bất cập trong nhận thức lý luận về đảng cầm quyền, nội dung,
phương thức cầm quyền của Đảng.
Mặc dù Đảng Cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo sự nghiệp cách mạng hơn 91 năm, trong đó có
hơn 75 năm cầm quyền; tuy nhiên, khái niệm về đảng cầm quyền, nội dung, phương thức
cầm quyền của Đảng dường như vẫn là vấn đề cịn mới mẻ, thậm chí trong một thời gian dài,
vấn đề này không được đặt ra nghiên cứu một cách bài bản, đúng mức. Đến Đại hội XII,
Đảng ta nhấn mạnh: “Tiếp tục tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận về đảng cầm quyền, xác
định rõ mục đích cầm quyền, phương thức cầm quyền, nội dung cầm quyền, điều kiện cầm
quyền; vấn đề phát huy dân chủ trong điều kiện một đảng duy nhất cầm quyền; các nguy cơ
cần phải phòng ngừa đối với đảng cầm quyền”[2]. Đại hội XIII của Đảng tiếp tục chỉ rõ “Tiếp
tục tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận về đổi mới nội dung, phương thức lãnh đạo, cầm
quyền của Đảng trong điều kiện mới”[3].
Hiện nay, trong Đảng vẫn có những ý kiến khác nhau về chức năng lãnh đạo và cầm quyền
của Đảng. Có ý kiến cho rằng, lãnh đạo là nói đến chức năng, nhiệm vụ xuyên suốt của
Đảng. Đảng lãnh đạo cả trong thời kỳ đấu tranh giành chính quyền và cả sau khi giành được
chính quyền. Theo đó, nội hàm khái niệm “Đảng lãnh đạo” rộng hơn nội hàm khái niệm
“Đảng cầm quyền”. Có ý kiến khác lại cho rằng, khái niệm “Đảng lãnh đạo” không gắn với
quyền lực chính trị, đó chỉ là sự tác động, định hướng, tuyên truyền, vận động, thuyết phục,
tạo ảnh hưởng của Đảng đối với hệ thống chính trị và quần chúng nhân dân. Có ý kiến đi sâu
hơn về học thuật thì cho rằng, nói “Đảng cầm quyền” là đề cập đến quyền lực chính trị của
Đảng sau khi giành được chính quyền, nghĩa là vai trị lãnh đạo, kỹ năng lãnh đạo của Đảng
đối với chính quyền nhà nước. Vì vậy, sau khi giành được chính quyền, cần nhấn mạnh một
cách cụ thể vai trò, trách nhiệm và các cách thức để Đảng kiểm sốt, điều hành bộ máy
chính quyền nhà nước. Nếu chỉ nhấn mạnh vai trò lãnh đạo chung, thì chưa thể hiện hết vai
trị, trách nhiệm cầm quyền của Đảng.
Vậy, vấn đề đặt ra là “Đảng lãnh đạo” và “Đảng cầm quyền” có phải là hai khái niệm đồng
nhất? Trong điều kiện một đảng duy nhất cầm quyền, phải chăng phương thức lãnh đạo cũng
là phương thức cầm quyền của Đảng? Theo đó, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đồng
nghĩa với nâng cao năng lực cầm quyền của Đảng? Những bất cập trong nhận thức này dẫn
đến những hạn chế nhất định về xác định nội dung, phương thức lãnh đạo cũng như nội
Page 13
dung, phương thức cầm quyền; hạn chế trong việc xác định chủ trương, đường lối, giải pháp
lãnh đạo và cầm quyền của Đảng. Vì thế, những vấn đề như: Là một đảng lãnh đạo trong
điều kiện có chính quyền, Đảng phải làm gì? Đảng phải lãnh đạo như thế nào? Là một đảng
duy nhất cầm quyền, Đảng cần phải “cầm”, “nắm” những gì? Đảng cầm quyền bằng những
phương pháp, cách thức nào? Làm thế nào để nâng cao năng lực, hiệu lực, hiệu quả cầm
quyền của Đảng?... đều cần có sự phân định và luận giải tường minh.
Thứ hai, hạn chế, bất cập trong xây dựng chủ trương, nghị quyết của Đảng.
Mục đích tối thượng, cao nhất của Đảng Cộng sản chân chính cầm quyền là vì hạnh phúc,
lợi ích của nhân dân. Đảng ta đã xác định, ngoài lợi ích của nhân dân, Đảng khơng có lợi ích
nào khác. Theo đó, mọi chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước
đều phải xuất phát từ đòi hỏi của thực tiễn, từ nhu cầu, nguyện vọng chính đáng của nhân
dân. Một trong những cách lãnh đạo mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lưu ý cán bộ, đảng viên
cần luôn tâm niệm là: “Sự lãnh đạo trong mọi công tác thiết thực của Đảng, ắt phải từ trong
quần chúng ra, trở lại nơi quần chúng”[4]. Tuy nhiên, trong việc hoạch định chủ trương,
đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước vẫn cịn có những bất cập so với
yêu cầu này. Một số chủ trương, nghị quyết của các cấp ủy do các cơ quan tham mưu đề xuất
chưa thực sự được nghiên cứu, tổng kết thực tiễn kỹ lưỡng; chưa đánh giá, dự báo những tác
động, ảnh hưởng một cách đầy đủ, khoa học. Hiện nay, chưa có quy định cụ thể về việc lấy ý
kiến của nhân dân tham gia đóng góp xây dựng các chủ trương, nghị quyết. Tương tự như
vậy, một số chính sách cơng mới chỉ được ban hành dựa trên những nhận thức và mong
muốn chủ quan của các cơ quan quản lý nhà nước, sự tham gia đề xuất và góp ý của người
dân và doanh nghiệp với tư cách là đối tượng thụ hưởng, chịu sự tác động của chính sách
cịn rất hạn chế; vì vậy, khó tránh khỏi tình trạng “vừa đá bóng, vừa thổi cịi”, “lợi ích
nhóm”, cục bộ. Trình độ, năng lực của một số cán bộ, công chức trực tiếp tham gia xây
dựng, hoạch định chính sách, pháp luật cịn hạn chế. Bên cạnh đó, do tầm nhìn và ý chí chủ
quan, nên có chính sách đưa vào thực thi đã nảy sinh nhiều bất cập hoặc hiệu lực, hiệu quả
thực thi không cao. Một số dự thảo luật đưa ra Quốc hội thảo luận chưa tạo được sự đồng
tình, thống nhất cao.
Thứ ba, hạn chế, bất cập trong công tác tư tưởng, lý luận của Đảng.
Lịch sử lãnh đạo và cầm quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam đã cho thấy tầm quan trọng và
sức mạnh to lớn của công tác tư tưởng của Đảng, trong cách mạng giải phóng dân tộc cũng
như trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tuy nhiên, trước bối cảnh, tình hình mới
có nhiều biến đổi mau lẹ, khó lường, sự phát triển của khoa học - công nghệ, đặc biệt là công
nghệ thông tin, xu thế mở cửa và hội nhập quốc tế, trình độ dân trí và dân chủ ngày càng
được nâng cao, địi hỏi cơng tác tư tưởng, lý luận của Đảng cần phải được đổi mới mạnh mẽ.
Các văn kiện của Đảng những năm gần đây đã thẳng thắn chỉ ra những hạn chế, yếu kém,
Page 14
bất cập của cơng tác tư tưởng, lý luận nói chung, việc nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn
nói riêng. Văn kiện Đại hội IX của Đảng nhận định: “Công tác lý luận chưa theo kịp sự phát
triển của thực tiễn và yêu cầu của cách mạng, chưa làm sáng tỏ nhiều vấn đề quan trọng
trong công cuộc đổi mới để phục vụ việc hoạch định chiến lược, chủ trương, chính sách của
Đảng, tăng cường sự nhất trí về chính trị, tư tưởng trong xã hội” [5]. Văn kiện Đại hội X của
Đảng chỉ rõ: “Công tác lý luận chưa làm sáng tỏ được một số vấn đề quan trọng trong công
cuộc đổi mới”[6]. Văn kiện Đại hội XI của Đảng nhấn mạnh: “Công tác nghiên cứu lý luận,
tổng kết thực tiễn chưa làm sáng tỏ được một số vấn đề về đảng cầm quyền, về chủ nghĩa xã
hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta” [7]. Tiếp đến, Văn kiện Đại hội XII của
Đảng tiếp tục chỉ rõ: “Công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận còn bất cập, chưa làm
rõ được một số vấn đề đặt ra trong quá trình đổi mới để định hướng trong thực tiễn, cung cấp
cơ sở khoa học cho hoạch định đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà
nước”[8]. Văn kiện Đại hội XII của Đảng còn nhấn mạnh: “Chất lượng và hiệu quả công tác
tư tưởng, lý luận chưa cao. Chậm khắc phục có hiệu quả những hạn chế của cơng tác tư
tưởng như thiếu sắc bén, chưa thuyết phục... Công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận
chưa đáp ứng yêu cầu của công cuộc đổi mới” [9]. Đại hội XIII của Đảng tiếp tục nhấn mạnh
những hạn chế, bất cập này.
Thứ tư, hạn chế, bất cập về cán bộ và công tác cán bộ, đảng viên của Đảng.
Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ của cả hệ thống chính
trị được xác định là một phương thức lãnh đạo đặc biệt quan trọng; đồng thời, cũng là cách
thức cầm quyền tất yếu của Đảng. Đội ngũ cán bộ, nhất là những cán bộ lãnh đạo, quản lý
chủ chốt các cấp, các ngành vừa thực hiện chức trách, nhiệm vụ theo chức danh, chức vụ, vị
trí việc làm được pháp luật quy định; nhưng với tư cách là cán bộ, đảng viên của Đảng, vừa
có trách nhiệm quán triệt, tổ chức thực hiện Cương lĩnh, đường lối, chủ trương, nghị quyết
của Đảng.
Tuy nhiên, như Nghị quyết số 26-NQ/TW, ngày 19-5-2018, của Ban Chấp hành Trung ương
khóa XII, “Về tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược, đủ phẩm
chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ”, đã nhận định: “nhìn tổng thể, đội ngũ cán bộ
đơng nhưng chưa mạnh; tình trạng vừa thừa, vừa thiếu cán bộ xảy ra ở nhiều nơi; sự liên
thơng giữa các cấp, các ngành cịn hạn chế… Thiếu những cán bộ lãnh đạo, quản lý giỏi,
những nhà khoa học và chuyên gia đầu ngành trên nhiều lĩnh vực. Năng lực của đội ngũ cán
bộ chưa đồng đều, có mặt còn hạn chế, yếu kém; nhiều cán bộ, trong đó có cả cán bộ cấp cao
thiếu tính chun nghiệp;... trình độ ngoại ngữ, kỹ năng giao tiếp và khả năng làm việc trong
mơi trường quốc tế cịn nhiều hạn chế. Khơng ít cán bộ trẻ thiếu bản lĩnh, ngại rèn luyện.
Một bộ phận không nhỏ cán bộ phai nhạt lý tưởng, giảm sút ý chí, làm việc hời hợt, ngại
khó, ngại khổ, suy thối về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, có biểu hiện “tự diễn biến”,
“tự chuyển hóa”. Một số cán bộ lãnh đạo, quản lý, trong đó có cả cán bộ cấp chiến lược,
Page 15
thiếu gương mẫu, uy tín thấp, năng lực, phẩm chất chưa ngang tầm nhiệm vụ, quan liêu, xa
dân, cá nhân chủ nghĩa, vướng vào tham nhũng, lãng phí, tiêu cực, “lợi ích nhóm”. Khơng ít
cán bộ quản lý doanh nghiệp nhà nước thiếu tu dưỡng, rèn luyện, thiếu tính Đảng, lợi dụng
sơ hở trong cơ chế, chính sách, pháp luật, cố ý làm trái, trục lợi, làm thất thoát vốn, tài sản
của Nhà nước, gây hậu quả nghiêm trọng, bị xử lý kỷ luật đảng và xử lý theo pháp luật. Tình
trạng chạy chức, chạy quyền, chạy tuổi, chạy quy hoạch, chạy luân chuyển, chạy bằng cấp,
chạy khen thưởng, chạy danh hiệu, chạy tội,... trong đó có cả cán bộ cao cấp, chậm được
ngăn chặn, đẩy lùi[10].
Nghị quyết số 26-NQ/TW còn nhấn mạnh: Sự trưởng thành, lớn mạnh và phát triển của đội
ngũ cán bộ 20 năm qua là nhân tố then chốt, quyết định làm nên những thành tựu to lớn, có ý
nghĩa lịch sử của cơng cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Song, những khuyết
điểm, yếu kém của một bộ phận không nhỏ cán bộ và những hạn chế, bất cập trong công tác
cán bộ cũng là một nguyên nhân chủ yếu làm cho đất nước phát triển chưa tương xứng với
tiềm năng, thế mạnh và mong muốn của chúng ta, làm suy giảm niềm tin của nhân dân đối
với Đảng và Nhà nước[11]`.
Cùng với những bất cập như trên trong công tác cán bộ và đội ngũ cán bộ, công tác đảng
viên và đội ngũ đảng viên của Đảng cũng có những hạn chế, bất cập, tạo nguy cơ đe dọa sự
tồn vong của Đảng và chế độ. Đó là, vấn đề suy thối về tư tưởng chính trị, phai nhạt lý
tưởng, niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng; động cơ vào Đảng không đúng đắn, ý thức chấp
hành kỷ luật đảng khơng nghiêm; việc nêu gương, tính tiền phong gương mẫu của đảng viên
trước quần chúng cịn hạn chế. Cịn có những biểu hiện cá nhân chủ nghĩa, tư tưởng cơ hội,
thực dụng trong các tổ chức đảng cần được nhanh chóng nhận diện rõ và có giải pháp khắc
phục kịp thời.
Thứ năm, hạn chế, bất cập trong công tác kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật của
Đảng.
Trong những năm gần đây, Đảng ta đã rất coi trọng công tác kiểm tra, giám sát và thi hành
kỷ luật đảng. Công tác này đã đạt được những kết quả rất quan trọng, từ việc xây dựng, ban
hành các quy chế, quy định và tổ chức thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát và kỷ luật
đảng, được đảng viên và nhân dân đồng tình, đánh giá cao. Mặc dù vậy, Đại hội XIII của
Đảng nhận định, công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng chưa đáp ứng đầy đủ yêu cầu
trong tình hình mới; chất lượng, hiệu quả chưa đồng đều ở các cấp. Công tác kiểm tra ở một
số nơi thiếu trọng tâm, trọng điểm; việc tự kiểm tra, phát hiện và xử lý vi phạm của nhiều
cấp ủy, tổ chức đảng vẫn là khâu yếu; công tác kiểm tra, giám sát của các cơ quan tham
mưu, giúp việc của cấp ủy chưa đi vào nền nếp. Công tác giám sát ở các cấp chưa thường
xuyên, có nơi, có lúc chưa thực chất, phạm vi, đối tượng cịn hẹp; hiệu quả phát hiện, cảnh
Page 16
báo, phòng ngừa vi phạm còn hạn chế. Việc thi hành kỷ luật đảng ở một số nơi chưa nghiêm,
còn hiện tượng nể nang, né tránh, ngại va chạm. Việc giải quyết khiếu nại, tố cáo cịn chậm.
Có thể khẳng định, những hạn chế, bất cập trong phương thức lãnh đạo, cầm quyền của
Đảng nêu trên, ở các mức độ khác nhau đã ảnh hưởng không nhỏ đến năng lực, hiệu quả
lãnh đạo, cầm quyền của Đảng, ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế - xã hội, đến uy tín của
Đảng, niềm tin của nhân dân đối với Đảng. Bởi vậy, cùng với việc nhận diện những hạn chế,
bất cập, việc nghiên cứu, tìm kiếm, đề xuất những giải pháp để khắc phục, nâng cao năng
lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng trong điều kiện hiện nay là vấn đề rất quan trọng và cấp
bách, đòi hỏi phải phát huy nhiều hơn nữa vai trị, trách nhiệm, trí tuệ của các cấp ủy, tổ
chức đảng, của tất cả cán bộ, đảng viên trong toàn Đảng.
Page 17
PHẦN 3
MỘT SỐ GIẢI PHÁP GĨP PHẦN NÂNG CAO
VAI TRỊ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG TRONG
CƠNG CUỘC ĐỔI MỚI TỒN DIỆN ĐẤT
NƯỚC VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA ĐỐI VỚI
VIỆT NAM HIỆN NAY
3.1.
MỘT SỐ GIẢI PHÁP GÓP PHẦN NÂNG CAO VAI TRỊ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG
TRONG CƠNG CUỘC ĐỔI MỚI TỒN DIỆN ĐẤT NƯỚC
Những thành tựu đạt được trong khoảng thời gian qua kể từ khi thống nhất là to lớn
và có ý nghĩa lịch sử. Đất nước đã ra khỏi tình trạng kém phát triển; đời sống của đa số nhân
dân được cải thiện; sức mạnh mọi mặt của đất nước được tăng cường, độc lập chủ quyền và
chế độ XNCH được giữ vững; vị thế và uy tín của dân tộc trên trường quốc tế được nâng
cao; cơ sở vật chất kỹ thuật được phát triển. Thực tế trên đã khẳng định: đường lối đổi mới
do Đảng đề ra là đúng đắn.
Bên cạnh thành tựu, Đảng ta đã thẳng thắn chỉ ra những hạn chế, yếu kém để nghiêm
túc tự phê bình và sửa chữa. Trong đó, cơng tác xây dựng đảng chưa đáp ứng được yêu cầu
nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng; chưa thực hiện nghiêm nguyên tắc
tập trung dân chủ, còn biểu hiện quan liêu, dân chủ hình thức, kỷ luật lỏng lẻo, chấp hành
không nghiêm chỉ thị, nghị quyết của Đảng, tự phê bình và phê bình trong Đảng cịn yếu;
một số nơi vẫn cịn tình trạng phe cánh, mất đồn kết nội bộ. Trong lúc đó, bộ máy nhà nước
cịn cồng kềnh, chồng chéo; cơng tác tư tưởng cịn nhiều hạn chế, tính định hướng chưa rõ,
tính chiến đấu và tính thuyết phục chưa cao, thiếu chủ động và sắc bén trong đấu tranh
chống âm mưu “diễn biến hoà bình” của các thế lực thù địch. Cơng tác nghiên cứu lý luận
cịn yếu, chưa có dự báo kịp thời về những khó khăn, thách thức, những vấn đề phức tạp,
mới xuất hiện trong q trình thực hiện cơng cuộc đổi mới. Cùng với đó, chất lượng, hiệu
quả cơng tác bảo vệ chính trị, cơng tác kiểm tra trong Đảng chưa cao; một bộ phận không
nhỏ cán bộ, đảng viên suy thối về phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống...
Trước yêu cầu nhiệm vụ cách mạng trong thời kỳ mới, để nâng cao chất lượng, hiệu
quả lãnh đạo của Đảng đối với tiến trình đổi mới đất nước, các cấp ủy, tổ chức đảng và đội
ngũ đảng viên cần tiếp tục thực hiện tốt các nhiệm vụ, giải pháp về xây dựng, chỉnh đốn
Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng; trong đó, cần tập trung vào
một số vấn đề chủ yếu sau đây:
Page 18
1. Tăng cường xây dựng Đảng về chính trị; phát triển, hoàn thiện đường lối đổi mới và
nâng cao năng lực tổ chức thực tiễn.
Đảng lãnh đạo bằng chủ trương, đường lối chính trị thể hiện trong Cương lĩnh, nghị
quyết của Đảng. Đường lối đúng đắn là nhân tố quan trọng quyết định thắng lợi nhiệm vụ
cách mạng; củng cố uy tín và vai trị lãnh đạo của Đảng. Bởi vậy, Trung ương Đảng và các
cấp ủy, tổ chức đảng cần ln quan tâm xây dựng đường lối chính trị đúng đắn, sáng tạo,
khoa học phù hợp với tình hình, đặc điểm của đất nước, của mỗi địa phương, đơn vị. Để xây
dựng đường lối đúng đắn, Đảng phải nắm vững, vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa
Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kế thừa và phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc;
tiếp thu tinh hoa văn hoá của nhân loại, tri thức mới của thời đại, nâng cao năng lực trí tuệ;
phải xuất phát từ thực tiễn của đất nước; tiếp tục đổi mới mạnh mẽ tư duy lý luận, kiên định
về nguyên tắc, chiến lược, linh hoạt, sáng tạo về sách lược, phương pháp; chống giáo điều,
bảo thủ, trì trệ hoặc đổi mới vơ ngun tắc, chủ quan, nóng vội. Các cấp ủy, tổ chức đảng
phải phát huy quyền làm chủ của nhân dân và các tổ chức để thực sự phát huy được trí tuệ
của tồn dân tộc vào xây dựng đường lối, chủ trương, quyết sách quan trọng của Đảng, Nhà
nước.
Các cấp ủy, tổ chức đảng cần đặc biệt coi trọng việc đưa chủ trương, đường lối, nghị quyết
của Đảng vào cuộc sống. Cần đổi mới việc học tập, quán triệt nghị quyết, xây dựng các
chương trình, kế hoạch hành động cụ thể, thiết thực, đẩy mạnh phong trào hành động cách
mạng của quần chúng, tăng cường kiểm tra, giám sát; thường xuyên bám sát và kịp thời tổng
kết thực tiễn, phát hiện, ủng hộ và nhân rộng những nhân tố mới, qua đó, kịp thời bổ sung,
hồn thiện và phát triển đường lối của Đảng.
Nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác tư tưởng, lý luận của Đảng.
Yêu cầu này địi hỏi Đảng phải tăng cường cơng tác nghiên cứu lý luận, tổng kết thực
tiễn để kịp thời làm sáng tỏ hơn những vấn đề về CNXH và con đường đi lên CNXH; về
công tác xây dựng đảng; xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân và vì dân;
về tổ chức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể quần chúng trong hệ thống chính
trị và những vấn đề về dân tộc, tôn giáo, nhân quyền. Đảng cần chú trọng nâng cao tính khoa
học, sáng tạo, tính thực tiễn trong cơng tác nghiên cứu lý luận, công tác tư tưởng để chủ
động giải quyết thắng lợi mọi vấn đề đặt ra trước những biến cố phức tạp trên thế giới, trong
nước và những băn khoăn, vướng mắc của cán bộ, đảng viên, quần chúng nhân dân, nhằm
thống nhất tư tưởng, củng cố niềm tin và khối đoàn kết thống nhất trong Đảng, giữa Đảng
với nhân dân. Tiếp tục đổi mới nội dung, phương thức, nâng cao hơn nữa tính chiến đấu, tính
thuyết phục, hiệu quả của công tác tư tưởng. Chủ động phòng ngừa, kiên quyết đấu tranh,
phê phán những biểu hiện “tự diễn biến” trong nội bộ; khắc phục sự suy thối về tư tưởng
chính trị, đạo đức lối sống trong một bộ phận cán bộ, đảng viên; kiên quyết phê phán những
quan điểm sai trái, phản động, làm thất bại âm mưu “diễn biến hồ bình” của các thế lực thù
địch.
2.
Page 19
Thực hiện tốt việc tuyên truyền, học tập chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh,
quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; tuyên truyền, cổ vũ
động viên các nhân tố mới, điển hình tiên tiến, gương người tốt, việc tốt trên mọi lĩnh vực.
Đổi mới, nâng cao chất lượng công tác giáo dục lý luận chính trị, giáo dục cơng dân trong hệ
thống các trường chính trị, các trường thuộc hệ thống giáo dục quốc dân. Mỗi cán bộ, đảng
viên đều phải học tập, nâng cao trình độ lý luận chính trị và có trách nhiệm trực tiếp làm
cơng tác tư tưởng. Cán bộ chủ chốt, các cấp uỷ đảng phải thường xuyên tiếp xúc, đối thoại
trực tiếp với nhân dân, chủ động nắm bắt, dự báo diễn biến tư tưởng của cán bộ, đảng viên
và có biện pháp giải quyết kịp thời.
Rèn luyện phẩm chất đạo đức cách mạng, chống chủ nghĩa cá nhân, đẩy mạnh
cuộc đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực.
Phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống của đội ngũ cán bộ, đảng viên và hiệu quả cuộc
đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực trong bộ máy Đảng, Nhà nước hiện nay là
thước đo sự trong sạch, vững mạnh của Đảng. Các cấp ủy, tổ chức đảng và đảng viên cần
đưa hoạt động “học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh" thành công việc
thường xuyên, không ngừng tu dưỡng, rèn luyện đạo đức cách mạng, thực sự là tấm gương
về phẩm chất đạo đức, lối sống; cán bộ cấp trên phải gương mẫu trước cán bộ cấp dưới; mọi
cán bộ, đảng viên phải gương mẫu trước quần chúng và nhân dân. Cần đẩy mạnh tự phê bình
và phê bình trong sinh hoạt đảng; đồng thời, đẩy mạnh cuộc đấu tranh phịng chống tham
nhũng, lãng phí, coi đây là nhiệm vụ trọng tâm của công tác xây dựng Đảng, là nhiệm vụ cấp
thiết, trực tiếp và thường xuyên của các cấp ủy, tổ chức đảng, đảng viên trong cả hệ thống
chính trị và toàn xã hội.
3.
Tiếp tục đổi mới, kiện toàn tổ chức, bộ máy của Đảng và hệ thống chính trị, nâng
cao chất lượng đội ngũ cán bộ.
Theo đó, các cấp ủy đảng và các cơ quan tham mưu về công tác tổ chức của Đảng, Nhà
nước cần tiếp tục xác định rõ chức năng, nhiệm vụ và mơ hình tổ chức của các tổ chức trong
hệ thống chính trị; kiện toàn, nâng cao chất lượng các cơ quan tham mưu, đội ngũ cán bộ
làm công tác tham mưu, nhất là ở cấp chiến lược. Đồng thời, tổng kết, đánh giá đúng thực
trạng, đề ra các giải pháp củng cố và đổi mới mơ hình tổ chức, phương thức hoạt động của
các tổ chức đảng. Trên cơ sở đó, tập trung chỉ đạo, củng cố những tổ chức đảng yếu kém, kịp
thời kiện toàn cấp uỷ và tăng cường cán bộ ở nơi có nhiều khó khăn; coi trọng đổi mới và
nâng cao chất lượng sinh hoạt cấp uỷ, tổ chức đảng, chất lượng tự phê bình và phê bình
trong sinh hoạt đảng. Thật sự phát huy dân chủ trong sinh hoạt đảng, thực hiện đúng nguyên
tắc tập trung dân chủ, chống quan liêu, bè phái, cục bộ, địa phương, độc đốn, vi phạm dân
chủ, dân chủ hình thức.
Nhiệm vụ quan trọng nhất trong công tác cán bộ hiện nay là xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh
đạo, trước hết là cán bộ lãnh đạo cấp chiến lược và người đứng đầu tổ chức các cấp, các
4.
Page 20
ngành của hệ thống chính trị; đồng thời, quan tâm xây dựng cán bộ trẻ, cán bộ nữ, cán bộ
dân tộc thiểu số, cán bộ xuất thân từ công nhân, con em gia đình có cơng với cách mạng.
Trong xây dựng đội ngũ cán bộ phải chú ý tính kế thừa và phát triển, có số lượng và cơ cấu
hợp lý. Cần quán triệt và thực hiện đúng nguyên tắc Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán
bộ và quản lý đội ngũ cán bộ, đề cao trách nhiệm của các tổ chức trong hệ thống chính trị và
người đứng đầu tổ chức. Các cấp cần mở rộng, phát huy dân chủ, thực hiện công khai, minh
bạch công tác cán bộ; thực hiện tốt các khâu: đánh giá, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, luân
chuyển, bố trí, sử dụng và thực hiện chính sách cán bộ, trong đó cần quan tâm xây dựng và
thực hiện tốt chính sách phát triển, trọng dụng nhân tài, thu hút nhân tài vào những lĩnh vực
quan trọng, khơng phân biệt người trong hay ngồi Đảng. Cần có cơ chế, chính sách phát
hiện sớm nhân tài, bồi dưỡng, đào tạo nhân tài ở trong nước hoặc ở nước ngoài.
Các nội dung, giải pháp trên cần được kết hợp chặt chẽ, đồng bộ với các nội dung, giải
pháp quan trọng khác như: kiện toàn tổ chức cơ sở Đảng và nâng cao chất lượng đội ngũ
đảng viên; tăng cường củng cố mối quan hệ gắn bó mật thiết giữa Đảng với nhân dân, phát
huy vai trò, tiềm năng sáng tạo của nhân dân; đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng; đổi
mới nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát.
3.2.
MỘT SỐ GIẢI PHÁP VỚI NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA ĐỐI VỚI VIỆT NAM HIỆN
NAY
Thứ nhất là ngăn chặn, đẩy lùi, kiểm soát dịch bệnh. Trước dịch bệnh đang lây lan
tồn cầu, tơi có thể nói khơng có người dân nào an tồn khi vẫn cịn người dân khác mắc
bệnh COVID-19; khơng có quốc gia nào an tồn khi cịn các quốc gia khác trong khu vực và
trên thế giới vẫn còn phải chống dịch COVID-19. Do vậy, lúc này chúng ta cần ưu tiên hợp
tác chặt chẽ, hiệu quả để ngăn chặn, đẩy lùi, kiểm soát dịch bệnh COVID-19; đồng thời xây
dựng cơ chế phối hợp để ứng phó với các dịch bệnh truyền nhiễm trong tương lai có thể xuất
hiện. Trước mắt, cần hỗ trợ tiếp cận vaccine và dược phẩm điều trị COVID-19 một cách cởi
mở, bình đẳng và minh bạch; tăng cường chia sẻ vaccine qua các cơ chế đa phương và song
phương; đẩy mạnh chuyển giao công nghệ để xây dựng và tự chủ sản xuất vaccine, thuốc
chữa các loại dịch bệnh tại khu vực. Việt Nam đang nỗ lực phấn đấu tiêm chủng vaccine bao
phủ toàn dân nhanh nhất, sớm nhất có thể. Chúng tơi ln đặt sức khỏe, tính mạng của người
dân lên trên hết và trước hết. Tôi đề nghị ADB nghiên cứu triển khai cơ chế tài chính linh
hoạt hơn, ưu đãi hỗ trợ khẩn cấp các nước mua vaccine, thuốc phòng chống dịch và vật tư y
tế; giúp doanh nghiệp các nước GMS thiết lập dây chuyền sản xuất vaccine và thuốc điều
trị...Nhân đây, tôi cũng cảm ơn các nước sản xuất được vaccine, trong đó có Trung Quốc, đã
chia sẻ, giúp đỡ các nước khác, trong đó có Việt Nam. Sự giúp đỡ này là rất quý giá trong
điều kiện khan hiếm vaccine trên tồn cầu hiện nay. Tơi đề nghị các nước sản xuất được
vaccine, trong đó có Trung Quốc, tiếp tục hỗ trợ các nước khác, trong đó có Việt Nam.
Page 21
Thứ hai là bảo đảm chuỗi cung ứng khu vực không bị đứt gãy trong bối cảnh dịch
bệnh. Điều hết sức cần thiết hiện nay là cần hài hoà, đơn giản hố quy trình, thủ tục thơng
quan, mở “hành lang xanh” tại các cửa khẩu để vừa tạo thuận lợi cho lưu thơng người và
hàng hố qua biên giới, vừa bảo đảm u cầu về phịng dịch an tồn. Tơi cũng đề nghị các
nước hạn chế áp dụng các rào cản thương mại; tạo thuận lợi vận chuyển người và hàng hoá
qua biên giới như chúng ta đã cam kết trong GMS.
Thứ ba, tạo đột phá về xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng chiến lược, đồng bộ, đặc
biệt là giao thơng và năng lượng để nâng cao tính liên kết và sức cạnh tranh của các nền kinh
tế. Về giao thơng, mục tiêu là hồn thiện mạng lưới giao thông và các cửa khẩu, cảng biển
GMS, ưu tiên là các tuyến hành lang kinh tế Đông - Tây, Bắc - Nam, trục đường kết nối các
trung tâm kinh tế lớn của khu vực như các vị vừa đề cập; thúc đẩy vận tải đa phương thức,
kết nối giữa hệ thống cảng biển/đường thuỷ với mạng lưới đường bộ và đường sắt trong
GMS, điển hình như dự án hợp tác Việt Nam - Lào về sử dụng chung Cảng Vũng Áng của
Việt Nam. Về năng lượng, tập trung vào các dự án năng lượng tái tạo và phát triển thị trường
điện khu vực. Các nước GMS cần nghiên cứu mơ hình, lộ trình chuyển đổi sang nền năng
lượng phát thải thấp một cách hài hòa, hợp lý; nâng cao năng lực mua bán điện năng qua
biên giới, vận hành hệ thống lưới điện liên kết, và phát triển cơ sở hạ tầng ngành điện với sự
hỗ trợ của ADB và các đối tác phát triển khác.
Thứ tư, đẩy mạnh chuyển đổi số nền kinh tế góp phần tạo động lực mới cho tăng
trưởng, phục hồi kinh tế và thu hẹp khoảng cách phát triển. Song song với hợp tác về phát
triển hạ tầng số, các nước GMS cần: Tăng cường thương mại điện tử qua biên giới trên cơ sở
bình đẳng, cùng có lợi, qua đó thúc đẩy xuất khẩu, nhất là xuất khẩu các loại nơng sản có
tính thời vụ. Tăng cường trao đổi, đối thoại hơn nữa về các chủ thể, chủ đề thương mại điện
tử, thương mại số; phát huy vai trị của cơng nghệ số để đẩy nhanh quá trình phục hồi sau đại
dịch, nhất là trong lĩnh vực thương mại và dịch vụ; Nâng cao trình độ và kỹ năng số cho
doanh nghiệp và người lao động, người dân nói chung; Phối hợp để xây dựng khung pháp lý
phù hợp, giúp cho kinh tế số phát triển lành mạnh, nhanh nhưng đúng hướng, sâu rộng, bền
vững, hiệu quả và hài hịa với lợi ích chung của toàn xã hội.
Page 22
PHẦN KẾT LUẬN
Vai trị lãnh đạo của Đảng trong cơng cuộc đổi mới toàn diện và những vấn đề dặt ra
với Việt nam Nam hiện nay. Việt Nam ngày càng hội nhập sâu rộng với quốc tế.Theo đó, cần
tăng cường giáo dục, nâng cao nhận thức, trách nhiệm của sinh viên đối với sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Từ thành tựu của vai trị lãnh đạo của Đảng
trong cơng cuộc đổi mới mà nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã
hội ở Việt Nam ngày càng sáng tỏ hơn. Sáng tỏ hơn về mục tiêu và mơ hình của xã hội xã
hội chủ nghĩa do nhân dân ta xây dựng. Những vấn đề về kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa,
con người và chặng đường bước đi của thời kỳ đổi mới toàn diện đất nước và vấn đề đặt ra
đối với Việt Nam hiện nay cũng được thực tiễn làm rõ để nhận thức đúng đắn hơn.
Đối với mỗi sinh viên, cần nhận thức đúng về vai trị của mình, nỗ lực rèn luyện
phẩm chất và năng lực, ra sức thi đua học tập nâng cao trình độ học vấn, chun mơn, khoa
học-kỹ thuật và công nghệ; không ngừng thu đua trong lao động sản xuất; tăng cường tham
gia vào các hoạt động xã hội, đoàn thể nhằm tạo lập cuộc sống tốt cho bản thân, đồng thời
đóng góp cho sự phát triển của đất nước trong thời kì đổi mới tồn diện và giải quyết các
vấn đề đặt ra đối với Việt Nam hiện nay.
Quá trình làm tiểu luận giúp cho sinh viên những tri thức vừa cơ bản, vừa chuyên sâu,
mang tính hệ thống về quá trình ra đời và lãnh đạo cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam;
cung cấp cơ sở lịch sử, củng cố niềm tin của thế hệ trẻ vào con đường cách mạng giải phóng
dân tộc và phát triển đất nước; trang bị phương pháp nhận thức biện chứng, khách quan về
quá trình Đảng ra đời và lãnh đạo cách mạng;… từ đó nâng cao hiểu biết lý luận, nắm bắt
thực tiễn, vận dụng vào xem xét, đánh giá vai trò và sự lãnh đạo của Đảng, góp phần thiết
thực vào cơng tác xây dựng Đảng ngày càng vững mạnh, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ mới
trong q trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xây dựng thành công chủ nghĩa xã
hội ở Việt Nam.
Page 23
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Văn kiện Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà
Nội, 2021, t. I, tr. 25
[2] Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội,
2016, tr. 217
[3] Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t. I, tr. 199
[4] Hồ Chí Minh: Tồn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t. 5, tr. 330
[5] Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới (Đại hội VI, VII, VIII, IX), Nxb. Chính trị quốc
gia, Hà Nội, 2005, tr. 629
[6] Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, tr.
65
[7] Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội,
2011, tr. 172 - 173
[8], [9] Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Sđd, tr. 67, 192 - 193
[10] Văn kiện Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương khóa XII, Văn phịng Trung
ương Đảng, Hà Nội, 2018, tr. 47 – 48
[11] Văn kiện Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương khóa XII, Sđd, tr. 50
[12] Bộ Giáo Dục Và Đào Tạo, Giáo trình Lịch Sử Đảng Cộng Sản Việt Nam, Nhà xuất bản
Chính trị quốc gia sự thật, Tác giả: PGS.TS. Nguyễn Trọng Phúc (6/2021),Chương 3 Vai trò
lãnh đạo của đảng trong cơng cuộc đổi mới tồn diện đất nước
[13] Tạp Chí Cộng Sản, Chính Trị - Xây dựng Đảng, PGS, Ts. Dương Trung Ý
(24/10/2021), Những thành tựu và một số hạn chế, bất cập trong phương thức lãnh đạo, cầm
quyền của Đảng
[14] Tạp Chí Quốc Phịng Tồn Dân, Nâng cao chất lượng và hiệu quả lãnh đạo của Đảng
đối với tiến trình đổi mới đất nước, PGS,TS. Trương Thị Thơng.
[15] Khẳng định vai trị lãnh đạo của Ðảng trong cơng cuộc đổi mới và phát triển đất
nước.
/>[16] Vai trò lãnh đạo của Đảng trong công cuộc đổi mới đất nước sau 44 năm thống nhất.
/>
Page 24