MỞ ĐẦU
Tôn giáo là một sản phẩm của lịch sử, do con người tạo ra với lịch sử rất lâu
đời. Tồn tại xuyên suốt chiều dài lịch sử của nhân loại, tôn giáo không ngừng tác
động lên hai mặt đời sống của con người: cộng đồng và cá thể. Với sự giao lưu,
tương tác với nhiều nền văn hóa khác nhau, các tôn giáo đã du nhập vào Việt Nam,
cùng với văn hóa của người Việt tạo nên một đất nước Việt Nam đa tôn giáo nhưng
lại đậm đà bản sắc dân tộc. Trong đó, nổi bật nhất là ba tôn giáo lớn: Phật giáo,
Nho giáo, Đạo giáo. Để làm rõ hơn vấn đề này, trong bài tập học kì, em xin trình
bày đề tài: “ Nho giáo và sự du nhập của Nho giáo vào Việt Nam”.
NỘI DUNG
I. Vài nét về Nho giáo
1. Sự ra đời của Nho giáo
“Nho” theo Hán tự, do chữ Nhân và chữ Nhu ghép lại. Nhân là người, Nhu
là cần dùng. Những người theo Nho giáo được gọi là các nho sĩ, là người đọc sách
thánh hiền, được thiên hạ trọng dụng để dạy bảo người đời, ăn ở cho phù hợp với
luân thường đạo lý.
Nho gia là trường phái tư tưởng quan trọng nhất ở Trung Quốc. Người đặt
cơ sở đầu tiên là Khổng Tử. Khổng Tử (551 – 479 TCN), tên là Khâu, hiệu là
Trọng Ni. Khổng Tử là người nước Lỗ, sống vào thời Xuân Thu. Sống trong thời kì
thay đổi lớn, biến động lớn, Khổng Tử trở thành một nhà tư tưởng lớn và là một
nhà giáo dục lớn đầu tiên của Trung Quốc cổ đại. Hệ thống tư tưởng Nho gia của
ông đã ảnh hưởng rất sâu rộng tới lịch sử và văn minh Trung Hoa.
Về sau Mạnh Tử (thời Chiến Quốc), Đổng Trọng Thư (thời Tây Hán) đã
phát triển học thuyết này làm cho Nho học ngày càng hoàn chỉnh.
2. Nội dung của Nho giáo
Nội dung của Nho giáo gồm tôn chỉ của Nho giáo, học thuyết của Nho giáo,
kinh điển của Nho gia.
2.1. Tôn chỉ của Nho giáo
Tôn chỉ của Nho giáo gồm Thiên địa vạn vật đồng nhất thể và Trung Dung.
Thiên địa vạn vật đồng nhất thể: theo quan niệm của Nho giáo thì con người
sinh ra đã bẩm thụ cái lý và cái khí của trời đất, tức là cùng với trời đất có thể
tường liên, tương cảm và tương ứng với nhau.
Trung Dung: Trung là khơng lệch về phía nào, là đường chính trong thiên
hạ, Dung là không thay đổi, là nhất định trong thiên hạ.
2.2. Học thuyết của Nho giáo
Học thuyết của Nho giáo được chia thành 2 phần: Hạ học và Thượng học.
a)
Hạ học chủ yếu dạy về nhân đạo
Nho giáo chia những người trong xã hội thành hai loại: người quân tử và kẻ
tiểu nhân. Quân tử là người có nhân phẩm cao quý, chăm lo Đạo thánh hiền để sửa
mình. Tiểu nhân lại là kẻ có chí khí hèn hạ, hám danh lợi. Người quân tử thì phải
“tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ”.
Nam thì Tam Cương, Ngũ Thường; nữ thì Tam Tịng, Tứ Đức. Tam Cương
là mối quan hệ quân thần, phụ tử, phu thê; Ngũ Thường là năm điều thường có:
Nhân, Lễ, Nghĩa, Trí, Tín. Tam Tòng là ba điều phải theo của người phụ nữ: “tại
gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử”, Tứ Đức là bốn đức tính của người
phụ nữ: Cơng, Dung, Ngơn, Hạnh.
Ngồi ra cịn có cơng bình – bác ái, lễ nhạc. Lễ trước hết là hình thức cúng
tế thần linh, sau là những phép tức ứng xử phù hợp. Nhạc là sự hòa hợp giữa các
thứ âm thanh mà tạo thành. Nhạc và Lễ đều có chung mục đích là sửa đổi tâm tính
con người, bồi dưỡng tình cảm cho thuần hậu.
Chính danh định phận: “Danh bất chính tắc ngơn bất thuận, ngơn bất thuận
tắc sự bất thành”. Nghĩa là danh khơng chính thì lời nói khơng xi, lời nói khơng
xi thì việc khơng thành.
b)
Thượng học là quan điểm về thế giới quan của Nho giáo
Thượng học gồm thái cực và sự biến hóa của thiên lý, thiên mệnh, quỷ thần,
hồn phách, đạo của Đức Khổng Tử.
Trời là chủ thể của cả càn khôn vũ trụ và vạn vật nên có sức mạnh xoay
chuyển càn khơn, đó là thiên mệnh. Nho giáo dạy người ta tin ở trời, tin ở thiên
mệnh, tất nhiên tin có quỷ thần. Sự cúng tế quỷ thần là bày tỏ lịng thành kính và
quỷ thần thì đều sáng suốt, chính trực, khơng thiên vị ai. Đức Khổng Tử nói:
“Nhân sinh hữu khí, hữu hồn, hữu phách. Khí, hồn, phách hội chi vị sinh”. Nghĩa
là, “người sinh ra có khí, có hồn, có phách. Khí, hồn, phách hội lại gọi là sống”.
2.3. Kinh điển của Nho gia
Trước thời Đức Khổng Tử, Đạo thánh hiền được chép trong các sách Dịch,
Thi, Thư, Lễ, Nhạc. Đức Khổng Tử nghiên cứu sách ấy, ngài chú giải Kinh Dịch,
chỉnh đốn Kinh Lễ và Kinh Nhạc, san định Kinh Thi Kinh Thư và sáng tác ra Kinh
Xuân Thu. Sau đó, các sách này được hậu Nho góp nhặt và phụ họa thành Ngũ
Kinh: Kinh Dịch, Kinh Thi, Kinh Thư, Kinh Lễ, Kinh Xuân Thu.
Những sách do các môn đệ của Đức Khổng Tử làm ra sau đó được gọi là Tứ
Kinh: Luận Ngữ, Đại Học, Trung Dung, Mạnh Tử.
II. Sự du nhập của Nho giáo vào Việt Nam
1.
Quá trình du nhập của Nho giáo vào Việt Nam
Từ thế I đến thế kỉ X và từ năm 1407 đến 1427 là thời kì đất nước ta nằm
trong tay các đế chế phong kiến Trung Quốc. Và đó cũng là giai đoạn du nhập Nho
giáo mạnh mẽ vào Việt Nam. Nho giáo đã tồn tại ở Việt Nam suốt 2000 năm.
Nho giáo ở dạng Hán nho được các quan lại Trung Hoa như Tích Quang,
Nhâm Diên, Lý Thiện, Sĩ Nhiếp… tích cực truyền bá từ đầu cơng ngun. Nhưng
khi đó Nho giáo chỉ dừng lại ở tầng lớp quan lại xung quanh chính quyền ngoại
bang. Có thể nói rằng suốt cả giai đoạn chống Bắc thuộc, Nho giáo chưa có chỗ
đứng trong xã hội Việt Nam.
Đến thời Lý, với sự kiện Lý Thái Tổ cho xây cất Văn Miếu thờ Chu Cơng,
Khổng Tử (1076), mới có thể xem là Nho giáo được tiếp nhận chính thức. Sang đời
Trần, Nho giáo phát triển hơn, chính quyền dùng Nho làm trị đạo. Nho giáo chiếm
ưu thế ở triều đình nhưng vẫn chưa được người Việt chấp nhận.
Năm 1407, vua Minh ra lệnh tiêu hủy tất cả sách vở, bản gỗ, bia đá… của
người Việt. Trong cuộc kháng chiến chống quân Minh (1418 – 1458), các nhà Nho
Việt Nam, đứng đầu là Nguyễn Trãi đã tiếp thu một học thuyết bên ngoài để làm lý
luận. Từ thời Lê trở đi, Nho giáo trở thành quốc giáo.
Tuy nhiên, vào Việt Nam không phải là Nho giáo nguyên thủy mà chủ yếu là
Nho giáo của thời quân chủ chuyên chế như Đường, Tống, Minh. Đặc trưng cơ bản
của Nho giáo hậu kì là biến triết lý của Khổng Tử thành hệ thống quy phạm và ứng
xử cứng nhắc, nặng nề áp đặt từ trên xuống, độc tôn Nho giáo, biến Nho giáo thành
học thuyết quốc gia, đề cao quyền lực tuyệt đối của vua… Vì vậy trong con mắt
của người Việt, Nho giáo là ý thức hệ của tầng lớp cai trị phong kiến.
2.
Những đặc thù của Nho giáo ở Việt Nam
Bằng sức mạnh cưỡng chế, Nho giáo đã trùm lên đời sống tinh thần của
người Việt và chèn lấp nhiều yếu tố văn hóa khác. Tuy nhiên, người Việt đã tiếp
nhận Nho giáo theo cách thức riêng của mình, tạo ra những nét đặc thù riêng có
của Nho giáo ở Việt Nam.
2.1.Nho giáo đi vào tâm thức người Việt, được khúc xạ qua lăng kính của chủ
nghĩa yêu nước
Mục tiêu tiếp thu Nho giáo ở nước ta là để giữ vững quyền độc lập tự chủ
của mình. Bởi vậy, quan niệm về “nước” của Việt Nam khác quan niệm về “nước”
của Khổng Tử. Ở thời Khổng Tử, “nước” theo quan điểm của người Trung Quốc là
của nhà vua, là cái mà nhà vua có quyền cắt xẻ để ban cho các chư hầu. Còn đối
với người Việt, nước là nơi họ sinh ra và lớn lên, là cái mà họ giành giật từ tay
thiên nhiên. Bởi vậy, nó khơng thuộc về bất cứ ông vua nào, không thuộc về bất kỳ
triều đại nào mà thuộc về người dân. Điều này lý giải tại sao giới Nho sỹ Việt Nam
luôn phản ứng mãnh liệt trước hành vi bán nước, hại dân của những kẻ cầm quyền.
Tư tưởng “trung quân” của Nho giáo được người Việt tiếp thu trên cơ sở tinh
thần yêu nước đã tạo thành tư tưởng “trung quân ái quốc”. Trong q trình giải
phóng dân tộc khỏi sự thống trị của thực dân đế quốc, chữ “trung” khơng cịn là
trung với vua mà là “trung với nước”, chữ “hiếu” cũng được mở rộng đến vơ cùng
đó là “hiếu với dân”.
2.2. Trọng tình
Trọng tình người vốn là truyền thống của người dân Việt Nam, cho nên khi
tiếp nhận Nho giáo, người Việt tâm đắc chữ Nhân hơn cả. Điển hình là các bộ luật
đầu tiên của Việt Nam cũng mền dẻo hơn và không quá hà khắc, dù Nho giáo ở vị
trí độc tơn nhưng cũng khơng thể loại bỏ cái gốc của văn hóa người Việt là đạo
Mẫu.
2.3. Xu hướng trọng văn
Trọng văn là truyền thống của văn hóa nơng nghiệp, người Việt trọng văn
hơn trọng võ. Thêm nữa, ảnh hưởng từ quan điểm coi trọng “đạo” của Nho giáo,
“người quân tử lo không đạt đạo chứ không lo nghèo” đã tạo thành tâm lý khinh rẻ
nghề buôn trong tâm lý người Việt. Trong các nghề thì nghề bn ở vị trí cuối cùng
(Sỹ, Nơng, Cơng, Thương).
2.4. Nho giáo bị khúc xạ qua tâm lý làng xã của người Việt
Con người Việt Nam luôn là con người của cộng đồng làng xã. Nhu cầu hợp
quần dưới dạng làng xã của người Việt xuất phát từ hồn cảnh tự nhiên, từ địi hỏi
tất yếu của nghề trồng lúa nước. Bị quy định bởi phương thức sản xuất nên làng xã
Việt Nam đã tồn tại và gìn giữ được cấu trúc của chúng trải qua hàng ngàn năm. Vì
vậy khơng phải Nho giáo mà văn hóa làng xã mới là nền tảng của tâm thức người
Việt. Khi Nho giáo vào Việt Nam buộc phải tán sắc qua lăng kính này.
Người dân Việt Nam luôn coi Nho giáo là thứ học vấn của tầng lớp cai trị và
giữ thái độ “kính nhi viễn chi” (tôn trọng mà tránh xa). Người Việt học đạo Nho
cốt để ra làm quan, nên chỉ chú trọng đến các quy định thi cử là không nhấn mạnh
đến nhân sinh quan hay lối sống, đạo đức Nho giáo. Các nhà Nho Việt Nam không
tách thành một tầng lớp độc lập như ở Trung Hoa. Trái lại, họ vẫn là thành viên của
cộng đồng làng xã, đỗ đạt thì ra làm quan, khơng đỗ thì ở lại làng q dạy học. Bị
chi phối bởi văn hóa lãng xã, các nhà Nho Việt Nam đã cải tiến chữ Hán thành chứ
Nôm của Người Việt.
3.
Ảnh hưởng tích cực và tiêu cực của Nho giáo đến xã hội Việt Nam
3.1.Ảnh hưởng tích cực
Nho giáo với hệ thống tư tưởng chính trị của mình đã góp phần xây dựng
các nhà nước phong kiến trung ương tập quyền vững mạnh, củng cố và phát triển
chế độ quân chủ và những kinh nghiệm mẫu mực cho việc điều chỉnh và mở rộng
nhà nước phong kiến tập quyền theo một quy mô hồn chỉnh, phát triển sản xuất
nơng nghiệp
Nội dụng giáo dục của Nho giáo là Nhân nghĩa, coi trọng cách làm người, tu
dưỡng đạo đức theo Tam Cương, Ngũ Thường làm xã hội trở nên tốt đẹp hơn, tu
dưỡng đạo đức con người Việt Nam.
Nho giáo là trường phái coi trọng việc học tập. Vì vậy, Nho giáo là một nhân
tố quan trọng thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ của nền giáo dục nước ta. Nền giáo
dục ấy cùng với chế độ khoa cử đã đào tạo ra một đội ngũ trí thức lớn mạnh chưa
từng thấy trong lịch sử chế độ phong kiến Việt Nam.
3.2. Ảnh hưởng tiêu cực
Nho giáo gắn liền với giai cấp thống trị, là công cụ bảo vệ cho giai cấp đó.
Vì vậy Nho giáo cũng có những mặt tiệu cực nhất định. Nho giáo ở Việt Nam khi
chiếm giữ vị trí độc tơn đã làm cho chủ nghĩa giáo điều và bệnh khuôn sao phát
triển mạnh. Các quan lại. sỹ phu đều lấy thánh kinh, hiền truyện của Nho giáo làm
khuôn vàng thước ngọc cho mọi hành động và suy nghĩ của mình và áp đặt vào
mọi tầng lớp nhân dân.
Ảnh hưởng bởi tư tưởng “trọng nam khinh nữ”, Tam Tòng của Nho giáo mà
địa vị của người phụ nữ trong gia đình, xã hội Việt Nam bị hạ thấp. Người phụ nữ
không được học hành, không thể tự định đoạt số phận. Tư tưởng “trọng nam khinh
nữ” đó đã đưa đến rất nhiều ảnh hưởng tiêu cực đến người Việt.
Nho giáo Việt Nam rất bài xích thương nghiệp, quá chú trọng đến sản xuất
tự cung tự cấp mà không chú trọng trao đổi buôn bán. Điều này ảnh hưởng rất lớn
đến sự phát triển kinh tế của đất nước.
KẾT LUẬN
Nho giáo là một trong những trường phái triết học chính của Trung Quốc từ
thời cổ đại, tư tưởng triết học Nho giáo của Khổng Mạnh chiếm địa vị đặc biệt
quan trọng trong lịch sử tư tưởng, nó ảnh hưởng sâu sắc trong mọi mặt của đời
sống xã hội Trung Quốc suốt hơn hai ngàn năm lịch sử. Do vị trí địa lý và điều
kiện lịch sử, Nho giáo đã thâm nhập và bén rễ sâu vào các tầng lớp nhân dân Việt
Nam từ hàng ngàn năm nay. Nó ảnh đến hầu như tất cả các lĩnh vực tâm lý, văn
hố, xã hội. Chúng ta khơng thể phủ nhận rằng Nho giáo đã tham gia góp phần vào
sự đúc nặn nên diện mạo tinh thần dân tộc và văn hóa dân tộc. Dù có những ảnh
hưởng tiêu cực nhất định nhưng trải qua năm tháng sàn lọc những tư tưởng triết
học của Nho giáo đã thấm nhuần trong lòng con người Việt Nam.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.
TS. Phạm Thái Việt – TS. Đào Ngọc Tuấn, Đại cương về văn hóa Việt Nam,
2.
Nxb. Văn hóa – thơng tin.
Tìm hiểu về Nho giáo, />fbclid=IwAR28OEGP3_lpDzEzLvK0zTAyhW99b7qc8_HLrKDaEwZ3r6eml
3.
7M8Xc9rv7k.
Võ Thị Cẩm Vân, Sự du nhập và ảnh hưởng của Nho giáo đến giá trị truyền
thống văn hóa Việt Nam, />
4.
nho-giao-den-gia-tri-truyen-thong-van-hoa-viet-nam.
Nho giáo du nhập và đặc điểm Nho giáo
ử
Việt
Nam,
/>