TỈNH ỦY BÀ RỊA - VŨNG TÀU
TRƯỜNG CHÍNH TRỊ
*
LỊCH SỬ ĐẢNG
Chủ đề
Phân tích nội dung đường lối kháng chiến chống mỹ cứu
nước và quá trình Đảng lãnh đạo đánh thắng các chiến
lược, chiến tranh xâm lược của Đế quốc Mỹ (1961-1975)
1
LỜI MỞ ĐẦU
Đã 46 năm trôi qua kể từ ngày chiếc xe tăng số 834 của quân đội nhân dân
Việt Nam húc đổ cánh cửa dinh độc lập, lá cờ cách mạng phấp phới bay trên
nóc hang ổ Ngụy quyền, chiến dịch Hồ Chí Minh tồn thắng. Thời gian tuy
lùi xa dần nhưng khổng thể làm phai mờ những hồi ức mãi mãi tươi rói về về
một trong những trang sử hào hùng của dân tộc. Một chiến công vĩ đại của thế
kỉ XX; Cuộc tổng tiến công và nổi dậy đại thắng mùa xuân 1975 là sản phẩm
tất yếu của tồn bộ q trình đấu tranh gian khổ của dân tộc Việt Nam vì độc
lập, tự do và chủ nghĩa xã hội. Nó bắt nguồn tự sự lãnh đạo đúng đắn của
Đảng, sự chỉ huy chiến lực và chiến lược tài tình của bộ chỉ huy quân sự và bộ
Chính trị. Có thể nói thành cơng của nhân dân ta bằng một câu: “Biết mở đầu
đúng đắn biết đánh lâu dài và biết kết thúc đúng lúc”.
Cuộc kháng chiến chống Pháp dành thắng lợi đã khẳng đinh được vai trò
lãnh đạo to lớn của Đảng Cộng sản Việt Nam trong cách mạng Việt Nam.
Trước đó, trong các phong trào cách mạng chống Pháp của dân tộc đã có rất
nhiều nhân sỹ yêu nước đi tìm đường cứu nước giai phóng dân tộc khỏi ách
áp bức của chủ nghĩa thực dân, và cũng có nhiều cuộc khởi nghĩa nổ ra ở
nhiều nơi nhưng cuối cùng cũng đều bị thất bại. Chỉ đến khi Đảng cộng sản
Việt nam ra đời vào 03/2/1930, sau q trình chuẩn bị lâu dài và cơng phu của
đồng chí Nguyển Ai Quốc thì cách mạng Việt Nam mới đạt được những thắng
lợi quyết định, giải phóng dân tộc ta. Tuy nhiên phải trong kháng chiên chống
Mỹ mới cho thấy được sự trưởng thành lớn mạnh của Đảng ta trong vai trò
lãnh đạo cách mạng Việt Nam đến thắng lợi cuối cùng, thống nhất hoàn toàn
Tổ quốc.
2
NỘI DUNG
1. TÌNH HÌNH MIỀN NAM SAU THÁNG 7-1954 VÀ ĐƯỜNG LỐI
KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ CỨU NƯỚC
1.1. Tình hình miền Nam sau tháng 7-1954
Sau khi Hiệp định Giơnevơ được ký kết, đất nước tạm thời chia làm hai
miền. Miền Bắc hồn tồn giải phóng, nhân dân bắt tay vào khơi phục kinh tế
- văn hóa, xây dựng chủ nghĩa xã hội. Miền Nam tiếp tục sự nghiệp cách
mạng dân chủ nhân dân để hồn thành giải phóng dân tộc, thống nhất Tổ
quốc.
Sau chiến tranh Thế giới thứ hai, Mỹ trở thành đế quốc mạnh nhất thế giới
tư bản. Thực hiện chiến lược tồn cầu phản cách mạng. Mỹ tìm cách mở rộng
phạm vi ảnh hưởng, bao vây chống phá chủ nghĩa xã hội. Mỹ không ký vào
Tuyên bố cuối cùng của Hội nghị Giơnevơ, tìm mọi cách thay thế thực dân
Pháp ở miền Nam Việt Nam. Ngày 7-7-1954, Mỹ đưa Ngơ Đình Diệm về Sài
Gịn và ép Pháp đưa Ngơ Đình Diệm làm Thủ tướng Chính phủ bù nhìn. Ngày
8-8-1954, Hội đồng An ninh quốc gia Mỹ (NSC) do Tổng thống Aixenhao
chủ trì đã quyết định gạt bỏ Pháp, xâm lược Việt Nam bằng Quyết định NSC
5429/2 với các nội dung sau: Mỹ trực tiếp viện trợ cho chính quyền ở miền
Nam Việt Nam; Pháp chỉ được viện trợ 100 triệu USD trong tổng số 400 triệu
cho miền Nam và phải rút hết quân ở miền Nam, loại bỏ Bảo Đại, ủng hộ Ngơ
Đình Diệm. Thực chất, Mỹ từng bước biến miền Nam thành căn cứ quân sự
và thuộc địa kiểu mới ở Đông Nam Á.
Sau một thời gian thanh trừng nội bộ, xây dựng lực lượng cảnh sát, quân
đội, chính quyền Việt Nam Cộng hịa tiến hành các chiến dịch “tố cộng”, “diệt
cộng”, ly khai, đàn áp dã man các phong trào yêu nước, tiến bộ ở miền Nam.
Cách mạng miền Nam rơi vào thời điểm khó khăn nhất.
Trong khi đó tình hình thế giới, tuy các nước Liên Xô, Trung Quốc và các
Nước xã hội chủ nghĩa khác vẫn cịn viện trợ cho ta nhưng tình hình thế giới
đã có nhiều thay đổi. Từ giữa thập kỷ 50 trở đi trong các nước thuộc hệ thống
3
xã hội chủ nghĩa và trong phong trào cộng sản quốc tế xuất hiện sự bất đồng
ngày càng ngiêm trọng trên nhiều vấn đề về chiến lược, sách lược và phương
thứa đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc và thế lực phản động trên phạm vi
toàn thế giới, về phương thức tiến hành cách mạng để giải phóng phần cịn lại
của nhân loại dưới sự thống trị của chủ nghĩa tư bản và đế quốc. Đó là nguyên
nhân chủ yếu của những sự bất hoà và chia rẽ, là trở ngại lớn cho việc đoàn
kết tập hợp các lực lượng cách mạng và tiến bộ trên thế giới đấu tranh vì hồ
bình tiến bộ và độc lâp dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Tình hình quốc tế và trong nước đã ảnh hưởng đến quá trình hình thành
đường lối kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của Đảng ta.
1.2. Đường lối kháng chiến chống Mỹ, cứu nước
Ngay từ rất sớm, khi cuộc kháng chiến chống Pháp chưa kết thúc, Đảng ta
đã nhận định: Đế quốc Mỹ là kẻ thù chính của nhân dân thế giới, đồng thời
đang trở thành kẻ thù trực tiếp của nhân dân Đông Dương, cho nên mọi việc
của ta đều nhằm chống đế quốc Mỹ (7-1954).
Tháng 9-1954, Bộ Chính trị chỉ đạo nhiệm vụ của cách mạng miền Nam
trong tình hình mới:
- Đấu tranh địi thi hành Hiệp định Giơnevơ;
- Chuyển hướng cơng tác cho thích hợp với điều kiện hào bình, vừa che
giấu lực lượng, vừa lợi dụng những điều kiện mới để tiếp tục hoạt động;
- Đoàn kết, tập hợp mọi lực lượng đấu tranh địi tự do dân chủ, đánh đổ
tập đồn Ngơ Đình Diệm, thống nhất Tổ quốc bằng tổng tuyển cử.
Như vậy, cách mạng miền Nam đã chuyển từ đấu tranh vũ trang qn sự
sang đấu tranh chính trị địi thi hành Hiệp định Giơnevơ.
Tháng 12-1957, tại Hội nghị lần thứ 13 Ban chấp hành Trung ương khóa
II, Đảng ta nhận định: “Ta đang đồng thời chấp hành hai chiến lược cách
mạng: “cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và cách mạng xã hội chủ
nghĩa”
4
Tháng 1-1959, Hội nghị Trung ương lần thứ 15 của Đảng đã ban hành
Nghị quyết về đường lối cách mạng miền Nam. Nghị quyết xác định nhiệm
vụ trước mắt là: đoàn kết toàn dân, kiên quyết đấu tranh chống đế quốc Mỹ
xâm lược và gây chiến, đánh đổ tập đoàn Ngơ Đình Diệm tay sai, thực hiện
độc lập dân tộc, thống nhất nước nhà. Con đường phát triển cơ bản của
cách mạng miền Nam là khởi nghĩa giành chính quyền về tay nhân dân.
Tháng 9-1960, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng đã hoàn
chỉnh đường lối cách mạng Việt Nam. Nghị quyết Đại hội chỉ rõ: “Nhiệm vụ
cơ bản của cách mạng miền Nam khỏi ách thống trị của đế quốc và phong
kiến, thực hiện độc lập dân tợc và người cày có ṛng, góp phần xây dựng
mợt nước Việt Nam hịa bình, thống nhất, đợc lập, dân chủ và giàu mạnh…
Nhiệm vụ trước mắt của cách mạng ở miền Nam là: đoàn kết toàn dân,
kiên quyết đấu tranh chống đế quốc Mỹ xâm lược và gây chiến, đánh đổ tạp
đồn thống trị độc tài Ngơ Đình Diệm tay sai của đế quốc Mỹ, thành lập một
chính quyền liên hợp dân tộc dân chủ ở miền Nam, thực hiện độc lập dân tộc,
các quyền tự do dân chủ và cải thiện đời sống nhân dân, giữ vững hịa bình,
thực hiện thống nhất nước nhà trên cơ sở độc lập và dân chủ, tích cực góp
phần bảo vệ hịa bình ở Đơng - Nam Á và thế giới”.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III đã bổ sung và hoàn chỉnh đường lối,
phương pháp cách mạng Việt Nam nói chung và đường lối cách mạng riêng
cho hai miền.
1.3. Cao trào Đồng khởi mùa xuân 1960
Khi Nghị quyết Trung ương 15 (1-1959) ra đời, cho phép đồng bào miền
Nam dùng bạo lực cách mạng để đánh đổ chính quyền tay sai, đã thổi bùng
phong trào cách mạng trên khắp miền Nam.
Từ đầu 1959, đã nổi dậy những cuộc đấu tranh vũ trang và bán vũ trang ở
một số nơi: Bác Ái (Ninh Thuận), Vĩnh Thạnh (Bình Định), Trà Bồng (Quảng
Ngãi), Gò Quản Cung (Đồng Tháp) …
5
Đặc biệt, ngày 17-1-1960, nhân dân các xã ở huyện Mỏ Cày (Bến Tre)
đồng loạt nổi dậy diệt ác ôn, đập tan bộ máy chính quyền Mỹ- Ngụy ở cơ sở.
Đến cuối 1960, phong trào Đồng khởi về cơ bản làm tan rã bộ máy chính
quyền cơ sở ở nơng thơn của địch trên tồn miền Nam.
Ngày 20-12-1960, tại xã Tân Lập (Tây Ninh), Mặt trận dân tộc giải phóng
miền Nam Việt Nam được thành lập; Mục tiêu của Mặt trận: Đánh đổ ách
thống trị của Mỹ và tập đoàn tay sai, thực hiện: Độc lập, dân chủ, cải thiện
dân sinh, hịa bình, trung lập ở miền Nam tiến tới hịa bình thống nhất Tổ
quốc.
Phong trào Đồng khởi đã giáng một đòn bất ngờ vào chế độ Mỹ - Diệm ở
miền Nam. Những kết quả của phong trào Đồng khởi đã làm cho đế quốc Mỹ
ở tình thế lúng túng, buộc phải thay đổi chiến lược đối phó với cách mạng
miền Nam. Phong trào Đồng khởi đã chuyển cách mạng từ thế giữ gìn lực
lượng sang thế tiến cơng.
2. TỪNG BƯỚC LÀM THẤT BẠI CÁC CHIẾN LƯỢC CHIẾN TRANH
CỦA ĐẾ QUỐC MỸ, GIẢI PHÒNG MIỀN NAM, THỐNG NHẤT ĐẤT
NƯỚC
2.1. Đánh thắng chiến lược chiến tranh đặc biệt (161-1965)
Ngày 28-1-1961, J.Kennơđi lên làm Tổng thống Mỹ và chính thức thơng
qua chiến lược toàn cầu mới của Mỹ với tên gọi “Phản ứng linh hoạt”. Chiến
tranh đăc biệt là chiến lược mở đầu của học thuyết toàn cầu “Phản ứng linh
hoạt”, với ba kiểu chiến tranh: chiến tranh đặc biệt, chiến tranh cục bộ và
chiến tranh tổng lực.
Tháng 1-1961, Bộ chính trị chủ trương chuyển từ khởi nghĩa sang chiến
tranh cách mạng.
Tháng 10-1961, Trung ương Cục miền Nam được thành lập để trực tiếp
chỉ chỉ đạo cách mạng miền Nam, đẩy mạnh xây dựng lực lượng cả quân sự
lẫn chính trị cả ba vùng chiến lược.
6
Ngày 2-1-1963, tại Ấp bắc (Mỹ Tho), lần đầu điện chúng ta đánh bại một
cuộc càn quét lớn của địch, mở ra khả năng đánh bại quân đội Việt Nam Cộng
hòa. Phong trào đấu tranh của các tầng lớp nhân dân, công nhân, học sinh,
sinh viên và phật tử chống Mỹ và chính quyền Việt Nam Cơng hịa, góp phần
đẩy chính quyền đến khủng hoảng trầm trọng.
Phong trào phá “ấp chiến lược” diễn ra hết sức mạnh mẽ, từ 1961-1963
chúng ta phá hoàn toàn 2.895/6.1164 ấp; giành quyền làm chủ 12.000/17.000
thơn; giải phóng 5/14 triệu người.
Phong trào đấu tranh của học sinh, sinh viên và các tầng lớp nhân đan
diễn ra rầm rộ với hơn 90 triệu lượt người tham gia.
Những chiến thắng về quân sự, chính trị đã làm cho bộ máy chiến tranh
Mỹ và chính quyền Việt Nam Cơng hịa mâu thuẫn sâu sắc.
Ngày 5-9-1962, Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cơng hịa và Chính
phủ Vương quốc Lào chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao. Thực hiện chủ
trương thống nhất nhiệm vụ và đẩy mạnh xây dựng lực lượng quân sự cũng
như chính trị giữa Đảng Lao động Việt Nam và Đảng Nhân dân Lào.
Ngày 1-11-1963, Ngơ Đình Diệm và Ngơ Đình Nhu bị giết chết trong
cuộc đảo chính do Mỹ hậu thuẩn. Từ tháng 11-1963 đến tháng 6-1965, nhiều
cuộc đảo chính trong nội bộ chính quyền Việt Nam Cộng hòa liên tục diễn ra.
Hệ thống chính quyền tay sai đứng trước nguy cơ sụp đổ.
Bối cánh quốc tế diễn biến phức tạp. Sự chia rẽ trong nội bộ phong trào
cộng sản và công nhân quốc tế ngày càng sâu sắc. Hội nghị lần thứ chín ban
chấp hành Trung ương khóa III (12-19630 tiếp tục xác định và hoàn chỉnh
đường lối cách mạng, đường lối đoàn kết quốc tế.
Trong Đông Xuân 1964-1965, ta liên tục giành thắng lợi các chiến dịch
An Lão (Bình Định), Bình giã (Bà Rịa), Ba Gia (Quảng Ngãi), Đồng Xoài
(Phước Long) liên tiếp diễn ra thắng lợi, làm phá sản chiến lược “chiến tranh
đặc biệt”.
7
Đánh thắng chiến lược “chiến tranh đặc biệt”, cách mạng miền Nam vừa
giữ được quyền chủ động và tạo thế trận mới, làm phá sản một hình thức
chiến tranh, đẩy Mỹ và chính quyền Việt Nam Cộng hịa vào thế bị động
chiến lược trên toàn chiến trường miền Nam.
2.2. Đánh thắng chiến lược “Chiến tranh cục bộ” (1965-1968)
Thực hiện “Chiến tranh cục bộ”, Mỹ đưa quân đội cùng quân một số nước
đồng minh vào miền Nam Việt Nam trực tiếp thma chiến, với kế hoạch dự
định là 18 tháng và trải qua bao giai đoạn:
- Giai đoạn 1: Phá kế hoạch mùa mưa của ta, triển khai nhanh quan Mỹ và
chư hầu trên chiến trường miền Nam
- Giai đoạn 2: Mở cuộc phản cơng, tiến cơng tìm và diệt chủ lực của ta,
giành quyền chủ động chiến trường, kiểm soát vùng nông thôn
- Giai đoạn 3: Mở các cuộc hành quân tiêu diệt các cơ quan, căn cứ, đầu
não kháng chiến, hồn tất chương trình bình định.
Mỹ huy động lực lượng lớn với một khối lượng vũ khí và phương tiện
chiến tranh khổng lồ. Đây là cố gắng quân sự lớn nhất, bước leo thang chiến
tranh cao nhất của đế quốc Mỹ ở miền Nam Việt Nam. Cuộc kháng chiến của
ta ở vào tình thế hết sức hiểm nghèo.
Ngày 25-3-1965, Hội nghị lần thứ 11 ban chấp hành Trung ương khóa III
nêu rõ: “Ra sức tranh thủ thời cơ, tập trung lực lượng cả cả nước giành thắn
lợi quyết định ở miền Nam trong thời gian tương đối ngắn, đồng thời chuẩn
bị sẵn sàng đối phó và quyết thắng c̣c chiến tranh cục bộ ở miền Nam nếu
địch gây ra”.
Quân và dân miền nam đã đánh thắng trận đầu ngay khi quân Mỹ mới đổ
bộ vào miền Nam. Đó là chiến thắng Núi Thành (26-5-1965), Vạn Tường (81965), Plâyme (11-1965).
Phối hợp với mặt trận quân sự, Trung ương Cục miền Nam đã trực tiếp
chỉ đạo nhân dân đấu tranh chính trị và binh vận đối với các đơn vị quân Mỹ,
quân đồng minh Mỹ, quân đội Việt nam Cộng hòa trên toàn miền Nam.
8
Tháng 12-1965, Hội nghị lần thứ 12 Ban Chấp hành Trung ương khóa III
nhận định: Mỹ đưa quân vào miền Nam, nhưng lực lượng so sánh giữa ta và
địch không thay đổi lớn.. Vì thế cuộc kháng chiến vẫn giữ vững và phát triển
thế chiến lược tiến công.
Quân và dân miền Nam đã làm thất bại hai cuộc phản công chiến lược
mùa khô 1965-1966 và 1966-1967 của Mỹ - Ngụy. hai gọng kìm “tìm diệt” và
bình định’ bị bẻ gãy. Các cuộc hành quân Áttơnborơ Xêđaphôn, Gianxơn
Xity, lần lượt thất bại. Đánh bại hai cuộc phản công chiến lược của Mỹ-ngụy,
cách mạng miền nam tạo được thế chiến lược mới.
Ở miền Bắc, Mỹ tiến hành chiến tranh phá hoại. Đảng và Chính phủ quyết
định điều chỉnh lại q trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, giương cao khẩu hiệu
chống Mỹ cứu nước.
Tình hình quốc tế vừa có thuận lợi vừa có khó khăn mới. Liên Xơ và
Trung Quốc một mặt vẫn tích cực ủng hộ Việt Nam kháng chiến chống Mỹ,
nhưng mặt khác cũng có những tác động đến đường lối cách mạng nước ta.
Ngày 28-1-1967, Hội nghị lần thứ 13 Ban chấp hành Trung ương khóa III
đã quyết định mở mặt trận ngoại giao nhằm tranh thủ sự ủng hộ của quốc tế.
Tháng 1-1968, Hội nghị lần thứ 14 họp, thơng qua Nghị quyết của Bộ
chính trị quyết định thực hiện Tổng cơng kích - Tổng khởi nghĩa để giành
thắng lợi quyết định cho sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước.
Sau 3 năm tham chiến, đế quốc Mỹ chẳng những khơng bình định được
miền Nam, mà ngày càng sa lầy vào cuộc chiến, nước Mỹ bị tổn thất nặng nề.
Từ đó, Đảng quyết định mở cuộc Tổng tiến cơng và nổi dậy trên khắp
miền Nam vào Tết Mậu Thân năm 1968, để giáng một địn thật mạnh vào ý
chí xâm lược của Mỹ.
Qua 03 đợt tiến công và nổi dậy (từ 31-1-1968 đến 30-9-1968), quân ta đã
làm phá sản chiến lược "Chiến tranh cục bộ", đảo lộn thế chiến lược của Mỹ,
đè bẹp ý chí xâm lược của Mỹ, buộc phải xuống thang chiến tranh, ngồi vào
bàn đàm phán với ta tại Hội nghị Pari.
9
2.3. Đánh thắng chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” giải phóng hồn
tồn miền Nam (1969-1975)
Ngày 20-1-1969, R.Níchxơn lên cầm quyền, tiến hành “Việt Nam hóa
chiến tranh” với các nội dung sau: nỗ lực xây dựng quân ngụy, bộ máy chính
quyền tay sai; lấy chiến tranh ni chiến tranh, dùng người Việt giết người
Việt; thực hiện chính sách bình định nông thôn; đánh vào hậu phương quốc tế
của Việt Nam. Kế hoạch “Việt Nam hóa chiến tranh” có ba giai đoạn:
- Giai đoạn 1 (từ năm 1969 đến tháng 6-1970): Kiểm sốt được những
vùng đơng dân quan trọng nhất, tăng cường quân nguyej, rút một bộ phận
quân nhân Mỹ về nước.
- Giai đoạn 2 (từ tháng 6-1970 đến tháng 6-1971): Kiêm sốt hầu hết
những vùng đơng dâ; qn ngụy đảm nhiệm được nhiệm vụ chiến đấu trên bộ,
rút đại bộ phận quân Mỹ.
- Giai đoạn 3 (từ tháng 6-1971 đến tháng 6-1972): Cơ bản hồn thành
“Việt Nam hóa chiến tranh”, phục vụ cho Níchxơn thắng cử trong cuộc bầu
cử Tổng thống Mỹ tháng 11-1972.
Mỹ tăng cường viện trợ quân đội cho quân đội Việt Nam Cộng hòa về mọi
mặt, tiến hành các cuộc hành quân càn quét và thực hiện chương trình bình
định. Mỹ tìm cách mở rộng chiến tranh trên bán đảo Đơng Dương, cơ lập và
bóp nghẹt hịng làm cho cuộc chiến tranh cách mạng ở miền Nam tự tàn lụi
dần.
Trước tình hình đó, Đảng chủ trương cách mạng miền Nam trong năm
1969 là tiếp tục đẩy mạnh tổng cơng kích, tổng khởi nghĩa, phát triển chiến
lược tiến cơng một cách tồn diện, liên tục và mạnh mẽ.
Ngày 6-6-1969, Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hịa miền Nam Việt
Nam ra đời, lãnh đạo sự nghiệp đấu tranh giải phóng miền Nam.
Quân và dân ta liên tục đánh bại các cuộc tấn công của Mỹ - quân đội Việt
Nam Cộng hòa sang Campuchia và Lào:
10
- Cuộc hành quân của 10 vạn lính Mỹ - VNCH xâm nhập vào miền Đông
Campuchia vào tháng 4 đến 7-1970.
- Chiến dịch Lam Sơn 719 (Chiến dịch Đường 9 – Nam Lào) đánh sang
Lào vào tháng 2, 3-1971.
Ngày 27-1-1973, Hiệp định về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở
Việt Nam được ký kết (Hiệp định Pari), Mỹ cam kết rút hết quân về nước và
không can thiệp vào tình hình miền Nam Việt Nam.
Khơng tơn trọng Hiệp định Pari, chính quyền Sài Gịn, dưới sự giúp đơ
của Mỹ đã ngang nhiên vi phạm Hiệp định, lấn chiếm vùng giải phóng…
Trước tình hình đó, Đảng chỉ đạo cách mạng miền Nam vẫn phải giữ vững
thế chiến lược tiến công, tiếp tục mở những trận đánh quyết định để kết thúc
chiến tranh, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
- Từ ngày 5 đến ngày 29/3/1975, ta mở chiến dịch Huế - Đà Nẵng, bao
gồm ba chiến dịch nhỏ: Chiến dịch Trị Thiên - Huế (5/3-26/3), Chiến dịch
Nam Ngãi (10/3-26/3) và Chiến dịch Đà Nẵng (26/3-29/3).
Kết quả: Ta giành được thắng lợi, tạo nên vùng hậu phương chiến lược
hoàn chỉnh, chuẩn bị cho chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử.
- Từ ngày 26 đến ngày 30/4/1975, ta mở chiến dịch Hồ Chí Minh, với 5
mũi tấn cơng vào 5 mục tiêu chủ yếu của Sài Gòn.
Vào lúc 11 giờ 30 ngày 30-4-1975, cờ chiến thắng đã được cắm trên dinh
Độc Lập. Ngày 2-5-1975, cuộc chiến đấu để giải phóng các vùng đất cịn lại
và các đảo ngồi biển đều thắng lợi sau 117 năm bị đô hộ, đất nước Việt Nam
sạch bóng quân xâm lược, Nam Bắc liền một dải.
11
KẾT LUẬN
Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước là đỉnh cao về bản
anh hùng ca về lòng yêu nước và tự hào dân tộc.
Đây là một trong những chiến thắng vĩ đại nhất trong lịch sử chống giặc
ngoại xâm của dân tộc Việt Nam, một trong những thắng lợi vĩ đại nhất của
dân tộc Việt Nam rong thế kỷ XX.
Dân tộc Việt Nam đã làm phá sản chủ nghĩa thực dân kiểu mới của đế
quốc Mỹ, thay đổi tương quan lực lượng có lợi cho chủ nghĩa xã hội, cổ động
phong trào đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân kiểu mới trên phạm vi toàn
thế giới. Việt Nam trở thành ngọn cờ tiêu biểu cho phong trào đấu tranh vì
độc lập dân tộc, hịa bình và tiến bộ xã hội.
Thắng lợi của cuộc kháng chiến khẳng định tính đúng đắn, khoa học và
sáng tạo của đường lối chiến tranh nhân dân dưới ánh sáng lý luận Mác Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Đó là đường lối kháng chiến độc lập, tự chủ
của Đảng Cộng sản Việt nam, là sự hiện thực hóa của sợi chỉ đỏ: kết hợp mục
tiêu độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội, tạo nên xung lực cho sự nghiệp
thống nhất Tổ quốc. Lý luận cách mạng sáng tạo, đường lối đúng đắn đã trở
thành ngọn cờ tập hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, kết hợp yếu tố
trong nước với quốc tế, phối hợp nhịp nhàng sức mạnh hai miền Nam-Bắc để
đi tới thắng lợi cuối cùng.
Chính sức mạnh của chủ nghĩa xã hội, sức mạnh của chính nghĩa, sức
mạnh của các dân tộc đang đấu tranh cho hịa bình, độc lập đã góp phần vào
thắng lợi của cuộc kháng chiến./.