Tải bản đầy đủ (.doc) (56 trang)

SÁNG KIẾN một số biện pháp giúp học sinh lớp 5 phân biệt từ đồng âm từ nhiều nghĩa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (233.08 KB, 56 trang )

SÁNG KIẾN- Một số biện pháp giúp học sinh lớp 5 phân
biệt từ đồng âm từ nhiều nghĩa

THÔNG TIN CHUNG VỀ SÁNG KIẾN
1. Tên sáng kiến: Một số biện pháp giúp học sinh lớp 5 phân
biệt từ đồng âm, từ nhiều nghĩa.
2. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: Phân môn Luyện từ và câu
lớp 5.
3. Tác giả:
Họ và tên: Đoàn Hải Hà

Nam

(nữ): Nữ
Ngày/ tháng/ năm sinh: 25/03/1990
Trình độ chun mơn: Đại học
Chức vụ, đơn vị công tác: Giáo viên trường Tiểu học Tân
Trường II
Điện thoại: 0982311446
4. Đồng tác giả: Không
5. Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến: Không
6. Đơn vị áp dụng sáng kiến:
Đợn vị: Trường Tiểu học Tân Trường II.
1


Địa chỉ: Thôn Quý Dương, xã Tân Trường, huyện Cẩm
Giàng, tỉnh Hải Dương.
Điện thoại: 03203 785 755
7. Các điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến: Lớp học,
tranh ảnh, bảng phụ…


8. Thời gian áp dụng sáng kiến: Tháng 10 năm học 20172018

TÁC GIẢ

XÁC NHẬN CỦA ĐƠN VỊ ÁP
DỤNG SÁNG KIẾN

Đồn Hải Hà
XÁC NHẬN CỦA PHỊNG GD&ĐT

TĨM TẮT SÁNG KIẾN
1.Hồn cảnh nảy sinh sáng kiến

2


Trong chương trình mơn Tiếng Việt lớp 5, nội dung nghĩa của
từ được tập trung biên soạn có hệ thống trong phần Luyện từ
và câu. Một số năm trong quá trình dạy học lớp 5, tơi nhận thấy
các em học sinh dễ dàng tìm được các từ trái nghĩa, việc tìm
các từ đồng nghĩa cũng khơng mấy khó khăn, tuy nhiên khi học
xong từ đồng âm và từ nhiều nghĩa thì các em bắt đầu có sự
nhầm lẫn và khả năng phân biệt từ đồng âm, từ nhiều nghĩa và
khả năng phân biệt nghĩa gốc, nghĩa chuyển của từ nhiều
nghĩa cũng không được như mong đợi của giáo viên, kể cả học
sinh hồn thành tốt đơi khi cũng cịn thiếu chính xác. Trăn trở
về vấn đề này, trong năm học 2017-2018 tôi đã mạnh dạn áp
dụng sáng kiến ‘‘Một số biện pháp giúp học sinh lớp 5 phân
biệt từ đồng âm, từ nhiều nghĩa”.
2. Điều kiện, thời gian, đối tượng áp dụng sáng kiến

- Điều kiện: Lớp học, tranh ảnh, bảng phụ….
- Thời gian: Tháng 10 năm học 2017- 2018
- Đối tượng áp dụng sáng kiến: Học sinh lớp 5
3.Nội dung sáng kiến:
Ở sáng kiến này, tôi đưa ra thực trạng của học sinh trong
quá trình học từ đồng âm, từ nhiều nghĩa. Qua đó, người đọc
3


sẽ thấy được nội dung dạy từ đồng âm và từ nhiều nghĩa ở lớp
5; những khó khăn mà học sinh thường gặp phải khi học từ
đồng âm, từ nhiều nghĩa và nguyên nhân của những khó khăn
đó. Từ đó, đưa ra các biện pháp tích cực góp phần nâng cao
hiệu quả dạy và học về từ đồng âm và từ nhiều nghĩa cho học
sinh lớp 5.
- Nắm vững các kiến thức về từ đồng âm, từ nhiều nghĩa.
- Nắm vững phương pháp dạy từ đồng âm, từ nhiều nghĩa.
- Dựa vào yếu tố từ loại để giúp học sinh phân biệt từ đồng âm,
từ nhiều nghĩa.
- Tìm ra dấu hiệu chung nhất để phân biệt từ đồng âm, từ nhiều
nghĩa.
- Hướng dẫn học sinh đặt từ vào văn cảnh để hiểu đúng nghĩa
của từ.
4. Khẳng định giá trị, kết quả đạt được của sáng kiến:
Qua thời gian áp dụng sáng kiến chất lượng học tập phân
môn Luyện từ và câu đã được nâng lên trông thấy. Cụ thể trong
bài làm của các em đã thể hiện hiểu và phân biệt được từ đồng
âm, từ nhiều nghĩa, xác định đúng nghĩa gốc, nghĩa chuyển của
từ một cách rõ ràng, biết sử dụng từ trong đặt câu và viết văn.
4



Bên cạnh đó việc trang bị cho các em những kiến thức vững
chắc về vốn từ vựng sẽ giúp cho các em thêm tự tin hơn trong
khi giao tiếp với mọi người trong nhà trường cũng như trong
cuộc sống; bồi dưỡng cho các em lịng u thích mơn Tiếng
Việt, sự phong phú, đa dạng của tiếng Việt.
5.Đề xuất kiến nghị.
- Với giáo viên : Giáo viên phải là người nắm vững chương
trình, kiến thức, kĩ năng tiếng Việt, có vốn sống phong phú,
thực sự yêu nghề, có tâm huyết với nghề, thường xuyên học
hỏi trau dồi kiến thức, nghiên cứu tài liệu, sách báo... giao lưu
học hỏi đồng nghiệp có nhiều kinh nghiệm đề ngày càng làm
phong phú thêm vốn kiến thức, kĩ năng cho mình, có phương
pháp nghiên cứu bài, soạn bài, thiết kế bài học một cách khoa
học, sáng tạo, linh hoạt, tạo sự giao tiếp cởi mở, thân thiện với
học sinh, mẫu mực trong lời nói, việc làm, thái độ, cử chỉ, có
tâm hồn trong sáng lành mạnh để học sinh noi theo. Giáo viên
là người khơi dậy niềm say mê hứng thú của học sinh với phân
mơn Luyện từ và câu nói riêng, mơn Tiếng Việt nói chung. Ln
phối hợp với gia đình để tạo điều kiện tốt nhất cho các em tham
gia học tập.
5


- Với Nhà trường :
+ Tổ chức chuyên đề về phương pháp dạy phân môn Luyện từ
và câu đối với từ đồng âm, từ nhiều nghĩa.
+ Cung cấp thêm tài liệu tham khảo và thiết bị dạy học phù hợp
nhằm giúp giáo viên nâng cao chất lượng các tiết học này.

+ Thành lập Câu lạc bộ Em yêu Tiếng Việt để tạo cơ hội cho
các em giao tiếp, củng cố và mở rộng từ, phát triển vốn từ để
sử dụng có hiệu quả trong học tập tạo sự hứng thú say mê học,
hiểu tiếng mẹ đẻ.
- Với học sinh : Có ý thức học tập, nghiên cứu bài học cũng
như có thời gian biểu hợp lý.
MƠ TẢ SÁNG KIẾN
1.HỒN CẢNH NẢY SINH SÁNG KIẾN
Môn Tiếng Việt cũng như các bộ mơn khác ở Tiểu học có
nhiệm vụ cung cấp cho học sinh bốn kĩ năng cơ bản đó là:
“Nghe, nói, đọc, viết” để học tập và giao tiếp trong các môi
trường hoạt động của lứa tuổi. Thông qua việc dạy và học
Tiếng Việt, góp phần rèn luyện các thao tác tư duy, cung cấp
cho học sinh những kiến thức sơ giản về tiếng Việt và những
hiểu biết về xã hội. Ngồi ra mơn Tiếng Việt cịn bồi dưỡng cho
6


học sinh tình u tiếng Việt và hình thành thói quen giữ gìn sự
trong sáng, giàu đẹp của tiếng Việt, góp phần hình thành nhân
cách con người Việt Nam.
Trong chương trình mơn Tiếng Việt lớp 5, nội dung nghĩa của
từ được tập trung biên soạn có hệ thống trong phần Luyện từ
và câu. Nhiều năm liền trong quá trình dạy học, tôi thường
nhận thấy các em học sinh dễ dàng tìm được các từ trái nghĩa,
việc tìm các từ đồng nghĩa cũng khơng mấy khó khăn, tuy
nhiên khi học xong từ đồng âm và từ nhiều nghĩa thì các em
bắt đầu có sự nhầm lẫn và khả năng phân biệt từ đồng âm và
từ nhiều nghĩa, tìm nghĩa gốc và nghĩa chuyển của từ nhiều
nghĩa cũng không được như mong đợi của cơ giáo, kể cả học

sinh có năng khiếu đơi khi cũng cịn thiếu chính xác. Vì thế, tơi
đã chọn sáng kiến kinh nghiệm ‘‘Một số biện pháp giúp học
sinh lớp 5 phân biệt từ đồng âm, từ nhiều nghĩa”. Sáng kiến
này hướng dẫn học sinh phân biệt từ đồng âm với từ nhiều
nghĩa, phân biệt nghĩa gốc và nghĩa chuyển trong từ nhiều
nghĩa, góp một một phần nhỏ trong việc mở rộng vốn hiểu biết
về cuộc sống, con người, bồi dưỡng tư tưởng, tình cảm nhân

7


cách cho học sinh đáp ứng yêu cầu phát triển của con người
Việt Nam trong thế kỉ 21 - thế kỉ của thơng tin, tri thức và trí tuệ.
2. THỰC TRẠNG HỌC SINH TRONG QUÁ TRÌNH HỌC TỪ
ĐỒNG ÂM VÀ TỪ NHIỀU NGHĨA
2.1. Nội dung dạy từ đồng âm, từ nhiều nghĩa ở lớp 5:
* Từ đồng âm: Từ đồng âm được dạy trong 1 tiết ở tuần 5,
các em được học khái niềm về từ đồng âm. Các bài tập về từ
đồng âm chủ yếu giúp học sinh phân biệt nghĩa các từ đồng
âm, đặt câu phân biệt các từ đồng âm, bài luyện tập về từ đồng
âm đã được giảm tải, vì thế thời lượng cịn ít.
* Từ nhiều nghĩa: Từ nhiều nghĩa được dạy trong 3 tiết ở
tuần 7 và tuần 8. Học sinh được học khái niệm về từ nhiều
nghĩa. Các bài tập chủ yếu là phân biệt các từ mang nghĩa gốc
và nghĩa chuyển, đặt câu phân biệt nghĩa, nêu các nét nghĩa
khác nhau của một từ. Dạng bài tập về phân biệt từ đồng âm,
từ nhiều nghĩa gần như khơng có trong khi đó khả năng tư duy
trừu tượng của các em còn hạn chế.
2.2. Thực trạng của việc dạy và học từ đồng âm, từ nhiều
nghĩa.

* Việc dạy từ đồng âm, từ nhiều nghĩa của giáo viên:
8


Trong quá trình dạy học các bài học này, mỗi giáo viên đều
làm đúng vai trò hướng dẫn, tổ chức cho học sinh. Tuy nhiên
do thời lượng 1 tiết học có hạn nên giáo viên chưa lồng ghép
liên hệ phân biệt từ đồng âm và từ nhiều nghĩa trong các bài
học, chưa khắc sâu cho học sinh cách phân biệt nghĩa gốc,
nghĩa chuyển của từ nhiều nghĩa. Do đó, sau các bài học đó
học sinh chỉ nắm được kiến thức về nội dung học một cách
tách bạch. Đôi khi giảng dạy nội dung này, giáo viên cịn khó
khăn khi lấy thêm một số ví dụ cụ thể ngồi SGK để minh hoạ
phân biệt từ đồng âm và từ nhiều nghĩa.
* Về việc học từ đồng âm, từ nhiều nghĩa của học sinh:
Trong thực tế, học sinh làm các bài tập về từ đồng âm nhanh
và ít sai hơn khi học các bài tập về từ nhiều nghĩa, cũng có thể
do từ nhiều nghĩa trừu tượng hơn. Đặc biệt khi cho học sinh
phân biệt và tìm các từ có quan hệ đồng âm, các nghĩa của từ
nhiều nghĩa trong một số văn cảnh thì đa số học sinh lúng túng
và làm bài chưa đạt yêu cầu. Ban đầu, khi học từng bài về từ
đồng âm, từ nhiều nghĩa thì đa phần các em làm được bài,
song khi làm các bài tập lồng ghép để phân biệt từ đồng âm, từ
nhiều nghĩa thì chất lượng bài làm yếu hơn.
9


2.3. Những khó khăn mà học sinh thường gặp phải
Hầu hết học sinh lớp 5 khi học các tiết luyện từ và câu về từ
đồng âm, từ nhiều nghĩa đều gặp rất nhiều khó khăn. Cụ thể là:

- Khó khăn trong việc giải nghĩa các từ: học sinh còn giải nghĩa
từ sai, lúng túng và còn lủng củng.
- Học sinh tiếp thu chậm còn lẫn lộn giữa từ đồng âm và từ
nhiều nghĩa.
- Phân biệt nghĩa gốc và một số nghĩa chuyển của từ: học sinh
còn làm sai đến 40- 45%.
- Đặt câu có sử dụng từ đồng âm, từ nhiều nghĩa: chưa chính
xác, chưa hay, chưa đúng với nét nghĩa yêu cầu.
2.4. Nguyên nhân của những khó khăn:
* Lý do thứ nhất: Từ đồng âm và từ nhiều nghĩa đều có đặc
điểm, hình thức giống nhau, đọc giống nhau, viết cũng giống
nhau, chỉ khác nhau về ý nghĩa.
Ví dụ 1: Từ đồng âm “bàn”(1) trong “cái bàn” và “bàn”(2)
trong “bàn cơng việc” xét về hình thức ngữ âm thì hồn tồn
giống nhau cịn nghĩa thì hồn tồn khác nhau: “bàn” (1) là
danh từ chỉ một đồ vật có mặt phẳng, chân đứng để đồ đạc
hoặc làm việc, “bàn” (2) là động từ chỉ sự trao đổi ý kiến.
10


Ví dụ 2: Từ nhiều nghĩa: “bàn” (1) trong “cái bàn” và “bàn”(2)
trong “bàn phím”. Hai từ “bàn” này, về hình thức ngữ âm hồn
tồn giống nhau cịn nghĩa thì “bàn” (1) là danh từ chỉ một đồ
vật có mặt phẳng, có chân dùng để đi kèm với ghế làm đồ nội
thất; “bàn”(2) là bộ phận tập hợp các phím trong một số loại
đàn hoặc máy tính. “bàn” trong “cái bàn” và “bàn” trong “bàn
công việc” đều mang nghĩa gốc, VD2 “bàn” trong “cái bàn”
mang nghĩa gốc còn “bàn” trong “bàn phím” mang nghĩa
chuyển.
* Lý do thứ hai: Trong chương trình Tiếng Việt 5 chưa có

nhiều dạng bài tập phối hợp cả hai kiến thức về từ đồng âm và
từ nhiều nghĩa để học sinh rèn kĩ năng phân biệt.
* Lý do thứ ba: HS còn chưa phân biệt nghĩa gốc và nghĩa
chuyển của từ nhiều nghĩa do không hiểu quy luật chuyển
nghĩa của từ và không nhận ra mối liên hệ ý nghĩa giữa nghĩa
gốc và nghĩa chuyển của từ nhiều nghĩa.
3. CÁC BIỆN PHÁP GIÚP HỌC SINH PHÂN BIỆT TỪ ĐỒNG
ÂM VÀ TỪ NHIỀU NGHĨA
3.1. Coi trọng việc dạy các tiết học về từ đồng âm, từ nhiều
nghĩa.
11


3.1.1. Nắm vững kiến thức về từ đồng âm, từ nhiều nghĩa:
* Từ đồng âm:
- HS tìm hiểu nghĩa của các từ:
Câu trong Ơng ngồi câu cá: Bắt cá, tơm, … bằng móc sắt
nhỏ (thường có mồi) buộc ở đầu một sợi dây.
Câu trong Đoạn văn này có năm câu: Đơn vị của lời nói diễn
đạt một ý trọn vẹn, trên văn bản được mở đầu bằng một chữ
cái viết hoa và kết thúc bằng một dấu ngắt câu.
- HS rút ra khái niệm: Từ đồng âm là những từ giống nhau về
âm nhưng khác hẳn nhau về nghĩa (SGK Tiếng Việt 5 - tập 1 trang 51)
- GV đưa thêm một số ví dụ cho HS tìm hiểu:
+ Bị trong kiến bò: Chỉ hoạt động di chuyển ở tư thế áp
bụng xuống nền bằng cử động của toàn thân hoặc những cái
chân ngắn.
+ Bị trong trâu bị: Chỉ lồi động vật nhai lại, sừng ngắn,
lơng thường có màu vàng, được nuôi để lấy sức kéo, thịt, sữa,


+ Đầm trong đầm sen: Chỉ khoảng trũng to và sâu giữa
đồng để giữ nước.
12


+ Đầm trong cái đầm đất: Chỉ vật nặng, có cán dùng để nện
đất cho chặt.
- Đối với giáo viên tiểu học, cần chú ý thêm từ đồng âm
được nói tới trong sách giáo khoa Tiếng Việt 5 gồm:
+ Từ đồng âm ngẫu nhiên (nghĩa là có 2 hay hơn 2 từ có
hình thức ngữ âm ngẫu nhiên giống nhau, trùng nhau nhưng
giữa chúng khơng có mối quan hệ nào, chúng vốn là những từ
hoàn toàn khác nhau) như trường hợp câu trong câu cá và
câu trong Đoạn văn có 5 câu là từ đồng âm ngẫu nhiên.
* Từ nhiều nghĩa:
Từ nhiều nghĩa là từ có một nghĩa gốc và một hay một số
nghĩa chuyển. Các nghĩa của từ nhiều nghĩa bao giờ cũng có
mối liên hệ với nhau. (SGK Tiếng Việt 5 - Tập 1 - Trang 67)
Ví dụ:
+ Đôi mắt của bé mở to (bộ phận quan sát của con người
mọc ở trên mặt)
+ Từ mắt trong câu Quả na mở mắt là nghĩa chuyển.
Đối với giáo viên có thể hiểu: Một từ có thể gọi tên nhiều sự
vật hiện tượng, biểu thị nhiều khái niệm (khái niệm về sự vật,
hiện tượng) trong thực tế khách quan thì từ ấy được gọi là từ
13


nhiều nghĩa. Các nghĩa trong từ nhiều nghĩa có mối liên hệ mật
thiết với nhau.

Muốn hiểu rõ hơn khái niệm về từ nhiều nghĩa ta có thể so
sánh từ nhiều nghĩa với từ một nghĩa. Từ nào là tên gọi của
một sự vật, hiện tượng biểu đạt một khái niệm thì từ ấy chỉ có
một nghĩa. Từ nào là tên gọi của nhiều sự vật, hiện tượng, biểu
thị nhiều khái niệm thì từ ấy là từ nhiều nghĩa.
Nhờ vào quan hệ liên tưởng tương đồng (ẩn dụ) và tương
cận (hoán dụ) người ta liên tưởng từ sự vật này đến sự vật kia
trên những đặc điểm, hình dáng, tính chất giống nhau hay gần
nhau giữa các sự vật ấy. Từ chỗ gọi tên sự vật, tính chất, hành
động này (nghĩa gốc) chuyển sang gọi tên sự vật, tính chất,
hành động khác (nghĩa chuyển), quan hệ nhiều nghĩa của từ
nảy sinh từ đó.
Ví dụ: Chín:
+ Gốc: Chỉ quả đã qua một quá trình phát triển, đạt đến độ
phát triển cao nhất, hoàn thiện nhất, độ mềm nhất định, màu
sắc đặc trưng.

14


+ Chuyển 1: Chỉ quá trình vận động, quá trình rèn luyện từ
đó, khi đạt đến sự phát triển cao nhất. (Suy nghĩ chín, tình thế
cách mạng đã chín, tài năng đã chín).
+ Chuyển 2: Sự thay đổi màu sắc nước da. (ngượng chín
cả mặt).
+ Chuyển 3: Trải qua một q trình đã đạt đến độ mềm.
(cam chín).
3.1.2. Nắm vững phương pháp dạy từ đồng âm và từ nhiều
nghĩa
* Bài học về từ đồng âm và từ nhiều nghĩa là loại bài khái

niệm. Giáo viên tổ chức các hình thức dạy học để giải quyết
các bài tập ở phần nhận xét, giúp học sinh phát hiện các hiện
tượng về từ ở các bài tập từ đó rút ra được những kiến thức về
từ đồng âm và từ nhiều nghĩa. Bước tiếp theo giáo viên tổng
hợp và kiến thức như nội dung phần ghi nhớ. Đến đây, GV có
thể cho các em lấy ví dụ về hiện tượng đồng âm, nhiều nghĩa
giúp các em nắm sâu và chắc phần ghi nhớ. Chuyển sang phần
luyện tập, giáo viên tiếp tục tổ chức các hình thức dạy học để
giúp học sinh giải quyết các bài tập phần luyện tập. Sau mỗi
bài tập giáo viên lại củng cố, khắc sâu kiến thức liên quan đến
15


nội dung bài học, liên hệ thực tế và liên hệ tới các kiến thức đã
học của phân môn Luyện từ và câu nói riêng và tất cả các mơn
học nói chung.
Trong q trình dạy học các bài về từ đồng âm, từ nhiều
nghĩa, giáo viên cần sử dụng đồ dùng dạy học, tranh ảnh minh
hoạ nhằm giúp học sinh dễ dàng phân biệt nghĩa của từ.
Tóm lại khi dạy khái niệm về từ đồng âm và từ nhiều nghĩa,
cần thực hiện theo quy trình các bước.
- Cho học sinh nhận biết ngữ liệu để phát hiện những dấu
hiệu bản chất của từ đồng âm và từ nhiều nghĩa.
- Học sinh rút ra các đặc điểm của từ đồng âm, từ nhiều
nghĩa và nếu định nghĩa
- Luyện tập để nắm khái niệm trong ngữ liệu mới
Việc dạy hai bài học trên cũng tuân theo nguyên tắc chung
khi dạy luyện từ và câu và vận dụng các phương pháp, hình
thức dạy học như:
- Phương pháp hỏi đáp


- Hình thức học cá

nhân
- Phương pháp giảng giải

- Thảo luận nhóm

- Phương pháp trực quan

- Tổ chức trò chơi
16


- Phương pháp luyện tập thực hành
* Đối với các tiết dạy luyện tập về từ đồng âm, từ nhiều
nghĩa, giáo viên chủ yếu thông qua việc tổ chức các hình thức
dạy học để giúp học sinh củng cố, nắm vứng kiến thức, nhận
diện, đặt câu, xác định đúng nghĩa của từ; giúp học sinh hiểu
đúng nghĩa của các từ phát âm giống nhau
Điều đặc biệt của từ đồng âm và từ nhiều nghĩa là phát âm
giống nhau (nói đọc giống nhau viết cũng giống nhau). Ta thấy
rõ ràng là “đường” (1) trong “đường rất ngọt”, “đường” (2) trong
“đường dây điện thoại” và “đường” (3) trong “ngoài đường xe
cộ đi lại nhộn nhịp” đều phát âm, viết giống nhau. Vậy mà
“đường” (1) với “đường” (2) và “đường” (1) với “đường” (3) lại
có quan hệ đồng âm, cịn “đường” (2) với “đường” (3) lại có
quan hệ nhiều nghĩa.
Để có được kết luận trên đây, trước hết học sinh phải hiểu rõ
nghĩa của các từ đường (1), đường (2), đường (3) là gì?

Đường (1): (đường rất ngọt): chỉ một chất có vị ngọt
Đường (2): (đường dây điện thoại): chỉ dây dẫn phục vụ cho
việc thông tin liên lạc.

17


Đường (3): (ngoài đường, xe cộ đi lại nhộn nhịp) chỉ lối đi
cho các phương tiện, người, động vật.
Để có thể giải nghĩa chính xác các từ “đường” như trên, các
em phải có vốn từ phong phú, có vốn sống. Vì vậy trong dạy
học tất cả các mơn, giáo viên ln chú trọng trau dồi, tích lũy
vốn từ cho học sinh, nhắc học sinh có ý thức tích lũy cho mình
vốn sống và u cầu mỗi học sinh phải có được một cuốn từ
điển Tiếng Việt, biết cách tra từ điển Tiếng Việt đồng thời nắm
được một số biện pháp giải nghĩa từ.
Tiếp đó học sinh căn cứ vào định nghĩa, khái niệm về từ
đồng âm, từ nhiều nghĩa để xác định mối quan hệ giữa các từ
“đường”.
Xét nghĩa của 3 từ “đường” trên ta thấy:
Từ đường (1) và từ đường (2) có nghĩa hồn tồn khác nhau
. Vậy kết luận hai từ đường này có quan hệ đồng âm. Tương tự
như trên từ đường (1) và từ đường (3) cũng có mối quan hệ
đồng âm.
Từ đường (2) và từ đường (3) có mối quan hệ mật thiết về
nghĩa trên cơ sở của từ đường (3) chỉ lối đi, ta suy ra nghĩa của
từ đường (2) (truyền đi) theo vệt dài (dây dẫn). Như vậy từ
18



đường (3) là nghĩa gốc, còn từ đường (2) là nghĩa chuyển. Vậy
kết luận từ đường (2) và từ đường (3) có quan hệ nhiều nghĩa
với nhau.
3.2. Dựa vào yếu tố từ loại để giúp học sinh phân biệt được
từ đồng âm và từ nhiều nghĩa.
Biện pháp này thực ra ít khi tôi vận dụng bởi nếu học sinh đã
hiểu đúng nghĩa của từ, thuộc được nhớ thì khơng cần thiết
phải dùng đến cách dựa vào yếu tố từ loại, tuy nhiên đối với
một số học sinh chưa hoàn thành, giáo viên có thể sử dụng.
Nếu trong thực tế hàng ngày học sinh có thể bắt gặp hiện
tượng một từ nào đó phát âm gần nhau nhưng xét về từ loại
khác nhau thì kết luận đó là hiện tượng đồng âm. Chẳng hạn
khi chơi đùa học sinh hò reo đồng thành để cổ vũ cho một học
sinh được mệnh danh là “cụ cố” vì em này nhỏ, yếu:
“cố lên cụ cố….ơi !”
“Cố” thứ nhất là tính từ, “cố” thứ 2 là danh từ. Đây là hiện
tượng đồng âm dễ nhận diện.
Tùy trường hợp những từ phát âm giống nhau nhưng cùng
từ loại (cùng loại danh từ, động từ, tính từ) thì phải vận dụng
biện pháp giải nghĩa từ trong văn cảnh đồng thời xét xem các
19


từ đó có mối quan hệ về nghĩa hay khơng để tránh nhầm lẫn
những từ đồng âm với từ nhiều nghĩa hoặc quan hệ đồng nghĩa
nếu có. Trong trường hợp này thông thường ta dựa vào ngữ
cảnh để nhận biết nghĩa của từ đồng âm, nói cách khác là dựa
vào các trung đi với nó trong câu. Ngữ cảnh có tác dụng hiện
thực hóa nghĩa của từ và giúp con người sử dụng ngôn ngữ
tránh sự nhầm lẫn.

VD: - đồng tiền – cánh đồng
- vạc dầu – con vạc
- con cò – cò súng
- xe đạp – con xe (quân cờ)
Xét câu văn sau: “Hôm nay tôi đánh rơi mười nghìn đồng
ngay đoạn cánh đồng làng”. Các từ trong câu có mối quan hệ
với từ “đồng” thứ nhất gồm “đánh rơi” “mười nghìn”, nếu chỉ
dừng lại ở đánh rơi mười nghìn thì người đọc chưa rõ mười
nghìn đồng tiền Việt Nam hay tiền nước nào và chưa xác định
rõ giá trị số tiền đánh rơi. Có từ “đồng” ngay sau cụm từ “đánh
rơi mười nghìn ” thì ta hiểu rõ số tiền đánh rơi ở đây là tiền Việt
Nam và xác định được giá trị của nó. Vậy từ “đồng” thứ nhất là
đơn vị tiền Việt Nam, từ “đồng” thứ 2 nằm trong mối quan hệ
20


với từ “đoạn”, “cánh”, “làng”, “đồng” trong “cánh đồng” là
khoảng đất rộng bằng phẳng trồng lúa hoặc hoa màu.
Hiện tượng đồng âm cùng từ loại như trên học sinh rất dễ
nhầm lẫn với từ nhiều nghĩa hầu hết các từ nhiều nghĩa đều có
cùng từ loại. Trong q trình dạy học, tơi gặp phần lớn các từ
nhiều nghĩa đều có cùng từ loại. Từ “đi” trong các trường hợp
sau đều là động từ.
đi bộ

đi chơi

đi ngủ

đi máy bay


Vì vậy gặp những từ có cùng vỏ âm thanh giống nhau thì
học sinh không được vội vàng phán quyết ngay hiện tượng
đồng âm hay nhiều nghĩa mà phải suy nghĩ thật kĩ. Giải nghĩa
chính xác các từ đó trong văn cảnh tìm ra điểm khác nhau hồn
tồn hay giữa chúng có sự liên hệ với nhau về nghĩa. Trong
một số bài tập, có một số trường hợp giống nhau về âm thanh
nhưng khó phân biệt hiện tượng đồng âm hay nhiều nghĩa.
VD: Các từ trong mỗi nhóm dưới đây có quan hệ như thế
nào?
a) Đánh cờ, đánh giặc, đánh trống.
b) Trong veo, trong vắt, trong xanh.
c) Thi đậu, xôi đậu, chim đậu cành.
21


Xét về từ loại thì nhóm c các từ “đậu” có quan hệ đồng âm
với nhau vì đậu “trong thi đậu” là tính từ (đỗ, trúng tuyển) “đậu”
trong “xơi đậu” là danh từ (chỉ một loại quả, củ dùng làm lương
thực, thức ăn), “đậu” trong “chim đậu trên cành” là động từ
“nghỉ tạm dừng lại”.
Ở nhóm a, các từ “đánh” đều là động từ nhưng xét về nghĩa
các từ “đánh cờ” (một trò chơi), “đánh giặc” (chiến đấu với kẻ
thù bằng nhiều cách) và “đánh trống” (dùng dùi hoặc tay đánh
vào mặt trống cho phát ra âm thanh) thì nghĩa của chúng có
liên quan đến nhau, đều tác động đến một sự vật khác, làm cho
sự vật đó có sự thay đổi, vì vậy các từ “đánh” ở nhóm a có
quan hệ nhiều nghĩa.
Tuy nhiên các từ “trong” ở nhóm b cũng là các từ có cùng từ
loại (tính từ). Song chúng lại có quan hệ đồng nghĩa với nhau.

Trong quá trình dạy để giúp học sinh làm tốt các bài tập như
trên, giáo viên yêu cầu các em luôn nắm chắc nghĩa của từ và
suy xét kĩ lưỡng nghĩa của các từ đó, khơng được ngộ nhận
hoặc mới chỉ nhớ nghĩa mang máng mà đã vội kết luận mối
quan hệ giữa các từ đó.

22


Tuy nhiên, dựa vào yếu tố từ loại để phân biệt từ đồng âm và
từ nhiều nghĩa sẽ khơng hồn tồn chính xác trong một số
trường hợp. Vì vậy, giáo viên cần tích lũy những trường hợp
ngoại lệ đó để hướng dẫn học sinh xác định chính xác từ đồng
âm và từ nhiều nghĩa.
Ví dụ:
- Từ nhiều nghĩa khác từ loại:
Ví dụ 1: Mùa xuân là tết trồng cây
Làm cho đất nước càng ngày càng xuân.
Xuân 1 là danh từ; xn 2 là tính từ.
Ví dụ 2: Chiếc cúp bóng đá thế giới được làm bằng vàng
Hôm qua là một ngày vàng của thể thao Việt Nam
Nguyễn Thuý Hiền là cô gái vàng của thể thao Việt Nam
Cô ấy là người có tấm lịng vàng
Vàng 1: Danh từ chỉ chất liệu; vàng 2, 3, 4 là tính từ.
- Từ đồng âm cùng từ loại : (đa số đều là danh từ)
Ví dụ 1: Mùa hoa vải, chim chóc thi nhau về đây tụ hôi.
Tấm vải này rất đẹp !
Vải 1 và vải 2 đều là danh từ.
Ví dụ 2: Mùa này là mùa hoa súng nở.
23



Anh bộ đội luôn vững tay súng bảo vệ biên cương.
Súng 1 và 2 đều là danh từ.
3.3. Tìm ra dấu hiệu chung nhất để phân biệt từ đồng âm và
từ nhiều nghĩa
Sau các bài học về từ đồng âm và từ nhiều nghĩa cùng với
các bài luyện tập, có thể giúp học sinh rút ra so sánh như sau:
• Điểm khác nhau giữa từ đồng âm và từ nhiều nghĩa:
Từ đồng âm

Từ nhiều nghĩa

- Là hai hoặc nhiều từ có cùng - Là một từ nhưng có
hình thức ngữ âm: (hịn) đá và nhiều nghĩa: (hịn) đá và
đá (bóng)

(nước) đá.

- Các nghĩa hồn tồn khác - Các nghĩa có mối liên
biệt nhau khơng có bất cứ mối quan với nhau.
liên hệ gì:

- Ví dụ: hịn (đá) chỉ chất

Ví dụ: (hịn) đá chỉ chất rắn có rắn có trong tự nhiên,
sẵn trong tự nhiên, thường thường thành tảng, khối
thành tảng, hịn rất cứng. Cịn vật cứng. Cịn (nước) đá
đá (bóng) chỉ hành động dùng chỉ nước đông cứng lại
chân hất


mạnh vào một vật thành tảng giống như đá.

nhằm đưa ra xa hoặc làm tổn - Do cơ chế chuyển nghĩa
24


thương.

tạo thành.

- Khơng giải thích được bằng
cơ chế chuyển nghĩa.
3.4. Hướng dẫn HS đặt từ vào văn cảnh để hiểu đúng nghĩa
của từ.
Nghĩa của các từ đồng âm:
- Để hiểu nghĩa của từ đậu trong vai trò của từ đồng âm
ta đặt vào câu sau “ Ruồi đậu mâm xôi đậu”. Trong văn cảnh
này từ đậu thứ nhất là động từ có nghĩa con ruồi nó dừng lại ở
trên mâm xơi. Cịn từ đậu thứ hai xơi đậu được nấu từ nếp và
loại đậu nào đó, từ đậu ở đây thuộc từ loại là danh từ.
- Từ chín trong “ Một nghề cho chín cịn hơn chín nghề”.
Từ chín thứ nhất có nghĩa là tinh thơng, từ chín thứ hai có
nghĩa là số 9.
- Từ bị trong “ Bé thì bị, cịn con bị lại đi”. Từ bị thứ nhất
có nghĩa là hoạt động của em bé di chuyển vị trí ở tư thế nằm
sấp, cử động cả tay chân. Bị trong con bị là lồi động vật nhai
lại, sừng rỗng ngắn, chân có hai móng, ni để lấy sức kéo, ăn
thịt hay lấy sữa.


25


×