TRƯỜNG ĐẠI HỌC NỘI VỤ HÀ NỘI
KHOA PHÁP LUẬT HÀNH CHÍNH
TÊN ĐỀ TÀI
GIẢI PHÁP HỒN THIỆN HỆ THỐNG CƠ QUAN ĐƯỢC GIAO
CHỨC NĂNG THANH TRA CHUYÊN NGÀNH HIỆN NAY
BÀI TIỂU LUẬN KẾT THÚC HỌC PHẦN
Học phần: Pháp luật về thanh tra, khiếu nại, tố cáo
Giảng viên giảng dạy:TS Phạm Thị Anh Đào
Mã phách: …………………………………
Quảng Nam-2021
DANH MỤC VIẾT TẮT
NĐ
Nghị định
CP
Chính Phủ
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU....................................................................................................................... 1
Chương I........................................................................................................................ 3
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THANH TRA CHUYÊN NGÀNH HIỆN NAY.....3
1.1. Khái niệm và đặc trưng của thanh tra chuyên ngành hiện nay................................3
1.2. Nhiệm vụ, quyền hạn của những người tiến hành thanh tra chuyên ngành thì........5
Chương II......................................................................................................................7
THỰC TIỄN HỆ THỐNG CƠ QUAN ĐƯỢC GIAO CHỨC NĂNG THANH TRA
CHUYÊN NGÀNH HIỆN NAY....................................................................................7
2.1. Hệ thống cơ quan được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành............7
2.2. Thực tiễn hệ thống cơ quan được giao chức năng thanh tra chuyên ngành...........12
Chương III...................................................................................................................22
GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN HỆ THỐNG CƠ QUAN ĐƯỢC GIAO CHỨC NĂNG
THANH TRA CHUYÊN NGÀNH HIỆN NAY..........................................................22
3.1. Đổi mới nhận thức về tổ chức và hoạt động thanh tra chuyên ngành và kiểm tra
trong quản lý nhà nước................................................................................................22
3.2. Quy định rõ về nội dung, thẩm quyền thanh tra chuyên ngành và kiểm tra của thủ
trưởng cơ quan quản lý................................................................................................23
3.3. Quy định về trình tự, thủ tục thanh tra chuyên ngành và kiểm tra chuyên
ngành phải phù hợp với tính chất của mỗi hoạt động này............................................24
3.4. Quy định cụ thể giá trị pháp lý của hoạt động kiểm tra, việc kế thừa, sử dụng các
kết quả này trong các hoạt động thanh tra....................................................................24
KẾT LUẬN.................................................................................................................26
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Thanh tra là một chức năng quan trọng góp phần tạo nên hiệu quả trong
quản lý nhà nước. Thông qua thanh tra, nhiều vụ việc vi phạm pháp luật, tham
nhũng đã được phát hiện, từ đó các chủ thể quản lý nhà nước nắm bắt được tình
hình thực hiện pháp luật và nhiệm vụ mà Nhà nước giao cho các đối tượng quản
lý thuộc thẩm quyền, phát hiện những ưu khuyết điểm trong quản lý; trong cơng
tác điều hành, chỉ đạo, từ đó kịp thời ban hành những quyết định hay biện pháp
khắc phục, sửa chữa cũng như các biện pháp tác động phù hợp nhằm củng cố
trật tự pháp luật và phát huy dân chủ trong đời sống xã hội. Tổ chức và hoạt
động thanh tra Việt Nam được hình thành và phát triển qua nhiều giai đoạn.
Sau khi ban hành Sắc lệnh thành lập Ban thanh tra đặc biệt, từ 1945 đến
1990, Nhà nước ta đã ban hành gần 40 văn bản các loại (1 luật, 6 sắc lệnh và
lệnh, 20 nghị định, nghị quyết, 5 quyết định, 6 thông tư, 1 nội quy) quy định về
việc thành lập, giải thể, quy định về chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan thanh
tra cũng như của người đứng đầu cơ quan thanh tra... Các hình thức cơ quan
Thanh tra lần lượt ra đời như Cục tổng thanh tra Quân đội, Nha Tổng thanh tra
tài chính, Nha Thanh tra của Bộ Canh nơng... Đến năm 1969, Uỷ ban thanh tra
Chính phủ được thành lập lại và được củng cố, tăng cường cả về tổ chức và chức
năng, nhiệm vụ. Từ đó, hoạt động của Uỷ ban thanh tra Chính phủ và các tổ
chức Thanh tra đã bám sát vào nhiệm vụ chính trị của đất nước trong từng giai
đoạn cách mạng, góp phần to lớn vào sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc và xây dựng đất
nước.
Trên thực tế, theo Luật Thanh tra năm 2010, bên cạnh những thành tựu đã
đạt được, chức năng hoạt động thanh tra thời gian qua cũng còn bộc lộ nhiều yếu
kém, bất cập như: tổ chức thanh tra cịn dàn trải, thiếu tập trung, khơng thống
nhất, hoạt động thanh tra còn chồng chéo, trùng lặp cả về phạm vi, đối tượng.
Những yếu kém, bất cập trên đã ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng, hiệu quả
2
thanh tra, làm cho chức năng thanh tra yếu kém chưa đáp ứng được yêu cầu của
quản lý và mong mỏi của nhân dân trong công cuộc đổi mới, thực hiện cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Cùng với việc tiến hành cải cách bộ máy nhà
nước, phục vụ yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội theo đường lối đổi mới của
Đảng, việc đổi mới tổ chức và hoạt động của các cơ quan thanh tra là một yêu
cầu cấp thiết được Đảng và nhà nước quan tâm chỉ đạo. Với những bất cập nêu
trên, việc nghiên cứu đề tài “ giải pháp hoàn thiện hệ thống cơ quan được giao
chức năng thanh tra chuyên ngành hiện nay” sẽ hoàn thiên và nâng cao chức
năng của thanh tra.
2. Mục đích
Làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản về chức năng thanh tra chuyên
nghành, đưa ra quan niệm, đặc điểm của chức năng thanh tra chuyên nghành. Từ
đó đề xuất các giải pháp, kiến nghị nhằm kiện toàn tổ chức, nâng cao chất lượng
chức năng thanh tra trong thời gian tới, và các giải pháp phù hợp với tình hình
thực tế.
3. Ý nghĩa
Phân tích, đánh giá, những ưu điểm, kết quả đạt được và những vấn đề
khó khăn, vướng mắc, bất cập trong việc thực hiện chức năng của thanh tra
chuyên ngành. Đề xuất được các giải pháp, kiến nghị nhằm sửa đổi các quy định
pháp luật về thanh tra phù hợp với yêu cầu của thực tiễn để kiện toàn tổ chức và
nâng cao hiệu quả chức năng thanh tra, trong đó có các giải pháp thiết thực, cụ
thể như giải pháp về hoàn thiện quy định pháp luật, giải pháp về tổ chức bộ máy,
giải pháp về tổ chức thực hiện pháp luật. Phát hiện những vấn đề khó khăn,
vướng mắc, chồng chéo của thanh tra, từ đó đề ra các giải pháp nhằm nâng cao
năng lực, hiệu quả công tác thanh tra.
3
Chương I
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THANH TRA CHUYÊN NGÀNH HIỆN
NAY
1.1. Khái niệm và đặc trưng của thanh tra chuyên ngành hiện nay
1.1.1. Khái niệm về thanh tra chuyên ngành
Theo cách hiểu thông thường, Thanh tra chuyên ngành được hiểu sơ khai
nhất là hoạt động thanh tra của cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo ngành,
lĩnh vực đối với cơ quan, tổ chức và cá nhân trong việc chấp hành pháp luật
chuyên ngành, quy định về chuyên môn – kỹ thuật, quy tắc quản lý thuộc ngành,
lĩnh vực đó.
Hoạt động thanh tra chuyên ngành được quy định tại Khoản 3 Luật
Thanh tra 2010: “là hoạt động thanh tra của cơ quan nhà nước có thẩm quyền
theo ngành, lĩnh vực đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc chấp hành
pháp luật chuyên ngành, quy định về chuyên môn – kỹ thuật, quy tắc quản lý
thuộc ngành, lĩnh vực đó”
Ví dụ: Thanh tra chun ngành về bảo hiểm xã hội như: Trong sau tháng
đầu năm 2020, ngành Bảo hiểm xã hội đã thực hiện tốt chức năng thanh tra
chuyên ngành về đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp và bảo hiểm y tế.
Qua quá trình thanh tra chuyên ngành đó, đã chấn chỉnh những tồn tại, vi phạm
và đề ra những biện pháp để các đơn vị kịp thời khắc phục, sửa chữa.
1.1.2. Đặc điểm của thanh tra chuyên ngành
Thanh tra chuyên ngành không phải là hoạt động thanh tra trong nội bộ
mà là hoạt động thanh tra hướng ra bên ngoài. Đối tượng của hoạt động thanh
tra chuyên ngành là mọi cơ quan, tổ chức, cá nhân. Nội dung thanh tra là việc
chấp hành các quy định của pháp luật chuyên ngành, các tiêu chuẩn về chuyên
môn, nghiệp vụ, kỹ thuật trong từng ngành, lĩnh vực cụ thể. Về đặc điểm của
thanh tra chuyên ngành như sau:
4
Thứ nhất,là hoạt động thanh tra do các cơ quan có chức năng quản lý nhà
nước về ngành, lĩnh vực tiến hành, như Bộ, Sở, Thanh tra bộ, Thanh tra sở, cơ
quan được giao thực hiện nhiệm vụ thanh tra chuyên ngành (Tổng cục, Cục
thuộc bộ, Chi cục thuộc sở).
Thứ hai, đối tượng thanh tra chuyên ngành là mọi cơ quan, tổ chức, cá
nhân chịu sự điều chỉnh của pháp luật chuyên ngành.
Thứ ba,nội dung của thanh tra chuyên ngành là xem xét, đánh giá việc
chấp hành pháp luật chuyên ngành, quy định về chuyên môn, kỹ thuật, qui tắc
quản lý của ngành, lĩnh vực. Khi xem xét, các cơ quan tiến hành có quyền xử
phạt vi phạm hành chính đối với hành vi vi phạm.
Xuất phát từ đó, Luật Thanh tra đã quy định cụ thể về thẩm quyền ra
quyết định thanh tra; nội dung quyết định thanh tra; nhiệm vụ, quyền hạn của
Trưởng đoàn thanh tra, thanh tra viên… Cụ thể như sau:
Để bảo đảm tính nhanh nhạy, kịp thời, linh hoạt và đa dạng, đồng thời hạn
chế sự tùy tiện trong hoạt động thanh tra chuyên ngành, Điều 51 Luật thanh tra
đã quy định cụ thể về thẩm quyền ra quyết định thanh tra chuyên ngành và phân
công Thanh tra viên, người được giao thực hiện nhiệm vụ thanh tra chuyên
ngành tiến hành thanh tra độc lập như sau:
Chánh thanh tra bộ, Chánh thanh tra sở, Thủ trưởng cơ quan được giao
thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành ra quyết định thanh tra và thành lập
Đoàn thanh tra để thực hiện quyết định thanh tra. Khi xét thấy cần thiết, Bộ
trưởng, Giám đốc sở ra quyết định thanh tra và thành lập Đoàn thanh tra.
Thanh tra viên, người được giao thực hiện nhiệm vụ thanh tra chuyên
ngành tiến hành thanh tra độc lập theo sự phân công của Chánh Thanh tra bộ,
Chánh Thanh tra sở, Thủ trưởng cơ quan được giao thực hiện chức năng thanh
tra chuyên ngành.
5
Trong trường hợp phân công Thanh tra viên, người được giao nhiệm vụ
thanh tra chuyên ngành tiến hành thanh tra độc lập thì Chánh Thanh tra bộ,
Chánh Thanh tra sở, Thủ trưởng cơ quan được giao thực hiện chức năng thanh
tra chuyên ngành phải xác định rõ phạm vi, nhiệm vụ, thời hạn tiến hành thanh
tra.
Khi tiến hành thanh tra độc lập, Thanh tra viên phải xuất trình thẻ thanh
tra, người được giao nhiệm vụ thanh tra chuyên ngành phải xuất trình thẻ cơng
chức.
Nội dung quyết định thanh tra chun ngành được quy định tại Điều 52,
trong đó khi ban hành quyết định thanh tra chuyên ngành, người ra quyết định
phải ghi rõ các nội dung sau: Căn cứ pháp lý để thanh tra; Phạm vi, đối tượng,
nội dung, nhiệm vụ thanh tra; Thời hạn thanh tra; Trưởng đoàn thanh tra, Thanh
tra viên và các thành viên khác của đoàn thanh tra…
1.2. Nhiệm vụ, quyền hạn của những người tiến hành thanh tra
chun ngành thì
Đối với Trưởng đồn thanh tra chun ngành: Trong q trình thanh tra,
Trưởng đồn thanh tra có các nhiệm vụ, quyền hạn được quy định tại Điều 53
của Luật Thanh tra. So với quy định hiện hành thì Trưởng đồn thanh tra chun
ngành được bổ sung thêm yêu cầu tổ chức tín dụng phong tỏa tài khoản của đối
tượng thanh tra. Ngoài ra, Điều 53 tiếp tục ghi nhận những quyền hạn, nhiệm vụ
riêng của Trưởng đoàn thanh tra chuyên ngành và quy định rõ những quyền hạn,
nhiệm vụ khác được thực hiện như Trưởng đoàn thanh tra hành chính. Cách thể
hiện này bảo đảm tính thống nhất, cụ thể, rõ ràng và dễ thực hiện.
Đối với thành viên Đoàn thanh tra, Thanh tra viên người được giao thực
hiện nhiệm vụ thanh tra chuyên ngành, người ra quyết định thanh tra chuyên
ngành thì:Khi tiến hành thanh tra theo đoàn, thành viên Đoàn thanh tra, Thanh
tra viên người được giao thực hiện nhiệm vụ thanh tra chuyên ngành có nhiệm
vụ, quyền hạn quy định tại Khoản 1, Khoản 2 Điều 54 của Luật Thanh tra.
6
Khi tiến hành thanh tra độc lập, thanh tra viên, người được giao thực hiện
nhiệm vụ thanh tra chuyên ngành có nhiệm vụ, quyền hạn quy định tại Khoản 3
Điều 54 của Luật Thanh tra.
Nhiệm vụ, quyền hạn của người ra quyết định thanh tra chuyên ngành
được quy định tại Điều 55 của Luật thanh tra.
7
Chương II
THỰC TIỄN HỆ THỐNG CƠ QUAN ĐƯỢC GIAO CHỨC NĂNG
THANH TRA CHUYÊN NGÀNH HIỆN NAY
2.1. Hệ thống cơ quan được giao thực hiện chức năng thanh tra
chuyên ngành
2.1.1 Hệ thống cơ quan được giao thực hiện chức năng thanh tra
chuyên nghành
Cơ quan được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành gồm
Tổng cục và tương đương, Cục thuộc Bộ như Cục Quản lý thị trường, Cục Hóa
chất, Cục Kỹ thuật an tồn và Mơi trường cơng nghiệp (Bộ Công Thương);
Tổng cục Đường bộ Việt Nam, Cục Đường sắt Việt Nam, Cục Đường thủy nội
địa Việt Nam, Cục Hàng hải Việt Nam, Cục Hàng không Việt Nam (Bộ Giao
thông vận tải); Tổng cục Thống kê (Bộ Kế hoạch và Đầu tư);...
Cục thuộc Tổng cục và tương đương được giao thực hiện chức năng thanh
tra chuyên ngành gồm: Cục Dự trữ Nhà nước khu vực; Cục Hải quan; Kho bạc
Nhà nước tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; Cục thuế; Cục Thống kê.
Chi cục thuộc Sở, Chi cục thuộc Cục và tương đương được giao thực hiện
chức năng thanh tra chuyên ngành gồm: Cảng vụ Hàng không, Cảng vụ Hàng
hải, Cảng vụ Đường thủy nội địa thuộc Cục Đường thủy nội địa Việt Nam; Chi
cục Thuế; Trung tâm Tần số khu vực; Chi cục Quản lý thị trường thuộc Sở Cơng
Thương; Chi cục An tồn vệ sinh thực phẩm, Chi cục Dân số - Kế hoạch hóa gia
đình thuộc Sở Y tế; Chi cục về bảo vệ thực vật, thú y, thủy sản, quản lý chất
lượng nông lâm sản và thủy sản, thủy lợi, đê điều, lâm nghiệp, phát triển nông
thôn thuộc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn.
Để đảm bảo được yêu cầu xử lý nhanh chóng, kịp thời các hành vi vi
phạm pháp luật, nhất là các vi phạm xảy ra ngày càng nhiều trong một số lĩnh
vực liên quan đến đời sống sinh hoạt của nhân dân và khắc phục được khó khăn
8
trên, Luật thanh tra đã giao chức năng thanh tra chuyên ngành ở ngành, lĩnh vực
cho các tổng cục, cục thuộc bộ, chi cục thuộc sở thực hiện. Đây là nội dung phản
ánh sự đổi mới về nhận thức trong tổ chức thực hiện hoạt động thanh tra chuyên
ngành. Tuy nhiên, điểm cần lưu ý là theo quy định của Luật thanh tra năm 2010
thì khơng phải bất kỳ tổng cục, cục thuộc bộ, chi cục thuộc sở nào cũng được
giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành mà việc giao chức năng thanh
tra chuyên ngành phải xuất phát từ yêu cầu công tác quản lý nhà nước và các cơ
quan nào được giao thực hiện chức năng thanh tra này sẽ do Chính phủ quy định
theo đề nghị của Tổng Thanh tra Chính phủ sau khi đã thống nhất với Bộ
trưởng.
Ngoài ra, để tránh việc thành lập các cơ quan thanh tra ở các cơ quan
được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành, Luật Thanh tra cũng
khẳng định rõ các cơ quan được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên
ngành không thành lập cơ quan thanh tra chuyên ngành độc lập mà hoạt động
thanh tra ở các cơ quan này do Thủ trưởng cơ quan được giao thực hiện chức
năng thanh tra chuyên ngành thực hiện, tức là Thủ trưởng có trách nhiệm trực
tiếp xây dựng kế hoạch thanh tra, quyết định thanh tra, thành lập Đồn thanh tra,
cử cán bộ, cơng chức thực hiện nhiệm vụ thanh tra, kết luận thanh tra. Hoạt
động thanh tra của các cơ quan được giao thực hiện chức năng thanh tra chun
ngành do chính các cơng chức của cơ quan được giao thực hiện chức năng thanh
tra chuyên ngành đó thực hiện. Q trình thực hiện nhiệm vụ thanh tra, các công
chức được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành có quyền yêu cầu
đối tượng thanh tra cung cấp thông tin, tài liệu liên quan đến nội dung thanh
tra, được quyền xử phạt vi phạm hành chính và chịu trách nhiệm trước pháp luật
về các quyết định, hành vi của mình trong quá trình thực hiện nhiệm vụ thanh
tra.
9
2.1.2. Đặc điểm và nhiệm vụ quyền hạn của cơ quan được giao chức
năng thanh tra chuyên ngành
Thứ nhất, cơ quan tiến hành thanh tra chuyên ngành mang tính quyền lực
Nhà nước và thực hiện quyền lực Nhà nước để tiến hành các hoạt động thanh
tra.
Thanh tra là một hoạt động mang tính quyền lực Nhà nước. Để thực hiện
chức năng quản lý Nhà nướccơ quan tiến hành thanh tra phải tác động tích cực
nhằm thực hiện quyền lực của chủ thể quản lý đối với đối tượng quản lý. Tính
quyền lực Nhà nước của hoạt động thanh tra thể hiện ở chỗ, các cơ quan, tổ
chức, cá nhân là cơ quan tiến hành thanh tra đều có nhiệm vụ, quyền hạn được
xác định và khả năng thực hiện những quyền hạn đó.
Trong hoạt động thanh tra, các cơ quan tiến hành thanh tra chuyên ngành,
như trưởng đoàn thanh tra chuyên ngành; các thành viên đoàn thanh tra chuyên
ngành; thanh tra viên, người được giao thực hiện nhiệm vụ thanh tra chuyên
ngành tiến hành thanh tra độc lập; người ra quyết định thanh tra chuyên ngành
được thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định tại các Điều 53, 54, 55 Luật
Thanh tra. Ngoài ra, thực hiện quyền trong hoạt động thanh tra còn được quy
định từ Điều 34 đến Điều 42 Nghị định 86/2011/NĐ-CP ngày 22/9/2011 của
Chính phủ Quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thanh
tra.
Thứ hai, cơ quan, tổ chức, cá nhân chỉ thể hiện vai trò cơ quan tiến hành
thanh tra chuyên ngành trong giai đoạn lịch sử cụ thể hoặc khoảng thời gian nhất
định theo quy định của pháp luật, tùy thuộc vào vị trí, chức năng, nhiệm vụ của
từng chủ thể.
Năng lực cơ quan tiến hành thanh tra của cơ quan thanh tra Nhà nước phát
sinh khi cơ quan đó được thành lập và chấm dứt khi cơ quan đó bị giải thể. Năng
lực này được pháp luật của Nhà nước quy định cụ thể về chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn của cơ quan quản lý chuyên ngành, lĩnh vực, chuyên môn - kỹ thuật,
10
như bộ, sở. Đối với tổng cục, cục, chi cục thuộc sở, chi cục thuộc cục và tương
đương chỉ được thực hiện chức năng chuyên ngành khi pháp luật quy định. Biểu
hiện cụ thể là sau khi Nghị định 07/2012/NĐ-CP ngày 9/2/2012 của Chính phủ
quy định về cơ quan được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành và
hoạt động thanh tra chuyên ngành được ban hành, nhiều tổng cục, cục thuộc 12
bộ, 5 cục thuộc tổng cục và tương đương, 6 chi cục thuộc sở, chi cục thuộc cục
và tương đương đã được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành.
Năng lực cơ quan tiến hành thanh tra của các cá nhân cán bộ, công chức
phát sinh khi họ được Nhà nước giao đảm nhiệm một công vụ, chức vụ nhất
định trong cơ quan thanh tra Nhà nước, cơ quan được giao thực hiện chức năng
thanh tra chuyên ngành, đoàn thanh tra hoặc nhiệm vụ thanh tra độc lập và chấm
dứt khi khơng cịn đảm nhiệm chức vụ, cơng vụ đó. Biểu hiện cụ thể là các
quyết định bổ nhiệm cán bộ vào các vị trí lãnh đạo quản lý (bộ trưởng, giám đốc
sở, thủ trưởng cơ quan được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành,
chánh thanh tra bộ, chánh thanh tra sở). Đối với cán bộ tham gia các đồn thanh
tra với vai trị trưởng đồn, phó trưởng đồn, thành viên đồn thanh tra, thanh tra
viên, người được giao thực hiện nhiệm vụ thanh tra chuyên ngành tiến hành
thanh tra độc lập, năng lực chủ thể của các cá nhân phát sinh khi quyết định
thanh tra được ban hành và chấm dứt khi hết thời hạn thanh tra hoặc hoàn thành
nhiệm vụ thanh tra.
Thứ ba, cơ quan là chủ thể tiến hành thanh tra chuyên ngành (thanh tra bộ,
thanh tra sở), người trực tiếp tiến hành thanh tra chun ngành có tính độc lập
tương đối với cơ quan quản lý Nhà nước.
Thanh tra luôn gắn liền với quản lý Nhà nước. Trong mối quan hệ giữa
quản lý và thanh tra thì quản lý Nhà nước giữ vai trò chủ đạo, chi phối hoạt
động của thanh tra. Xét về cơ cấu, chức năng của quản lý thì thanh tra chỉ là
những cơng cụ, phương tiện để quản lý Nhà nước, tuy nhiên thanh tra cũng có
tính độc lập tương đối với quản lý Nhà nước.
11
Luật Thanh tra 2010 đã xác định tính độc lập tương đối của các cơ quan
thanh tra với cơ quan quản lý Nhà nước cùng cấp, cụ thể là chánh thanh tra cấp
sở, bộ có thẩm quyền quyết định việc thanh tra theo kế hoạch và thanh tra đột
xuất khi có dấu hiệu vi phạm pháp luật và chịu trách nhiệm về quyết định của
mình, có quyền u cầu thủ trưởng cơ quan được giao thực hiện chức năng
thanh tra chuyên ngành cùng cấp tiến hành thanh tra trong phạm vi quản lý của
cơ quan đó khi phát hiện có dấu hiệu vi phạm pháp luật. Trường hợp thủ trưởng
cơ quan được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành khơng đồng ý
thì có quyền ra quyết định thanh tra, báo cáo và chịu trách nhiệm trước thủ
trưởng cơ quan quản lý Nhà nước cùng cấp về quyết định của mình.
Ngồi ra, chánh thanh tra bộ, chánh thanh tra sở, thủ trưởng cơ quan được
giao thực hiện chức năng thanh tra chun ngành cịn có quyền ra quyết định
phân công thanh tra viên, người được giao nhiệm vụ thanh tra chuyên ngành tiến
hành thanh tra độc lập, trong khi thủ trưởng cơ quan quản lý Nhà nước khơng có
thẩm quyền này.
Thứ tư, chủ thể tiến hành thanh tra chuyên ngành được áp dụng 3 hình
thức tiến hành thanh tra là thanh tra theo kế hoạch, thanh tra thường xuyên và
thanh tra đột xuất, trong khi đó thanh tra hành chính chỉ có 2 hình thức (thanh
tra theo kế hoạch và thanh tra đột xuất).
Ngồi ra, Luật Thanh tra cịn quy định khi tiến hành thanh tra chuyên
ngành, chánh thanh tra bộ, chánh thanh tra sở, thủ trưởng cơ quan được giao
thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành căn cứ vào kế hoạch thanh tra đã
được phê duyệt có thẩm quyền ra quyết định phân công thanh tra viên, người
được giao nhiệm vụ thanh tra chuyên ngành tiến hành thanh tra độc lập; để tiến
hành các hoạt động thanh tra hành chính là chủ thể tiến hành thanh tra (thủ
trưởng cơ quan thanh tra Nhà nước hoặc thủ trưởng cơ quan quản lý Nhà nước)
chỉ có thẩm quyền ra quyết định thanh tra và thành lập đoàn thanh tra để thực
12
hiện quyết định thanh tra, khơng có thẩm quyền ra quyết định tổ chức thanh tra
độc lập.
2.1.3. Thời hạn thanh tra của Đoàn thanh tra chuyên ngành
Nghị định nêu rõ, cuộc thanh tra chuyên ngành do Thanh tra bộ, Tổng
cục, Cục thuộc Bộ tiến hành không quá 45 ngày; trường hợp phức tạp có thể kéo
dài hơn, nhưng khơng q 70 ngày.
Cuộc thanh tra chuyên ngành do Thanh tra sở, Chi cục thuộc Sở tiến hành
không quá 30 ngày; trường hợp phức tạp có thể kéo dài hơn, nhưng khơng quá
45 ngày.
Thời hạn của cuộc thanh tra được tính từ ngày công bố quyết định thanh
tra đến ngày kết thúc việc thanh tra tại nơi được thanh tra.
Đoàn thanh tra chun ngành có Trưởng đồn thanh tra, Thanh tra viên,
thành viên Đồn thanh tra, cơng chức thanh tra chun ngành; trường hợp cần
thiết có Phó Trưởng đồn thanh tra.
Chậm nhất 15 ngày, kể từ ngày kết thúc cuộc thanh tra, Trưởng đồn
thanh tra phải có văn bản báo cáo kết quả thanh tra, trừ trường hợp nội dung kết
luận thanh tra phải chờ kết luận về chuyên môn của cơ quan, tổ chức có thẩm
quyền.
Căn cứ báo cáo kết quả thanh tra, nội dung giải trình của đối tượng thanh
tra (nếu có), chậm nhất 15 ngày kể từ ngày nhận được báo cáo kết quả thanh tra,
người ra quyết định thanh tra phải ra văn bản kết luận thanh tra; trừ trường hợp
nội dung kết luận thanh tra phải chờ kết luận về chun mơn của cơ quan, tổ
chức có thẩm quyền.
2.2. Thực tiễn hệ thống cơ quan được giao chức năng thanh tra
chuyên ngành
Luật Thanh tra năm 2010 và Nghị định số 07/2012/NĐ-CP của Chính phủ
đã góp phần tạo lập khung pháp lý quan trọng trong việc hoàn thiện tổ chức và
13
nâng cao hiệu quả hoạt động thanh tra. Mặc dù đã đạt được những kết quả nhất
định, song công tác thanh tra những năm qua cho thấy các quy định của Luật
này vẫn cịn khơng ít hạn chế, bất cập.
Ưu điểm
Thứ nhất, về mặt tổ chức, cơ quan được giao thực hiện chức năng thanh
tra chuyên ngành không thành lập cơ quan thanh tra độc lập
Bên cạnh bộ máy Thanh tra Nhà nước, Nghị định số 07/2012/NĐ-CP của
Chính phủ quy định một số Tổng cục, Cục thuộc Bộ và Chi cục thuộc Sở cũng
thực hiện hoạt động thanh tra chuyên ngành nhưng không thành lập dưới dạng tổ
chức thanh tra. Để làm rõ nội dung này phải lí giải xuất phát từ yếu tố lịch sử
cũng như đặc trưng của hoạt động thanh tra chuyên ngành trên thực tế.
Từ Luật Thanh tra năm 2004 đã xác định mỗi Bộ, Sở chỉ thành lập duy
nhất một tổ chức thanh tra để thống nhất về hoạt động và quản lý; không quy
định việc thành lập cơ quan thanh tra ở các Tổng cục, Cục và Chi cục. Song trên
thực tế có khơng ít Tổng cục, Cục và Chi cục thành lập cơ quan thanh tra chuyên
ngành để đáp ứng yêu cầu quản lý nhà nước của ngành, lĩnh vực. Việc thành lập
các cơ quan thanh tra này đã dẫn đến hoạt động thanh tra bị trùng lặp về phạm
vi; làm tăng biên chế, tổ chức bộ máy nhà nước; các cơ quan thanh tra ngày
càng bị chia cắt. Đồng thời mơ hình, tổ chức, trình tự thủ tục hoạt động của
thanh tra chuyên ngành ở mỗi lĩnh vực lại được quy định rất khác nhau. Mặc dù
vậy, nếu khắc phục nhược điểm này bằng cách xóa bỏ các cơ quan thanh tra
chuyên ngành ở các Tổng cục, Cục và Chi cục và giao chức năng thanh tra
chuyên ngành cho Thanh tra Bộ, Thanh tra Sở thì nhiều tổ chức Thanh tra Bộ,
Thanh tra Sở khơng thể đảm nhận được, vì nhiệm vụ thanh tra ngày càng lớn,
trong khi đó số lượng thanh tra viên mỏng.
Vì vậy, để giải quyết mâu thuẫn đó, trên cơ sở vừa đảm bảo được yêu cầu
xử lý nhanh chóng, kịp thời các hành vi vi phạm pháp luật, vừa thống nhất về
mặt tổ chức thanh tra, không “phình” thêm bộ máy, Luật Thanh tra năm 2010 và
14
Nghị định số 07/2012/NĐ-CP của Chính phủ đã giao chức năng thanh tra
chuyên ngành cho các Tổng cục, Cục thuộc Bộ và Chi cục thuộc Sở thực hiện.
Đây là nội dung phản ánh sự đổi mới về nhận thức trong tổ chức thực hiện hoạt
động thanh tra chuyên ngành. Tuy nhiên, không phải bất kỳ Tổng cục, Cục thuộc
Bộ và Chi cục thuộc Sở nào cũng được giao thực hiện chức năng thanh tra
chuyên ngành mà việc giao chức năng thanh tra chuyên ngành phải xuất phát từ
yêu cầu công tác quản lý nhà nước và các cơ quan nào được giao thực hiện chức
năng thanh tra này sẽ do Chính phủ quy định theo đề nghị của Tổng Thanh tra
Chính phủ sau khi đã thống nhất với Bộ trưởng. Như vậy tinh thần của Luật
Thanh tra 2010 và Nghị định số 07/2012/NĐ-CP của Chính phủ là ở đâu có quản
lý nhà nước thì ở đó có hoạt động thanh tra, nhưng khơng phải cứ có hoạt động
thanh tra là phải thành lập tổ chức thanh tra.
Thứ hai, hoạt động thanh tra chuyên ngành ở cơ quan được giao nhiệm
vụ thanh tra chuyên ngành là do người được giao thực hiện nhiệm vụ thanh tra
chuyên ngành thực hiện. Người được giao thực hiện chức năng thanh tra
chuyên ngành không phải là thanh tra viên mà chính là cơng chức của ngành.
Hoạt động thanh tra chuyên ngành luôn gắn với những cơ quan thực hiện
chức năng quản lý về ngành, lĩnh vực, do chính cơ quan này thực hiện thơng qua
đội ngũ cán bộ của cơ quan đó. Bởi vì, hoạt động thanh tra chun ngành địi hỏi
tính kịp thời, chủ động, chính xác và chun mơn cao. Người được giao
thực hiện nhiệm vụ thanh tra chuyên ngành là công chức thuộc biên chế của cơ
quan được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành (sau đây gọi là
công chức thanh tra chuyên ngành) có đủ điều kiện, tiêu chuẩn theo quy định
của ngạch công chức đang giữ và các tiêu chuẩn như: am hiểu pháp luật, có
chun mơn phù hợp với lĩnh vực được giao thực hiện nhiệm vụ thanh tra
chun ngành; có nghiệp vụ thanh tra; có ít nhất 01 năm làm công tác chuyên
môn trong lĩnh vực được giao thực hiện nhiệm vụ thanh tra chuyên ngành
(không kể thời gian tập sự). Tiêu chuẩn cụ thể của công chức thanh tra chuyên
15
ngành do Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ ban hành. Cơng chức thanh
tra chun ngành có trang phục, thẻ công chức và được hưởng chế độ bồi dưỡng
khi thực hiện nhiệm vụ thanh tra.
Từ những ưu điểm trên thì cơng tác thanh tra triển khai thực hiện Thanh
tra nói chung và thanh tra chuyên ngành nói riêng đã tạo ra hành lang pháp lý
quan trọng trong việc hoàn thiện tổ chức và nâng cao hoạt động thanh tra, góp
phần ổn định tình hình kinh tế xã hội, nâng cao hiệu quả quản lý Nhà nước và
cơng tác phịng chống tham nhũng. Hàng năm, các cơ quan thanh tra đã tiến
hành hàng nghìn cuộc thanh tra trên các lĩnh vực dưới các hình thức khác nhau,
qua đó giúp cơ quan quản lý nhà nước ở các cấp, các ngành chấn chỉnh, đổi mới
hoạt động quản lý, điều hành; phát hiện, xử lý nhiều hành vi vi phạm pháp luật,
góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động quản lý nhà nước.
Hoạt động thanh tra chuyên ngành luôn được tổ chức bảo đảm sự chủ
động, bám sát định hướng, kế hoạch thanh tra hàng năm được Thủ trưởng cơ
quan quản lý nhà nước có thẩm quyền phê duyệt. Việc thanh tra đột xuất được
chú trọng thực hiện, phục vụ kịp thời yêu cầu của công tác quản lý nhà nước.
Các cơ quan thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành duy trì hoạt động
thanh tra thường xun, góp phần bảo đảm việc chấp hành pháp luật chuyên
ngành, quy định về chuyên môn – kỹ thuật, quy tắc quản lý trên các ngành, lĩnh
vực.
Nhược điểm
Mặc dù số lượng văn bản điều chỉnh hoạt động quản lý, thanh tra chuyên
ngành và kiểm tra khá nhiều nhưng cho đến nay chưa có quy định pháp lý nào
phân biệt rõ ràng hai hoạt động này nên nhìn từ góc độ quản lý, việc áp dụng
còn chưa thống nhất, chồng chéo.
Một là, quy định về hình thức thanh tra chuyên ngành chưa rõ dẫn đến sự
lúng túng trong quá trình thực hiện. Thời gian qua, việc tiến hành các cuộc thanh
tra chuyên ngành theo Đoàn thanh tra đã được thực hiện trên cơ sở quy trình tiến
16
hành một cuộc thanh tra với trình tự được thực hiện khá thống nhất. Tuy nhiên,
hoạt động thanh tra chuyên ngành thường xuyên, nhất là khi tiến hành hoạt động
thanh tra mà do thanh tra viên, công chức được giao nhiệm vụ thanh tra chun
ngành thực hiện, khơng phải Đồn thanh tra thì hiện nay chưa có quy định thống
nhất. Bản chất của hoạt động thanh tra thường xuyên là kiểm tra thường xuyên.
Quy định pháp lý vẫn bỏ dở vấn đề này. Ngay quy định tại Điều 37 “Hoạt động
thanh tra được thực hiện theo kế hoạch, thanh tra thường xuyên hoặc thanh tra
đột xuất“. Trong khi đó, tại Chương III của Nghị định 07 chỉ quy định thanh tra
chuyên ngành theo kế hoạch và thanh tra chuyên ngành đột xuất. Cho đến nay
chưa có văn bản nào hướng dẫn cụ thể thế nào là thanh tra thường xuyên nên có
nhiều vướng mắc trong q trình thực hiện. Hầu hết các nghị định về tổ chức và
hoạt động thanh tra các ngành hiện nay đều khơng có quy định chi tiết về trình
tự, thủ tục tiến hành thanh tra chuyên ngành do thanh tra viên và người được
giao nhiệm vụ thanh tra chuyên ngành. Các thủ tục này chủ yếu do các cơ quan
được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành xây dựng và thực hiện
dựa trên các văn bản quy phạm pháp luật về thanh tra, kiểm tra hành chính nói
chung. Đây có thể coi là lỗ hổng pháp lý lớn, cần phải khắc phục kịp thời.
Hai là, quy định về bộ phận trực tiếp tiến hành thanh tra chuyên ngành
chưa phù hợp với thực tiễn, ảnh hưởng đến tính thống nhất và tính chun mơn
hóa cao cho hoạt động thanh tra chuyên ngành. Về cơ bản, các Nghị định về
thanh tra chuyên ngành trên các lĩnh vực đã căn cứ và tuân thủ theo quy định
của Luật Thanh tra 2010 và bảo đảm thống nhất với các Nghị định hướng dẫn
của Luật Thanh tra 2010, đồng thời cụ thể hóa thêm các quy định của Luật
Thanh tra 2010 và Nghị định 07/2012/NĐ-CP về hoạt động thanh tra chuyên
ngành của cơ quan được giao thực hiện chức năng Thanh tra chuyên ngành. Tuy
nhiên, rà soát nội dung các nghị định nói trên so với Nghị định số 07/2012/NĐCP và một số văn bản quy phạm pháp luật khác đã cho thấy sự thiếu thống nhất
trong quy định về bộ phận tham mưu của các cơ quan được giao thực hiện chức
năng thanh tra chuyên ngành. Bộ phận tham mưu làm nhiệm vụ thanh tra chuyên
17
ngành có nhiều tên gọi khác nhau trong những cơ quan được giao thực hiện
chức năng thanh tra chuyên ngành. Có cơ quan được giao thực hiện chức năng
thanh tra chuyên ngành thành lập đơn vị trực thuộc có tên gọi là “thanh tra”
nhưng có cơ quan thành lập đơn vị tham mưu có các tên gọi khác như “thanh tra,
giám sát”... Chính do sự thiếu thống nhất đó làm ảnh hưởng đến tính chun
mơn của hoạt động này.
Ba là, một số quy định pháp luật về trình tự, thủ tục trong hoạt động thanh
tra chuyên ngành và kiểm tra còn bất cập, chưa phù hợp. Mặc dù pháp luật đã
quy định về căn cứ, trình tự thủ tục tiến hành hoạt động thanh tra chuyên ngành
nhưng trên thực tế, việc áp dụng các quy định này đang bộc lộ những hạn chế
trong quy định của pháp luật và thiếu thống nhất, vướng mắc trong quá trình
thực hiện cần được khắc phục.
- Trong việc quy định gửi kế hoạch thanh tra chuyên ngành cho đối tượng
thanh tra: Theo Khoản 5, Điều 36 Luật Thanh tra năm 2010 quy định việc gửi kế
hoạch thanh tra cho đối tượng thanh tra và cơ quan, tổ chức có liên quan. Quy
định này thể hiện tính cơng khai, dân chủ, minh bạch trong hoạt động thanh tra
nhưng chỉ hoàn toàn phù hợp với hoạt động thanh tra hành chính. Tuy nhiên,
hoạt động thanh tra chuyên ngành có đối tượng và nội dung khác với thanh tra
hành chính, vì vậy, quy định này trong một số trường hợp lại làm ảnh hưởng đến
hiệu quả hoạt động thanh tra chuyên ngành. Có ý kiến cho rằng việc gửi kế
hoạch thanh tra cho đối tượng thanh tra là không phù hợp với đặc điểm của
ngành trong trường hợp Kế hoạch thanh tra chỉ xác định được đối tượng thanh
tra theo diện rộng, theo địa bàn, chỉ xác định nhóm đối tượng thanh tra mà
khơng thể xác định được đích danh đối tượng thanh tra trong Kế hoạch thanh tra
(thanh tra trong lĩnh vực thuế, an toàn vệ sinh thực phẩm, dược phẩm, cơ sở y
tế...).
- Trong quy trình, thủ tục tiến hành một cuộc thanh tra chuyên ngành: Do
đặc thù của đối tượng thanh tra chuyên ngành hầu hết là những cơ sở nhỏ, lẻ (hộ
18
cá thể kinh doanh thực phẩm, nhà thuốc, phòng khám,..) nên thông thường việc
thanh tra tại một cơ sở diễn ra trong thời gian ngắn. Vì vậy, việc thực hiện quy
trình thanh tra theo đúng quy định tại Luật Thanh tra và Thông tư số
05/2014/TT-TTCP ngày 16/10/2014 của Thanh tra Chính phủ quy định về tổ
chức hoạt động, quan hệ cơng tác của Đồn thanh tra và trình tự, thủ tục tiến
hành một cuộc thanh tra, việc công bố quyết định thanh tra, thông qua dự thảo
kết luận thanh tra, công khai kết luận thanh tra, ra văn bản thông báo kết thúc
thanh tra tại cơ sở là rất khó khăn, nhất là các cuộc thanh tra tại các tỉnh, thành
phố, với nhiều đối tượng trong cùng một quyết định thanh tra. Mặt khác, việc
công bố công khai kết luận thanh tra tại cuộc họp với thành phần gồm người ra
quyết định thanh tra hoặc người được ủy quyền, đại diện đoàn thanh tra, đối
tượng thanh tra, cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan rất khó thực hiện và có
nhiều trường hợp khơng cần thiết, gây tốn kém cho ngân sách Nhà nước.
Về thực tiễn áp dụng, hoạt động thanh tra chuyên ngành và kiểm tra thời
gian qua vẫn cịn đó những bất cập nhìn từ góc độ cơ quan quản lý nhà nước tiến
hành hoạt động thanh tra chun ngành, kiểm tra và nhìn từ góc độ đối tượng
chịu sự thanh tra chuyên ngành và kiểm tra.
Còn lúng túng trong việc phân định hoạt động thanh tra chun ngành và
kiểm tra, chưa có tiêu chí thống nhất lựa chọn loại hình áp dụng phù hợp. Thực
tế cho thấy sự chồng chéo và trùng lặp thanh tra chuyên ngành với hoạt động
kiểm tra của thủ trưởng cơ quan quản lý là khó tránh khỏi vì về mặt chủ thể,
kiểm tra và thanh tra chuyên ngành đều cùng thuộc thẩm quyền của cơ quan
quản lý nhà nước và cùng hướng tới đối tượng như nhau. Xu hướng thanh tra
hóa các hoạt động kiểm tra thông thường đang diễn ra khá phổ biến. Chỉ có rất ít
cơ quan quản lý có tiêu chí phân định thanh tra chun ngành và kiểm tra rõ
ràng như Tổng cục Thuế, phân định trên cơ sở phần mềm quản lý rủi ro, tức là
nếu phần rủi ro lớn thì lập kế hoạch thanh tra và phần rủi ro ít hơn thì xây dựng
kế hoạch kiểm tra. Còn về cơ bản, nhiều cơ quan quản lý nhà nước khác chưa
19
xác định được tiêu chí cụ thể khi nào tiến hành thanh tra chuyên ngành, khi nào
tiến hành kiểm tra, ranh giới xác định chỉ mang tính định tính, chưa định lượng
được rõ ràng.
Thủ tục, quy trình thực hiện thanh tra chuyên ngành và kiểm tra do các cơ
quan quản lý nhà nước ban hành quá nhiều khiến đối tượng bị thanh tra, kiểm tra
dễ bị rối, khó phân biệt. Ví dụ, trong lĩnh vực tài chính, sau khi có Luật Thanh
tra năm 2010, cơ quan quản lý nhà nước về lĩnh vực này đã ban hành nhiều quy
trình thanh tra quy định chi tiết trình tự các bước tiến hành một cuộc thanh tra từ
khi chuẩn bị đến khi kết thúc cuộc thanh tra theo từng lĩnh vực.
Kết quả hoạt động của các cơ quan thanh tra chưa có sự tách bạch giữa
hoạt động thanh tra chuyên ngành với kiểm tra. Chính vì cịn lúng túng trong
việc phân định thanh tra chuyên ngành và kiểm tra nên ngay từ khâu ra Quyết
định thành lập đoàn, 2 cụm từ “thanh tra, kiểm tra” thường xuất hiện đi liền với
nhau; trong q trình tiến hành cũng khơng rõ có sự khác nhau về nội dung,
phương thức giữa 2 hình thức này. Trong Báo cáo tổng kết công tác của một số
bộ, ngành, đánh giá kết quả hoạt động thanh tra, kiểm tra cũng chỉ chung chung,
khơng tách bạch hoặc khơng có số liệu báo cáo về số cuộc kiểm tra theo kế
hoạch, số cuộc kiểm tra đột xuất, số cuộc kiểm tra liên ngành. Hầu hết các kết
quả thực hiện nhiệm vụ thanh tra chuyên ngành được các cơ quan báo cáo trong
thời gian qua đều được phản ánh bằng kết quả xử lý đối với các cơ quan, tổ
chức, cá nhân có vi phạm, cụ thể là các hình thức xử lý vi phạm như cảnh cáo,
thu hồi giấy phép, đình chỉ hoạt động, tạm đình chỉ hoạt động và xử phạt vi
phạm hành chính.
Nhiệm vụ, quyền hạn của “bộ phận tham mưu về công tác thanh tra
chuyên ngành” chưa được phân định rõ ràng với “người được giao thực hiện
nhiệm vụ thanh tra chuyên ngành” nên dẫn đến tình trạng hoạt động thanh tra
chuyên ngành bị động, chưa hiệu quả. Việc thực hiện thanh tra chuyên ngành
theo kế hoạch, thường xuyên và đột xuất thường đều do công chức thuộc bộ
20
phận tham mưu về công tác thanh tra chuyên ngành thực hiện. Theo đó, bộ phận
tham mưu này thường thực hiện cả 2 chức năng: Tham mưu cho Thủ trưởng về
công tác thanh tra chuyên ngành và thực hiện quyền thanh tra. Trong khi đó,
nguyên tắc tiến hành hoạt động thanh tra chuyên ngành theo Khoản 2, Điều 3
Nghị định 07/2012/NĐ-CP quy định hoạt động thanh tra chuyên ngành phải
được tiến hành thường xuyên, gắn liền với việc thực hiện nhiệm vụ về chuyên
môn, kỹ thuật, nghiệp vụ và “người được giao thực hiện nhiệm vụ thanh tra
chuyên ngành” không quy định tại đơn vị, bộ phận cụ thể để thỏa mãn tiêu
chuẩn tại Điều 12 Nghị định 07/2012/NĐ-CP.
Nguyên nhân của tồn tại, hạn chế nêu trên là do một số kết luận thanh tra
phát hiện nhiều chủ thể với các sai phạm có giá trị lớn, trong thời gian dài, việc
khắc phục và xử lý gặp nhiều khó khăn hoặc nhiều sai phạm tương tự cần có
thời gian để rà soát, đánh giá và kiến nghị xử lý. Một số nội dung kiến nghị chưa
bám sát tính thực tiễn, tính pháp lý chưa đầy đủ và thuyết phục. Một số kiến
nghị thu hồi kinh tế khơng có tính khả thi như đối tượng thực hiện đã bỏ trốn,
phá sản, chết hoặc mất tích (thường là đối với các khoản thuế) nhưng chưa có cơ
chế theo dõi hoặc xử lý…
Mặt khác, một số đối tượng thanh tra chưa thực hiện nghiêm túc kết luận,
kiến nghị, quyết định xử lý về thanh tra thể hiện qua sự chậm trễ trong thực hiện
và báo cáo hoặc thực hiện mang tính hình thức (trong xử lý hành chính); cá biệt
có đối tượng chây ỳ, cố tình khơng thực hiện. Các cơ quan, tổ chức có liên quan,
trong đó có cơ quan quản lý trực tiếp của đối tượng thanh tra chưa phát huy
trách nhiệm theo quy định đối với việc đôn đốc, chỉ đạo, kiểm tra đối với đối
tượng thanh tra trong quá trình thực hiện kết luận thanh tra.
Nguyên nhân của tồn tại này trước hết là do nhận thức chưa đầy đủ và
trách nhiệm chưa cao của đối tượng thanh tra, các cơ quan, tổ chức có liên quan
trong việc thực hiện kết luận thanh tra. Bên cạnh đó, đối tượng thanh tra gặp khó
khăn về tài chính khi thực hiện những kiến nghị thu hồi kinh tế với giá trị lớn
21
hoặc một số khó khăn về cơ chế xử lý tài chính cần xin ý kiến của cấp trên hoặc
bộ, ngành (đối với các kiến nghị xử lý khác về kinh tế). Đối với các đối tượng
chây ỳ, thực hiện không nghiêm túc hoặc không thực hiện kết luận, kiến nghị,
quyết định xử lý về thanh tra do chưa có các chế tài hoặc lúng túng trong việc áp
dụng chế tài cũng như các biện pháp cưỡng chế nên việc xử lý các đối tượng này
cịn gặp nhiều khó khăn. Ngoài ra, sự phối hợp của các cơ quan chức năng như
thanh tra, kiểm tra, thuế, ngân hàng, công an trong việc đơn đốc thực hiện kết
luận thanh tra cịn chưa được chặt chẽ và đồng bộ.