Tải bản đầy đủ (.doc) (30 trang)

Tiểu luận: NÂNG CAO HIỆU QUẢ CÔNG TÁC PHÒNG CHỐNG THAM NHŨNG Ở VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY: THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (281.48 KB, 30 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NỘI VỤ HÀ NỘI
KHOA HÀNH CHÍNH PHÁP LUẬT

TÊN ĐỀ TÀI:
NÂNG CAO HIỆU QUẢ CƠNG TÁC PHỊNG CHỐNG THAM
NHŨNG Ở VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY: THỰC
TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP
BÀI TIỂU LUẬN
Học phần: Pháp luật về phòng chống tham nhũng
Mã phách:…………………………………

Quảng Nam - 2020


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU..........................................................................................................1
NỘI DUNG.......................................................................................................3
CHƯƠNG 1......................................................................................................3
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN CỦA THAM NHŨNG.....................................3
1.1. Cơ sở lý luận về phòng, chống tham nhũng ở Việt Nam.............................................3
1.1.1 Định nghĩa.....................................................................................................................3
1.1.2. Đặc trưng của tham nhũng..........................................................................................4
1.1.3. Biểu hiện của hành vi tham nhũng..............................................................................5

1.2. Phân loại tham nhũng......................................................................................................7
1.3. Nguyên nhân dẫn đến tham nhũng................................................................................7

CHƯƠNG 2....................................................................................................11
THỰC TRẠNG CƠNG TÁC PHỊNG, CHỐNG THAM NHŨNG Ở
VIỆT NAM HIỆN NAY................................................................................11
2.1. Ưu điểm............................................................................................................................12


2.2. Hạn chế.............................................................................................................................15

CHƯƠNG 3....................................................................................................16
GIẢI PHÁP TRONG VIỆC NÂNG CAO HIỆU QUẢ CƠNG TÁC
PHỊNG PHỐNG, THAM NHŨNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY...............16
KẾT LUẬN....................................................................................................24


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
PCTN

Phòng Chống Tham Nhũng


MỞ ĐẦU
I. Lí do chọn đề tài
Tham nhũng là một hiện tượng xã hội tồn tại khách quan trong bộ máy
nhà nước, là một trong những căn bệnh gắn liền với quyền lực nhà nước, luôn
ăn sâu bám rễ trong mọi chế độ xã hội. Một số nơi trên thế giới, tham nhũng
làm suy kiệt cơ thể xã hội, gây xáo trộn, mất ổn định chính trị. Phịng, chống
tham nhũng (PCTN) là cơng việc khó khăn, phức tạp, cần có sự quyết liệt và
kiên trì, là chính sách ưu tiên hàng đầu của nhiều quốc gia và sự nỗ lực của cả
cộng đồng quốc tế. Trong những năm gần đây, tệ nạn tham nhũng đã có
những diễn biến hết sức phức tạp, tác động tiêu cực đến nhiều mặt của đời
sống xã hội, chính vì thế Đảng ta cũng đã xác định tham nhũng là một trong 4
nguy cơ lớn đe dọa đến sự sống còn của chế độ và sự nghiệp đổi mới của đất
nước. Chính phủ cũng xác định “Phòng, chống tham nhũng là trách nhiệm của
cả hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng, phát huy sức mạnh tổng hợp
của các ngành, các cấp, nhấn mạnh trách nhiệm của người đứng đầu các cơ
quan, tổ chức, đơn vị, đề cao vai trò của xã hội, các tổ chức đồn thể và quần

chúng nhân dân phịng, chống tham nhũng là nhiệm vụ quan trọng, vừa cấp
bách vừa lâu dài, xuyên suốt quá trình phát triển kinh tế - xã hội và xây dựng
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ đổi mới”. Xuất phát từ
vấn đề cấp thiết nói trên, tơi xin chọn đề tài “Nâng cao hiệu quả cơng tác
phịng, chống tham nhũng ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay: Thực trạng và
giải pháp” để hoàn thành bài tiểu luận này.
II. Mục đích của đề tài.
Nâng cao hiểu biết của bản thân và ý thức tự giác chấp hành các nội
dung pháp luật Phòng, chống tham nhũng.

1


Phân tích sâu những vấn đề của tham nhũng và thực trạng của tham
nhũng hiện nay.
III. Ý nghĩa lý luận và ý nghĩa thực tiễn
Ý nghĩa lý luận:
Kết quả của tiểu luận sẽ góp phần bổ sung và phát triển và làm phong
phú thêm các vấn đề lý luận về PCTN
Ý nghĩa thực tiễn:
Bài tiểu luận có thể làm tài liệu tham khảo cho sinh viên tìm hiểu thêm
về những nội dung liên quan đến PCTN. Đặc biệt tiểu luận góp phần cung cấp
cơ sở khoa học về PCTN thơng qua công tác kiểm tra của Đảng cho những
người trực tiếp tham gia hoạt động PCTN trong bộ máy nhà nước và các cơ
quan hành chính nhà nước cấp trung ương

2


NỘI DUNG

CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN CỦA THAM NHŨNG
1.1. Cơ sở lý luận về phòng, chống tham nhũng ở Việt Nam
1.1.1 Định nghĩa
Tham nhũng là một hiện tượng xã hội mang tính lích sử, ln gắn bó chặt chẽ
với sự tồn tại và phát triển của bộ máy nhà nước. Ở nước ta hiện nay vẫn chưa
có sự thống nhất quan niệm cụ thể về tham nhũng.
Theo Từ điển Tiếng Việt thì: “Tham nhũng là lợi dụng quyền hành để nhũng
nhiễu dân và lấy của”[1]
Tham nhũng là hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn, vị thế xã hội của viên
chức Nhà nước để làm trái pháp luật hoặc lợi dụng các sơ hở của pháp luật
kiếm lợi cho bản thân, gây hại cho xã hội, cho công dân. Pháp lệnh chống
tham nhũng ngày 26-2-1998 cũng ghi rõ trong điều 1: “Tham nhũng là hành
vi của những người có chức vụ, quyền hạn đã lợi dụng chức vụ và quyền hạn
đó để tham ơ, hối lộ hoặc cố ý làm trái pháp luật vì động cơ vụ lợi, gây thiệt
hại cho tài sản Nhà nước, tập thể và cá nhân, xâm phạm hoạt động đúng đắn
của các cơ quan, tổ chức. Tham nhũng là vật cản lớn nhất của tiến trình phát
triển xã hội, là nguy cơ trực tiếp liên quan đến sự sống còn của các Nhà
nước”. [2]
Ta có thể tiếp cận định nghĩa về tham nhũng thơng qua Luật phòng, chống
tham nhũng mới nhất hiện nay.

3


Căn cứ theo Khoản 1, Điều 3 của Luật Phòng, chống tham nhũng 2005 (sửa
đổi bổ sung 2018) thì “Tham nhũng là hành vi của người có chức vụ, quyền
hạn đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn đó vì vụ lợi”.
Mặc dù được thể hiện theo những cách khác nhau song tham nhũng được hiểu
khá thống nhất trong văn hoá pháp lý ở các nước trên thế giới, đó là việc lợi

dụng vị trí, quyền hạn thực hiện hành vi trái pháp luật nhằm trục lợi cá nhân
hay nói một cách khác tham nhũng là việc sử dụng hoặc chiếm đoạt bất
hợp pháp công quyền hay nguồn lực tập thể.
1.1.2. Đặc trưng của tham nhũng
Thứ nhất, chủ thể tham nhũng là người có chức vụ, quyền hạn trong
khu vực cơng:
Người có chức vụ, quyền hạn chỉ giới hạn ở những người làm việc trong các
cơ quan, tổ chức, đơn vị trong hệ thống chính trị, nói cách khác là ở các cơ
quan, tổ chức, đơn vị có sử dụng ngân sách, vốn, tài sản của Nhà nước.
Khoản 2, Điều 3 Luật PCTN 2005 (sửa đổi, bổ sung 2018) quy định: Người
có chức vụ, quyền hạn bao gồm: cán bộ, cơng chức, viên chức; sĩ quan, quân
nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng trong cơ quan, đơn vị thuộc Quân
đội nhân dân; sĩ quan, hạ sĩ quan nghiệp vụ, sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên môn kỹ thuật trong cơ quan, đơn vị thuộc Công an nhân dân; cán bộ lãnh đạo, quản
lý trong doanh nghiệp của Nhà nước; cán bộ lãnh đạo, quản lý là người đại
diện phần vốn góp của Nhà nước tại doanh nghiệp; người được giao thực hiện
nhiệm vụ, cơng vụ có quyền hạn trong khi thực hiện nhiệm vụ, cơng vụ đó [3]
Thứ hai, chủ thể tham nhũng lợi dụng chức vụ, quyền hạn được giao:
Đây là đặc trưng thứ hai của tham nhũng. Chủ thể tham nhũng phải sử dụng
“chức vụ, quyền hạn của mình” như một phương tiện để mang lại lợi ích cho
mình, cho gia đình mình hoặc cho người khác. Một người có chức vụ, quyền

4


hạn thực hiện hành vi vi phạm pháp luật vì động cơ vụ lợi nhưng hành vi đó
khơng lợi dụng chức vụ, quyền hạn thì khơng coi là tham nhũng.
Thứ ba, mục đích của hành vi tham nhũng là vụ lợi:
Mục đích của hành vi tham nhũng phải là mục đích vụ lợi. Nếu chủ thể thực
hiện hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn mà không xuất phát từ động cơ vụ
lợi thì hành vi đó khơng là hành vi tham nhũng. Vụ lợi là lợi ích vật chất (tiền,

nhà, đất, các vật có giá trị...) hoặc lợi ích tinh thần mà người có chức vụ,
quyền hạn mong muốn đạt được từ việc thực hiện hành vi lợi dụng chức vụ,
quyền hạn của mình.
1.1.3. Biểu hiện của hành vi tham nhũng
Hành vi tham nhũng biểu hiện trên thực tế rất đa dạng, dưới nhiều hình thức
khác nhau.
Điều 2 Luật phòng, chống tham nhũng 2005 (sửa đổi, bổ sung 2018) quy
định:
Các hành vi tham nhũng gồm
Tham ô tài sản; Nhận hối lộ; Lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài
sản; Lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành nhiệm vụ, cơng vụ vì vụ
lợi; Lạm quyền trong khi thi hành nhiệm vụ, cơng vụ vì vụ lợi; Lợi dụng chức
vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng đối với người khác để trục lợi; Giả mạo trong
cơng tác vì vụ lợi; Đưa hối lộ, môi giới hối lộ để giải quyết công việc của cơ
quan, tổ chức, đơn vị hoặc địa phương vì vụ lợi; Lợi dụng chức vụ, quyền hạn
sử dụng trái phép tài sản cơng vì vụ lợi; Nhũng nhiễu vì vụ lợi; Khơng thực
hiện, thực hiện không đúng hoặc không đầy đủ nhiệm vụ, công vụ vì vụ lợi;
Lợi dụng chức vụ, quyền hạn để bao che cho người có hành vi vi phạm pháp
luật vì vụ lợi; cản trở, can thiệp trái pháp luật vào việc giám sát, kiểm tra,
thanh tra, kiểm toán, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án vì vụ lợi.

5


Trong 12 hành vi tham nhũng nêu trên, có 7 hành vi đầu tiên đã được quy
định tại Điều 353 đến Điều 359 trong Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ
sung 2017) có hiệu lực từ ngày 1/1/2018.
Một số các hành vi tham nhũng theo góc nhìn của giới trẻ
Ngành nghề Hành vi
Nhận hối lộ để nâng điểm

Giáo dục

Chạy chức vụ trong nhà trường
Câu giờ giảng dạy, …
Công an giao thơng nhũng nhiễu địi “q biếu” của

Giao thơng người tham gia giao thông
Không đưa cuống vé cho người đi xe buýt, …
Tư lợi trong định giá, thanh lý hàng hóa cơng
Kinh tế

Bán thơng tin bảo mật thu lợi riêng
Ăn chênh lệch trên giá hàng hóa
Lợi dụng chức vụ quyền hạn để “ban phát” về đất đai
một cách ưu ái, cửa quyền, nhũng nhiễu, gây khó khăn cho
người sử dụng đất

Nhà đất

Phân lô, bán nền không đúng đối tượng ở việc thanh lý,
bán nhà đất thuộc sở hữu nhà nước
Cấu kết giữa cá nhân và tổ chức trong việc hợp thức hóa
nhà đất
Chạy cơng trình (đút lót tiền)
Các đơn vi thi công thường bớt xén, thay đổi chủng loại

Xây dựng

vật tư, thi công sai thiết kế, không thi công vẫn quyét toán.
Nghiệm thu khối lượng cao hơn thực tế thi cơng, thanh tốn


Y tế

khối lượng và đơn giá có hơn thực tế và đơn giá quy định…
Bác sỹ cố tình kê thừa đơn thuốc để hưởng “hoa hồng”
Bác sỹ y tá gợi ý bệnh nhân bồi dưỡng/đặt áp lực tâm lý

6


để người nhà bệnh nhân biết ý.
Làm khống sổ sách trong việc mua trang thiết bị, nhập
thuốc

1.2. Phân loại tham nhũng
Có thể chia tham nhũng thành 2 loại: tham nhũng lớn và tham nhũng
vặt:
Tham nhũng lớn xảy ra chủ yếu liên quan đến dự án thu mua lớn và
phổ biến trong các dự án xây dựng công cộng và tư nhân, bệnh viện; trong các
hợp đồng vũ khí và quốc phịng, trong cơng nghệ vũ khí mới,….
Tham nhũng vặt, cịn được gọi là tham nhũng hành chính hay tham
nhũng quan liêu, là loại tham nhũng diễn ra thường ngày, khi các nhân viên
công chức tiếp xúc với quần chúng trực tiếp. Những vụ tham nhũng vặt còn
hay xảy ra khi người dân và các cơng ty tìm cách né tránh nghĩa vụ và các
khoản thuế và khi các viên chức lạm dụng quy định theo ý của họ bằng cách
cố gắng bịn rút tiền từ các cơng dân và các công ty.
1.3. Nguyên nhân dẫn đến tham nhũng
Nguyên nhân sâu xa của tham nhũng chính là lịng tham khơng đáy của
con người, sự ham muốn tuột cùng đến điên cuồng về tài sản vật chất, về địa
vị của bản thân và gia đình trong xã hội. Từ đó, họ đánh mất đi phẩm chất của

mình làm suy đồi đạo đức cá nhân, thực hiện hành vi ảnh hưởng xấu đến cá
nhân, tổ chức khác trong xã hội.
Nguyên nhân trực tiếp tác động đến hành vi tham nhũng trong xã hội là
rất nhiều, tùy theo ngành, tùy theo hoàn cảnh mà tạo điều kiện cho hành vi
tham nhũng bùng nổ mạnh mẽ, cụ thể như: Trong kinh tế, vấn đề tham nhũng
khơng chỉ xuất phát từ cơ chế quản lí mà cịn có các tập đồn kinh tế thao
túng bộ máy nhà nước phục vụ lợi ích cá nhân. Tất cả các chủ thể kinh tế đều
7


muốn tối đa hóa lợi ích riêng của họ. Do vậy, lợi ích cá nhân hẹp hịi của các
chủ thể kinh tế là động lực chính thúc đẩy các giao dịch kinh kế giữa họ. Luật
Tố tụng – các quy định liên quan tới việc thực hiện các quy định pháp luật
khác – cũng có vai trị quan trọng đối với tham nhũng.
Đạo luật phức tạp và không minh bạch quy định cụ thể trình tự tố tụng
chậm chạp (những trình tự tố tụng mà khơng có thời hạn quy định cụ thể hoặc
khơng có thời hạn chót), với sự tùy tiện của các cán bộ trong quá trình thực
hiện, sẽ tạo ra một cơ hội lớn cho tham nhũng. Khơng chỉ đạo luật đó tạo ra
động cơ cho tham nhũng mà nó cịn giảm thiểu khả năng bị phát hiện, do đó
làm cho những kẻ hối lộ và nhận hối lộ khơng cịn tin nhiều vào những mối đe
dọa với chúng.
Một phần nguyên nhân dẫn đến tham nhũng là đào tạo, bổ nhiệm cán
bộ không đúng. Thể hiện ở chỗ giao công việc không đúng tầm do nể nang,
bè phái, thỏa hiệp… Khi đã giao quyền thì thiếu giám sát dẫn đến tham nhũng
cá nhân, dần dần hình thành tập thể tham nhũng. Có những người khi vào làm
việc trong cơ quan nhà nước nhờ vào quen biết và đút lót, từ đó dẫn đến một
hệ thống cán bộ thiếu minh bạch, hay còn gọi là cán bộ “con ông cháu cha”.
Theo nhiều cuộc khảo sát thì việc tham nhũng cũng bắt nguồn từ thực tế kỷ
luật hành chính bị vơ hiệu hóa, hay nói đơn giản là “trên nói dưới khơng
nghe”.

Hành động thực tế thể hiện ngun nhân này là các chỉ đạo của cấp trên
chỉ được thực hiện cho có; hình thức xử lý nội bộ thì phổ biến chỉ là phê bình,
khiển trách. Ngay như việc kê khai tài sản minh bạch là một quy định trong
Luật phòng chống tham nhũng nhưng hầu hết các cơ quan đều thối thác
Ngồi ra, Nhà nước vẫn chưa có các biện pháp động viên, khuyến khích tồn
dân chống tham nhũng một cách triệt để. Hiện chúng ta cũng chỉ mới lần đầu
tiên tổ chức tuyên dương người tích cực tố cáo tham nhũng.
1.4. Tác hại của tham nhũng
8


1.4.1 Tác hại về chính trị
Tham nhũng là trở lực lớn đối với quá trình đổi mới đất nước và làm
xói mịn lịng tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, đối với sự nghiệp xây
dựng đất nước, tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Hiện nay, tình hình tham nhũng ở nước ta đã ở mức nghiêm trọng,
đáng báo động. Tham nhũng không chỉ xảy ra ở cấp Trung ương, ở những
chương trình, dự án lớn mà cịn xuất hiện nhiều trong các cấp chính quyền cơ
sở - là cơ quan tiếp xúc với nhân dân hằng ngày, giải quyết những cơng việc
liên quan trực tiếp đến lợi ích của nhân dân. Văn kiện Hội nghị lần thứ chín
Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá IX chỉ rõ: “... Điều làm cho nhân dân
cịn nhiều bất bình, lo lắng, bức xúc nhất hiện nay là tình trạng quan liêu,
tham nhũng, lãng phí, suy thối về tư tưởng, chính trị và phẩm chất, đạo đức,
lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên vẫn còn rất nghiêm trọng...”
1.4.2. Tác hại về kinh tế
Tham nhũng gây thiệt hại rất lớn về tài sản của Nhà nước, của tập thể
và của công dân.
Ở nước ta, trong thời gian qua, nạn tham nhũng diễn ra trên tất cả các
lĩnh vực của đời sống xã hội, gây thiệt hại lớn đến tài sản của Nhà nước, tiền
của, thời gian, công sức của nhân dân. Giá trị tài sản bị thiệt hại, bị thất thoát

liên quan tới tham nhũng của mỗi vụ lên tới hàng chục, hàng trăm, thậm chí là
hàng ngàn tỉ đồng.
Hậu quả của hành vi tham nhũng không chỉ là việc tài sản, lợi ích của
Nhà nước, của tập thể hoặc của cá nhân bị biến thành tài sản riêng của người
thực hiện hành vi tham nhũng, mà nguy hiểm hơn, hành vi tham nhũng cịn
gây thiệt hại, gây thất thốt, lãng phí một lượng lớn tài sản của Nhà nước, của
tập thể, của công dân. Ở mức độ thấp hơn, việc một số cán bộ, công chức
quan liêu, sách nhiễu đối với nhân dân trong khi thực thi công vụ, lạm dụng
quyền hạn trong khi thi hành công vụ khiến cho nhân dân phải mất rất nhiều
9


thời gian, cơng sức, tiền bạc để có thể thực hiện được cơng việc của mình
như: xin cấp các loại giấy phép, giấy chứng nhận, hoặc các loại giấy tờ khác...
Nếu xét từng trường hợp một thì giá trị vật chất bị lãng phí có thể khơng q
lớn, nhưng nếu tổng hợp những vụ việc diễn ra thường xuyên, liên tục trong
đời sống hằng ngày của nhân dân thì con số bị thất thoát đã ở mức độ nghiêm
trọng.
1.4.3. Tác hại về xã hội
Tham nhũng xâm phạm, thậm chí làm thay đổi, đảo lộn những chuẩn
mực đạo đức xã hội, tha hố đội ngũ cán bộ, cơng chức nhà nước.
Trước những lợi ích bất chính đã hoặc sẽ có được khi thực hiện hành vi
tham nhũng, nhiều cán bộ, công chức đã không giữ được phẩm chất đạo đức
của người cán bộ cách mạng, không phục vụ nhân dân mà hướng tới các lợi
ích bất chính, bất chấp việc vi phạm pháp luật, làm trái công vụ, trái lương
tâm, đạo đức nghề nghiệp. Vì vậy, tham nhũng khơng chỉ phát sinh ở trong
các lĩnh vực kinh tế, tài chính, ngân hàng, đầu tư, xây dựng cơ bản, quản lý
đất đai… mà cịn có xu hướng lan sang các lĩnh vực từ trước tới nay ít có khả
năng xảy ra tham nhũng như: văn hoá, y tế, giáo dục, thể dục, thể thao...
Thậm chí, cả những lĩnh vực lẽ ra khơng thể có tham nhũng, cả dưới góc độ

đạo đức và pháp luật, như lĩnh vực phúc lợi xã hội hay bảo vệ pháp luật. Hành
vi tham nhũng xảy ra không ít trong các chương trình trợ cấp cho thương
binh, liệt sĩ, các gia đình chính sách; tham nhũng tiền, hàng hố cứu trợ xã
hội, trong cả xét duyệt cơng nhận di tích lịch sử, văn hố, thi đua khen
thưởng. Thậm chí tham nhũng cịn xảy ra trong các cơ quan bảo vệ pháp luật.

10


CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG CƠNG TÁC PHỊNG, CHỐNG THAM NHŨNG Ở
VIỆT NAM HIỆN NAY
Từ trước đến nay Đảng và Nhà nước ta ln chú trọng phịng, chống
tham nhũng. Ngay từ năm 1945 sau khi dành được chính quyền, Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã chăm lo giáo dục cán bộ, đảng viên nâng cao đạo đức cách
mạng, thực hành "cần kiệm, liêm chính". Người đã chỉ rõ : Tham ơ lãng phí,
quan liêu là giặc "nội xâm". Trong thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền
Bắc. Đảng ta đã tiến hành cuộc vận động "3 xây, 3 chống". Bước vào công
cuộc đổi mới, Đại hội Đảng VI của Đảng đã yêu cầu tiến hành cuộc vận động
làm trong sạch và nâng cao hiệu lực quản lý của cán bộ bộ máy nhà nước, đẩy
lùi và xoá bỏ các hiện tượng tiêu cực, làm lành manh hoá các quan hệ xã hội.
Trong quá trình thực hiện chủ trương PCTN của Đảng và Nhà nước, các tổ
chức, chính quyền đồn thể từ trung ương đến địa phương đã bền bỉ, tích cực
đấu tranh và đạt đượcmột số kết quả như: Đã phát hiện và xử lý được nhiệm
vụ tham nhũng, trừng trị nghiêm khắc những kẻ đục khoét tài sản của Nhà
nước, tập thể và của dân; thu hồi lại cho nhà nước và trả lại cho dân một giá
trị tài sản rất lớn, đã xây dựng và hoàn thiện nhiều cơ chế chính sách quản lý
có tác dụng hạn chế một phần tệ quan liêu, cửa quyền, tham nhũng.
Những việc đó đã góp phần vào sự nghiệp đổi mới, xây dựng
Đảng và kiện toàn bộ máy Nhà nước, đảm bảo an ninh chính trị xã hội đất

nước. Mặc dù có những cố gắng quyết tâm nhưng cuộc đấu tranh chống tham
nhũng ở nước ta đạt kết quả còn thấp, hiệu quả rất hạn chế. Có nhiều lĩnh vực
và thậm chí ngày càng nghiêm trọng hơn trước. Tham nhũng xảy ra rộng khắp
trong bộ máy nhà nước, ở hầu hết các ngành các cấp từ trên xuống dưới với
quy mô ngày càng lớn, thủ đoạn ngày càng tinh vi xảo quyệt hơn. Đã
có nhiều doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp tư nhân thua lỗ, phá sản vì tệ

11


nạn tham nhũng. Tệ nạn tham ô, ăn cắp của cơng, cố ý làm trái vì động cơ vụ
lợi cá nhân, báo cáo sai sự thật để thanh quyết toán khống, bịn rút cơng quỹ
trong các lĩnh vực để làm giàu bất chính, lạm dụng chức quyền để nhũng
nhiễu… đã lan rộng khắp các lĩnh vực kinh tế, văn hoá, giáo dục, y tế, thương
binh xã hội. Tham nhũng đã xâm nhập ngay vào các cơ quan bảo vệ, pháp
luật, là những công cụ chủ yếu trong đấu tranh chống tham nhũng và giữ gìn
an ninh
trật tự, xã hội.
2.1. Ưu điểm
Theo số liệu do Tổ chức Minh bạch thế giới (TI) công bố, Chỉ số cảm
nhận tham nhũng (CPI) của Việt Nam trong những năm gần đây đã tăng lên,
thể hiện một chỉ báo tích cực đối với các nỗ lực của Đảng và Nhà nước ta
trong công tác PCTN. Cụ thể, năm 2018, Việt Nam đạt 33/100 điểm, xếp hạng
117/180 toàn cầu. Trong năm 2018, Đảng và Nhà nước đã có nhiều nỗ lực đẩy
mạnh cơng tác PCTN, điển hình là việc nhanh chóng, kiên quyết xử lý các vụ
án tham nhũng lớn và hồn thiện khn khổ pháp lý về PCTN. Tháng
11/2018, Quốc hội đã thông qua Luật Phòng, chống tham nhũng (sửa đổi)
gồm 10 chương với 96 điều. Chính phủ đã chỉ đạo tăng cường kiểm tra và tổ
chức thực hiện nghiêm các biện pháp PCTN như: đề cao tính liêm chính trong
khu vực cơng, thực hiện hiệu quả công tác kê khai và công khai tài sản, thu

nhập của cán bộ, cơng chức... Vì vậy, chỉ số CPI của Việt Nam năm 2019 đạt
37/100 điểm, tăng 4 điểm so với năm 2018, đứng thứ 96/180 quốc gia, vùng
lãnh thổ trong bảng xếp hạng toàn cầu, tăng 21 bậc so với năm 2018. Đây là
mức điểm cao nhất mà Tổ chức Minh bạch thế giới đánh giá đối với Việt Nam
và là năm có mức tăng điểm cao nhất từ trước đến nay; cũng là sự khẳng định
những kết quả tích cực trong cơng tác PCTN ở Việt Nam.

12


Bảng 2.1 Điểm CPI của Việt Nam qua các năm

Những kết quả nêu trên thể hiện quyết tâm chính trị cùng với những
hành động quyết liệt, thực hiện những giải pháp hiệu quả của Đảng và Nhà
nước, của cả hệ thống chính trị từ Trung ương tới địa phương trong công tác
PCTN. Cụ thể, Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng được
thành lập “với mong muốn đẩy mạnh cơng tác phịng, chống tham nhũng
thêm một bước”[5]. Trong nhiệm kỳ Đại hội ĐBTQ lần thứ XI, có 56.572
đảng viên bị xử lý kỷ luật, trong đó có 16.259 cấp ủy viên các cấp. Ủy ban
Kiểm tra Trung ương đã tiến hành kiểm tra 13 tổ chức đảng và 33 đảng viên.
Qua kiểm tra, kết luận các tổ chức đảng, đảng viên đều có khuyết điểm, vi
phạm, trong đó đề nghị thi hành kỷ luật bằng hình thức khiển trách 3 tổ chức
đảng, thi hành kỷ luật 13 đảng viên (khiển trách 7, cảnh cáo 6). Ủy ban kiểm
tra các địa phương, đơn vị đã kiểm t 15.898 tổ chức đảng và 55.217 đảng
viên, trong đó số tổ chức đảng có vi phạm là 10.478, phải thi hành kỷ luật 791
tổ chức đảng; số đảng viên có vi phạm là 42.757, trong đó phải thi hành kỷ
luật 20.344 trường hợp[6].
Từ đầu nhiệm kỳ Đại hội ĐBTQ lần thứ XII của Đảng đến cuối năm
2018, Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã ban hành 45
nghị quyết, chỉ thị, quy định, kết luận về công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng

và phòng, chống tham nhũng; Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã
13


thông qua, ban hành 45 luật, pháp lệnh, 46 nghị quyết; Chính phủ đã ban hành
511 nghị định, 413 nghị quyết, 160 quyết định nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu
quả quản lý nhà nước trên các lĩnh vực của đời sống xã hội, góp phần phịng
ngừa tiêu cực, tham nhũng; đã thi hành kỷ luật 53.306 đảng viên với hơn 60
cán bộ thuộc diện Trung ương quản lý, trong đó có 16 Ủy viên Trung ương
Đảng, nguyên Ủy viên Trung ương Đảng, trong đó có cả Ủy viên Bộ Chính
trị[7].
Trong năm 2019, cơng tác PCTN đã có bước tiến mạnh mẽ với nhiều
chủ trương, giải pháp đột phá, đi vào chiều sâu, do đó tham nhũng được kiềm
chế, từng bước ngăn chặn và có chiều hướng thuyên giảm, góp phần quan
trọng giữ vững ổn định chính trị, phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao uy tín và
vị thế của nước ta trên trường quốc tế. Nổi bật là đẩy mạnh việc xây dựng,
hoàn thiện thể chế trên các lĩnh vực đời sống: “Cụ thể là Trung ương, Bộ
Chính trị, Ban Bí thư đã ban hành gần 30 văn bản về xây dựng Đảng, hệ
thống chính trị và PCTN. Quốc hội đã thơng qua 18 luật, 20 nghị quyết;
Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành 100 nghị định, 119 nghị quyết,
37 quyết định, 33 chỉ thị. Như vậy, tính từ đầu nhiệm kỳ Đại hội ĐBTQ lần
thứ XII đến nay, đã thi hành kỷ luật hơn 90 cán bộ thuộc diện Trung ương
quản lý, trong đó có 21 đồng chí Ủy viên Trung ương Đảng, nguyên Ủy viên
Trung ương Đảng (2 Ủy viên Bộ Chính trị), 22 sĩ quan cấp tướng trong lực
lượng vũ trang”[8]. Những tháng đầu năm 2020, Ban Chỉ đạo Trung ương về
PCTN yêu cầu tập trung đưa ra xét xử sơ thẩm 10 vụ án nghiêm trọng, phức
tạp được dư luận xã hội quan tâm.
Có thể khẳng định rằng, cơng tác PCTN ở Việt Nam đã đạt được những
kết quả đáng ghi nhận; nạn tham nhũng đã bị ngăn chặn, đẩy lùi; niềm tin của
nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước được nâng lên.

Có thể khái quát một số đặc điểm của công tác PCTN ở Việt Nam như sau:
Khơng có vùng cấm, khơng có đặc quyền, khơng có ngoại lệ, khơng chịu sự
14


tác động không đúng của bất kỳ cá nhân, tổ chức nào; Làm từng bước, rõ đến
đâu xử lý đến đó; Nhân dân và cả hệ thống chính trị vào cuộc; Nhân văn,
phục vụ phát triển kinh tế - xã hội; Lấy phịng ngừa là chính, cơ bản, phát
hiện, xử lý là quan trọng, cấp bách.
2.2. Hạn chế
Tuy nhiên, mặc dù đạt được một số kết quả, song qua thực tế cho thấy
việc thực hiện công tác phổ biến pháp luật về phòng, chống tham nhũng vẫn
còn nhiều hạn chế. việc thực hiện công tác phổ biến pháp luật về phịng,
chống tham nhũng chưa đáp ứng được sự kì vọng của Nhà nước và xã hội.
Nhiều địa phương, nhiều cơ quan chưa thấy được tầm quan trọng của việc
thực hiện cơng tác phổ biến pháp luật về phịng, chống tham nhũng, dẫn đến
việc thực hiện cịn mang tính đối phó, có lệ. Hình thức phổ biến chưa phong
phú và linh hoạt, thời lượng tuyện truyền còn hạn chế, chưa đáp ứng được đòi
hỏi thực tế. Trong tuyên truyền, phổ biến pháp luật phịng chống tham nhũng
cịn mang tính lí thuyết, tun truyền sng. Chính vì vậy, chưa góp phần
thay đổi lớn trong nhận thức và ý thức trong công tác phòng chống tham
nhũng. Đây cũng là một trong những nguyên nhân dẫn tới hiệu quả của công
tác phổ biến pháp luật phịng chống tham nhũng cũng như cơng tác phịng
chống tham nhũng đạt kết quả chưa cao.
Chế độ trách nhiệm, chế độ cơng vụ đối với nhiều vị trí cơng tác chưa
được minh bạch, rõ ràng, cụ thể, nhất là ở những khâu, quy trình thủ tục liên
quan tới cơng việc của người dân, doanh nghiệp.
Việc tự kiểm tra, phát hiện tham nhũng của một số cơ quan, tổ chức,
đơn vị còn yếu; việc phát hiện tham nhũng chủ yếu qua dư luận xã hội, đơn
thư tố táo, báo chí phản ánh hoặc khi có cơ quan chức năng vào làm việc kiểm

tra, thanh tra, kiểm toán, điều tra mới phát hiện sai phạm.
Hiệu quả hoạt động của các cơ quan chuyên trách về PCTN còn hạn
chế; vai trò của xã hội trong công tác PCTN chưa được phát huy đầy đủ.
15


Cơng tác giám sát, kiểm tra, giữ gìn kỷ cương, kỷ luật ở nhiều nơi, nhiều cấp
chưa thường xuyên; công tác kiểm toán, thanh tra, điều tra hiệu quả chưa cao;
việc xử lý hành vi tham nhũng trong một số trường hợp cịn chưa nghiêm,
chưa kịp thời, cịn có biểu hiện nương nhẹ.
Vẫn cịn tình trạng lợi dụng các quy định của pháp luật chưa chặt chẽ
để xử lý hành vi tham nhũng bằng biện pháp kỷ luật hành chính hoặc áp dụng
nhiều tình tiết giảm nhẹ để xử phạt dưới khung hình phạt hoặc hưởng án treo,
phạt cảnh cáo, cải tạo khơng giam giữ.
Hoạt động thanh tra, kiểm tốn phát hiện nhiều vi phạm pháp luật trong
các lĩnh vực quản lý kinh tế, xã hội nhưng số vụ việc có dấu hiệu tham nhũng
được phát hiện chuyển sang cơ quan điều tra cịn ít; q trình giải quyết một
số vụ án tham nhũng của các cơ quan tiến hành tố tụng còn chậm, nhất là các
vụ án tham nhũng có nội dung phức tạp; việc xem xét, xử lý các hành vi tham
nhũng trong một số trường hợp chưa nghiêm, nặng về xử lý hành chính, cho
hưởng án treo.
CHƯƠNG 3
GIẢI PHÁP TRONG VIỆC NÂNG CAO HIỆU QUẢ CƠNG TÁC
PHỊNG PHỐNG, THAM NHŨNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
Để nâng cao hiệu quả công tác PCTN trong thời gian tới, cần triển khai
thực hiện một số giải pháp sau:
Một là, giữ vững nền tảng tư tưởng, thường xuyên giáo dục chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương của Đảng, chính
sách, pháp luật của Nhà nước, nhiệm vụ và yêu cầu đặt ra đối với cán bộ,
đảng viên trong từng giai đoạn cách mạng.

Chỉ có nắm vững chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và
đường lối cách mạng của Đảng mới bảo đảm cho cán bộ, đảng viên xác định
đúng mục tiêu, lý tưởng, trung thành tuyệt đối với Đảng, Tổ quốc và Nhân
16


dân. Thực hiện giáo dục liêm chính, đẩy mạnh cơng tác thơng tin, tun
truyền về phịng, chống tham nhũng: “Liêm” là ln ln tơn trọng giữ gìn
của cơng và của dân; trong sạch, không tham lam địa vị, tiền của, danh tiếng,
không cậy quyền thế mà đục khoét, ăn của dân, dìm dập người giỏi, để giữ địa
vị và danh tiếng của mình. “Chính” là thẳng thắn, đứng đắn. Đối với mình:
khơng tự cao, tự đại, ln chịu khó học tập cầu tiến bộ, ln kiểm điểm mình
để phát huy điều hay, sửa đổi những khuyết điểm. Đối với người: khơng nịnh
hót người trên, xem khinh người dưới, ln giữ thái độ chân thành, khiêm tốn,
đồn kết, khơng dối trá, lừa lọc. Ðối với việc: đặt việc công lên trên việc tư,
làm việc gì cũng phải đến nơi, đến chốn, khơng ngại khó, nguy hiểm, cố gắng
làm việc tốt cho dân, cho nước.
Hai là, phát huy vai trị tích cực của báo chí, truyền thơng, kiểm sốt,
quản lý tốt các hoạt động báo chí, xuất bản, internet và mạng xã hội.
Phát huy vai trò, trách nhiệm của các cơ quan báo chí, truyền thơng
trong đấu tranh với các luận điệu thù địch, sai trái, phòng, chống “tự diễn
biến”, “tự chuyển hóa”. Các cơ quan báo chí, truyền thơng phải phản ánh
trung thực, kịp thời, góp phần đưa chính sách pháp luật của Đảng và Nhà
nước vào cuộc sống và là kênh thông tin quan trọng phát hiện những mặt tiêu
cực trong xã hội, những biểu hiện suy thoái của cán bộ, đảng viên, cơng chức,
viên chức. Bên cạnh đó, báo chí, truyền thơng đóng vai trị giám sát và phản
biện xã hội; nâng cao hiệu quả tuyên truyền, nêu gương người tốt, việc tốt,
lấy nhân tố tích cực để đẩy lùi tiêu cực, chú trọng việc giáo dục đạo đức bằng
cách nêu gương của cán bộ, đảng viên, thực hiện nghiêm Quy định số 08QĐi/TW ngày 25/10/2018 của Ban Chấp hành Trung ương quy định trách
nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, trước hết là Ủy viên Bộ Chính trị,

Ủy viên Ban Bí thư, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương.
Đặc biệt, báo chí và các phương tiện thơng tin đại chúng phải cổ vũ,
động viên sự vào cuộc quyết liệt của cả hệ thống chính trị, huy động sức
17


mạnh của tồn dân trong cuộc đấu tranh phịng, chống tham nhũng, "làm cho
quần chúng khinh ghét tệ tham ô, lãng phí, quan liêu; biến hàng vạn, hàng
triệu con mắt, lỗ tai cảnh giác của quần chúng thành những ngọn đèn pha soi
sáng khắp mọi nơi, không để cho tệ tham ơ, lãng phí, quan liêu cịn chỗ ẩn
nấp" như lời Bác Hồ đã căn dặn.
Ba là, phải tiếp tục đẩy mạnh, nâng cao hiệu quả công tác tuyên
truyền, giáo dục, tạo sự tự giác, thống nhất cao về ý chí và hành động trong
cán bộ, đảng viên và nhân dân về phịng, chống tham nhũng.
Có thấm nhuần đạo đức cách mạng, cán bộ, đảng viên mới giữ gìn
được lối sống trong sạch, kiên quyết đấu tranh với chủ nghĩa cá nhân, cơ hội,
thực dụng và mọi tệ nạn xã hội. Chính phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống
của cán bộ, đảng viên là sức “đề kháng” mạnh mẽ chống lại mọi suy thoái,
biến chất. Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 4 khóa XI và Nghị quyết
Hội nghị Trung ương lần thứ 4 khóa XII của Đảng đã chỉ rõ những biểu hiện
suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển
hóa” của cán bộ, đảng viên và những giải pháp cơ bản để khắc phục, ngăn
ngừa. Trong tình hình hiện nay, cùng với việc thực hiện quyết liệt các giải
pháp nêu trên, cần bổ sung thêm những biện pháp, những cách làm mới, thiết
thực. Đổi mới công tác quản lý, kê khai tài sản của đảng viên đối với chi bộ;
tăng cường các biện pháp giáo dục, kiểm tra, giám sát cán bộ, đảng viên. Nếu
như những biểu hiện “lệch chuẩn”, sự suy thoái về đạo đức, lối sống sớm
được phát hiện, chấn chỉnh từ nơi đảng viên công tác, thì sự tha hóa, tham
nhũng sẽ được ngăn chặn kịp thời.
Công tác tuyên truyền phải khẳng định rõ quyết tâm của Đảng, Nhà

nước về phòng, chống tham nhũng; làm cho mọi người thấy rõ việc chỉnh đốn
Đảng, xử lý nghiêm khắc nhiều cán bộ, đảng viên sai phạm không làm "chậm
lại" sự phát triển, mà ngược lại, càng làm trong sạch, tạo sức mạnh thật sự của
bộ máy và đội ngũ cán bộ, củng cố và tăng cường niềm tin của nhân dân, tạo
18


động lực mới, khí thế mới để thực hiện thắng lợi mọi nhiệm vụ, tạo sự thống
nhất cao về ý chí và hành động của cán bộ, đảng viên và nhân dân.
Tăng cường phối hợp, kịp thời cung cấp, công khai thơng tin, định
hướng tun truyền về phịng, chống tham nhũng, nhất là chủ động thông tin
về kết quả kiểm tra, thanh tra, xử lý cán bộ, đảng viên vi phạm; về khởi tố,
điều tra, truy tố, xét xử các vụ án tham nhũng, kinh tế; về những vấn đề nhạy
cảm, dư luận xã hội quan tâm trong xử lý tham nhũng. Chú trọng thông tin
tuyên truyền gương người tốt, việc tốt, khắc phục tình trạng thơng tin một
chiều, thơng tin khơng chính xác, mang tính kích động, gây hoang mang hoặc
quy kết về tội danh, mức án trước khi xét xử. Bảo vệ, khen thưởng, động viên
những người làm báo tích cực, dũng cảm đấu tranh chống tham nhũng; đấu
tranh với các luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch, lợi dụng phòng,
chống tham nhũng để chống phá Đảng, Nhà nước; xử lý nghiêm khắc việc
đưa tin sai sự thật, vu cáo, bịa đặt gây hậu quả xấu.
Kiên trì rèn luyện đức tính liêm khiết, xây dựng văn hố tiết kiệm,
khơng tham nhũng trong cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức. Trước hết
là phải xây dựng ý thức tự giác chấp hành, thực hiện nghiêm túc các quy định
của Đảng và pháp luật của Nhà nước về phịng, chống tham nhũng, lãng phí;
chủ động xử lý khi có xung đột lợi ích; xây dựng, thực hiện tốt quy tắc ứng
xử, quy tắc đạo đức nghề nghiệp; phê phán, lên án, đấu tranh với tham nhũng,
lãng phí; trọng liêm sỉ, danh dự, biết xấu hổ khi bản thân và người thân tham
nhũng, lãng phí.
Bốn là, tăng cường kiểm tra, giám sát, kỷ luật Đảng, siết chặt kỷ luật,

kỷ cương; xây dựng đội ngũ cán bộ có đủ phẩm chất, năng lực và uy tín,
ngang tầm nhiệm vụ trong tình hình mới.
Từng tổ chức cơ sở đảng cần hoàn thiện và thực hiện nghiêm quy định
về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, trước hết là của bí thư cấp
ủy các cấp. Tiếp tục đổi mới nội dung, hình thức, nâng cao chất lượng sinh
19


hoạt chi bộ; đề cao tinh thần tự phê bình và phê bình, khắc phục tình trạng nể
nang, né tránh, ngại đấu tranh với những biểu hiện vi phạm. Đồng thời, có cơ
chế bảo vệ, khuyến khích người dám đấu tranh, bảo đảm ngăn chặn kịp thời
mọi biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” ngay từ cơ sở. Cơng tác kiểm
tra, giám sát của Đảng cần tích cực, chủ động và kịp thời bổ sung những nội
dung phù hợp; phối hợp chặt chẽ với cơng tác bảo vệ chính trị nội bộ trong
phát hiện, xử lý cán bộ, đảng viên vi phạm. Từng cấp ủy, tổ chức đảng, ủy ban
kiểm tra các cấp nắm rõ thực trạng và nguy cơ của tình hình “tự diễn biến”,
“tự chuyển hóa” ngay trong tổ chức mình; kịp thời phát hiện sớm và ngăn
chặn hiệu quả mọi biểu hiện vi phạm. Tăng cường hơn nữa vai trò, hiệu quả
hoạt động của Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng, các cơ
quan nội chính, ủy ban kiểm tra các cấp cũng như các cơ quan pháp luật.
Về cán bộ và công tác cán bộ, Đảng ta đã luôn khẳng định: công tác cán bộ là
khâu then chốt của công tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị. Cuộc đấu
tranh PCTN có thành công vững chắc hay không phụ thuộc một phần quan
trọng vào việc có làm tốt cơng tác cán bộ hay khơng. Vì vậy, trong thời gian
tới cần thực hiện nghiêm Quyết định số 205-QĐ/TW ngày 23/9/2019 của Bộ
Chính trị về kiểm sốt quyền lực trong cơng tác cán bộ và chống chạy chức,
chạy quyền.
Tiếp tục làm tốt công tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị, ngăn
chặn, đẩy lùi sự suy thối về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu
hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hố"; đấu tranh mạnh mẽ chống chủ nghĩa cá

nhân, thói ích kỷ vụ lợi, "lợi ích nhóm". Siết chặt kỷ luật, kỷ cương trong
Đảng và bộ máy nhà nước; đối với những người vi phạm phải có hình thức xử
lý kịp thời, nghiêm minh, công khai.
Các cấp ủy, tổ chức đảng phải tăng cường quản lý, giám sát cán bộ,
đảng viên để kịp thời phát hiện, giải quyết từ sớm, ngăn chặn từ đầu sai phạm;
tiến hành mạnh mẽ hơn, quyết liệt hơn công tác kiểm tra, giám sát để kịp thời
20


phát hiện, ngăn chặn, xử lý hành vi tham nhũng. Mục đích kỷ luật là để "trị
bệnh cứu người", cảnh tỉnh, răn đe, do đó phải quán triệt phương châm phòng
ngừa chặt chẽ, ngăn chặn từ gốc, phát hiện từ sớm, xử lý từ đầu, khơng để vi
phạm nhỏ tích tụ thành sai phạm lớn. Tăng cường giám sát của tổ chức đảng
từ trên xuống, giám sát từ dưới lên, phát huy vai trò giám sát lẫn nhau trong
cùng cấp, tăng cường quản lý, giám sát thường ngày đối với đảng viên và cán
bộ lãnh đạo. Xử lý nghiêm kỷ luật của Đảng, đồng thời kỷ luật đảng không
thay thế kỷ luật hành chính, kỷ luật đồn thể và các hình thức xử lý của pháp
luật; đảng viên vi phạm pháp luật đến mức phải truy cứu trách nhiệm hình sự
thì phải xem xét truy cứu trách nhiệm hình sự. Đảng viên ở bất cứ cương vị
công tác nào vi phạm đều phải xử lý nghiêm, làm nghiêm từ trên xuống dưới;
nơi nào tự kiểm tra không phát hiện, hoặc phát hiện nhưng xử lý vi phạm
nương nhẹ thì cấp ủy, người đứng đầu cơ quan, đơn vị, địa phương đó phải
chịu trách nhiệm và có hình thức xử lý đúng mức, không "rút kinh nghiệm"
chung chung. Giao cho Uỷ ban Kiểm tra Trung ương có thể chỉ đạo, kiểm tra,
giám sát, thi hành kỷ luật đảng xuống đến cả đảng bộ cấp huyện và cơ sở khi
cần thiết, tránh tình trạng bao che sai phạm trong nội bộ của các địa phương,
cơ quan, đơn vị.
Cần tập trung khắc phục bằng được những yếu kém trong công tác cán
bộ, những sai phạm của cán bộ khiến dư luận bức xúc. Kiểm tra tồn diện
cơng tác cán bộ; chú trọng kiểm tra, giám sát cán bộ có biểu hiện tham nhũng;

có nhiều dư luận quần chúng phản ánh, tố cáo tham nhũng; cán bộ lãnh đạo,
quản lý các cấp và cán bộ được quy hoạch vào các vị trí lãnh đạo, quản lý.
Cấp ủy, tổ chức đảng, bộ, ngành, chính quyền các cấp và cán bộ, đảng
viên phải nhận diện rõ, đấu tranh quyết liệt, có hiệu quả với các việc làm sai
trái, lợi ích nhóm, mưu lợi cá nhân, với các đối tượng có biểu hiện, hành vi
chạy chức, chạy quyền; bảo vệ cái đúng, chỉ rõ cái sai, can ngăn những việc
làm chưa đúng, phát hiện và xử lý kịp thời việc lạm dụng, lợi dụng quyền lực
21


để thực hiện những hành vi sai trái trong công tác cán bộ hoặc tiếp tay cho
chạy chức, chạy quyền; kiên quyết hủy bỏ, thu hồi các quyết định không đúng
về công tác cán bộ, đồng thời xử lý nghiêm những tổ chức, cá nhân sai phạm,
có hành vi tham nhũng trong cơng tác cán bộ; thực hiện có hiệu quả chủ
trương bố trí một số chức danh cán bộ lãnh đạo cấp tỉnh, cấp huyện không
phải là người địa phương. Kiên quyết thực hiện có hiệu quả việc sắp xếp lại
bộ máy, tinh giản biên chế, gắn với cải cách chế độ công vụ, cơ cấu lại đội
ngũ cán bộ, cơng chức, viên chức và đổi mới chính sách tiền lương; xây dựng
đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược có đủ phẩm chất, năng lực và
uy tín, ngang tầm nhiệm vụ theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 6, Trung
ương 7 khóa XII.
Năm là, nâng cao hiệu quả công tác phát hiện, xử lý các vụ việc, vụ án
tham nhũng, nhất là ở các địa phương, cơ sở; xử lý, ngăn chặn có hiệu quả tệ
"tham nhũng vặt"; nâng cao hiệu quả thu hồi tài sản tham nhũng.
Cần tập trung lãnh đạo, chỉ đạo, tạo sự chuyển biến mạnh mẽ, rõ rệt
hơn trong phát hiện, xử lý tham nhũng ở địa phương, cơ sở, khắc phục tình
trạng "trên nóng, dưới lạnh". Tập trung chỉ đạo thanh tra, kiểm tra, kiểm tốn
vào những nơi có vấn đề phức tạp, dư luận quan tâm, các lĩnh vực dễ nảy sinh
tiêu cực, tham nhũng; xử lý, ngăn chặn có hiệu quả tình trạng vịi vĩnh, nhũng
nhiễu, "gợi ý", "lót tay", gây phiền hà cho người dân và doanh nghiệp trong

giải quyết công việc. Đẩy nhanh tiến độ xác minh, điều tra, xử lý các vụ án,
vụ việc tham nhũng, kinh tế, nhất là các vụ việc, vụ án nghiêm trọng, phức
tạp, dư luận xã hội đặc biệt quan tâm; kiên quyết xử lý nghiêm minh, kịp thời,
đúng quy định của Đảng và pháp luật của Nhà nước, không có vùng cấm,
khơng có đặc quyền, khơng có ngoại lệ.
Bổ sung, hoàn thiện quy định về xử lý trách nhiệm đối với tổ chức, cá
nhân thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, thanh tra, kiểm tốn nhưng khơng phát
hiện được sai phạm, sau đó sai phạm này lại được phát hiện bởi các đoàn
22


×