Tải bản đầy đủ (.pdf) (19 trang)

Tiểu luận tâm lý học: Ảnh hưởng của cha mẹ đến hình thành nhân cách của mỗi cá nhân

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (694.08 KB, 19 trang )

TIỂU LUẬN
TÂM LÝ HỌC ĐẠI CƯƠNG

Đề tài:
ẢNH HƯỞNG CỦA CHA MẸ ĐẾN SỰ PHÁT TRIỂN NHÂN CÁCH CỦA MỖI
CÁ NHÂN

GVHD:
TPHCM, tháng 12 năm 2021


MỤC LỤC
I.
II.

III.

MỞ ĐẦU ............................................................................................... 1
NỘI DUNG ........................................................................................... 1
1. Nhân cách và sự hình thành, phát triển nhân cách ....................... 1
1.1. Nhân cách và những đặc điểm liên quan đến nhân cách ......... 1
1.2. Sự hình thành và phát triển nhân cách.................................... 3
1.2.1. Giáo dục và nhân cách ...................................................... 3
1.2.2. Hoạt động và nhân cách .................................................... 4
1.2.3. Giao tiếp và nhân cách ...................................................... 5
1.2.4. Tập thể và nhân cách ......................................................... 5
2. Ảnh hưởng của cha mẹ đến sự phát triển nhân cách của mỗi cá
nhân ................................................................................................. 6
2.1. Ảnh hưởng tích cực của cha mẹ đến sự phát triển nhân cách
của mỗi cá nhân ..................................................................... 6
2.1.1. Giai đoạn thai nhi .............................................................. 6


2.1.2. Giai đoạn 0 – 3 tuổi ........................................................... 8
2.1.3. Giai đoạn mẫu giáo (3 – 6 tuổi) ......................................... 8
2.1.4. Giai đoạn tuổi học sinh (6 – 17 tuổi) ................................. 9
2.2. Ảnh hưởng tiêu cực của cha mẹ đến sự phát triển nhân cách
của mỗi cá nhân ................................................................... 11
2.2.1. Ảnh hưởng của cha mẹ trong giai đoạn thai nhi đến sự phát
triển nhân cách của mỗi cá nhân ..................................... 11
2.2.2. Ảnh hưởng của cha mẹ trong vấn đề giáo dục đến sự phát
triển nhân cách của mỗi cá nhân ...................................... 12
2.2.3. Ảnh hưởng của bạo lực gia đình đến sự phát triển nhân cách
của mỗi cá nhân .............................................................. 14
2.2.4. Ảnh hưởng của cha mẹ thương con không đồng đều đến sự
phát triển nhân cách của mỗi cá nhân ............................. 15
KẾT LUẬN ......................................................................................... 16
TÀI LIỆU THAM KHẢO


MỞ ĐẦU

I.

Nếu ví một đất nước là con người thì xã hội chính là tay, là chân và con người
chính là tế bào của đất nước đó. Một xã hội hạnh phúc sẽ làm nên một đất nước hạnh
phúc. Một xã hội hạnh phúc là một xã hội văn minh và phát triển.Vậy điều gì góp phần
làm nên sự văn minh và phát triển đó? Đó chính là nhân cách con người. Con người
như thế nào thì xã hội sẽ như thế ấy. Do đó, nhân cách của mỗi cá nhân đóng vai trị
rất lớn đối với phát triển một xã hội mà trong đó mọi người đều hạnh phúc. Mỗi người
chúng ta từ khi sinh ra, chúng ta tiếp xúc đầu tiên đó chính là cha mẹ, gia đình của
chúng ta. Những thứ liên quan đến chúng ta như: phẩm chất đạo đức, năng lực cá
nhân, khí chất,...đều xuất phát từ gia đình chúng ta. Chính vì thế, khơng thể khơng nói,

gia đình chính là nơi của xã hội.
Nhân cách của mỗi cá nhân chính là được hình thành từ gia đình. Cha mẹ sẽ là
người có ảnh hưởng lớn nhất. Do đó, mọi hành động của cha mẹ dù là cố ý hay vô ý
cũng sẽ ảnh hưởng đến sự hình thành và phát triển nhân cách của con. Những ảnh
hưởng đó có thể là tích cực cũng có thể là tiêu cực và cha mẹ có thể quyết định được
điểu đó thơng qua chính mình.
Do nhận thức được tầm quan trọng đó và nhằm giúp các bậc cha mẹ có thể biết
thêm được những việc là có thể ảnh hưởng to lớn đến con như thế nào, nên em quyết
định chọn đề tài: “Ảnh hưởng của cha mẹ đến sự phát triển nhân cách của mỗi cá
nhân”.
II.

NỘI DUNG
1. Nhân cách và sự hình thành, phát triển nhân cách
Để hiểu rõ cha mẹ có những ảnh hưởng gì đến con cái và những ảnh hưởng đó

biểu hiện như thế nào thì việc đầu tiên cần biết đó là thế nào là nhân cách, các đặc
điểm của nhân cách và những yếu tố hình thành nên nhân cách:
1.1.

Nhân cách và những đặc điểm liên quan đến tính cách

Khái niệm nhân cách: Nhân cách là tổ hợp những đặc điểm, những thuộc tính
của tâm lý cá nhân quy định bản sắc và giá trị tâm lý của con người.
Đặc điểm cơ bản của nhân cách:
Trang 1


-


Tính thống nhất của nhân cách: Nhân cách là một cấu trúc tâm lý

tức là một chỉnh thể thống nhất các thuộc tính, đặc điểm tâm lý xã hội, thống nhất giữa
phẩm chất và năng lực, giữa đức và tài.
-

Tính ổn định của nhân cách: Những thuộc tính tâm lý là những

hiện tượng tâm lý tương đối ổn định và bền vững. Nhân cách là tổ hợp những thuộc
tính tâm lý tạo thành bộ mặt tâm lý xã hội của cá nhân, phần nào nói lên bản chất xã
hội của họ. Vì thế các đặc điểm nhân cách cũng như cấu trúc nhân cách khó hình thành
và cũng khó mất đi.
-

Tính tích cực của nhân cách: Nhân cách là chủ thể của hoạt động

và giao tiếp, là sản phẩm của xã hội. Vì thế, tính tích cực là một thuộc tính của nhân
cách. Tính tích cực của nhân cách được biểu hiện trước tiên ở việc xác định một cách tự
giác mục đích hoạt động, tiếp đó là sự chủ động tự giác thực hiện các hoạt động, giao
tiếp nhằm hiện thực hóa mục tiêu. Tính tích cực của nhân cách cũng biểu hiện rõ trong
quá trình thõa mãn các nhu cầu của nó. Khơng chỉ thõa mãn các đối tượng có sẵn, con
người ln ln sáng tạo ra các đối tượng mới, các phương thức thõa mãn mới những
nhu cấu ngày càng cao của họ.
-

Tính giao lưu của nhân cách: Nhân cách chỉ có thể hình thành,

phát triển, tồn tại và thể hiện trong hoạt động và trong mối quan hệ giao lưu với những
nhân cách khác. Nhu cầu giao lưu (giao tiếp) được xem như là một nhu cầu bẩm sinh
của con người. Thông qua quan hệ giao tiếp với người khác, con người gia nhập các

quan hệ xã hội, lĩnh hội các chuẩn mực đạo đức và hệ thống giá trị xã hội. Đông thời
qua giao tiếp mà con người được đánh giá, được nhìn nhận theo quan hệ xã hội. Điều
quan trọng là qua giao tiếp, con người cịn đóng góp các giá trị nhân cách của mình
cho người khác, cho xã hội.
Cấu trúc của nhân cách: Cấu trúc nhân cách bao gồm hai mặt thống nhất với
nhau là đức và tài (phẩm chất và năng lực):
-

Phẩm chất (đức): phẩm chất xã hội (đạo đức, chính trị): thế giới

quan, lý tưởng, niềm tin, lập trường,..; phẩm chất cá nhân (đạo đức, tư cách): các nết,
tập tính, các thói, tật,..; phẩm chất ý chí: tính mục đích, tính tự chủ, tính kỷ luật, tính
quả quyết, tính phê phán; cung cách ứng xử: tác phong, lễ tiết, tính khí.
-

Năng lực (tài): năng lực xã hội hóa: khả năng thích ứng, hịa

nhập, tính mền dẽo, cơ động, linh hoạt trong cuộc sống; năng lực chủ thể hóa: khả
Trang 2


năng thể hiện tính độc đáo, đặc sắc, cái riêng, cái bản lĩnh cá nhân; năng lực hành
động: khả năng hành động có mục đích, chủ động tích cực, có hiệu quả; năng lực giao
tiếp: khả năng thiết lập và duy trì mối quan hệ với người khác.
Các thuộc tính tâm lý cơ bản của nhân cách: Trong nhiều sách giáo khoa tâm
lý học, người ta coi nhân cách là một cấu trúc gồm bốn nhóm thuộc tính tâm lý điển
hình: xu hướng, năng lực, tính cách, khí chất. Cũng giống như một vecto lực có
phương, chiều, cường độ và tính chất của nó. Xu hướng nói lên phương hướng phát
triển nhân cách; năng lực nói lên cường độ của nhân cách; khí chất, tính cách nói lên
tính chất, phong cách của nhân cách.

1.2.

Sự hình thành và phát triển nhân cách

Nhân cách khơng có sẵn bằng cách bộc lộ dần các bản năng nguyên thủy, mà
nhân cách là các cấu tạo tâm lý mới được hình thành trong quá trình sống – giao tiếp,
vui chơi, học tập, lao động,...Quá trình hình thành nhân cách chịu sự chi phối của
nhiều yếu tố: yếu tố bẩm sinh – di chuyền, môi trường tự nhân và hoàn cảnh xã hội,
giáo dục, hoạt động, cá nhân,...Mỗi yếu tố đều có vai trị nhất định. Song với tính cách
là phương thức, là con đường, giáo dục, hoạt động, giao tiếp và tập thể có vai trị quyết
định trong q trình hình thành và phát triển nhân cách con người.
1.2.1. Giáo dục và nhân cách
Giáo dục là một hoạt động đặc trưng của xã hội, là quá trình tác động tự giác,
chủ động đến con người nhằm hình thành và phát triển nhân cách con người theo yêu
cầu của xã hội. Theo nghĩ rộng giáo dục là tồn bộ tác động của gia đình, nhà trường,
xã hội bao gồm cả dạy học và các tác động khác đến con người. Theo nghĩa hẹp, giáo
dục được hiểu là quá trình tác động đến tư tưởng, đạo đức, hành vi của con người
Trong quá trình hình thành và phát triển, giáo dục giữ vai trò chủ đạo:
-

Giáo dục vạch ra phương hướng cho sự hình thành và phát triển

nhân cách. Ví dụ: sinh viên ngành Quản trị kinh doanh sau khi ra trường sẽ có những
phẩm chất và năng lực để làm doanh nhân hoặc nhân viên kinh doanh.
-

Giúp mỗi cá nhân lĩnh hội được nền văn hóa xã hội, lịch sử đã

được tinh lọc và hệ thống hóa. Ví dụ: thầy cơ giảng dạy kiến thức, các kinh nghiệm xã
hội tích lũy và sinh viên tiếp thu.

Trang 3


-

Tác động đến con người một cách hiệu quả nhất dựa trên các

thành tựu nghiên cứu khoa học. Ví dụ: các thành tựu khóa học như lực hấp dẫn, lực
hướng tâm,... hay các máy móc thiết bị có thể mất 10 năm, 20 năm,.. để nghiên cứu ra
những con người có khi chỉ mất vài phút để lĩnh hội được nó.
-

Phát huy tối đa các mặt mạnh của các yếu tố như thể chất, hoàn

cảnh sống, xã hội, đồng thời bù đắp cho những thiếu hụt, hạn chế do những yếu tố trên
gây nên (những người bị khuyết tất, bị bệnh, có hồn cảnh khó khăn,...). Ví dụ: nước ta
xây dựng các ngôi trường dành cho những trẻ em bị khiếm khuyết, chậm phát triển
như Trường giáo dục chuyên biệt Niềm Tin (TPHCM), Trường nuôi dạy trẻ em khuyết
tật Củ Chi (TPHCM),...và các trường năng khiếu như Đại học Kiến trúc TPHCM
(TPHCM), Đại học Mỹ thuật Việt Nam (HN),...
-

Uốn nắn những sai lệch nhân cách, làm cho nó phát triển theo

đúng hướng mong muốn của xã hội ( giáo dục lại). Ví dụ: giáo dục nhân cách cho các
tù nhân để học có nhân cách phù hợp với chuẩn mực xã hội.


Giáo dục giữ vai trị chủ đạo trong hình thành và phát triển nhân
cách.

1.2.2. Hoạt động và nhân cách

Mọi tác động của giáo dục đều là vô nghĩa nếu thiếu hoạt động của cá nhân. Vì
vậy hoạt động của cá nhân là nhân tố quyết định trực tiếp sự hình thành và phát triển
nhân cách. Hoạt động của con người ln có tính mục đích, tính xã hội, được thể hiện
bằng những thao tác và công cụ nhất định. Vì vậy mỗi loại hoạt động đều có những
u cầu ở con người những phẩm chất và năng lực nhất định. Quá trình tham gia hoạt
động làm cho con người hình thành và phát triển những phẩm chất và năng lực đó.
Nhân cách của họ do đó được hình thành và phát triển.
Thơng qua hai qua trình xuất tâm (đối tượng hóa) và nhập tâm (chủ thể hóa)
trong hoạt động, con người, một mặt lĩnh hội được những kinh nghiệm xã hội lịch sử
để hình thành nhân cách, một mặt xuất tâm lực lượng bản chất vào xã hội, “tạo nên sự
đại diện nhân cách” của mình.
 Hoạt động có vai trị quyết định trực tiếp sự hình thành và phát triển nhân
cách.

Trang 4


Ví dụ: Các trường tiểu học ở Hà Nội tổ chức cho học sinh đi tham quan các di
tích lịch sử, danh lam thắng cảnh và thông qua hoạt động này nhà trường đã kích thích
trí tị mị, ham học hỏi, nghiên cứu của học sinh từ đó hình thành nên lòng yêu lịch sử,
yêu đất nước.
1.2.3. Giao tiếp và nhân cách
Giao tiếp là điều kiện tồn tại của xã hội lồi người. Khơng thể có xã hội nếu
khơng có giao tiếp vì xã hội là một cộng đơng người. Đối với cá nhân, giao tiếp là điều
kiện tồn tại và là nhân tố phát triển tâm lý, nhân cách của họ. Trong quá trình giao tiếp,
mỗi cá nhân sẽ được lĩnh hội những kinh nghiệm xã hội – lịch sử để tồn tại và phát
triển.
Không chỉ là điều kiện để phát triển, giao tiếp còn là con đường để hình thành

nhân cách con người. Bằng giao tiếp, con người gia nhập vào các quan hệ xã hội, lĩnh
hội nền văn hóa xã hội, các chuẩn mực xã hội và “tổng hòa các quan hệ xã hội” thành
bản chất con người, đồng thời thơng qua giao tiếp, con người đóng góp tài lự của ,ìm
vào kho tàng chung của nhân loại, của xã hội.
Trong quá trình giao tiếp, con người không chỉ nhận thức được các quan hệ xã
hội mà cịn nhận thức được chính bản thân mình và đối chiếu, so sánh mình với người
khác, với chuẩn mực xã hội, tự đánh giá bản thân để hình thành năng lực tự ý thức –
một phần quan trọng trong nhân cách.
 Giao tiếp là hình thức đặc trưng cho mối quan hệ người – người, một yếu tố
cơ bản của sự hình thành và phát triển tâm lý, ý thức, nhân cách.
Ví dụ: học hỏi, tiếp thu kiến thức kinh doanh thông qua sự giao tiếp của những
người kinh doanh trên bàn nhậu, quán nước,....
1.2.4. Tập thể và nhân cách
Nhân cách con người được hình thành và phát triển trong môi trường xã hội.
Môi trường xã hội cụ thể là các nhóm mà cá nhân là thành viên, đó là: gia đình, làng
xóm, khu phố, cộng đồng, tập thể. Gia đình là nhóm cơ sở, là cái nơi đầu tiên mà nhân
cách con người được hình thành từ ấu thơ. Tiếp theo đó, con người là thành viên của
các nhóm với tên gọi khác nhau: nhóm chính thức, nhóm khơng chính thức, nhóm lớn,
nhóm nhỏ,...Các nhóm có thể đạt tới trình độ phát triển cao nhất được gọi là tập thể.
Trang 5


Tập thể là một nhóm người, một bộ phận xã hội được thống nhất lại theo những mục
đích chung phục tùng các mục đích của xã hội.
Tập thể có vai trị rất lớn trong sự hình thành và phát triển nhân cách. Trước
hết, tập thể giúp con người tìm được chỗ đứng của mình và thõa mãn nhu cầu hoạt
động, giao tiếp. Vì vậy, hoạt động tập thể là điều kiện và là phương thức thể hiện và
hình thành những năng khiếu, năng lực và các phẩm chất trong nhân cách. Tập thể tác
động đến nhân cách qua hoạt động cùng nhau, qua dư luận tập thể, truyền thống tập
thể, bầu khơng khí tâm lý tập thể. Nhờ vậy, nhân cách của mỗi thành viên liên tục

được điều chỉnh, điều khiển cũng như phải thay đổi để phù hợp với tập thể. Ngược lại,
mỗi cá nhân tác động tới cộng đồng, xã hội, tới cá nhân khác thông qua tập thể cảu
mình.
Ví dụ: nếu chúng ta học tập trong một tập thể mà mọi người ln năng động,
tích cực thì chúng ta rất có thể sẽ bị cuốn theo đó và năng động, tích cực hơn.
Tóm lại, bốn yếu tố: giáo dục, hoạt động, giao tiếp và tập thể tác dộng đan xen
vào nhau, bổ sung, hỗ trợ cho nhau trong việc hình thành và phát triển nhân cách.
2. Ảnh hưởng của cha mẹ đến sự phát triển nhân cách của mỗi cá nhân
Như đã biết, nhân cách được hình thành và phát triển trong môi trường xã hội.
Và gia đình chính là mơi trường xã hội đầu tiên mà mỗi cá nhân tiếp xúc. Vì thế, gia
đình giữ vai trị rất quan trọng – là cái nơi để cá nhân phát triển nhân cách. Tùy từng
gia đình và từng cách giáo dục khác nhau mà cha mẹ sẽ ảnh hưởng đến sự phát triển
nhân cách của mỗi cá nhân là khác nhau. Ở đây, ảnh hưởng đó có thể là tích cực hoặc
tiêu cực.
2.1.

Ảnh hưởng tích cực của cha mẹ đến sự phát triển nhân cách của
mỗi cá nhân

2.1.1. Giai đoạn thai nhi
Thai nhi luôn luôn dựa vào nhau thai để lấy chất dinh dưỡng và oxi từ máu của
mẹ, sự biến đổi hc-mơn và các thành phần hóa học khác trong máu mẹ chắc chắn sẽ
ảnh hưởng đến hoạt động sinh lý của thai nhi. Thông thường, trong quá trình phát triển
hệ thần kinh của thai nhi, thần kinh cảm giác phát triển khá sớm. Thai nhi có thể nghe
và cảm giác được sự biến đổi tâm lý của người mẹ và môi trường xung quanh. Do vậy,
Trang 6


trong thời kỳ mang thai, cha mẹ có thể tác động, ảnh hưởng đến thể chất cũng như tinh
thần, trí tuệ của thai nhi. Những yếu tố có thể ảnh hưởng đến thai nhi bao gồm: di

truyền, dinh dưỡng, môi trường sống và tâm trạng thai phụ, thai giáo.
-

Di truyền:

Di truyền là yếu tố đầu tiên nhất có thể ảnh hưởng đến thai nhi. Những phẩm
chất của trẻ một phần chịu ảnh hưởng từ di truyền vì di truyền cung cấp nguyên liệu và
môi trường phát triển cho trẻ. Nhân tố di truyền (gen) mà mà đứa trẻ mang theo khi
sinh ra được thừa hưởng một nữa từ cha và một nữa từ mẹ. Nếu cả cha và mẹ dều
mang gen tốt thì khả năng cao con sinh ra sẽ rất khỏe mạnh, phát triển tốt.
Di truyền cũng ảnh hưởng đến trí tuệ của trẻ. Nếu cha mẹ của đứa trẻ có chỉ số
thơng minh cao thì đứa trẻ sinh ra có khả năng sẽ có ưu thế bẩm sinh về mặt trí tuệ.
-

Dinh dưỡng:

Nguồn dinh dưỡng để một thai nhi có thể phát triển hồn thiện hồn tồn dựa
vào sự cung cấp ở người mẹ. Do đó dinh dưỡng của thai phụ hết sức quan trọng. Nếu
đảm bảo được đầy đủ dinh dưỡng, trẻ sẽ phát triển rất tốt về thể chất cũng như trí tuệ.
Trong thời kỳ mang thai, khoảng tuần 26 của thai kỳ là cao trào đầu tiên với sự
sinh sôi của tế bào não, là khoảng thời gian tốt để não bộ phát triển. Trong giai đoạn
này cần bổ sung nhiều thực phẩm giàu protein để thúc đẩy não bộ phát triển, làm cho
đứa bé thông minh hơn.
-

Môi trường sống và tâm trạng của thai phụ:

Mơi trường và sức khỏe con người có mối quan hệ mật thiết với nhau. Nếu môi
trường sống trong lành, ít ô nhiễm sẽ làm thai phụ cảm thấy thoải mái, vui vẻ hơn.
Ngồi ra, việc có ít áp lực trong môi trường làm việc và được sự quan tâm từ người

chồng sẽ làm cải thiện tâm trạng của thai phụ trong giai đoạn mang thai, từ đó thai nhi
cũng vui vẻ hơn. Đặc biệt, khi tâm trạng thai phụ tốt, ít bị mệt mỏi, lo lắng, sợ hãi sẽ
làm giảm khả năng sảy thai, sinh non.
-

Thai giáo:

Thai giáo là một môn khoa học rất được các bậc cha mẹ quan tâm hiện nay.
Thai giáo cung cấp cho cha mẹ những kiến thức về thai nhi và thai phụ trong giai đoạn
Trang 7


mang thai cũng như những việc cần làm để trẻ có thể phát triển tốt nhất. Do vậy, việc
hiểu được và áp dụng thai giáo tốt sẽ giúp các bậc cha mẹ tạo một môi trường thuận
lợi để con phát triển.
2.1.2. Giai đoạn 0 – 3 tuổi
Đây là giai đoạn đầu tiên trẻ tiếp xúc với môi trường mới khác hẳn với môi
trường trong bụng mẹ bao gồm cả thời tiết, mơi trường sống, âm thanh, ánh sáng,...Do
đó, những tác động của cha mẹ trong giai đoạn này đối với sự phát triển của mẹ là hết
sức quan trọng.
-

Giai đoạn 0 – 1 tuổi:

Hoạt động chủ đạo của trẻ trong giai đoạn này là sự tiếp xúc thể lý với người
lớn. Trong suốt khoảng thời gian chín tháng mười ngày ở trong bụng mẹ, trẻ đã quen
với sự ấm áp và nhịp đập của tim mẹ. Do đó, khi mới chào đời, trẻ rất cần sự ôm ấp,
vuốt ve của người lớn, đặc biệt là mẹ của trẻ. Như vậy, trẻ sẽ thấy an tâm, ấm áp hơn.
Nếu được cha mẹ gần gũi, quan tâm, u thương, chăm sóc thì trẻ sẽ có được những
ảnh hưởng tích cực đến tâm lý và phát triển nhân cách sau này.

-

Giai đoạn 1 – 3 tuổi:

Một năm sau sinh là cao trào thứ hai để trẻ phát triển não bộ. Lúc này, những
thực phẩm giàu protein, vitamin như: thịt, cá, trứng, các loại đậu,...sẽ rất có ích cho trẻ
trong việc phát triển trí tuệ sau này.
Hoạt động chủ đạo ở độ tuổi này của trẻ là khám phá đồ vật. Trẻ đã có đủ hiểu
biết để tò mò với mọi thứ xung và có thể giao tiếp được với người lớn. Cha mẹ cần
cho trẻ chơi nhiều đồ chơi và cho trẻ tiếp xúc nhiều với thế giới bên ngoài. Ở lúc trẻ 18
tháng tuổi cha mẹ nên cho con đi nhà trẻ. Môi trường nhà trẻ sẽ giúp con được tiếp xúc
nhiều hơn, tham gia nhiều hoạt động ở lớp và giao tiếp nhiều hơn. Nó có ích cho việc
phát triển sau này của trẻ.
2.1.3. Giai đoạn tuổi mẫu giáo (3 – 6 tuổi)
Ở giai đoạn này, trẻ đã biết tự mình khám phá thế giới xung quanh, muốn học
hỏi và cũng hay đặt ra những câu hỏi cho người lớn. Những hành động hay lời nói của
cha mẹ và những người xung quanh dù tốt hay xấu cũng sẽ được trẻ học hỏi và làm
theo. Ví dụ, nếu thường xun nhìn thấy cha mẹ có những hành động và lời nói tốt
Trang 8


như: cảm ơn khi người khác giúp đỡ, tặng quà hoặc là xin lỗi khi làm sai thì trẻ sẽ
được ảnh hưởng từ đó và có những hành vi lịch sự, đúng mực như vậy. Ngay trong
thời gian này, nếu được cha mẹ giảng giải, chỉ bảo đúng đắn thì trẻ có thể hình thành
được thế giới quan đúng đắn và các đức tính tốt từ sớm như: trẻ sẽ biết được thế nào là
đúng và thế nào là sai, biết phải lẽ phép với người lớn, khơng được nói tục hay nổi
giận vô cớ,...
Hoạt động chủ đạo ở giai đoạn này của trẻ là “sắm vai theo vai trò”. Ở mơi
trường mầm non, trẻ sẽ có thêm những hiểu biết về thế giới và cách giao tiếp trong tập
thể thơng qua trị chơi “ sắm vai” – sắm vai bác sĩ, y tá, cơng an, lính cứu hỏa,...Cụ thể

là trẻ sẽ biết được những nghề đó là làm gì và có ích gì. Ví dụ: cơng việc của một bác
sĩ là chăm sóc và chữa bệnh cho mọi người, giúp mọi người cũng như bản thân trẻ có
sức khỏe tốt; cơng việc của cơng an là truy tìm và bắt những kẻ xấu gây hại cho mọi
người; cịn cơng việc của lính cứu hỏa là chữa cháy;...Và từ đó cũng có thể tạo nên lý
tưởng sống cho trẻ. Ví dụ: công việc của bác sĩ là chữa bệnh cho mọi người, đó là cơng
việc tốt nên sau này con sẽ làm bác sĩ để chữa bệnh cho cha mẹ và mọi người.
2.1.4. Giai đoạn tuổi học sinh (6 – 17 tuổi)
-

Giai đoạn tiểu học (6 – 11 tuổi):

Giai đoạn này là bước ngoặt trong cuộc đời của trẻ. Trẻ con bắt đầu thay đổi
môi trường học tập, phải hoạt động tư duy và ghi nhớ nhiều hơn. Hoạt động chủ đạo
trong giai đoạn này chính là học tập – trẻ tiếp thu kiến thức mới trên nhiều lĩnh vực từ
ngôn ngữ, lịch sử xã hội, tư duy logic đến đạo đức. Đạo đức là môn rất được chú trọng
trong giáo dục ở bậc tiểu học. Đạo đức ở nhà trường sẽ dạy cho trẻ biết đâu là đúng,
đâu là sai, những việc nên và không nên làm, cách đối xử với ông bà, cha mẹ và những
người xung quanh như thế nào, các giải quyết các tình huống ra sao,...giúp trẻ có
những hành vi phù hợp với chuẩn mực đạo đức của xã hội. Những việc này đều hết
sức quan trọng, giai đoạn này nếu trẻ nhận thức sai sẽ ảnh hưởng đến nhận thức sau
này của trẻ rất lớn. Do đó, cha mẹ cần chú ý và quan tâm đến trẻ nhiều hơn để tránh trẻ
có nhận thức sai lệch. Những mơn như tiếng việt, tốn học, lịch dử, địa lý cũng giúp
trẻ có thêm những kiến thức chung về đất nước chúng ta và hình thành tư duy phân
tích cho trẻ. Việc học ở trường khơng chỉ tiếp thêm kiến thức cho trẻ mà còn giúp trẻ
rèn luyện phẩm chất ý chí như tính tự chủ, tính kỷ luật trong học tập và năng lực xã
Trang 9


hội hóa là khả năng thích ứng và hịa nhập trong mơi trường mới. Ngồi ra, trẻ con
khơng chỉ học tập từ thầy cô và bạn bè trên lớp mà cịn học tập từ chính gia đình của

chúng – cha mẹ chính là tấm gương để trẻ học tập và noi theo.
-

Giao đoạn trung học cơ sở (11 – 15 tuổi)

Đây là giai đoạn có rất nhiều biến động đối với trẻ từ cơ thể cho đến tâm lý.
Trong giai đoạn này, trẻ bắt đầu dậy thì, trưởng thành, trẻ có sự thay đổi lớn về cơ thể
(phát triển nhanh hơn) và tâm lý cũng chịu sự chi phối từ bên trong lẫn bên ngoài. Trẻ
bắt đầu để ý những suy nghĩ và cảm nhận của người khác về mình, sau đó dựa vào
những tiêu chuẩn đánh giá của mọi người mà trẻ xem xét hành vi của mình và thay đổi
cho phù hợp với chuẩn mực của xã hội. Trẻ rất nhạy cảm về những đánh giá của mọi
người trong giai đoạn này. Do đó, sự quan tâm, chia sẻ của cha mẹ là chỗ dựa tinh thần
vững chắc cho trẻ.
Hoạt động chủ đạo trong giai đoạn này của trẻ là học tập và giao tiếp nhóm bạn.
Học tập ở bậc tiểu học chính là bậc nền tảng giúp trẻ có những kiến thức chung nhất
để học tập những kiến thức cao hơn. Thế nên việc học vẫn là hoạt động chủ đạo của trẻ
ở bậc trung học cơ sở. Ngồi học tập thì việc giao tiếp nhóm bạn ở giai đoạn này là
cần thiết đối với trẻ. Việc tiếp xúc nhiều với những nhóm bạn tốt sẽ giúp trẻ có tính cở
mở hơn, biết đồn kết, giúp đỡ nhau và phát triển khả năng thiết lập và duy trì mối
quan hệ với mọi người.Ngồi ra, việc để trẻ bày tỏ ý kiến và thảo luận với cha mẹ
cũng giúp trẻ có tính độc lập và tự tin hơn.
-

Giai đoạn trung học phổ thông ( 15 – 17 tuổi)

Đây là giai đoạn mà tâm lý trẻ đã khá ổn định. Trẻ vẫn tiếp tục hoạt động chủ
đạo đó là học tập và thêm một hoạt động chủ đạo mới là hoạt động xã hội. Ngồi học
tập, cha mẹ cịn cần tạo điều kiện để trẻ tham gia nhiều hoạt động xã hội khơng chỉ do
trường tổ chức mà cịn các hoạt động khác nữa để nâng cao phẩm chất và năng lực. Có
rất nhiều hoạt động xã hội do nhà trường tổ chức như: các cuộc thi âm nhạc, thi hội

họa, hoạt động tình nguyện,... và các hoạt động xã hội bên ngoài nhà trường như: hoạt
động trồng cây, gây rừng; giữ gìn vệ sinh đường phố, nơi ở; hiến máu nhân đạo; từ
thiện cho người nghèo có hồn cảnh khó khăn;...Tham gia nhiều hoạt động xã hội
khơng chỉ tiếp thêm nhiều kiến thức thực tế mà còn giúp trẻ cải thiện kỹ năng giao
tiếp, tự tin bày tỏ ý kiến, quan điểm của mình khi đứng trước đám đơng, có kinh
Trang 10


nghiệm giải quyết các mối quan hệ, tình huống thực tế trong tập thể, xã hội. Ngồi ra,
nó cịn giúp trẻ phát triển các năng lực chung như năng lực học tập, giao tiếp,..thậm
chí là các năng lực riếng như năng lực hội họa, năng lực âm nhạc, năng lực sư
phạm,...Những yếu tố này đều là cần thiết để trẻ bước vào một mơi trường xã hội mới
có nhiều vấn đề phức tạp hơn cần giải quyết.
2.2.

Ảnh hưởng tiêu cực của cha mẹ đến phát triển nhân cách của mỗi
cá nhân

Ngồi những ảnh hưởng tích cực thì cha mẹ cũng có những ảnh hưởng tiêu cực
đến việc phát triển nhân cách của trẻ. Nếu cha mẹ không ý thức được những ảnh
hưởng tiêu cực đó sẽ làm trẻ phát triển những nhân cách không tốt.
2.2.1. Ảnh hưởng của cha mẹ trong giai đoạn thai nhi đến phát triển
nhân cách của mỗi cá nhân
Giai đoạn thai nhi là giai đoạn rất quan trọng đối với thể chất và trí tuệ
của trẻ. Nếu cha mẹ biết cách chăm sóc và ni dưỡng sẽ giúp trẻ phát triển rất
tốt. Những yếu tố ảnh hưởng trong giai đoạn thai nhi bao gồm:
-

Di truyền:


Trẻ sinh ra mang trong mình gen của cha và mẹ. Nếu cha và mẹ đều mang trong
mình những gen xấu thì đứa trẻ sinh ra rất có khả năng sẽ bị khiếm khuyết. Hoặc là
nếu cha bị chứng trí tuệ chậm phát triển thì khả năng mắc bệnh này của con sẽ cao hơn
những đứa trẻ bình thường. Nếu cả cha và mẹ đều bị mắc bệnh này thì tỷ lệ con bị mắc
bệnh sẽ càng cao hơn nữa. Ngoài ra, cha mẹ lớn tuổi sinh con sẽ làm gia tăng tỷ lệ đột
biến gen ở con. Đàn ông trên 40 tuổi sinh con, khả năng con mắc chứng đần độn tăng
rất cao, cứ thêm 5 tuổi, khả năng con mắc bệnh sẽ tăng lên 1%.
-

Dinh dưỡng:

Nguồn dinh dưỡng rất quan trọng cho quá trình thai nhi phát triển. Nếu thai phụ
bị thiếu chất dinh dưỡng rất dễ gây ra sảy thai, đẻ non, thai chết lưu hoặc thai dị tật,
thai nhi phát triển khơng hồn thiện, nhẹ cân, dễ mắc bệnh sau sinh, tỷ lệ tử vong cao,
30% đến độ tuổi đi học có biểu hiện trí tuệ chậm phát triển. Ví dụ: thiếu đạm sẽ làm
cho não trẻ chậm phát triển, thiếu folate (vitamin B9 tự nhiên) trong những tuần đầu
thai kỳ trẻ sẽ bị dị tật ống thần kinh như nứt đốt sống và thiếu một phần não bẩm sinh,
Trang 11


thiết folate ở giai đoạn cuối thai kỳ sẽ dẫn đến thai nhi chậm phát triển, thiết iốt trước
và trong giai đoạn mang thai sẽ khiến trẻ sinh ra bị đần độn,...
Môi trường sống và tâm trạng thai phụ:

-

Sức khỏe con người có liên quan trực tiếp đến mơi trường sống. Môi trường bị
ô nhiễm sẽ gây ra ảnh hưởng xấu đến thai phụ cũng như thai nhi. Môi trường có nhiều
chất hóa học gây ơ nhiễm mơi trường như: chì, thạch tín, benzen, thuốc trừ sâu,...sẽ
làm cho thai nhi chậm phát triển hoặc gây dị tật. Ngoài ra, tia X trong quá trình thai

phụ khám, chữa bệnh cũng là tác nhân gây dị dạng thai nhi. Tâm trạng của thai phụ
không tốt, hay lo lắng, bồn chồn, bất an cũng ảnh hưởng đến tâm trạng thai nhi. Thai
phụ mắc các bệnh do virut gây ra như sởi, thủy đậu,.. hay thai phụ hút thuốc, nghiện
rượu cũng ảnh hưởng đến quá trình phát triển của thai nhi, đặc biệt là trí tuệ.
-

Thai giáo:

Kiến thức thai giáo là những kiến thức dựa trên khoa học giúp cha mẹ nuôi dạy
con ngay khi con ở giai đoạn mang thai. Việc có hiểu biết đúng về thai giáo sẽ giúp
con phát triển tốt hơn. Nhưng ngược lại, nếu tiếp thu những kiến thức sai lệch, không
đúng đắn vào áp dụng vào sẽ gây ra ảnh hưởng xấu đối với cả thai phụ lẫn thai nhi.
2.2.2. Ảnh hưởng của cha mẹ trong vấn đề giáo dục đến phát triển
nhân cách của mỗi cá nhân
-

Cha mẹ khắc khe và kiểm sốt:

Thơng thường, trong những gia đình kinh tế phát triển, cha mẹ thường có tính
độc đoán. Cha mẹ độc đoán là những người rất nghiêm khắc và kiểm soát. Những
người cha mẹ này thường sẽ không quan tâm đến những cảm xúc và suy nghĩ của con
và buột con phải tuân thủ khắc khe các ngun tắc mà mình đặt ra. Con khơng được
phép thắc mắc và thương lượng. Nếu con làm sai sẽ phải chịu những hình phạt nặng nề
thay vì các kỷ luật đúng đắn. Họ cho rằng những điều họ làm đó là đúng đắn và là điểu
tốt nhất đối với con. Nhưng việc quá khắc khe và khiểm soát quá mức đôi khi lại phản
tác dụng. Việc làm này của cha mẹ có thể khiến con mình khơng được tự tin, ít độc lập
hơn và sợ hãi không dám nêu ra ý kiến do chúng phải sống với tâm lý là cha mẹ ln
đúng và mình khơng có quyền được thảo luận với cha mẹ. Chúng đã sống trong khuôn
khổ mà cha mẹ đặt ra, do đó sẽ mất dẫn tính quyết đoán cũng như năng lực sáng tạo
Trang 12



của mình. Đơi lúc, có những cha mẹ sẽ khơng cho con giao lưu với bạn bè và mọi
người vì sợ con sẽ bị ảnh hưởng không tốt từ họ. Nhưng như thế, trẻ không thể nào
phát triển những kỷ năng mà thông qua các hoạt động, giao lưu với mọi người mới có
được như: khả năng thiết lập và duy trì mối quan hệ, khả năng thích ứng và hịa nhập,
tinh thần đồn kết, tương trợ nhau,....
-

Cha mẹ dễ dãi – nuông chiều:

Trong xã hội, chúng ta không thiếu những cha mẹ yêu thương con, sợ con buồn,
sợ con bị tổn thương. Nhưng cái gì q cũng sẽ khơng tốt. Không phải lúc nào cũng dễ
dãi – nuông chiều là tốt cho con. Những cha mẹ dễ dãi – nng chiều thường quan tâm
con cái nhưng ít khi đặt ra các nguyên tắc và kỷ luật cho con, để con thoãi mái làm
những điều mà con muốn. Điều này con thể tốt cho con, nhưng nếu đi quá giới hạn sẽ
đem lại những ảnh hưởng không tốt cho con. Được cha mẹ nng chiều q mức,
muốn cái gì có cái đó, muốn làm gì thì làm đó, lâu dần trẻ sẽ sinh ra tính ương ngạnh,
muốn mọi người phải chiều theo ý mình,.. và rất khó để quản lý hành vi của mình sao
cho đúng đắn. Trẻ sẽ có nhận thức sai về thế giới quan, hình thành các thói quen xấu
và có khi sẽ có những hành vi thiếu lẽ phép, lịch sự với người lớn.
-

Cha mẹ thờ ơ – khơng quan tâm:

Có những cha mẹ thì quan tâm, kiểm sốt con q mức, cũng có những cha mẹ
thì ngược lại lại thờ ơ – khơng quan tâm con.Những bậc cha mẹ này thường không tỏ
ra quan tâm giống như khơng có mặt trong cuộc sống của con cái họ vậy. Họ không
đặt ra nguyên tắc, kỷ luật cũng khơng có sự trợ giúp, hướng dẫn cho con cái, họ để con
cái tự do phát triển. Những điều này thường xuất hiện ở những gia đình mà cha mẹ bận

rộn cơng việc hoặc là có vấn đề cá nhân, sức khỏe. Trẻ con phát triển tốt với sự quam
tâm, chia sẻ và tình yêu thương từ cha mẹ. Nếu thiếu vắng điều đó, những đứa trẻ sẽ
sinh ra cảm giác lạc lõng, cô đơn, không nơi nương tựa. Chúng sẽ tự hỏi tại sao những
đứa trẻ khác được cha mẹ quan tâm, u thương nhưng chúng thì khơng. Từ đó chúng
nghĩ đến cha mẹ cịn khơng u thương mình thì người khác cũng vậy và cảm thấy
mình khơng xứng đáng có được tình u. Khơng ai dạy dỗ và định hướng cho những
đứa trẻ đó phải làm gì và học gì mới đúng. Chúng có thể bắt chước và học hỏi từ
những người khác nhưng những điều đó chưa chắc là đúng từ đạo đức cho đến những
cái khác. Nếu những gì chúng học là sai sẽ khiến tâm lý và nhân cách của chúng có xu
Trang 13


hướng phát triển theo những cái sai đã học. Ví dụ: những đứa trẻ đó khơng biết trộm
cắp, đánh người là sai, nó chỉ thấy người khác làm và làm theo.
2.2.3. Ảnh hưởng của bạo lực gia đình đến phát triển nhân cách của
mỗi cá nhân
Chúng ta đã khơng cịn xa lạ với vấn đề bạo lực học đường. Đây là một vấm đề
nóng ln được mọi người quan tâm và tìm cách giảm thiểu, khắc phục. Bạo lực được
hiểu là “dùng sức mạnh để cưỡng bức, trấn áp hoặc lật đổ”. Bạo lực gia đình là một
dạng thức của bạo lực xã hội, là “hành vi cố ý của thành viên trong gia đình gây tổn
hại hoặc có khả năng gây tổn hại về thể chất, tinh thần, kinh tế đối với các thành viên
khác trong gia đình”(Luật Phịng, chống bạo lực gia đình 2007). Xét về hình thức, có
thể chia bạo lực gia đình thành các loại sau:
-

Bạo lực về thể chất: là hành vi ngược đãi, đánh đập, làm tổn thương
đến sức khỏe, tính mạng của các thành viên khác.

-


Bạo lực về tinh thần: chửi bới, mắng nhiết, khơng nói chuyện trong
thời gian dài,..

-

Bạo lực về kinh tế: là hành vi xâm phạm đến tài sản, của cải của các
thành viên khác.

-

Bạo lực về tình dục: là các hành vi cưỡng ép quan hệ tình dục và
sinh con giữa các thành viên trong gia đình.

Trẻ em rất bị ảnh hưởng tâm lý từ môi trường sống rất nhiều, đặc biệt là mơi
trường gia đình - nơi mà các trẻ tiếp xúc đầu tiên và gắn bó lâu dài. Thế nên, bạo lực
gia đình có ảnh hưởng khơng tốt và rất lớn đối với trẻ về nhiều mặt: tinh thần, thể chất,
tính cách,...Trẻ em sống trong gia đình thường xuyên xảy ra bạo lực thường có tâm lý
lo sợ, chán nản và thần kinh luôn trong trạng thái căn thẳng, cảm giác khơng nhận
được tình u thương từ cha mẹ và bị tổn thương. Việc sống trong gia đình như vậy
thời gia dài sẽ làm cản trở sự phát triển tâm lý và thể chất ở trẻ. Không chỉ cản trở mà
bạo lực gia đình cịn khiến trẻ có những nhận thức và hình thành nên những nhân cách
sai lệch với chuẩn mực xã hội. Cha mẹ chính là tấm gương để con cái noi theo. Thế
nên, thường xuyên phải chứng khiến những hành vi bạo lực của cha mẹ trẻ con sẽ bắt
đầu hình thành nhận thức rằng trong thế giới này khơng có gì là tốt đẹp và hạnh phúc,

Trang 14


những hành vi bạo lực đó của cha mẹ là hồn tồn bình thường, khơng phải là điều sai
trái rồi học theo và hành thành nhân cách bạo lực.

2.2.4. Ảnh hưởng cha mẹ thương con không đồng đều đến phát triển
nhân cách của mỗi cá nhân
Cha mẹ thương con không đồng đều đã khơng cịn xa lạ đối với chúng ta. Nhiều
đứa trẻ vẫn đang sống trong những gia đình có cha mẹ thiên vị. Tuy nhiên, cha mẹ của
chúng có thể vẫn khơng nhận ra điều đó. Những hành động thiên vị vơ thức đó của cha
mẹ tưởng chừng chỉ là những điều nhỏ nhặt trong cuộc sống nhưng nó ảnh hưởng rất
lớn đến tâm lý của con. Trên thực tế, phần lớn cha mẹ có xu hướng thương một đứa
con nào đó nhiều hơn. Đó có thể là đứa con đầu lòng, đứa con bé bỏng ra đời muộn
nhất, cũng có thể là những đứa học giỏi hơn. Cha mẹ đơi lúc thường khơng biết là
mình đang thiên vị con vì những hành động khiến con cảm thấy rằng mình khơng được
u thương khơng phải là điều gì to tác mà chỉ là những câu nói, những hành động nhỏ
nhặt thường ngày của cha mẹ chúng. Đôi khi chỉ một câu nói như “sao con khơng nhìn
anh/chị con mà học theo”,”sao con không nhường cho em chứ”,...sẽ khiến đứa trẻ cảm
thấy mình làm điều gì cũng khơng vừa mắt cha mẹ. Hay những hành động nhỏ như:
được chia phần bánh nhỏ hơn, thường xuyên bị cha mẹ la nhiều hơn, cha mẹ thường
dành lời khen cho những đứa con khác hơn mình,...cũng khiến trẻ cảm thấy khơng
được u thương.
Chỉ những lời nói, hành động nhỏ như thế thơi những ảnh hưởng rất lớn đến
tâm lý và nhân cách của trẻ. Trẻ con thường rất nhạy cảm, đôi lúc chúng làm quá vấn
đề lên. Chúng muốn được yêu thương và thường hay có tâm lý so bì với những đứa trẻ
khác trong nhà. Những đứa trẻ như vậy, khi cảm nhận được cha mẹ thương mình ít
hơn những đứa trẻ khác chúng thường cảm thấy cô đơn, lạc lõng, uất ức. Thời gian
dài, tâm lý của chúng có thể bị thay đổi theo hướng tiêu cực, có thể bị trầm cảm, tâm
lý vặn vẹo. Chúng sống khép mình hơn và cũng không khát khao sự yêu thương từ cha
mẹ nữa. Trường hợp xấu hơn, chúng sẽ sinh ra tâm lý thù ghét với mọi người trong gia
đình. Mọi người đều được cha mẹ yêu thương, lo lắng, chăm sóc chỉ có mình là bị lãng
qn, bỏ rơi. Thực tế, đã có nhiều đứa trẻ vì sống trong những gia đình như vậy mà
sinh ra tâm lý và hành động trái với pháp luật đối với người thân trong gia đình. Ngồi
ra, việc đối xử thiên vị của cha mẹ khơng chỉ ảnh hưởng xấu đối với đứa trẻ ít được
Trang 15



yêu thương hơn mà đối với đứa trẻ được yêu thương nhiều hơn cũng vậy. Chúng sẽ
dần sinh ra cảm giác bản thân “ưu việt” và bản thân được yêu thương nhiều hơn là
điều dĩ nhiên. Đồng thời, sự bảo bọc, chở che quá kĩ càng của cha mẹ sẽ khiến chúng
bị hụt hẫn và khó tự lập khi bước chân vào xã hội.
Ngồi những điều đã được phân tích ở trên thì vẫn cịn rất nhiều yếu tố ảnh
hưởng đến sự phát triển tâm lí của trẻ như: những gia đình có cha mẹ ly hơn, trẻ bị
mất cha (mẹ), cha mẹ ngược đãi con, mẹ bị mất căn bằng tình cảm, cha gia trưởng,
phong kiến,...Những yếu tố đó đểu có thể ảnh hưởng đến tâm lý và nhân cách con. Để
con có thể phát triển được tốt nhất, cha mẹ nên tìm hiểu kỹ càng mọi thứ trước khi
quyết định sinh con.
III.

KẾT LUẬN

Tóm lại, bài tiểu luận “Ảnh hưởng của cha mẹ đến sự phát triển nhân cách
của mỗi cá nhân” trên đã cho thấy tầm quan trọng của người cha, người mẹ đối với
con mình trong việc hình thành nhân cách của chúng. Cha mẹ có cách quan tâm, chăm
sóc, giáo dục đúng cách thì nhân cách của trẻ sẽ phát triển theo hướng tốt. Ngược lại
nếu cha mẹ giáo dục sai cách hay trẻ phải sống trong bạo lực gia đình, bị phân biệt đối
xử với các thành viên khác thì làm cho nhân cách của trẻ bị phát triển theo hướng xấu,
tiêu cực. Một đứa trẻ khơng thể nào hồn tồn quyết định nhân cách của mình sẽ phát
triển như thế nào và cũng khơng thể lựa chọn cha mẹ sinh ra chúng. Không ai muốn
mình sinh ra trong một gia đình khơng tốt đẹp, không được cha mẹ quan tâm, yêu
thương và đối xử tốt. Từ xưa đến nay, đã có rất nhiều gia đình chỉ do cha mẹ mà con
cái có những suy nghĩ và hành vi sai trái khơng nên có ảnh hưởng đến cả tương lai sau
này. Vì thế, cha mẹ nên có trách nhiệm với con của mình,nên tìm hiểu kỹ càng những
thứ có thể ảnh hưởng đến con, chuẩn bị hết tâm lý và những thứ cần thiết để trở thành
một người cha, người mẹ tốt trước khi đón chào một thành viên mới trong gia đình.

Hãy cho trẻ những cảm nhận tốt nhất và một gia đình thật hạnh phúc.

Trang 16


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. GS.TS. Nguyễn Quan Uẩn & TS. Nguyễn Văn Lũy & TS. Đinh Văn Vang
(Eds), Giáo trình tâm lý học đại cương.
2. Vương Kỳ (2012), Bách khoa thai giáo tập 1: Giáo dục thai nhi và sinh con ưu
việt, Nhà xuất bản: Thời Đại, Trung Quốc.
3. Các giai đoạn phát triển tâm lý của trẻ từ sơ sinh đến vị thành niên, Vinmac
International Hospital, ,15/12/2021.
4. Phòng ngừa thiếu dinh dưỡng trong thai kỳ, Vinmac International Hospital,
,15/12/2021.
5. Mai Linh (28/06/2021), Cách giáo dục của cha mẹ ảnh hưởng đến con trẻ như
thế nào?, VTV Báo điện tử, , 15/12/2021.
6. Đặng Thị Huyền (05/09/2021), Phong cách giáo dục của cha mẹ ảnh hưởng như
thế nào đến sự phát triển của trẻ ?, Luật Minh Khuê, ,
15/12/2021.
7. (27/07/2021), Tuyên truyền về vấn đề bạo lực gia đình, Trang Thơng tin điện tử
xã Thạch Trị - huyện Thạch Hà, , 15/12/2021.
8. Hậu quả của cha mẹ thương con không đồng đều, Gia sư Nhật Minh,
, 15/12/2021.

Trang 17



×