TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT TP.HCM
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
TIỂU LUẬN CUỐI KÌ
MƠN HỌC: PHÁP LUẬT ĐẠI CƯƠNG
THỰC TRẠNG TỘI PHẠM CƯỚP TÀI SẢN
Ở THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
HIỆN NAY VÀ GIẢI PHÁP
GVHD: ThS. Phạm Xuân Phát
Mã LHP: GELA220405_21_1_42 (Thứ ba, tiết 13-15)
Nhóm SVTH: 10
MSSV
Thạch Cơng
20126084
Trần Thị Thu Thảo
20130063
Nguyễn Trung Thảo
20151564
Nguyễn Thanh Tiền
20144472
Trần Trịnh Trung
20144477
Tp. Hồ Chí Minh, tháng 10 năm 2021
LỜI CẢM ƠN
Thực tế luôn cho thấy, sự thành công nào cũng đều gắn liền với những sự hỗ trợ,
giúp đỡ của những người xung quanh dù cho sự giúp đỡ đó là ít hay nhiều, trực tiếp hay
gián tiếp. Trong suốt thời gian từ khi bắt đầu làm tiểu luận đến nay, nhóm em đã nhận
được sự quan tâm, chỉ bảo, giúp đỡ của thầy và bạn bè xung quanh. Với tấm lịng biết
ơn sâu sắc, nhóm em xin gửi lời cảm ơn chân thành nhất đến thầy Phạm Xuân Phát đã
dùng những tri thức và tâm huyết của mình để có thể truyền đạt cho nhóm em vốn kiến
thức quý báu suốt thời gian học tập tại trường. Nhờ có những lời hướng dẫn, dạy bảo
đó, bài tiểu luận này của nhóm em đã hồn thành một cách xuất sắc nhất. Một lần nữa,
nhóm em xin gửi lời cảm ơn chân thành đến thầy. Bài tiểu luận được thực hiện trong 1
tháng. Vì vốn kiến thức của nhóm em cịn hạn chế, vậy nên khơng tránh khỏi những
thiếu sót, nhóm em rất mong nhận được ý kiến đóng góp của thầy. Nhóm em xin chân
thành cảm ơn!
DANH SÁCH THÀNH VIÊN THAM GIA VIẾT TIỂU LUẬN
HỌC KỲ I NĂM HỌC 2021 - 2022
Nhóm: 10 (Lớp thứ ba, tiết 13 - 15)
Tên đề tài: Thực trạng tội phạm cướp tài sản ở thành phố Hồ Chí Minh hiện
nay và giải pháp.
STT
HỌ VÀ TÊN SINH VIÊN
MÃ SỐ SINH VIÊN
1
Thạch Công
20126084
2
Trần Thị Thu Thảo
20130063
3
Nguyễn Trung Thảo
20151564
4
Nguyễn Thanh Tiền
20144472
5
Trần Trịnh Trung
20144477
Trưởng nhóm: Nguyễn Thanh Tiền.
SỐ ĐIỆN THOẠI
BẢNG PHÂN CÔNG NHIỆM VỤ ĐÁNH GIÁ VÀ
NHẬN XÉT CỦA GIÁO VIÊN
STT
Họ và tên
Nhiệm vụ cụ thể
Kết quả
người thực hiện
1
Thạch Cơng
- Khách thể, chủ thể của - Hồn thành tốt.
- Trách nhiệm hình sự áp
dụng đối với tội phạm
cướp tài sản.
- Khách quan của 3 ví
dụ.
Trần Thị Thu Thảo
- Trình bày khái niệm tội - Hoàn thành tốt.
phạm cướp tài sản.
- Cấu thành tội phạm
cướp tài sản.
- Khách quan, chủ quan
của tội phạm cướp tài
sản.
- Khách thể, chủ thể của
3 ví dụ.
3
Nguyễn Trung Thảo
Điểm
số
tội phạm cướp tài sản.
2
Ký tên
- Lời cảm ơn.
- Mở đầu.
- Kết luận.
- Hoàn thành tốt.
4
Nguyễn Thanh Tiền
- Đánh giá thực trạng về - Hoàn thành tốt.
tội phạm cướp tài sản ở
thành phố Hồ Chí Minh
hiện nay.
- Các ví dụ cụ thể.
- Đề xuất.
- Chủ quan của 3 ví dụ.
- Trình bày bài tiểu luận,
tổng hợp, chọn lọc và bổ
sung các phần.
5
Trần Trịnh Trung
- Giải pháp ngăn chặn - Hoàn thành tốt.
hạn chế tội phạm cướp
tài sản.
NHẬN XÉT
...........................................................................................................................................
...........................................................................................................................................
...........................................................................................................................................
...........................................................................................................................................
...........................................................................................................................................
...........................................................................................................................................
...........................................................................................................................................
...........................................................................................................................................
...........................................................................................................................................
...........................................................................................................................................
...........................................................................................................................................
...........................................................................................................................................
...........................................................................................................................................
...........................................................................................................................................
...........................................................................................................................................
...........................................................................................................................................
...........................................................................................................................................
...........................................................................................................................................
...........................................................................................................................................
...........................................................................................................................................
...........................................................................................................................................
...........................................................................................................................................
...........................................................................................................................................
...........................................................................................................................................
Ký tên
ThS. Phạm Xuân Phát
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .........................................................................................................................1
1. Lý do chọn đề tài: ......................................................................................................1
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu: ...........................................................................2
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu: ............................................................2
5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của tiểu luận:..........................................................2
6. Kết cấu của tiểu luận:................................................................................................ 2
CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ TỘI CƯỚP TÀI SẢN ...................................3
1.1. Khái niệm tội phạm: ............................................................................................... 3
1.2. Cấu thành tội phạm cướp tài sản:.........................................................................3
1.2.1. Mặt khách quan của tội phạm cướp tài sản: ......................................................3
1.2.2. Mặt chủ quan của tội phạm cướp tài sản: ..........................................................4
1.2.3. Mặt khách thể của tội phạm cướp tài sản: ..........................................................5
1.2.4. Mặt chủ thể của tội phạm cướp tài sản: .............................................................. 6
1.3. Trách nhiệm hình sự áp dụng đối với tội phạm cướp tài sản: ...........................6
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG TỘI PHẠM CƯỚP TÀI SẢN TẠI TP.HCM HIỆN
NAY VÀ GIẢI PHÁP ....................................................................................................9
2.1. Thực trạng tội phạm cướp tài sản tại thành phố Hồ Chí Minh hiện nay: ........9
2.1.1. Đánh giá chung về tình hình tội cướp tài sản ở thành phố Hồ Chí Minh: .......9
2.1.2. Ví dụ cụ thể: ........................................................................................................12
- Ví dụ 1: Băng cướp nguy hiểm cầm súng trong tay bắn người dân. ....................12
- Ví dụ 2: Cướp tài sản tài xế container và cơng ty tại Bình Dương. ......................15
- Ví dụ 3: Cướp giật tài sản của người đi đường và sử dụng vũ khí gây nguy hiểm
cho người khác. ............................................................................................................16
2.2. Giải pháp để ngăn chặn, hạn chế tội cướp tài sản: ...........................................17
KẾT LUẬN ..................................................................................................................20
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC HÌNH ẢNH
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
Việc tồn cầu hóa thúc đẩy rất mạnh, rất nhanh sự phát triển của xã hội, góp phần
chuyển biến cơ cấu kinh tế. Việt Nam, từ một nước nghèo chỉ trong vài chục năm đã
vươn lên thành một quốc gia có nền kinh tế mạnh mẽ.
Tuy nhiên, bên cạnh sự phát triển kinh tế xã hội, Việt Nam cũng diễn ra khá nhiều
diễn biến phức tạp. Hàng loạt các loại tội phạm có tính chất nguy hiểm ảnh hưởng đến
sự phát triển chung của xã hội đã diễn ra ngày càng phổ biến: trộm cắp, ma tuý, mại
dâm,… Trong đó tội “cướp tài sản” (Điều 168 Bộ luật Hình sự) là loại tội phạm nguy
hiểm xâm phạm đến quyền sở hữu của mỗi công dân. Đặc biệt tại thành phố Hồ Chí
Minh, tội phạm xâm phạm sở hữu tài sản (trộm, cướp và cướp giật) đang diễn biến rất
phức tạp, loại phạm pháp hình sự này chiếm hơn 80% cơ cấu tội phạm (năm 2018). Đặc
biệt, có nhiều vụ đối tượng gây án cịn manh động, liều lĩnh, tấn công nạn nhân, những
người phát giác hay ngăn cản đến chết [10].
Qua các phương tiện thông tin đại chúng, cũng như đời sống thực tế tại thành phố
Hồ Chí Minh nhóm nhận thấy được diễn biến tội phạm cướp tài sản rất nguy hiểm và
phức tạp, là vấn đề cấp bách cần phân tích đánh giá tìm ra nguyên nhân cũng như phương
pháp nhằm đẩy lùi tội phạm trong hiện tại và tương lai, đảm bảo cho sinh viên như tụi
em có mơi trường học tập đại học an tồn tại thành phố Hồ Chí Minh. Vì vậy nhóm đã
chọn đề tài: “Thực trạng tội phạm cướp tài sản ở thành phố Hồ Chí Minh hiện nay và
giải pháp” để nghiên cứu nhằm đưa ra các biện pháp có cơ sở luận lý và thực tiễn phục
vụ cho việc phịng chống hiệu quả nhất có thể.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu:
- Mục đích:
Trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn và áp dụng pháp luật làm rõ được về mặt lý luận
của tội phạm cướp tài sản. Từ đó đưa ra giải pháp nâng cao hiệu quả công tác áp dụng
pháp luật của các cơ quan tiến hành tố tụng, góp phần vào đấu tranh phòng, chống tội
phạm cướp tài sản trong xã hội nói chung và tại thành phố Hồ Chí Minh nói riêng.
- Nhiệm vụ :
1
Để đạt được mục tiêu được nêu trên, quy trình thực hiện nghiên cứu đề tài cần
giải quyết được những nhiệm vụ cụ thể sau :
Thứ nhất: Làm rõ các khái niệm và các yếu tố cấu thành tội cướp tài sản.
Thứ hai: Trách nhiệm hình sự cho tội cướp tài sản theo điều 168 Bộ luật hình sự.
Thứ ba: Phân tích đánh giá thực trạng của tội cướp sài sản.
Thứ tư: Đưa ra những giải pháp góp phần đấu tranh phòng, chống tội phạm cướp
tài sản.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
- Đối tượng nghiên cứu: Tội cướp tài sản ở thành phố Hồ Chí Minh.
- Phạm vi nghiên cứu: thành phố Hồ Chí Minh.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu:
- Cơ sở lý luận: Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề tội phạm nói chung, các văn kiện của Đảng và pháp luật
của Nhà nước về quan điểm đấu tranh chống tội phạm trong quá trình xây dựng Nhà
nước pháp quyền tại Việt Nam.
- Phương pháp nghiên cứu: Sử dụng các phương pháp nghiên cứu của khoa học
luật hình sự và tội phạm học như: Phương pháp phân tích, so sánh, phương pháp tổng
hợp, phương pháp thu thập tài liệu,…
5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của tiểu luận:
- Ý nghĩa khoa học: Góp phần làm rõ tội cướp tài sản dưới góc độ pháp luật, qua
đó củng cố và nâng cao hiệu suất phòng, chống tội phạm cướp tài sản tại thành phố Hồ
Chí Minh, giúp việc áp dụng pháp luật trong xét xử các loại từ này hiệu quả hơn.
- Thực tiễn: Nâng cao nhận thức về hình phạt của mọi người về tội cướp tài sản.
Qua đó, hạn chế đi các trường hợp phạm tội. Đồng thời đề xuất các giải pháp nhằm
phòng, chống tội phạm cướp tài sản ở hiện tại và tương lai.
6. Kết cấu của tiểu luận:
Gồm 2 chương:
- Chương 1: Lý luận chung về nạn cướp tài sản.
- Chương 2: Thực trạng tội phạm cướp tài sản tại thành phố Hồ Chí Minh hiện
nay và giải pháp.
2
CHƯƠNG 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ TỘI CƯỚP TÀI SẢN
1.1. Khái niệm tội phạm cướp tài sản:
Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật Hình sự,
do người có năng lực trách nhiệm hình sự hoặc pháp nhân thương mại thực hiện một
cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ
quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phịng, an ninh, trật
tự, an tồn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm quyền con người,
quyền, lợi ích hợp pháp của cơng dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp
luật xã hội chủ nghĩa mà theo quy định của Bộ luật này phải bị xử lý hình sự.
Tội cướp tài sản là dùng vũ lực, đe doạ dùng vũ lực ngay tức khắc hoặc có
hành vi khác làm cho người bị tấn cơng lâm vào tình trạng khơng thể tự vệ được
nhằm chiếm đoạt tài sản.
1.2. Cấu thành tội phạm cướp tài sản:
1.2.1. Mặt khách quan của tội phạm cướp tài sản:
Mặt khách quan của tội phạm chính là mặt biểu hiện ra bên ngoài của tội phạm.
Mặt khách quan của tội phạm có các dấu hiệu như: Hành vi nguy hiểm đến xã hội, hậu
quả tác hại do hành vi đó gây ra, mối quan hệ nhân quả giữa hành vi nguy hiểm và hậu
quả tác hại, thời gian, địa điểm, phương pháp, công cụ và phương tiện thực hiện tội
phạm.
Như vậy, mặt khách quan của tội cướp tài sản là:
- Hành vi dùng vũ lực: Hành vi mà người phạm tội sử dụng sức mạnh thể chất
(tay, chân,...) kết hợp với sức mạnh vật chất (vũ khí hoặc cơng cụ, phương tiện khác)
như đánh, đấm, đâm, chém,... tác động lên cơ thể của nạn nhân khiến họ mất hết ý chí
kháng cự nhằm thực hiện việc chiếm đoạt tài sản. Tuy nhiên trong một vài trường hợp
có người cùng tham cướp tài sản, sẽ có một số người thực hiện hành vi vũ lực và những
người cịn lại thì không hoặc chỉ đe dọa sẽ sử dụng vũ lực lên người nạn nhân, nhưng
tất cả đều được xem là sử dụng vũ lực.
- Hành vi đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc: Hiểu đơn giản là hành vi mà người
phạm tội thơng qua lời nói, cử chỉ, hành động (như nạt nộ, quát tháo, bắn súng lên trời,...)
3
thông báo đến nạn nhân biết rằng người phạm tội sẽ sử dụng vũ lực làm hại nạn nhân
ngay lập tức nếu họ có bất kỳ biểu hiện chống đối nào trong khi người phạm tội đang
thực hiện vụ cướp tài sản.
- Hành vi khác làm cho người bị hại lâm vào tình trạng khơng thể chống cự được:
Là những hành vi không sử dụng vũ lực hay đe dọa vũ lực nhưng vẫn mang tính tấn
cơng người bị hại, đến mức làm họ bị tê liệt khả năng kháng cự. Thông thường, những
hành vi này được thực hiện với nhiều tiểu xảo, thủ đoạn bằng lời nói, hành động như
chuốc nạn nhân say rượu, đánh thuốc ngủ hoặc thuốc mê nạn nhân,... thậm chí là cho
nạn nhân uống thuốc độc nhằm thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản của họ một cách
thuận lợi. Nói cách khác, người phạm tội thực hiện các hành vi này chủ yếu tấn công
vào thể chất, tinh thần của nạn nhân.
Đối với tội cướp tài sản, hậu quả là mức đo, định khung hình phạt, là các tình
tiết, chi tiết được xem xét để đưa ra mức phạt phù hợp. Song, bởi tội cướp tài sản xâm
phạm đến cả hai khách thể là về quan hệ tài sản và nhân thân. Nên ngoài hậu quả mà
người bị hại mất đi về tài sản vật chất như tiền, vàng, các thiết bị cá nhân,... người bị hại
cịn có thể bị thiệt hại đến tính mạng, sức khỏe, tinh thần, danh dự, nhân phẩm,...
1.2.2. Mặt chủ quan của tội phạm cướp tài sản:
Nếu mặt khách quan là mặt bên ngồi của chủ thế thì mặt chủ quan của cấu thành
tội phạm là chính mặt bên trong, phản ánh trạng thái tâm lý của chủ thế đối với hành vi
nguy hiểm cho xã hội và hậu quả do hành vi đó gây ra. Mặt bên trong của tội phạm là
diễn biến tâm lý của tội phạm nên diễn biến này gồm các dấu hiệu: lỗi, động cơ và mục
đích của tội phạm.
- Lỗi trong cấu thành tội phạm là thái độ tâm lý bên trong của người phạm tội đối
với hành vi nguy hiểm cho xã hội của mình và đối với hậu quả do hành vi đó gây ra thể
hiện dưới hình thức cố ý hoặc vô ý.
- Động cơ phạm tội là yếu tố bên trong, là động lực thúc đẩy hành vi của con
người. Cịn có quan điểm cho rằng: “Động cơ là mục đích chủ quan của con người, thúc
đẩy con người hành động đáp ứng nhu cầu đặt ra. Có 3 yếu tố làm cho nhu cầu biến
thành động cơ hành động là: sự mong muốn, tính hiện thực của sự mong muốn đó và
hồn cảnh mơi trường xung quanh”. Điểm chung thống nhất trong cách nhìn nhận về
hiện tượng tâm lý này là xem động cơ là sự định hướng, kích thích, thúc đẩy và duy trì
4
hành vi, hoạt động của con người. Từ đó, ta có thể có khái niệm về động cơ như sau:
Động cơ là yếu tố tâm lý phản ánh đối tượng có khả năng thỏa mãn nhu cầu của chủ thể,
nó định hướng, thúc đẩy và duy trì hoạt động của chủ thể nhằm chiếm lĩnh đối tượng
đó.
- Mục đích phạm tội là kết quả trong ý thức chủ quan mà người phạm tội đặt ra
phải đạt được khi thực hiện hành vi phạm tội cố ý (trực tiếp). Người phạm tội khi thực
hiện tội phạm đều nhằm tới những mục đích nhất định nhưng chỉ có thể nói mục đích
phạm tội của những hành vi phạm tội với lỗi cố ý trực tiếp, vì chỉ trong trường hợp này
người phạm tội mới có sự mong muốn gây ra tội phạm để đạt những mục đích nhất định.
Ở trường hợp phạm tội khác, người phạm tội cũng có mục đích nhưng đó chỉ là mục
đích của hành vi vì người phạm tội hồn tồn khơng mong muốn thực hiện tội phạm, họ
hoặc khơng biết hành vi của mình có thể trở thành tội phạm hoặc biết nhưng không
mong muốn hành vi đó trở thành hành vi phạm tội.
Đối với tội danh cướp tài sản, người phạm tội không chỉ cố ý thực hiện hành vi
phạm tội mà cịn phải có mục đích chiếm đoạt tài sản, ý thức chiếm đoạt của người phạm
tội phải có trước khi thực hiện hành vi dùng vũ lực, đe doạ dùng vũ lực ngay tức khắc
hoặc có hành vi khác làm cho người bị tấn cơng lâm vào tình trạng khơng thể tự vệ được.
Chính vì thế đây được xem là lỗi cố ý trực tiếp
Khơng chỉ có lỗi cố ý trực tiếp, mà mặt chủ quan của tội phạm cũng phải có động
cơ và mục đích. Thực tế cho thấy, hầu hết những trường hợp khi tấn cơng người phạm
tội khơng có ý định chiếm đoạt tài sản mà vì động cơ mục đích khác như để trả thù,
nhưng sau khi đã thực hiện hành vi tấn công, người bị tấn công bỏ chạy để lại tài sản,
người có hành vi tấn cơng lấy tài sản đó đều bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội cướp
tài sản.
1.2.3. Mặt khách thể của tội phạm cướp tài sản:
Khách thể của tội phạm là đối tượng bị tội phạm xâm hại. Luật hình sự xem đối
tượng bị tội phạm xâm hại là các quan hệ xã hội. Hay nói các khác, khách thể chung của
tội phạm được hiểu là tổng hợp các quan hệ xã hội được Luật hình sự bảo vệ và có thể
bị tội phạm xâm hại. Đối với tội cướp tài sản, người phạm tội đã xâm phạm cùng một
lúc vào hai khách thể là: quan hệ nhân thân và quan hệ tài sản của người bị hại.
Trong đó, quan hệ nhân thân bị xâm phạm trước tiên. Bởi người phạm tội sẽ thực
5
hiện các hành vi vũ lực, đe dọa sử dụng vũ lực hoặc các hành vi khác tấn công trực tiếp
lên cơ thể, tinh thần người bị hại làm cho họ mất đi khả năng chống cự. Tiếp đó, người
phạm tội mới xâm phạm đến quan hệ tài sản của người bị hại, cụ thể là thực hiện chiếm
đoạt tài sản của họ sau khi họ đã bị khống chế. Như vậy, phải xâm phạm quan hệ nhân
thân trước rồi đến quan hệ tài sản hay phải tấn công người bị hại trước rồi đến cướp tài
sản.
Đây cũng là mặt phản ánh bản chất cơ bản của tội cướp tài sản.
1.2.4. Mặt chủ thể của tội phạm cướp tài sản:
Theo Luật hình sự Việt Nam, chủ thể của tội phạm chỉ có thể là con người cụ thể
đang sống. Tuy nhiên, khơng phải ai cũng có thể trở thành chủ thể của tội phạm khi đã
thực hiện hành vi phạm tội. Theo quy định, tội phạm phải là người có lỗi, đủ tuổi do
pháp luật quy định và là người có năng lực trách nhiệm hình sự. Khi có đầy đủ những
điều kiện đó, người đó mới trở thành chủ thể của tội phạm.
Chủ thể của tội phạm cướp tài sản phải là người đủ từ 14 tuổi trở lên và khi thực
hiện hành vi phạm tội không mắc bệnh tâm thần hoặc một bệnh khác làm mất khả năng
nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình. Bởi vì, tội cướp tài sản quy định
tại Điều 168 Bộ luật hình sự là tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm
trọng được thực hiện do lỗi cố ý và theo quy định tại Điều 12 Bộ luật hình sự thì có liệt
kê đây là tội danh mà người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi phải chịu trách
nhiệm hình sự.
Tại điều 12 Bộ Luật Hình Sự 2015 quy định độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự như
sau:
1. Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm,
trừ những tội phạm mà Bộ luật này có quy định khác.
2. Người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi chỉ phải chịu trách
nhiệm hình sự về tội phạm đặc biệt nghiêm trọng quy định tại Điều 170 (tội
cưỡng đoạt tài sản); Điều 171 (tội cướp giật tài sản); Điều 173 (tội trộm cắp
tài sản); Điều 178 (tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản).
1.3. Trách nhiệm hình sự áp dụng đối với tội phạm cướp tài sản:
Theo quy định tại Điều 168 của Bộ Luật Hình Sự năm 2015, mức chịu trách
nhiệm hình sự đối với tội cướp tài sản được chia ra làm bốn khung phạt:
6
Khung 1 (khoản 1): Bị phạt tù từ 03 năm đến 10 năm.
Được áp dụng đối với trường hợp phạm tội có đủ dấu hiệu cấu thành cơ bản
nêu ở mặt khách quan.
Có mức phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm. Được áp dụng đối với một
trong các trường hợp phạm tội sau:
- Có tổ chức. Được hiểu là trường hợp phạm tội cướp tài sản mà có sự cấu
kết chặt chẽ giữa những người (đồng phạm) cùng thực hiện tội phạm này.
- Có tính chất chun nghiệp. Được hiểu là trường hợp người phạm tội thực
hiện tội cướp tài sản một cách thường xuyên, như là một cơng việc là nguồn
sống chính. Thơng thường người phạm tội phải là khơng có nghề nghiệp,
hoặc có nghề nghiệp nhưng thu nhập từ hoạt động cướp tài sản mới là nguồn
thu nhập chính để sinh sống.
- Tái phạm nguy hiểm. Những trường hợp sau đây được coi là tái phạm nguy
hiểm:
+ Đã bị kết án về tội rất nghiêm trọng, tội đặc biệt nghiêm trọng do cố ý, chưa
được xoá án tích mà lại phạm tội rất nghiêm trọng, tội đặc biệt nghiêm trọng
do cố ý.
+ Đã tái phạm, chưa được xố án tích mà lại phạm tội do cố ý.
+ Sử dụng vũ khí, phương tiện hoặc thủ đoạn nguy hiểm khác.
Khung 2 (khoản 2): Bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm
Đối với người phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây:
a) Có tổ chức;
b) Có tính chất chun nghiệp;
c) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ
tổn thương cơ thể từ 11% đến 30%;
d) Sử dụng vũ khí, phương tiện hoặc thủ đoạn nguy hiểm khác;
đ) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng;
e) Phạm tội đối với người dưới 16 tuổi, phụ nữ mà biết là có thai, người già
yếu hoặc người khơng có khả năng tự vệ;
g) Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội;
h) Tái phạm nguy hiểm.
7
Khung 3 (khoản 3): Bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm.
Đối với người phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây:
a) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng;
b) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ
tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%;
c) Lợi dụng thiên tai, dịch bệnh.
Khung 4 (khoản 4): Bị phạt tù từ 18 năm đến 20 năm, tù chung thân hoặc tử
hình.
Đối với người phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây:
a) Chiếm đoạt tài sản trị giá 500.000.000 đồng trở lên;
b) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 01 người mà tỷ lệ tổn
thương cơ thể 61% trở lên hoặc gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức
khỏe của 02 người trở lên mà tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người 31% trở
lên;
c) Làm chết người;
d) Lợi dụng hồn cảnh chiến tranh, tình trạng khẩn cấp.
Song, theo khoản 5: “Người chuẩn bị phạm tội này, thì bị phạt tù từ 01 năm
đến 05 năm.”
Ngoài ra, theo khoản 6: “Người phạm tội cịn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000
đồng đến 100.000.000 đồng, phạt quản chế, cấm cư trú từ 01 năm đến 05 năm
hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.”
8
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG TỘI PHẠM CƯỚP TÀI SẢN TẠI TP.HCM
HIỆN NAY VÀ GIẢI PHÁP
2.1. Thực trạng tội phạm cướp tài sản tại thành phố Hồ Chí Minh hiện nay:
2.1.1. Đánh giá chung về tình hình tội cướp tài sản ở thành phố Hồ Chí Minh:
Báo cáo của Cơng an thành phố Hồ Chí Minh cho biết, từ giữa tháng 12/2019
đến giữa tháng 4/2020, tội phạm xâm phạm sở hữu tài sản gồm cướp, cướp giật, trộm
tài sản, lừa đảo chiếm đoạt tài sản xảy ra 4.408 vụ, "giảm 831 vụ so với thời gian liền
kề"; và chiếm tỷ lệ cao trong cơ cấu phạm pháp hình sự: 79,33% [6]. Thành phố vẫn cịn
phát sinh nhiều vụ có phương thức thủ đoạn hoạt động manh động, nguy hiểm, gây hậu
quả rất nghiêm trọng. Riêng thời điểm dịch Covid-19 lây lan trong cộng đồng và giãn
cách xã hội, tội phạm cướp tài sản và trộm cắp xe máy tăng với sự thay đổi về thời gian
gây án.
Từ một góc nhìn khác, Ban chỉ đạo 138 thành phố Hồ Chí Minh thống kê, tỷ lệ
phạm pháp hình sự quý 1 năm nay đã tăng so với cùng kỳ 2019: Thêm 10% với 1.001
vụ. Nhiều người quan sát thấp thỏm lo lắng. Sự lành mạnh của xã hội phụ thuộc không
nhỏ vào hành vi của những người ở nhóm thấp nhất. Những người khơng cịn gì để mất,
bần cùng hóa hoặc tha hóa từ người từng lương thiện. Những kẻ nổi loạn, trong một vai
trị nào đó, định hình chất lượng sống của số đơng cịn lại. Nếu khơng giăng tấm lưới an
sinh, cơng bằng và luật pháp đủ rộng, đoàn tàu sẽ bị trì kéo bởi những kẻ bất mãn.
Khơng chỉ gây thiệt hại về tài sản, nhiều vụ cướp đã dẫn đến tai nạn nghiêm trọng
cho người dân. Đặc biệt, càng gần Tết Nguyên Đán, tình trạng này càng trở nên đáng
báo động. Theo đó, qua kết quả thống kê trong năm 2017, trên địa bàn thành phố Hồ
Chí Minh xảy ra hơn 4 ngàn vụ phạm pháp hình sự liên quan đến trộm cắp, cướp giật.
Số lượng tuy có giảm, nhưng dựa trên đánh giá của cơ quan cơng an, tình hình vẫn cịn
diễn biến phức tạp và tiềm ẩn nhiều thách thức.
Vấn đề đáng lo ngại là không chỉ cướp tài sản, các băng nhóm tội phạm cịn sẵn
sàng gây tai nạn nguy hiểm, nhất là trong trường học cướp giữa đường, khiến nạn nhân
9
mất kiểm soát tay lái. Được biết, hiện tại, trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh, camera
an ninh đã được lắp ở nhiều nơi. Tuy nhiên, do các đối tượng tội phạm trộm cắp, cướp
giật sử dụng nhiều thủ đoạn tinh vi, nên đôi khi, camera bị vô hiệu hóa. Trong những
ngày giáp Tết, lợi dụng sự lơ là, mất cảnh giác của người dân, tình trạng trộm cắp, cướp
giật có thể càng hồnh hành mạnh hơn. Vì thế, mỗi gia đình, mỗi cá nhân đều cần tự
trang bị các kỹ năng để bảo vệ người thân và chính mình.
Đối tượng phạm tội đa số là những đối tượng lưu manh chuyên nghiệp, có tiền
án, tiền sự, đối tượng đang bị truy nã, nghiện ma túy, phần tử có nhân thân xấu, lối sống
không lành mạnh, côn đồ, hung hãn, lười lao động. Đáng chú ý hiện nay, số đối tượng
phạm tội cướp tài sản là học sinh, sinh viên có xu hướng tăng, thường tập trung vào
những trường hợp lười học, bỏ học, nghiện game online, nghiện ma túy, thiếu sự quan
tâm, giáo dục của gia đình và nhà trường.
Đây là lời cảnh báo tất cả mọi người rằng lứa tuổi phạm tội cướp tài sản đang dần
trẻ hóa, chỉ vì tuổi đời cịn nhỏ nhưng quen thói ăn chơi, lười lao động và muốn có tiền
nhanh nên lâm vào con đường trộm cướp. Và khi bị bắt, những lời khai của nhóm đối
tượng này chỉ đơn giản là cần tiền tiêu sài nên đi cướp. Đây cũng là lời cảnh tỉnh cho
những bậc làm cha, làm mẹ. Đừng quá chú tâm đến cuộc sống cơm áo, gạo tiền mà quên
đi việc gần gũi, giáo dục con cái mình, giúp chúng vượt qua những bốc đồng của tuổi
mới lớn. Còn ở các bạn trẻ, hãy suy nghĩ thật kỹ trước khi làm những điều dại dột, đừng
để hậu quả xảy ra thì có hối hận cũng đã muộn màng,...
Có thể điểm ra một vài nguyên nhân dẫn đến hành vi trộm cướp tài sản như:
- Nguyên nhân xuất phát từ chính bản thân người phạm tội: Do trong q trình
trưởng thành, người phạm tội chưa phát triển hồn thiện về thể chất, tinh thần nên phần
lớn chưa làm chủ được bản thân và dễ dàng bị lôi kéo, dụ dỗ, kích động làm những việc
sai trái, quy phạm pháp luật. Đối với những tội phạm lớn tuổi hơn, do thói quen lười
biếng, ăn chơi, nghiện ngập, vì tiền họ có thể làm tất cả cho dù điều đó có là vi phạm
pháp luật.
- Nguyên nhân xuất phát từ gia đình: Gia đình là tế bào của xã hội, cũng là nơi
ni dưỡng mỗi cá nhân. Gia đình đóng một vai trị rất quan trọng trong việc hình thành
và phát triển tính cách của cá nhân. Thế nhưng trong những năm qua, vấn đề giáo dục
con cái trong nhiều gia đình chưa thật sự được chú trọng. Do tập trung thời gian cho
10
việc lo cuộc sống, rất nhiều gia đình gần như giao việc giáo dục con cái cho nhà trường.
Một bộ phận gia đình kinh tế khó khăn thì quan niệm chỉ cần học biết chữ, biết đếm, sau
đó bỏ học đi làm kinh tế. Hầu hết các em học sinh hư, học kém… đều rơi vào gia đình
hồn cảnh khó khăn hoặc éo le như bố mẹ ly hôn, ly thân,… Mối quan hệ giữa gia đình
và nhà trường cịn lỏng lẻo dẫn đến con bỏ học, chơi bời hư hỏng mà bố mẹ không biết,
không quan tâm đến việc học tập của con cái. Thiếu sự kèm cặp, giáo dục của gia đình
cho nên các em quen với lối sống tự do, buông thả, dễ tiếp thu những mặt trái, từ đó các
em dễ đi vào con đường phạm tội. Mặt khác, một số ít gia đình do chỉ có một con nên
đã nng chiều con q mức, tạo cho trẻ lối sống thích gì được nấy dẫn đến có những
nhu cầu vượt q khả năng của gia đình và khi không đáp ứng được nhu cầu dẫn đến có
những hành vi vi phạm pháp luật.
- Nguyên nhân xuất phát từ môi trường giáo dục ở nhà trường: Không chỉ gia
đình, nhà trường cũng là mơi trường khơng kém quan trọng giúp trẻ em ở lứa tuổi vị
thành niên hoàn thiện về nhân cách, cách sống tốt, định hướng cho các em đi đúng
hướng. Nếu để một trẻ vị thành niên va chạm với thực tế cuộc sống khó khăn trong khi
chưa giáo dục đầy đủ, toàn diện, sẽ rất dễ xảy ra tình trạng các em lâm vào con đường
phạm tội đầy tội lỗi. Mặt khác, trong những năm vừa qua, nhà trường chỉ đang cố hướng
các em trở thành những học sinh giỏi, chỉ chú trọng đến cơng tác giảng dạy kiến thức
cơ bản về văn hóa, khoa học, kỹ thuật, trong khi việc giáo dục nhân cách cho các em
chưa thực sự được quan tâm. Hồ Chủ tịch cũng đã dạy: “Có tài mà khơng có đức là
người vô dụng”.
- Nguyên nhân xuất phát từ sự lơ là thiếu cảnh giác của người quản lý tài sản:
Trong thời kì kinh tế đang ngày một phát triển, mức sống và nhu cầu của con người
cũng được nâng lên, đặc biệt là phụ nữ có nhu cầu mua trang sức, điện thoại, túi xách,…
đắt tiền. Đây chính là những mục tiêu lý tưởng của bọn tội phạm, bởi phụ nữ thì khả
năng tự vệ cịn yếu, để lộ nhiều sơ hở. Phân tích từ những vụ cướp tài sản cho thấy hầu
hết xuất phát từ sự sơ hở của người bị hại trong việc quản lý tài sản, thiếu cẩn trọng như
đeo trang sức đắt tiền, cầm tiền nhiều mà hớ hênh,… Điều này đã tạo điều kiện thuận
lợi cho bọn thực hiện hành vi cướp tài sản hoạt động. Mặt khác, người dân cịn thiếu
hiểu biết thơng tin về tình trạng, thủ đoạn cũng như địa bàn hoạt động của đối tượng
hoạt động này. Từ đó, người dân không chú ý tới việc bảo quản tài sản của bản thân. Sự
11
sơ hở này cũng chính là nguyên nhân của việc gia tăng đối tượng tôi phạm trộm cướp
tài sản.
- Nguyên nhân xuất phát từ mơi trường xã hội: Có câu: “Cha mẹ sinh con trời
sinh tính”, nhưng câu này cũng chỉ đúng được một phần nào đó. Bởi vì tính cách của
con người bị ảnh hưởng rất nhiều từ yếu tố môi trường và không thể tách rời sự phát
triển của cá nhân với xã hội. Trong thời gian qua, xã hội đã có những biến động do tác
động của kinh tế thị trường kéo theo sự thay đổi của các mặt đời sống xã hội như: sự du
nhập của văn hóa, cơng nghệ từ mơi trường vào một cách ồ ạt. Trong khi đó, một bộ
phận dân cư mà đa số là thanh thiếu niên không được trang bị những kiến thức, hiểu biết
để đề kháng với những thay đổi của đời sống xã hội đã bị tác động bởi các tiêu cực xã
hội, hình thành lối sống thực dụng, hưởng thụ. Sự quan tâm của xã hội, nhà trường và
gia đình đối với người chưa thành niên khơng đủ để trang bị cho họ những hiểu biết,
uốn nắn trước những sai trái, lâu dần hình thành động cơ phạm tội. Công tác tuyên
truyền, giáo dục pháp luật, văn hóa, đạo đức, lối sống trong quần chúng nhân dân nhất
là thanh thiếu niên chưa được coi trọng đúng mức, còn thiếu cả về bề rộng và chiều sâu.
Các hoạt động phòng ngừa riêng của các lực lượng chuyên trách còn nhiều hạn chế, hiệu
quả chưa cao. Các hoạt động quản lý đối tượng có điều kiện khả năng phạm tội cịn chưa
chặt chẽ, thiếu tính hệ thống và thiếu thông tin giữa các địa bàn. Công tác quản lý nhà
nước về an ninh, trật tự còn nhiều yếu kém, bất cập, thiếu toàn diện, sâu sắc như quản
lý đối tượng tại cộng đồng dân cư, quản lý nhân, hộ khẩu, quản lý tạm trú, tạm vắng, có
nhiều trường hợp đối tượng đi khỏi địa phương nhiều tháng đến khi có thơng báo về
việc bắt đối tượng phạm tội của Cơng an địa phương khác thì chính quyền địa phương
mới nắm được việc đi khỏi địa phương của đối tượng, đây chính là một trong những sơ
hở làm tội phạm nảy sinh, tồn tại và phát triển.
2.1.2. Ví dụ cụ thể:
- Ví dụ 1: Xét xử tướng cướp và băng cướp gây xơn xao dư luận.
Tóm tắt nội dung:
Sáng hơm (23/4/2009), Tịa án Nhân dân thành phố Hồ Chí Minh đã mở phiên
tòa sơ thẩm xét xử băng cướp dùng súng K54 gây hàng loạt vụ cướp tài sản, giết
người kinh hoàng trên địa bàn thành phố từ năm 2004 – 2006. Cầm đầu băng cướp này
12
là Huỳnh Văn Hịa (tức Lâm, 40 tuổi). Ngồi Hịa, cịn có 20 bị cáo khác vốn là thành
viên của băng cướp này.
Trước khi bị bắt, băng cướp của Huỳnh Văn Hòa sử dụng hai khẩu súng K54 gây
ra 11 vụ cướp và giết chết hai người. Các vụ án do Huỳnh Văn Hòa và đồng bọn gây ra
khiến cơ quan điều tra bế tắc truy xét vì mất dấu. Đến tháng 10/2007, một nhóm đối
tượng mua bán thuốc lắc ở các vũ trường bị Phòng Cảnh sát điều tra tội phạm (CSĐT)
tội phạm về ma túy (PC17) – Công an thành phố Hồ Chí Minh bắt giữ. Trong quá trình
điều tra, các trinh sát có được nguồn tin, trong số này có đối tượng tên Lâm có tàng trữ
một khẩu K54 và liên quan đến vụ giết người ở quận 5. Lâm được được chuyển giao
cho Phòng CSĐT tội phạm về trật tự xã hội (PC14) truy xét. Kết quả Huỳnh Văn Hòa
đã thừa nhận y cùng đồng bọn gây ra 11 vụ trọng án.
Nghiêm trọng nhất là đêm 5/9/2005, Hịa cùng Nguyễn Văn Hồng (tức Tư Nên)
thực hiện vụ cướp kinh hoàng, làm những người dân sống ở khu vực Bệnh viện 7A
Nguyễn Trãi, phường 8, quận 5 hãi hùng. Hơm ấy, Tư Nên chở Hịa trên xe gắn máy
Wave dạo quanh khu vực trên và phát hiện anh Đoàn Hùng Cường đang điều khiển xe
Dylan. Lập tức chúng cho xe đuổi theo. Khi qua mặt anh Cường, Hịa đã móc khẩu K54
nhằm thẳng vào người anh Cường nã đạn. Anh Cường ngã xuống chết tại chỗ. Sau đó,
chúng đưa chiếc xe này về gửi ở nhà bạn của Hịa là Trương Phú Qn (59 đường Đơ
Đốc Long, phường Tân Quý, quận Tân Phú). Tuy nhiên, sáng hôm sau khi một số báo
đăng tin cơ quan điều tra đang truy tìm xe này, Hịa tạm “nằm im”, và bốn ngày sau khi
gây án, đêm 7/9/2005, Hoà sai đàn em mang xe ra đường Tỉnh Nội bỏ lại đấy. Rạng
sáng 26/1/2006 (28 Tết), Nguyễn Văn Phước (Phước lùn) và Trần Hải Trung (Trung
móp) mượn đại ca Hịa con chó lửa cùng Trần Minh Phương (Bụng), Lâm Văn Tuấn,
Nguyễn Văn Hải đến khu vực đường Nguyễn Văn Linh (ấp 4, xã Bình Hưng, huyện
Bình Chánh) rình chờ ơng Thái Hỷ Cheng mang lái buôn cá từ miền Tây lên. Đợi khi
Lưu Ngọc Tâm (Đen) đang làm trong chợ cá gọi điện thoại báo ông Cheng đang ôm túi
tiền, ngồi xe ôm ra xe tải đang đậu trên đường Siêu Tốc, nhóm cướp bám theo giật túi
tiền. Khi ơng Cheng giằng lại, Trung móp rút súng bắn hai phát khiến ơng Cheng chết
tại chỗ. Vụ này chúng cướp được 130 triệu đồng.
Sau khi cùng tham gia hai vụ cướp xe Dylan với Hòa và Sơn đảo biến mất cho
đến ngày 22/11/2007, y mới xuất hiện đầu thú với cơ quan điều tra. Hai bị cáo khác là
13
Đặng Văn Mạnh (25 tuổi) từng có tiền án cướp giật tài sản năm 2002 đã tham gia hai vụ
cướp và vụ trộm xe Toyota Camry, Nguyễn Cẩm Hiền (tức Bé "Xinh", 31 tuổi), tham
gia vụ cướp két sắt cũng ra đầu thú cùng Sơn đảo.
Bản thân Phước lùn, sau khi giết chết ông Thái Hỷ Cheng cũng trốn qua
Campuchia. Ngày 27/11/2007, y mới ra đầu thú. Chỉ còn Tư Nên liên quan đến cái chết
anh Đoàn Hùng Cường đến nay vẫn lặn tăm [4].
Phân tích cấu thành tội phạm:
Chủ thể: Huỳnh Văn Hòa (tức Lâm, 40 tuổi), Nguyễn Văn Hoàng (tức Tư Nên),
Nguyễn Văn Phước ( Phước lùn), Trần Hải Trung (Trung móp), Trần Minh Phương
(Bụng), Lâm Văn Tuấn, Nguyễn Văn Hải, Lưu Ngọc Tâm (Đen), Huỳnh Văn Lâm,
Đặng Văn Mạnh (25 tuổi), Nguyễn Cẩm Hiền (tức Bé "Xinh", 31 tuổi), (các cá nhân
đều trên 14 tuổi, không mắc bệnh tâm thần hoặc một bệnh khác làm mất khả năng nhận
thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình).
Khách thể: Huỳnh Văn Hịa xâm phạm tính mạng của anh Đồn Hùng Cường và
hai người khác. Hịa cịn xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của nhiều người trong 11
vụ cướp khác và xâm phạm trật tự an tồn xã hội. Nguyễn Văn Hồng xâm phạm tính
mạng và quyền sở hữu tài sản của nạn nhân trong vụ cướp ở khu vực Bệnh viện 7A
Nguyễn Trãi, phường 8, quận 5. Huỳnh Văn Lâm xâm phạm an toàn trật tự xã hội khi
tàng trữ một khẩu K54 và liên quan đến vụ giết người ở quận 5. Nguyễn Văn Phước,
Trần Hải Trung, Trần Minh Phương, Lâm Văn Tuấn, Nguyễn Văn Hải, Lưu Ngọc Tâm:
Xâm phạm đến tài sản và tính mạng của Thái Hỷ Cheng. Đặng Văn Mạnh, Nguyễn Cẩm
Hiền đã xâm phạm đến tài sản của người khác.
Khách quan:
- Hành vi trái pháp luật: Giết người, Cướp tài sản; Cướp giật tài sản; Trộm cắp
tài sản; Lừa đảo chiếm đoạt tài sản; Tàng trữ, sử dụng trái phép vũ khí quân dụng; Che
giấu tội phạm.
- Hậu quả nguy hiểm từ hành vi trái pháp luật: gây ra 11 vụ cướp làm mất tài sản
và giết chết hai người.
- Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật và thiệt hại: Hòa sử dụng súng
K54 bắn chết anh Đoàn Hùng Cường đang điều khiển xe Dylan và cướp xe. Trung móp
sử dụng súng bắn hai phát khiến ông Cheng chết tại chỗ hòng chiếm đoạt 130 triệu đồng
14
của ông. Đặng Văn Mạnh tham gia hai vụ cướp và vụ trộm xe Toyota Camry. Nguyễn
Cẩm Hiền tham gia vụ cướp két sắt.
Chủ quan:
- Lỗi: Cố ý trực tiếp (sử dụng súng bắn người khác để chiếm đoạt tài sản).
- Động cơ: Cướp tài sản của người khác.
- Mục đích: Muốn có tài sản của người khác.
Kết quả xử lý vụ việc: Hòa bị truy tố đến 6 tội danh với khung hình phạt truy tố
có mức án cao nhất: Tử hình.
- Ví dụ 2: Xét xử băng cướp xe container trên địa bàn Bình Dương:
Tóm tắt nội dung:
Ngày 22/7, Tòa phúc thẩm TAND Tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh xét xử,
bác bỏ kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và tuyên ý án sơ thẩm tù chung thân đối với
Nguyễn Hoài Hận (SN 1980 tại An Giang) về hai tội “cướp tài sản và trộm cắp tài sản”.
Theo án sơ thẩm, khoảng 22 giờ ngày 26/8/2011, tại đường Tạo Lực 1 – Phú Tân
(Thủ Dầu Một – Bình Dương), Hận cùng các bị cáo trên và một số đối tượng khác truy
đuổi và chặn đầu xe container do anh Nguyễn Công Hải làm tài xế. Sau đó, cả bọn khống
chế, trói tay chân, đánh đập và chiếm đoạt số tiền gần 3 triệu đồng và một điện thoại di
động của anh Hải. Tiếp đó, Hận cùng đồng bọn chiếm đoạt ln một rơ mc xe trị giá
gần 400 triệu đồng cùng 15 tấn hạt điều trị giá gần 2,4 tỷ đồng.
Trước đó, từ ngày 1 đến ngày 9/7/2011, Hận cùng đồng bọn trộm cắp 9 cuộn thép
của một cơng ty nước ngồi đóng trên địa bàn tỉnh Bình Dương với tổng trọng lượng
gần 36 nghìn tấn tương đương 858 triệu đồng. Hội đồng xét xử tuyên phạt các đồng
phạm cùng về 2 tội danh trên. Theo đó, Trần Hồi Khanh (SN 1992) 30 năm tù, Châu
Phi Long (SN 1991) 20 năm tù, Vũ Chí Thơng (SN 1982) 18 năm tù và Nguyễn Thanh
Phong (SN 1978) 17 năm tù, cùng ngụ tại Bình Dương. Riêng Nguyễn Thanh Sơn và
Lê Tấn Đạt bị tuyên phạt từ 12 đến 13 năm tù về tội “trộm cắp tài sản” [1].
Phân tích cấu thành tội phạm:
Chủ thể: Nguyễn Hồi Hận (SN 1980 tại An Giang), Trần Hoài Khanh (SN
1992), Châu Phi Long (SN 1991), Vũ Chí Thơng (SN 1982), Nguyễn Thanh Phong (SN
1978), Nguyễn Thanh Sơn và Lê Tấn Đạt. (Các cá nhân khách thể đều trên 14 tuổi,
không mắc bệnh tâm thần hoặc một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả
15
năng điều khiển hành vi của mình).
Khách thể: Nguyễn Hồi Hận, Trần Hồi Khanh, Châu Phi Long, Vũ Chí Thơng,
Nguyễn Thanh Phong, Nguyễn Thanh Sơn và Lê Tấn Đạt: Xâm phạm đến quyền sở hữu
tài sản của ông Nguyễn Công Hải và một cơng ty nước ngồi đóng trên địa bàn tỉnh
Bình Dương.
Khách quan:
- Hành vi trái pháp luật: cướp tài sản và trộm cắp tài sản của ông Nguyễn Cơng
Hải và một cơng ty nước ngồi đóng trên địa bàn tỉnh Bình Dương.
- Hậu quả nguy hiểm từ hành vi trái pháp luật: Dùng vũ lực gây thương tích cho
ông Nguyễn Công Hải. Trộm cướp gây thiệt hại về tài sản cho cơng ty nước ngồi đóng
trên địa bàn tỉnh Bình Dương.
- Mỗi quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật và thiệt hại: Thiệt hại về tài
sản của ông Nguyễn Công Hải và một công ty nước ngồi đóng trên địa bàn tỉnh Bình
Dương.
Chủ quan:
- Lỗi: Cố ý trực tiếp (Hận ý thức được hành vi mình làm gây tổi hại đến người
khác và mong muốn nó xảy ra).
- Động cơ: Cần tiền tiêu sài.
- Mục đích: Muốn có được tài sản của người khác.
Kết quả xử lý vụ việc: Trần Hoài Khanh (SN 1992) 30 năm tù, Châu Phi Long
(SN 1991) 20 năm tù, Vũ Chí Thơng (SN 1982) 18 năm tù và Nguyễn Thanh Phong (SN
1978) 17 năm tù, cùng ngụ tại Bình Dương. Riêng Nguyễn Thanh Sơn và Lê Tấn Đạt bị
tuyên phạt từ 12 đến 13 năm tù về tội “trộm cắp tài sản”.
- Ví dụ 3: Bắt trọn 2 đối tượng cướp giật điện thoại người đi đường:
Tóm tắt nội dung:
Khoảng 14 giờ 30 phút ngày 21/12/2019, Nguyễn Tấn L đi xe bt từ xã Đơng
Thạch, huyện Hóc Mơn đến xã tư An Sương, quận12 tìm mua ma túy để sử dụng. L gặp
Q (không rõ lai lịch) chở L đến ngã tư Bảy Hiền gặp một thành niên chạy xe đến đưa
cho Q một tép ma túy và một bịch xốp màu đen, Q đưa bịch xốp màu đen cho L cầm
giúp sau đó cả hai tìm đến chỗ vắng sử dụng ma túy. L mở bịch xốp màu đen ra thì thấy
có một cây súng và một hộp bằng sắt, Q nói đây là cây súng hư bạn cho. Q chở L lưu
16
thơng hướng về ngã tư An Sương thì phát hiện chị Trần Thị B đứng ở trạm xe buýt trước
nhà 938 Trường Chinh, phường 15, quận Tân Bình đang cầm điện thoại di động nên Q
kêu L xuống xe dắt bộ vào đường Phan Huy Ích, khi bỏ chạy L lấy khẩu súng ra cầm
trên tay để người dân thấy không đuổi bắt, khi chạy đến trước nhà số 11 Phan Huy Ích,
phường 15, quận Tân Bình thì bị quần chúng nhân dân bắt giữ giao cho công an xử lý
[9].
Phân tích cấu thành tội phạm:
Chủ thể: Nguyễn Tấn L (sinh năm 1985) và Q (cả hai đều trên 14 tuổi, không
mắc bệnh tâm thần hoặc một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều
khiển hành vi của mình).
Khách thể: Nguyễn Tấn L xâm phạm quyền sở hữu của cải vật chất của chị Trần
Thị B.
Khách quan:
- Hành vi trái pháp luật: Trộm cướp tài sản của chị Trần Thị B và sử dụng vũ khí
gây nguy hiểm cho người khác, mua bán tàng trữ chất ma túy.
- Hậu quả nguy hiểm từ hành vi trái pháp luật: dùng vũ lực gây thương tích cho
chị Trần Thị B, tổn thất tài sản cho chị B.
- Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật và thiệt hại: gây thiệt hại về
người và tài sản cho chị Trần Thị B, dùng súng đe dọa dùng vũ lực với người khác.
Chủ quan:
- Lỗi: Cướp giật tài sản, sử dụng chất cấm (L và Q đề ý thức được những hành vi
của mình gây nguy hiểm cho cộng đồng nhưng vẫn mong muốn nó xảy ra để đạt được
mục đích cướp tài sản của mình).
- Động cơ: Cần tiền để mua ma túy, tiêu sài.
- Mục đính: Có tiền mua ma túy, tiêu sài.
Kết quả xử lý vụ việc: Nguyễn Tấn L một năm chín tháng tù về tội “Cướp giật
tài sản”.
2.2. Giải pháp để ngăn chặn, hạn chế tội cướp tài sản:
Từ những nguyên nhân đã nêu ở phần 2.1, có thể đưa ra một số giải pháp phòng
ngừa đối với loại tội phạm nguy hiểm này như sau:
Thứ nhất, tăng cường những biện pháp quản lí trật tự xã hội:
17
Một trong những điều kiện làm tội phạm cướp tài sản tồn tại, phát sinh và phát
triển là công tác quản lý xã hội cịn lỏng lẻo. Chính vì vậy, các cơ quan quản lý, đội tự
quản cần hoạt động sát sao, chặt chẽ, nghiêm túc hơn nữa, tăng cường các biện pháp xử
lí để bịt kín những sơ hở thiếu sót, hạn chế hết mức có thể các điều kiện để xảy ra tội
phạm. Đặc biệt là việc quản lí những nơi dễ xảy ra các vụ cướp tài sản, quản lí việc bn
bán, lưu hành vũ khí nguy hiểm. Cần nên tăng thêm mức phạt tiền, phạt tù cho tội phạm
trộm cắp cướp giật sẽ dè dặt hơn, theo đó tội phạm xâm phạm sở hữu tài sản sẽ giảm.
Thứ hai, nâng cao hiệu quả phối hợp của các lực lượng nghiệp vụ trong hoạt
động phòng ngừa tội phạm cướp tài sản:
Lực lượng nghiệp vụ đóng một vai trị thiết yếu trong bộ phận phịng chống tội
phạm, vì vậy cần hoạt động một cách phù hợp, chuyên nghiệp. Trên thực tế, có trường
hợp người vãng lai đến ở trọ cả năm trời nhưng cảnh sát khu vực ở đó vẫn khơng biết,
đến khi người đó ẩu đả, hoặc trộm cắp, phạm tội, thì mới vỡ lẽ. Tồn tại này đang diễn
ra phổ biến, nhất là các khu vực ven thành phố, ngoại thành, khu vực tập trung đông
công nhân, người lao động. Lợi dụng hạn chế này trong thời điểm dịch bệnh Covid phức
tạp, nhiều đối tượng, kẻ gian đến ẩn náu để hoạt động trộm cắp. Vì vậy, lực lượng công
an nên tổ chức phân công, phân cấp rõ trách nhiệm cho từng lực lượng, từng cấp, thường
xuyên kiểm tra, đánh giá chất lượng hiệu quả trong cơng việc, có khen thưởng, phê bình
rõ ràng. Như vậy sẽ giúp nâng cao tinh thần trách nhiệm, hiệu quả phối hợp của từng bộ
phận và tạo nên một khối thống nhất đầy sức mạnh, đẩy lùi sự gia tăng của tội phạm.
Thứ ba, giải quyết công ăn việc làm, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho
cán bộ và nhân dân:
Cướp tài sản là một hiện tượng xã hội tiêu cực, ảnh hưởng tới hình ảnh văn minh
của thành phố, của quốc gia. Sự phát triển của nó phụ thuộc vào điều kiện của nền kinh
tế - xã hội trong từng giai đoạn và nó ln là mặt tiêu cực của xã hội. Do vậy, việc khắc
phục, đẩy lùi tệ nạn này là nhiệm vụ của toàn xã hội, phải tiến hành. Nếu một xã hội
khơng có thất nghiệp, khơng có thiếu hiểu biết, thiếu giáo dục, thiếu đi sự quan tâm thì
liệu có cịn sự phát triển của loại hình tội phạm này? Vì vậy, để thực hiện tốt vấn đề này
thì cái cơ bản của nó phải là công bằng xã hội, lấy nhân tố con người làm trung tâm
nhằm không ngừng đáp ứng và nâng cao đời sống vật chất và tinh thần, tạo lối sống lành
mạnh, có văn hóa, có ý thức pháp luật cho mỗi công dân. Đặc biệt trong thời điểm Covid
18