Tải bản đầy đủ (.docx) (8 trang)

Ảnh hưởng của Nho giáo đến lĩnh vực văn học, giáo dục ở Trung Quốc thời cổ trung đại, Lịch sử văn minh thế giới

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (97.52 KB, 8 trang )

MỞ ĐẦU
Trung Quốc trong suốt chiều dài lịch sử là một nước lớn ở Đông Á. Từ một
vùng nhỏ ở trung lưu lưu vực sơng Hồng Hà, qua 4000 năm hình thành và phát
triển nhân dân Trung Quốc đã sáng tạo nên một nền văn minh vô cùng rực rỡ so
với thế giới đương thời. Một trong những thành tựu của Trung Hoa là hệ thống các
trường phái tư tưởng, tiêu biểu là Nho gia, Âm Dương gia, Đạo gia, Mặc gia, Pháp
gia. Trong đó, Nho gia là trường phái tư tưởng quan trọng nhất ở Trung Quốc xuất
hiện từ thời cổ trung đại, chiếm vị trí vơ cùng quan trọng trong lịch sử tư tưởng,
ảnh hưởng sâu rộng tới nhiều lĩnh vực từ chính trị, pháp luật đến văn học, giáo dục,
nghệ thuật… của Trung Hoa. Để tìm hiểu rõ hơn về vấn đề này, trong bài tập học
kì người viết xin trình bày đề số 3: “Ảnh hưởng của Nho giáo đến lĩnh vực văn
học, giáo dục ở Trung Quốc thời cổ trung đại”.

NỘI DUNG
I.Vài nét về Nho giáo
“Nho” theo Hán tự, do chữ Nhân và chữ Nhu ghép lại. Nhân là người, Nhu
là cần dùng. Những người theo Nho giáo được gọi là các nho sĩ, là người đọc sách
thánh hiền, được thiên hạ trọng dụng để dạy bảo người đời, ăn ở cho phù hợp với
luân thường đạo lý. Nho gia là trường phái tư tưởng quan trọng nhất ở Trung Quốc.
Người đặt cơ sở đầu tiên là Khổng Tử, sống vào thời Xuân Thu. Về sau Mạnh Tử
(thời Chiến Quốc), Đổng Trọng Thư (thời Tây Hán) đã phát triển học thuyết này
làm cho Nho học ngày càng hoàn chỉnh.
Nội dung của Nho giáo được thể hiện trong Ngũ Kinh (Kinh Thi, Kinh Thư,
Kinh Dịch, Kinh Lễ và Kinh Xuân Thu) và Tứ Thư (Luận ngữ, Đại học, Trung
Dung, Mạnh Tử). Học thuyết tôn giáo chia làm hai phần: Hạ học và Thượng Học.
1


Chủ yếu Hạ học là dạy về Nhân đạo: Người qn tử và kẻ tiểu nhân; cơng bình bác
ái; Tam Cương, Ngũ Thường, Tam Tịng, Tứ Đức; Lễ Nhạc; chính danh định phận.
Nam thì Tam Cương, Ngũ Thường, nữ thì Tam Tịng, Tứ Đức. Nho học quan niệm


bản tính thiện của con người gồm năm đức: Nhân, Lễ, Nghĩa, Trí, Tín, gọi là Ngũ
Thường. Tam Cương đó là ba mối quan hệ vua - tôi, cha - con, chồng – vợ. Tam
Tòng là ba điều phải theo của phụ nữ: Tại gia tòng phụ, xuất gia tòng phu, phu tử
tòng tử. Tứ Đức là bốn đức của người phụ nữ: Công, Dung, Ngôn, Hạnh. Thượng
học là quan niệm về thế giới quan của Nho giáo: Thái cực và sự biến hóa của Thiên
lý, Thiên mệnh, Quỷ Thần, Hồn phách, Đạo của Đức Khổng Tử.
II.Ảnh hưởng của Nho giáo đến lĩnh vực văn học, giáo dục ở Trung
Quốc thời cổ trung đại
1.Ảnh hưởng của Nho giáo đến lĩnh vực văn học
Thời cổ trung đại, Trung Quốc có một nền văn học rất phong phú. Từ thới
Xuân Thu Chiến Quốc, văn học Trung Quốc đã bắt đầu phát triển. Đến thời Tây
Hán, Nho gia được đề cao. Nho gia là trường phái coi trọng học tập, vì vậy từ thời
Hán về sau người có thể cầm bút viết văn trong xã hội Trung Quốc rất nhiều. Hầu
hết các tác phẩm văn học thời kì này của Trung Quốc đều ảnh hưởng rõ nét bởi hệ
thống quan điểm Nho giáo bởi đa số các tác giả văn chương đều xuất thân từ tầng
lớp trí thức, được thụ hưởng nền giáo dục của Nho giáo một các đầy đủ nhất.
Tác phẩm đầu tiên trong văn học Trung Quốc là Thi được Khổng Tử chỉnh
lý lại và được Nho gia đề cao thành Kinh Thi, khuyến khích mọi người học Thi.
“Văn dĩ tải đạo” - văn học phải truyền bá tư tưởng Nho giáo. Nho giáo coi trọng
người quân tử, phê phán kẻ tiểu nhân, kẻ hèn hạ, hám danh lợi. Quan niệm người
quân tử thì phải “tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ”. Quan điểm ấy được thể
hiện trong tác phẩm “Li Tao” của Khuất Nguyên (sống vào thời Chiến Quốc). Tác
phẩm thổ lộ nỗi phẫn uất trước hiện thực đen tối của xã hội, nêu cao tinh thần đấu
2


tranh bất khuất, lòng yêu nước thương dân và ý chí thà chết chứ khơng chịu sống
hèn, sống đục. Tiểu thuyết Trung Quốc có cách xây dựng nhân vật với phẩm chất
theo quy chuẩn Nho giáo như nam thì có Tam Cương, Ngũ Thường, nữ có Tam
Tịng, Tứ Đức. Tiêu biểu như hình tượng người qn tử, có nghĩa khí, là người làm

việc lớn như “Truyện Thủy hử”, “Tam Quốc chí diễn nghĩa”, “Phong thần diễn
nghĩa”. Ngồi ra cịn có tư tưởng mệnh trời trong lời mở đầu “Tam Quốc chí diễn
nghĩa”.
Thơ ca thì có nội dung chủ yếu là quan điểm của các sĩ phu về xã hội, về
thiên nhiên, con người, lịng trung hiếu, ái dân, khí khái của bậc trượng phu hoặc
khí tiết của người phụ nữ. Thời kì huy hồng nhất của thơ ca là thời Đường với
nhiều nhà thơ nổi tiếng. Lý Bạch – thơ ông miêu tả vẻ đẹp thiên nhiên Trung Hoa
như “Hoàng Hạc lâu tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng”, “Xa ngắm thác núi
Lư”, phản ánh đời sống nhân dân, nỗi lịng của người chinh phụ như “Xn tứ”,
“Tý dạ Ngơ Ca”. Thơ của Đỗ Phủ lại miêu tả cảnh bất công trong xã hội, sự khốn
khổ của người nông dân, phê phán thói xa hoa phè phỡn của vua chúa, quý tộc.
Giống như Đỗ Phủ, thơ của Bạch Cư Dị cũng nói lên nỗi khổ cực của nhân dân,
lêm án giai cấp thống trị, tiêu biểu như tác phẩm “Ông già Đỗ Lăng”.
2.Ảnh hưởng của Nho giáo đến lĩnh vực giáo dục
Nho giáo là trường phái rất coi trọng giáo dục. Nho giáo có nhiều quan niệm
cho rằng giáo dục là cần thiết cho tất cả mọi người “hữu giáo vơ loại” (Luận Ngữ).
Theo Nho gia, mục đích của giáo dục là để đào tạo ra những con người lý tưởng,
có sự hồn thiện về cả nhân cách, đạo đức lẫn tri thức, lối sống. Bởi vậy Nho gia
chủ trương giáo dục “đạo làm người”, phương pháp giáo dục học đi đôi với hành:
“Quân tử bác học ư văn, ước chi dĩ lễ, diệc khả dĩ phất bạn hỹ phù” (Người quân tử
trước học văn chương để mở rộng trí thức của mình, kế đó, người nương theo lễ
giáo mà kiềm giữ lấy mình, nhờ vậy mà khỏi trái đạo lý).
3


Về các trường học, thời Xuân Thu, nền quốc học của nhà Chu dần suy thoái,
trường tư xuất hiện. Người đầu tiên sáng lập trường tư là Khổng Tử. Từ thời Hán
về sau, cùng với sự đề cao Nho gia, nền giáo dục của Trung Quốc càng phát triển
mạnh. Trường học cao nhất thời Hán gọi là Thái học được thành lập từ thời Hán
Vũ đế. Các giáo quan dạy ở Thái học họi là Ngũ kinh bác sĩ. Nội dung học tập chủ

yếu là kinh điển Nho gia như Ngũ Kinh, Tứ Thư, phương thức dạy học là ở những
giảng đường lớn. Do ảnh hưởng từ tư tưởng trọng nam khinh nữ của Nho giáo, các
trường học chỉ cho nam theo học.
Về khoa cử, thời Hán, triều Hán thi hành chính sách “sát cử” để tuyển chọn
nhân tài, tức là giao cho các quan địa phương khảo sát và tiến cử những người có
tài có đức. Thời Ngụy, Tấn, Nam Bắc triều, Trung Quốc thi hành chế độ “cửu
phẩm trung chính”. Triều đình cử các viên quan về địa phương căn cứ theo tài năng
và đức hạnh để triều đình bổ dụng. Thời Tùy – Đường, chế độ khoa cử được đặt ra,
khoa thi đầu tiên gọi là khoa Tiến sĩ, nội dung thi là văn học. Các triều đại về sau,
chế độ khoa cử của Trung Quốc càng hoàn bị và chặt chẽ hơn trước.
3. Đánh giá
Về văn học, Nho giáo hướng văn học vào cuộc sống, ca ngợi những phẩm
chất tốt đẹp của con người được gửi gắm qua các hình tượng các nhân vật, nội
dung, đề tài trong các tác phẩm văn học từ đó tạo nên sự học hỏi của mọi người,
khuyến khích con người hướng đến những cái đẹp . Phát triển một nền văn học có
nét độc đáo riêng như trong văn có đạo. Nho giáo góp phần tạo nên giá trị đạo đức
cao đẹp, vốn là một nét nổi trội của văn học Trung Quốc. Bên cạnh đó, Nho giáo
cũng có những ảnh hưởng tiêu cực: Với tư tưởng trọng nam khinh nữ trong các tác
phẩm văn học càng làm cho sự bất bình đẳng trở nên gay gắt hơn; gị ép mọi người
phải tuân theo những chuẩn mực nhất định; hạn chế sự sáng tạo trong các đề tài
văn học chẳng hạn những chủ đề ái tình thường được coi là dâm thư; bên cạnh
4


thành phần chân chính, có ý nghĩa nhân văn cao cả, vẫn có khơng ít ngun lý đạo
đức cứng nhắc, đen trắng lẫn lộn như trong đạo tam cương, đạo tam tịng…
Về giáo dục, Nho gia đã góp phần tạo nên một nền giáo dục phát triển ở
Trung Quốc thời cổ trung đại. Việc coi trọng giáo dục, đào tạo hiền tài đã thúc đẩy
cho sự ra đời của chế độ khoa cử trong thời này.
KẾT LUẬN

Có thể nói, Nho giáo đã có ảnh hưởng hết sức sâu sắc tới nền văn minh
Trung Hoa thời cổ trung đại, trong đó có văn học và giáo dục. Nho giáo ảnh hưởng
đến nội dung, cách xây dựng hình tượng nhân vật trong văn học, ảnh hưởng đến
việc giảng dạy trong các trường học, chế độ khoa cử của Trung Quốc thời cổ trung
đại. Ngồi có những ảnh hưởng tích cực như đề cao phầm chất, vẻ đẹp con người,
đào tạo nhân tài thì Nho giáo cũng có những ảnh hưởng tiêu cực nhất định như tư
tưởng trọng nam khinh nữ, quá đề cao danh phận làm con người có tư tưởng hám
danh, ảnh hưởng tiêu cực đến khoa cử. Tóm lại, Nho giáo là trường phái có ảnh
hưởng rất lớn đến văn học và giáo dục của Trung Quốc thời cổ trung đại.

5


PHỤ LỤC
Hoàng Hạc lâu tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng
Cố nhân tây từ Hoàng Hạc lâu,
Yên hoa tam nguyệt há Dương Châu.
Cơ phàm viễn ảnh bích khơng tận,
Duy kiến Trường Giang thiên tế lưu.
(Lý Bạch)
Dịch nghĩa:
Bạn cũ từ biệt tại lầu Hồng Hạc đi về phía tây,
Tháng ba hoa khói, xuống Dương Châu.
Bóng chiếc buồm đơn màu xanh mất hút,
Chỉ thấy Trường Giang vẫn chảy bên trời.

Xa ngắm thác núi Lư
Nhật chiếu Hương Lô sinh tử yên
Dao khan bộc bố quải tiền xuyên
Phi lưu trực há tam thiên xích

Nghi thị ngân hà lạc cửu thiên.
(Lý Bạch)

Dịch thơ:
Nắng rọi Hương Lơ khói tía bay

6


Xa trơng dịng thác trước sơng này
Nước bay thẳng xuống ba nghìn thước
Tưởng dải ngân hà tuột khỏi mây.

Xuân tứ
Yên thảo như bích ty,
Tần tang đê lục chi.
Đương qn hồi quy nhật,
Thị thiếp đoạn trường thì.
Xuân phong bất tương thức,
Hà sự nhập la vi?
(Lý Bạch)

Dịch nghĩa:
Cỏ Yên giống như tơ biếc,
Dâu Tần nhánh thấp xanh.
Trong lúc chàng đang mong ngày về,
Cũng là lúc thiếp buồn đứt ruột.
Gió xuân đã chẳng quen biết nhau,
Sao còn nhập vào màn lụa?


7


8



×