ĐẠI HỌC CƠNG NGHỆ GIAO THƠNG VẬN TẢI
KHOA CHÍNH TRỊ - QPAN - GDTC
BỘ MƠN TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
TIỂU LUẬN
Tên tiểu luận:
Trình bày vai trị của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc trong quá trình thành lập
Đảng Cộng sản Việt Nam? Liên hệ với trách nhiệm của cán bộ, đảng viên
trong quá trình xây dựng Đảng hiện nay
Sinh viên thực hiện: Đỗ Khắc Việt Anh
Lớp: 70DCLG23
Khóa: 70
Giáo viên hướng dẫn: Nguyễn Thị Thơm
HÀ NÔI – 2021
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU ..............................................................................................................................................3
NỘI DUNG ....................................................................................................................................................4
A: VAI TRÒ CỦA LÃNH TỤ NGUYỄN ÁI QUỐC TRONG QUÁ TRÌNH THÀNH LẬP ĐẢNG
CỘNG SẢN VIỆT NAM. ..........................................................................................................................4
I: KHÁI QUÁT XÃ HỘI VIỆT NAM TRƯỚC KHI ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM RA ĐỜI........4
II: PHONG TRÀO ĐẤU TRANH CỦA NHÂN DÂN TA TRƯỚC KHI ĐẢNG RA ĐỜI. ................5
III: QUÁ TRÌNH THÀNH LẬP ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM ......................................................8
B: TRÁCH NHIỆM CỦA CÁN BỘ, ĐẢNG VIÊN TRONG QUÁ TRÌNH XÂY DỰNG ĐẢNG HIỆN
NAY. ........................................................................................................................................................14
1. Kiên quyết đẩy lùi suy thối .............................................................................................................14
2. Khơng ngừng học Bác ......................................................................................................................16
3. Tiếp tục phát huy vai trò, trách nhiệm nêu gương............................................................................17
4. TRÁCH NHIỆM CỦA BẢN THÂN ...............................................................................................18
KẾT LUẬN ..................................................................................................................................................20
LỜI MỞ ĐẦU
Như mọi người đã biết, tiểu luận là một bài viết dưới dạng văn bản để nêu lên một
quan điểm, một phát hiện nào đó về một chủ đề mà người viết muốn trình bày. Khơng
giống như các bài viết tập làm văn nhưu cấp bậc THPT (Trung học phổ thơng), bài
tiểu luận có thể được coi là một mơn học và có độ dài từ 5- 25 trang tùy vào quy định
cũng như chủ đề mà người viết muốn đưa thông tin đến cho người đọc.
Bài tiểu luận phải nêu lên được các vấn đề phân tích và trình bày những kết quả mà
người viết phát hiện được, đồng thời người viết cần đưa ra các ý kiến, quan điểm và
một số kết luận.
Sau đây xin mời mọi người
đến với đề tài bài tiểu luận của tôi: Trình bày vai trị của Nguyễn Ái Quốc trong q
trình thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam? Liên hệ vơi trách nhiệm của cán bộ, đảng
viên trong quán trình xây dưng Đảng hiện nay?
Mục đích chọn đề tài: Việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam đánh dấu bớc ngoặt
lớn trong lịch sử cách mạng Việt Nam và đó là một kết quả tất yếu khách quan của
cuộc đấu tranh dân tộc và giải phóng giai cấp. Đảng là sản phẩm của sự kếthợp lý
luận Mác-Lênin với phong trào cách mạng của giai cấp công nhân, của nhân dân lao
động. Sự ra đời của Đảng “chứng tỏ rằng giai cấp vô sản nớc ta đã trởng thành, đủ
sức lãnh đạo cách mạng”. Sự ra đời của Đảng gắn liền với tên tuổi của Nguyễn Ải
Quốc - Hồ Chí Minh – ngời sáng lập, lãnh đạo và rèn luyện Đảng ta.
Tôi chọn đề tài này để viết bài tiểu luận kết thúc môn học Lịch Sử Đảng Cộng
Sản Việt Nam và phần nào tôi cũng muốn hiểu rõ hơn về vài trị của Nguyễn Ái Quốc
trong q trình thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam cũng như trách nhiệm của cán
bộ, đảng viên trong quán trình xây dưng Dảng hiện nay!
NỘI DUNG
A: VAI TRÒ CỦA LÃNH TỤ NGUYỄN ÁI QUỐC TRONG QUÁ TRÌNH
THÀNH LẬP ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM.
I: KHÁI QUÁT XÃ HỘI VIỆT NAM TRƯỚC KHI ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT
NAM RA ĐỜI.
Vào đầu thế kỷ XIX, tình hình thế giới có nhiều biến động, bức tranh phân chia thế
giới của chủ nghĩa đế quốc ngày càng đợc phác hoa cơ bản và rõ nét. Sự áp bức và
xu hướng thơn tính dân tộc của Chủ nghĩa đế quốc đã tăng lên rõ rệt Sự xuất khẩu tư
bản vào các nước thuộc địa đã làm cho các dân tộc thuộc địa bị lôi cuốn vào con
đờng tư bản thực dân Chủ nghĩa. Cũng từ đó sự thức tỉnh về ý thức dân tộc và phong
trào đấu tranh tự giải phóng khỏi ách áp bức của thực dân tăng lên một cách mạnh
mẽ. Việt Nam đã chịu sự tác động của bối cảnh lịch sử đó.
Từ năm 1858, nước Việt Nam đã bị thực dân Pháp xâm lược, mở đầu bằng cuộc tiến
công vào cảng Đà Nẵng. Chúng từng bức thiết lập chế độ thống trị tàn bạo, phản
động của chủ nghĩa thực dân trên đất nớc ta. Sau khi hoàn thành việc xâm lực và
bình định vũ trang, thực dân Pháp tiến hành những cuộc khai thác thuộc địa nhằm
cướp đoạt tài ngun thiên nhiên, bóc lột nhân cơng rẻ mạt, cho vay nặng lãi, mở
rộng thị trởng tiêu thụ hành hố của chính quốc. Chính sách “khai hố văn minh”,
“khai hoá và cải tạo theo kiểu phơng Tây” của bọn thực dân Pháp được .
Hồ Chí Minh vạch rõ: “Khi ngời ta là một nhà khai hố thì người ta có thể làm những
việc dã man mà vẫn cứ là văn minh nhất” và nếu dẫn bản xứ không nhịn nhục chịu
đựng mà đứng dậy đấu tinh thì các nhà khai hoá sẽ đa quân đội, súng liên thanh và
tàu chiến đến. Trên tất cả mọi lĩnh vực, từ chính trị, kinh tế đến văn hố tư tưởng
chúng đều tìm mọi cách kìm hãm sự phát triển của dân tộc ta.
II: PHONG TRÀO ĐẤU TRANH CỦA NHÂN DÂN TA TRƯỚC KHI ĐẢNG
RA ĐỜI.
Trong quá trình đấu tranh dựng nước và giữ nước lâu dài gian khổ ác liệt, dân tộc ta
sớm hình thành truyền thống yêu nước nồng nàn, tinh thần đấu tranh anh dũng kiên
cường bất khuất ngay từ khi thực dân Pháp xâm lược, nhân dân ta đã liên tiếp đứng
lên chống lại chúng. ở khắp nơi trong nớc, nhân dân ta đã tham gia đấu tranh dưới
ngọn cờ cầu các sĩ phu yêu nước đương thời theo nhiều khuynh hướng khác nhau.
Từ những phong trào tự phát đến những phong trào có tổ chức, lãnh đạo, các phong
trào diễn ra ngày càng một hoàn thiện hơn. Tuy rằng các phong trào đều bị đàn áp dã
man nên đã bị thất bại nhng tất cả những cuộc khởi nghĩa đó đã để lại tiếng vang lớn,
gây cho địch nỗi hoang mang lo sợ.
1. Phong trào Cần Vơng Sau khi thực dân Pháp căn bản hoàn thành cuộc xâm lược
Việt Nam với hoà ước 1884, cuộc đấu tranh của nhân dân Việt Nam chống xâm lược
đã chuyển qua một giai đoạn mới. Mở đầu là cuộc tấn công trại lính Pháp mắn cạnh
kinh thành Huế, dới sự chỉ huy của Tôn Thất Thuyết lấy danh nghĩa nhà vua yêu
nước trẻ tuổi Hàm Nghi Bị thất bại, Tôn Thất Thuyết đã phò vua Hàm Nghi lãnh vào
vùng rừng núi, thảo chiếu Cần Vương, kêu gọi các sĩ phu văn thân cùng tồn dân tiếp
tục chiến đấu. Từ đó phong trào Cần Vương đã phát triển trong nhiều địa phương ở
Trung Kỳ và Bắc Kỳ, cho đến những năm cuối của thế kỷ XIX.
2. Phong trào dân tộc - dân chủ của tầng lớp sĩ phu yêu
2.1 Sự chuyển biến của xã hội Việt Nam và những ảnh hưởng của tác động bên ngoài.
Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, xã hội Việt Nam có nhiều chuyển biến, trớc những
chính sách cai trị của thực dân Pháp, cơ cấu xã hội truyền thống Vệt Nam biến đổi.
Giai cấp công nhân Việt Nam (chủ yếu là trong các công trường và hầm mỏ) hình
thành. Ở đơ thị xuất hiện một tầng lớp công thương và tiểu tư sản thành thị. Tầng lớp
sĩ phu nho học bên cạch đọc các kinh sách nho giáo, các nho sĩ này cũng đã đọc
những cuốn sách mới của các tác giả châu Âu và Trung Quốc. Vì vậy phong trào cải
cách chính trị - văn hoá ở Trung Quốc, cùng với những tư tưởng cách mạng Pháp
được dịch qua chữ Hán đã tác động vào Việt Nam. Giới sĩ phu lúc này thấy đợc thế
suy tàn của các chế độ phong kiến châu Á và sự cần thiết phải cải cách xã hội.
2.2. Trào lưu dân tộc chủ nghĩa những nhận thức chính trị đó đã làm này sinh một
khuynh hướng chính trị mới: trào lưu dân tộc chủ nghĩa. Trào luư chính trị này kế
tục phong trào Cần Vương yêu nước chống Pháp nhưng đồng thời đã mang nhiều nét
mới khác trước.
Tầng lớp khởi xướng trào lưu này là những sĩ phu yêu nước tiến bộ. Lịng u nước
của họ khơng cịn bám giữ vào những tư tưởng “trung quân” mà đã chuyển sang ý
thức về một chủ nghĩa quốc gia - dân tộc, vì lợi ích chung của nhiều triệu đồng bào
trong cả nước. Những sĩ phu yêu nước tiến bộ ở Việt Nam lúc bấy giờ cho rằng,
muốn đánh đuổi thực dân Pháp, khơng thể chỉ hạn chế trong những hình thức khởi
nghĩa vũ trang như trớc đây, mà còn phải kết hợp cả với nhiều biện pháp mới về
chính trị, ngoại giao, tiến hành một phong trào cải cách xã hội sâu rộng trong đông
đảo quần chúng nhân dân.
Hai gương mặt nổi bật cho trào lưu dân tộc dân chủ là các nhà chí sĩ Phan Bội Châu
và Phan Châu Trinh. Phan Bội Châu là một sĩ phu sớm có lịng u nước, chủ trương
vận động quần chúng trong nước, tranh thủ sự giúp đỡ của nớc ngoài, tổ chức bạo
động để đánh đuổi thực dân Pháp, giành độc lập dân tộc, xây dựng nền chế độ chính
trị dựa vào dân. Ơng đã lập hội Duy Tân, vượt biển sang Nhật mưu cầu ngoại viên.
Ngồi ra cịn có những cuộc bạo động khởi nghĩa chống Pháp của dân tộc ít người.
Ngồi tầng lớp sĩ phu và quần chúng công nông, đầu thế kỷ XX cịn có một lực lượng
xã hộ mới tham gia phong trào đấu tranh chống Pháp. Đó là các binh lính người Việt
trong quân đội Pháp. Do thực hiện chính sách dùng người Việt để trị người Việt nên
qua những cuộc càn quét những binh lính Việt đã thấy được tận mắt những tội ác của
giặc, lòng căm thù giặc được khơi dậy. Hơn nữa do sự đối xử của thực dân Pháp đối
với họ là khinh miệt, bạc đãi nên đã dẫn tới việc họ nổi dậy bao động khởi nghĩa
Những phong trào dân tộc - dân chủ chống Pháp ở Việt Nam đầu thế kỷ XX do những
sĩ phu yêu nước tiến bộ lãnh đạo, được đông đảo các tầng lớp nhân dân hưởng ứng
tham gia, tuy khơng thành cơng nhưng đã có tiếng vang lớn. Đó là những bước đi
ban đầu để tìm ra một con đờng mới, đúng đắn trong cuộc cách mạng dân tộc và cách
mạng xã hội.
III: QUÁ TRÌNH THÀNH LẬP ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
Từ đầu thế kỷ XX trở đi, song song với sự phát triển của phong trào yêu nước và dân
chủ theo kiểu tư sản, phong trào công nhân chống lại chế độ bóc lột của bọn địa chủ
và thực dân Pháp đã lần lợt diễn ra bằng nhiều hình thức khác nhau, đặc biệt là những
hình thức đấu tranh đặc thù của giai cấp mình như bãi cơng, biểu tình. Tuy nhiên
trong điều kiện lịch sử lúc bấy giờ, do nhiều nguyên nhân những phong trào này cuối
cùng đều không thành cơng. Nhưng ngun nhân cơ bản đó là những người yêu nước
đương thời chưa tìm được con đường cứu nước đúng đắn phản ánh đúng nhu cầu
phát triển của xã hội Việt Nam. Cách mạng nước ta đang đứng trước cuộc khủng
hoảng về đường lối.
1. Nguyễn Ai Quốc ra đi tìm đừng cứu nước giữa lúc cách mạng Việt Nam đang
trong đêm tối chưa tìm được lối ra, Nguyễn Ái Quốc với tên gọi Nguyễn Tất Thành
đã rời Tổ quốc từ tháng 6 năm 1911 đi sang phương Tây, nơi mà Người cho là có tư
tưởng tự do, dân chủ và khoa học kỹ thuật phát triển để xem họ làm như thế nào, học
tập họ rồi trở về giúp đồng bào mình cởi bỏ xiềng xích nơ lệ. Trên con đường bôn ba
khắp năm châu, bốn bể, vừa lao động, vừa quan sát, nghiên cứu lý luận và kinh
nghiệm các cuộc cách mạng tư sản điển hình trên thế giới như cách mạng Mỹ và cách
mạng Pháp.
Đồng thời Người tìm mọi cách tham dự tất cả các cuộc mít tinh, hội họp do Đảng xã
hội Pháp - một đảng duy nhất trong số các đảng ở Pháp đấu tranh bảo vệ các dân tộc
thuộc địa. Đến cuối năm 1918, một biến chuyển quan trọng đã diễn ra trong cuộc đời
của Nguyễn Ái Quốc Người tham gia Đảng xã hội Pháp. Ngưởi là người Việt Nam
đầu tiên tham gia một đảng chính trị của “mẫu quốc”.
Trong q trình tham gia hoạt động Đảng và nghiên cứu về cách mạng Mỹ và cách
mạng Pháp, Nguyễn Ái Quốc đã tập hợp được nhiều bài học quý về lực lượng cách
mạng, về tổ chức, về tinh thần, ý chí cách mạng và đặc biệt là bài học về con đường
cách mạng Người vạch rõ” Cách mạng Pháp cũng như cách mạng Mỹ, nghĩa là cách
mệnh tư bản, cách mệnh không đến nơi,tiếng là công hồ và dân chủ, nhưng kỳ thực
trong thì nó tức lực cơng nơng, ngồi thì nó áp bức thuộc địa”. ”Chúng ta đã hy sinh
làm cách mệnh, thì nên làm cho đến nơi nghĩa là làm sao cách mạng rồi thì quyền
giao cho đạn chúng số nhiều…Thế mới khỏi hy sinh nhiều lần, thì dân chúng mới
được hạnh phúc”.
Giữa tháng giêng năm 1919, Pa-ri long trọng tổ chức hội nghị hồ bình. Giới cầm
quyền các cường quốc thắng trận muốn “tổng kết chiến tranh càng nhanh càng tốt,
hay nói cách khác muốn giàu lên bằng cách bóc lột các nước bại trận. Nguyễn Ái
Quốc đã gửi đến hội nghị một bản tài liệu có tên là “Bản yêu sách của nhân dân An
Nam” địi chính phủ Pháp cơng nhận các quyền tự do dân chủ và bình đẳng của nhân
dân Việt Nam. Bản u sách đó khơng được hội nghị quan tâm đến. Từ thực tế đó
Người ra một kết luận quan trọng : tự do bình đẳng bác ái…những chữ tốt đẹp đó
chẳng qua chỉ là màn khói để giai cấp tư sản che đậy những tội ác của chúng.
Những bản tuyên ngôn mà bọn đế quốc tung ra bừa bãi trong những năm chiến tranh
để làm bia đỡ đạn cho chúng hố ra chỉ là một trị bịp bợm. Chẳng bao giờ cầu xin
được công lý ở bọn đế quốc. Vậy thì lối thốt ở đâu ? Chỉ ở trong đấu tranh, đấu
tranh một mất, một còn. Để giải phóng mình nhân dân các dân tộc thuộc địa phải lật
đổ ách thông trị của bọn áp bức. Cách mang là trận đánh quyết liệt, nhờ nó mà thành
luỹ thực dân tưởng như bất khả xâm phạm cũng có thể bị hạ. “Bản yêu sách” đã trở
thành một tuyên ngơn chính trị báo hiệu sự mở đầu của giai đoạn mới trong việc phát
triển phong trào giải phóng dân tộc Việt Nam.
Trong những ngày đang hoạt động sôi nổi lựa chọn con đường cách mạng của
Nguyễn Ái Quốc thì cuộc cách mạng tháng Mời Nga năm 1917 bùng nổ và thắng lợi,
làm chấn động toàn cầu. Sự thắng lợi của cách mạng tháng Mời Nga có ý nghĩa lịch
sử rất quan trọng đối với phong trào giải phóng dan tộc của các nớc thuộc địa trên
thế giới. Nhờ có Cách mạng thánh Mười Nga, phong trào giải phóng dân tộc ở các
nước phương Đông và phong trào công nhân ở các nước tư bản để quốc phương Tây
đã có sự gắn bó mật thiết với nhau trong cuộc đấu tranh chống kẻ thù chung là chủ
nghĩa đế quốc.
Nguyễn Ái Quốc đã hướng đến con đường Cách mạng tháng Mời và chú tâm tìm
hiểu tư tưởng đường lối của cuộc cách mạng đó. Và bước ngoặt lớn trong tư tưởng
của Nguyễn Ái Quốc diễn ra khi Người đọc toàn văn sơ khảo lần thứ nhất những
luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của Lê-nin đăng trên báo “Nhân
đạo”. Đây là tác phẩm đầu tiên của Lê-nin mà Nguyễn Ái Quốc được làm quen.
Người đọc đi đọc lại một số câu, cố gắng hiểu sâu hơn nữa bản chất những tư tưởng
của Lê-nin và Người dưng dưng nước mắt, hân hoan vơ cùng. Người nói to lên như
đang đứng trước quần chúng đông đảo” Hỡi đồng bào bị đoạ đày đau khổ! Đây là
cái cần thiết cho chúng ta, đây là con đường giải phóng chúng ta”. Bản để cương đó
đã chỉ rõ cho Người “ Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc khơng có con đường
nào khác là con đường cách mạng vơ sản”. Từ đây, Người dứt khoát đi theo con
đường cách mạng của Lê-nin, con đường cách mạng tháng Mời Nga vĩ đại.
Đây là bước ngoặt từ chủ nghĩa yêu nước đến với chủ nghĩa cộng sản, từ một chiến
sĩ giải phóng dân tộc trở thành một chiến sĩ cộng sản quốc tế của Người. Sự kiện đó
cũng đánh dấu bước ngoặt mở đường thắng lợi cho sự nghiệp giải phóng dân tộc của
Việt Nam. Nguyễn Ái Quốc là ngời Việt Nam đầu tiên tiếp thu sáng tạo Chủ nghĩa
Mác Lênin, tìm ra con đường đúng đắn giải phóng dân tộc.
2. Con đường "cách mệnh” Nguyễn Ái Quốc
Sau khi trở thành người chiến sĩ Cộng sản, Nguyễn Ái Quốc đã tham gia hoạt động
trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, tích cực vận đọng phong trào cách
mạng thuộc địa, nghiên cứu và truyền bá chủ nghĩa Mác - Lenin về Việt Nam qua
các báo Người cùng khổ”, “Nhân đạo”, “Đời sống công nhân” và sau này là tác phẩm
“Bản án chế độ thực dân Pháp”(1925) của Người.
Tháng 12 năm 1924, Nguyễn Ái Quốc về Quảng Châu (Trung Quốc) trực tiếp chỉ
đạo việc chuẩn bị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Tại đây, Ngời tham gia sáng
lập Hội liên hiệp các dân tộc bị áp bức ở Á Đông, sáng lập và viết bài cho báo Thanh
niên. Và đặc biệt là đầu năm 1927, tác phẩm “Đường cách mệnh” được Hội liên hiệp
các dân tộc bị áp bức xuất bản. Tác phẩm này là sự tiếp theo một cách logic, cuốn
“Bản án chế độ thực dân Pháp”. “Đường cách mệnh” đã vạch ra con đường cụ thể
để giải phóng dân tộc. Tác phẩm chỉ ra rằng: để chiến thắng kẻ thù hùng mạnh, những
nhà cách mệnh Việt Nam phải giải quyết ngay hai nhiệm vụ cơ bản nắm vững học
thuyết chủ nghĩa Mác-Lênin và thành lập đội tiên phong tức là Đảng cách mạng.
“Trước hết phải có Đảng cách mệnh để trong thì vận động và tổ chức dân chúng,
ngồi thì liên lạc với dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi. Đảng có vững,
cách mạng mới thành cơng, cũng như người cầm lái có vững thuyền mới chạy. Đảng
có vững thì phải có chủ nghĩa làm nồng cốt, trong Đảng ai cũng phải hiểu, ai cũng
phải tuân theo chủ nghĩ ấy. Đảng mà khơng có chủ nghĩa cũng như người khơng có
trí khơn, tàu khơng có bàn chỉ nam”. Nguyễn ái Quốc đã trình bày một cách sáng tạo
những nguyên lý cơ bản của học thuyết Lê- nin áp dụng vào những điều kiện cụ thể
của nước Việt Nam thuộc địa. Nguyễn ái Quốc chỉ ra rằng Việt Nam đang đứng ở
ngưỡng cửa cách mạng giải phóng dân tộc. Cuộc cách mạng này phải là một giai
đoạn chuyển tiếp để đa đất nước tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Chỉ trong một thời gian ngắn ở Việt Nam đã có ba tổ chức cộng sản được tuyên bố
thành lập ở Nam Kỳ là An Nam Cộng sản Đảng, ở Bắc Kỳ là Đông Dương Cộng sản
Đảng, ở Trung Kỳ là Đơng Dương Cộng sản Liên đồn. Ngay từ khi thành lập, giữa
các tổ chức đó đã xảy ra xích mích, bởi vì, mỗi tổ chức đều có ý muốn đóng vai trị
Đảng Cộng sản duy nhất ở trong nước.
Những cuộc xung đột nghiêm trọng giữa hai tổ chức Đảng ở Bắc Kỳ và Nam Kỳ đã
xảy ra. Mối quan hệ giữa các tổ chức Đảng khơng bình thờng lại khơng có một cương
lĩnh hành động thống nhất làm các Đảng mất hết tính chiến đấu và khơng thể hoạt
động có kết quả trong quần chúng. Vì vậy u cầu bức thiết của Cách mạng là cần
có một Đảng duy nhất lãnh đạo. Nguyễn Ái Quốc, người chiến sĩ cách mạng lỗi lạc
của dân tộc Việt Nam, ngời duy nhất có đủ năng lực và uy tín đáp ứng u cầu đó
của lịch sử: thống nhất các tổ chức Cộng sản thành Đảng Cộng sản duy nhất ở Việt
Nam. Hội nghị hợp nhất ba tổ chức. Cộng sản họp tại Cửu Long (Hưng Cảng, Trung
Quốc) từ ngày 3 đến 7 tháng 2 năm 1930 đã nhất trí thành lập Đảng duy nhất, lấy tên
là Đảng Cộng sản Việt Nam. Các đại biểu tán thành chánh cương vắn tắt, sách lược
vắn tắt, chương trình tóm tắt, Điều lệ tóm tắt của Đảng, Điều lệ tóm tắt của các hội
quần chúng, vạch kế hoạch thành lập Ban Chấp hành Trung ương lâm thời. Chính
cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo là cương lĩnh cách
mạng đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam, đó là một cương lĩnh cách mạng giải
phóng dân tộc đúng đắn và sáng tạo, phù hợp với xu thế phát triển của thời đại mới,
nhuần nhuyễn về quan điểm giai cấp, thấm đượm tinh thần dân tộc. Độc lập tự do
gắn liền với định hướng tiến lên chủ nghĩa xã hội là tư tưởng cốt lõi của cương lĩnh
này. Đảng lấy lý tưởng chủ nghĩa Mác- Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền
tảng, làm kim chỉ nam cho mọi hành động.
Việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam đánh dấu bước ngoặt lớn trong lịch sử cách
mạng Việt Nam và đó là một kết quả tất yếu khách quan của cuộc đấu tranh dân tộc
và giải phóng giai cấp. Đảng là sản phẩm của sự kết hợp lý luận Mác-Lênin với
phong trào cách mạng của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động. Sự ra đời của
Đảng “chứng tỏ rằng giai cấp vô sản nước ta đã trưởng thành, đủ sức lãnh đạo cách
mạng”. Sự ra đời của Đảng gắn liền với tên tuổi của Nguyễn Ải Quốc - Hồ Chí Minh
– người sáng lập, lãnh đạo và rèn luyện Đảng ta.
Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam là một yếu tố quan trọng quyết định sự thành
cơng của phong trào Cách mạng giải phóng dân tộc và thống nhất đất nước. Với
đường lối Cách mạng đúng đắn, Đảng đã cùng nhân dân xây dựng nên một lượng
cách mạng to lớn và rộng khắp đấu tranh chống thực dân Pháp và bọn phong kiến
tay sai vì sự nghiệp giải phóng dân tộc. Đảng đã lãnh đạo nhân dân cả nước dấy lên
cao trào cách mạng 1930 1931 mà đỉnh cao là Xô Viết Nghệ Tĩnh, cao trào đấu trang
chính trị 1936-1939...Với khi thế cách mạng, nắm chắc thời cơ lịch sử, với một nghệ
thuật lãnh đạo và tổng khởi nghĩa tài tình, Đảng ta đã lãnh đạo cuộc Tổng khởi nghĩa
Tháng Tám năm 1945 thành công trọn vẹn, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hoà, nhà nước của dân, do dân và vì dân. Quá trình thực tế lịch sử đã chứng
minh rằng: Lựa chọn con đường cách mạng vô sản, đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội
dới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản là một sự lựa chọn hoàn toàn đúng đắn, sáng suốt
của Cách mạng Việt Nam, mà người tiên phong là Nguyễn Ái Quốc Hồ Chí Minh–
vị lãnh tụ thiên tài của dân tộc Việt Nam, người thầy vĩ đại của Đảng. Hồ Chí Minh
là tấm gương sáng ngời của một chiến sĩ Cộng sản trọn đời vì nước, vì dân, là biểu
tượng của khí phách anh hùng, ý chí độc lập tự cường, kiên trì lý tưởng, sáng tạo và
quyết thắng.
B: TRÁCH NHIỆM CỦA CÁN BỘ, ĐẢNG VIÊN TRONG QUÁ TRÌNH XÂY
DỰNG ĐẢNG HIỆN NAY.
Trong Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh và trong Điều lệ Đảng được Đại hội X của
Đảng, Đảng và Bác đều khẳng định “Đảng ta là một đảng cầm quyền”. Là một Đảng
cầm quyền, Đảng phải đối mặt với nhiều nguy cơ, trong đó hai nguy cơ lớn nhất đã
được Bác chỉ rõ là: sự sai lầm về đường lối và sự suy thoái, biến chất của đội ngũ
cán bộ, Đảng viên.
Bên cạnh đó tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng cũng nêu rõ thực tế gần 10 năm triển
khai thực hiện vừa qua cho thấy những nội dung của Quy định đến nay cơ bản vẫn
còn phù hợp và đáp ứng được yêu cầu quản lý, giáo dục và rèn luyện đội ngũ cán bộ,
đảng viên.
Tuy nhiên, trước yêu cầu mới, cần tiếp tục bổ sung, hoàn thiện thêm một số nội dung
quan trọng về rèn luyện tư tưởng chính trị, giữ gìn phẩm chất đạo đức, lối sống của
cán bộ, đảng viên, góp phần ngăn ngừa và khắc phục một cách mạnh mẽ hơn và
quyết liệt hơn những biểu hiện suy thoái, tiêu cực; giữ nghiêm kỷ luật, kỷ cương của
Đảng...
1. Kiên quyết đẩy lùi suy thoái
"Cán bộ là cái gốc của mọi công việc," do vậy việc chú trọng rèn luyện tư tưởng
chính trị, giữ gìn phẩm chất đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên là vấn đề luôn
được Đảng đặc biệt chú trọng.
Một trong những bài học quý báu được Đảng chỉ ra trong việc thực hiện Nghị quyết
Đại hội XII, đó là "cơng tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng phải được triển khai quyết
liệt, toàn diện, đồng bộ, thường xuyên, hiệu quả cả về chính trị, tư tưởng, đạo đức,
tổ chức và cán bộ."
Bộ Chính trị ban hành Quy định 55-QĐ/TW về một số việc cần làm ngay để tăng
cường vai trò nêu gương của cán bộ, đảng viên, kịp thời chấn chỉnh tác phong công
tác, lối sống xa hoa, lãng phí gây phản cảm trong xã hội và gương mẫu thực hiện nếp
sống văn minh, giản dị, tiết kiệm.
Ban Chấp hành Trung ương đã ban hành Quy định 08-QĐi/TW về trách nhiệm nêu
gương của cán bộ, đảng viên, trước hết là Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Ban Bí thư,
Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương, chỉ rõ 8 nội dung các đồng chí Ủy viên Bộ
Chính trị, Ủy viên Ban Bí thư, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương phải gương mẫu
đi đầu thực hiện và 8 nội dung phải nghiêm khắc với bản thân và kiên quyết chống;
đồng thời, yêu cầu cán bộ giữ chức vụ càng cao càng phải gương mẫu.
Các cấp ủy, tổ chức đảng, cơ quan, đơn vị chỉ đạo xây dựng và ban hành quy định
về chuẩn mực đạo đức của cán bộ, đảng viên phù hợp với chức năng, nhiệm vụ và
đặc điểm cụ thể của ngành, cơ quan, đơn vị, làm cơ sở để cán bộ, đảng viên tu dưỡng,
rèn luyện, phấn đấu trong cơng tác và sinh hoạt.
Có thể thấy rất nhiều nguyên nhân dẫn đến những sai phạm đã bị xử lý, nhưng có
một nguyên nhân gốc rễ đã được Đại hội XIII chỉ ra, đó là "việc tu dưỡng, rèn luyện
đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên chưa thường xuyên, có biểu
hiện suy thối về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống."./.
Chính vì vậy trong nhiệm kỳ khóa XIII, Đảng ta tiếp tục xác định: Tăng cường xây
dựng Đảng về chính trị; Coi trọng xây dựng Đảng về tư tưởng; Tập trung xây dựng
Đảng về đạo đức. Trong đó Đảng khẳng định "Kiên định chủ nghĩa Marx-Lenin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, không ngừng vận dụng và phát triển sáng tạo phù hợp với thực
tiễn Việt Nam. Kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Kiên định
đường lối đổi mới vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Kiên định những nguyên tắc trong công tác xây dựng Đảng."
Công tác tư tưởng phải kết hợp giữa "xây" và "chống," lấy "xây" là nhiệm vụ cơ bản,
chiến lược, lâu dài, làm cho tư tưởng tiến bộ, tích cực thấm sâu vào tồn bộ đời sống
xã hội, có tác dụng uốn nắn những biểu hiện lệch lạc, cải tạo những tư tưởng lạc hậu,
đẩy lùi những sai trái.
Trong xây dựng Đảng về đạo đức, Đảng ta xác định kiên quyết, kiên trì thực hiện
Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI), Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) về xây
dựng Đảng gắn với đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ
Chí Minh bằng các giải pháp mạnh mẽ, quyết liệt, đồng bộ để ngăn chặn, đẩy lùi suy
thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện "tự diễn biến," "tự chuyển
hóa" trong nội bộ.
2. Khơng ngừng học Bác
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến công tác giáo dục, rèn luyện
cán bộ, đảng viên. Người chỉ rõ "Muôn việc thành công hoặc thất bại đều do cán bộ
tốt hay kém." Do vậy, phải đặc biệt chú trọng công tác giáo dục, rèn luyện, bồi dưỡng
đội ngũ cán bộ, đảng viên, xây dựng được nhiều tấm gương người tốt, việc tốt.
Việc đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh đã
được Đảng ta nêu ra và chỉ đạo từ rất sớm, bằng nhiều chỉ thị, nghị quyết, qua nhiều
thời kỳ. Gần đây nhất là Chỉ thị số 05 của Bộ Chính trị (khóa XII) "về đẩy mạnh học
tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh" gắn với việc thực hiện
Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) về "Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng;
ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu
hiện "tự diễn biến," "tự chuyển hóa" trong nội bộ, đã đạt được nhiều kết quả rất quan
trọng, khá toàn diện, với nhiều cách làm mới, sáng tạo, thiết thực, tạo chuyển biến
mạnh mẽ, tích cực, có sức lan tỏa sâu rộng trong toàn Đảng và toàn xã hội, được Đại
hội XIII của Đảng đánh giá cao.
Trong nhiệm kỳ XII của Đảng, việc đẩy mạnh tuyên truyền về tư tưởng, đạo đức,
phong cách Hồ Chí Minh để từ đó lan tỏa những tấm gương, những nghĩa cử, những
hành động đẹp trong xã hội đã được các cấp, ngành trong cả nước chú trọng thực
hiện. Khắp mọi miền đất nước, từ thành thị tới nông thôn, từ đồng bằng tới miền núi,
hải đảo xa xơi khơng khó thấy những tấm gương người tốt, việc tốt, những cách làm
hay, đầy sáng tạo, tô thắm thêm những giá trị truyền thống quý báu của dân tộc Việt
Nam.
Chính phủ, các ban, ngành, địa phương đã tổ chức nhiều cuộc vận động, phong trào
thi đua thiết thực. Thủ tướng Chính phủ phát động Phong trào thi đua “Cả nước
chung tay vì người nghèo-Khơng để ai bị bỏ lại phía sau.”
Quân ủy Trung ương phát động Cuộc vận động “Phát huy truyền thống, cống hiến
tài năng, xứng danh bộ đội Cụ Hồ”, xây dựng các mơ hình: “Tự soi, tự sửa,” “Làm
việc theo chức trách, nêu gương trong hành động”; “Trên làm gương mẫu mực, dưới
tích cực làm theo”; “Đảng viên dìu dắt quần chúng.”
Đặc biệt, từ năm 2020, trước những ảnh hưởng của đại dịch COVID-19, người dân
trên mọi miền Tổ quốc đã chung sức, đồng lòng với Đảng, Nhà nước chống lại đại
dịch. Ở những công việc, vị trí khác nhau, mỗi người đều có cách của riêng mình để
chung tay cùng cộng đồng phịng, chống dịch bệnh, lan tỏa sâu đậm tinh thần đại
đoàn kết toàn dân tộc trong tư tưởng của Người.
Những kết quả tích cực trong thực hiện Chỉ thị 05-CT/TW đã góp phần đấu tranh
ngăn chặn có hiệu quả tình trạng suy thối về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống,
những biểu hiện "tự diễn biến," "tự chuyển hóa" trong đội ngũ cán bộ, đảng viên,
nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý và người đứng đầu các tổ chức, cơ quan, đơn vị; xây
dựng đội ngũ cán bộ có bản lĩnh chính trị vững vàng, phẩm chất đạo đức trong sáng,
có trách nhiệm và động cơ đúng đắn, tiên phong, gương mẫu, hồn thành tốt nhiệm
vụ được giao, góp phần tạo ra những đột phá trong việc phát triển kinh tế - xã hội,
xây dựng và bảo vệ đất nước.
3. Tiếp tục phát huy vai trò, trách nhiệm nêu gương
Trong quá trình tổ chức thực hiện, phải đề cao việc phát huy vai trò, trách nhiệm nêu
gương của cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu, trước hết là các đồng chí Ủy
viên Bộ Chính trị, Ủy viên Ban Bí thư, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng.
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng yêu cầu: Mỗi cán bộ, đảng viên cần nghiêm túc thực
hiện trách nhiệm nêu gương; người có chức vụ càng cao, cương vị càng lớn càng
phải gương mẫu trong tu dưỡng, rèn luyện phẩm chất đạo đức, lối sống, phong cách,
tác phong, lề lối công tác để quần chúng, nhân dân noi theo; phải thể hiện được tư
tưởng vững vàng, quan điểm đúng đắn, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm,
hết lịng vì nước, vì dân; có phong cách lãnh đạo khoa học, dân chủ, sâu sát thực tiễn,
thật sự là hạt nhân đoàn kết, quy tụ, tạo động lực và phát huy trí tuệ tập thể, theo tinh
thần Bác đã dạy: "Một tấm gương sống cịn có giá trị hơn một trăm bài diễn văn
tuyên truyền."
Trong thực tế, sự nêu gương của cán bộ, đảng viên có tầm ảnh hưởng rất lớn, để từ
đó người dân thêm tin yêu Đảng. Còn nhớ trong vụ sạt lở tại thủy điện Rào Trăng 3
năm 2020, vào những thời khắc khó khăn, sinh tử, Thiếu tướng Nguyễn Văn Manvị tướng của Quân khu 4 đã lựa chọn sự dấn thân vì dân, vì nước.
Câu nói cuối cùng của Thiếu tướng Nguyễn Văn Man khi báo cáo với Thủ tướng về
người đồng đội của mình: “Nhân dân đang cần chúng ta đến thì bất luận có hy sinh
cũng phải đến” đã gây xúc động mạnh trong lòng quân, dân cả nước. Hay trong bối
cảnh gần 2 năm cả nước chống chọi với đại dịch COVID-19, không thể kể hết những
tấm gương xung phong, tình nguyện, những nghĩa cử cao đẹp của các cán bộ, đảng
viên cùng cả hệ thống chính trị và người dân sớm nỗ lực ngăn chặn, đẩy lùi dịch
bệnh, mang lại cuộc sống bình an cho nhân dân.
Việc kiên quyết, kiên trì thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI), Nghị quyết
Trung ương 4 (khóa XII) về xây dựng Đảng gắn với đẩy mạnh học tập và làm theo
tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh sẽ có tác động tích cực, nâng cao chất
lượng, hiệu lực, hiệu quả công tác giáo dục, rèn luyện, tu dưỡng phẩm chất, đạo đức,
lối sống, trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên- cái gốc quan trọng trong
công tác cán bộ của Đảng.
4. TRÁCH NHIỆM CỦA BẢN THÂN.
Bản thân em sau khi học tập môn Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, em càng nhận
rõ hơn vai trò, vị trí của Đảng cộng sản Việt Nam, thấy được những thành tựu to lớn
mà dân tộc ta đã đạt được dưới sự lãnh đạo tài tình và sáng suốt của Đảng ta. Qua đó
em rất tự hào về Đảng ta, dân tộc ta và em thấy rõ trách nhiệm của mình là phải
khơng ngừng nỗ lực phấn đấu rèn luyện, tu dưỡng theo tư cách người cán bộ, đảng
viên
Tóm lại, là một sinh viên trưởng Đại học Công Nghệ GTVT đang phấn đấu để trở
thành đảng viên Đảng cộng sản Việt Nam, em nhận thấy trước tiên mình cần phải
tích cực học tập, rèn luyện và cơng tác hơn nữa, xung kích đi đầu trong mọi hoạt
động Đoàn, hội của nhà trường, đặc biệt là hoạt động sinh viên tình nguyên, chung
tay hành động vì cộng đồng. Điều này là rất quan trọng. Thực tế em đã tham gia vào
một số hoạt động tình nguyện như mùa hè xanh, chung tay giúp đỡ trẻ em mồ côi,
trẻ em đường phố,.... Em nhận thấy mình cần phải tích cực, năng động và sáng tạo
hơn nữa trong những hoạt động như thế này để có thể giúp ích nhiều hơn cho cộng
đồng. Bên cạnh đó, em cũng cần phải nâng cao năng lực của bản thân. Đó chính là
tích cực học tập, tìm hiểu các kiến thức về chăm sóc, bảo vệ và nâng cao sức khỏe,
phịng chống bệnh tật thơng qua việc học trên lớp cũng như tự trau dồi qua sách báo,
internet, tham gia nghiên cứu khoa học để trước tiên là nâng cao thành tích học tập
của bản thân, giúp đỡ bạn bè cùng lớp, cùng khóa và hơn nữa là có thể truyền thơng
những kiến thức đó cho cộng đồng mà hiện tại là gia đình và những người xung
quanh. Ngồi ra em cũng cần phải đóng góp tích cực vào hoạt động Đoàn, hội của
nhà
trưởng
Với những nỗ lực phấn đấu trên đây, em rất mong muốn một ngày nào đó được trở
thành một người Đảng viên, được đứng trong hàng ngũ của Đảng, và khi đó em sẽ
vẫn phải tiếp tục tích cực phấn đấu rèn luyện, hồn thiện bản thân để có thể phát triển
Đảng trong một mơi trưởng mới, kỷ luật hơn và cũng nhiều cơ hội phát triển hơn
KẾT LUẬN
Sau khi học xong môn học Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam em vẫn chưa thể hiểu
hết về vai trò của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc trong quá trình thành lập Đảng Cộng sản
Việt Nam. Qua đề tài này em đã sáng tỏ hơn về quá trình thành lập Đảng Cộng sản
Việt Nam cũng như trách nhiệm của cán bộ, đồn viên trong q trình xây dựng
Đảng hiện nay. Quá trình xây dựng Đảng hiện nay đã sửa đổi và bổ sung rất nhiều
điều, nên tiếp tục bổ sung để xây dựng nhà nước thực sự trong sạch vững mạnh. Bên
cạnh đó khơng thể thiếu việc đẩy mạnh công cuộc đấu tranh chống tham nhũng. Đảng
và nhà nước hồn thành những mục tiêu và cơng cuộc cải cách mạnh mẽ như vậy,
nhân dân đồng lòng quyết tâm để tạo nên một đất nước dân giàu nước mạnh. Để đất
nước Việt Nam có thể sánh ngang các cường quốc năm châu.
Trên đây là đề tài về bài tiểu luận của em. Trong q trình thực hiện cịn có rất nhiều
những thiếu sót. Kính mong thầy cơ cũng như các bạn đóng góp thêm ý kiến, bổ sung
để được hồn thiện hơn!
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.
/>
trinh-thanh-318458
2. />3.
/>
cua-dang-vien-voi-cong-tac-xay-dung-dang-133034.html&mobile=yes&=1