Tải bản đầy đủ (.pdf) (115 trang)

(Luận văn thạc sĩ) Pháp luật về hoạt động của tổ chức bảo hiểm tiền gửi ở Việt Nam Thực trạng và hướng hoàn thiện

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (9.81 MB, 115 trang )

MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
MỞ ĐẦU

1

Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ BẢO HIỂM

7

TIỀN GỬI VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA TỔ CHỨC BẢO
HIỂM TIỀN GỬI

1.1.

Khái niệm, đặc điểm, bản chất, mục đích và vai trị của bảo
hiểm tiền gửi

7

1.1.1.

Khái niệm và đặc điểm của bảo hiểm tiền gửi

7

1.1.1.1. Khái niệm bảo hiểm tiền gửi


7

1.1.1.2. Đặc điểm của bảo hiểm tiền gửi

13

1.1.2.

19

Bản chất, mục đích, vai trò của bảo hiểm tiền gửi

1.1.2.1. Bản chất của bảo hiểm tiền gửi

19

1.1.2.2. Mục đích của bảo hiểm tiền gửi

20

1.1.2.3. Vai trị của bảo hiểm tiền gửi

21

1.2.

Mơ hình bảo hiểm tiền gửi

29


1.2.1.

Về phương diện cơ chế bảo hiểm tiền gửi

29

1.2.2.

Về phương diện chức năng hoạt động

31

1.2.3.

Về phương thức quản lý hệ thống bảo hiểm tiền gửi

32

1.3.

Vị trí pháp lý, chức năng của tổ chức bảo hiểm tiền gửi

35

1.3.1.

Vị trí pháp lý của tổ chức bảo hiểm tiền gửi

35


1.3.2.

Chức năng của tổ chức bảo hiểm tiền gửi

38

1.4.

Khái quát về hoạt động của tổ chức bảo hiểm tiền gửi

40

Chương 2:

43

THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ HOẠT ĐỘNG CỦA
TỔ CHỨC BẢO HIỂM TIỀN GỬI Ở VIỆT NAM

3


2.1.

Hoạt động cấp và thu hồi chứng nhận bảo hiểm tiền gửi

44

2.2.


Hoạt động thu phí bảo hiểm tiền gửi

46

2.3.

Hoạt động kiểm tra, giám sát các tổ chức tham gia bảo hiểm
tiền gửi

52

2.4.

Hoạt động hỗ trợ tài chính đối với các tổ chức tham gia bảo
hiểm tiền gửi mất khả năng chi trả

60

2.5.

Hoạt động chi trả bảo hiểm tiền gửi

64

2.6.

Hoạt động tiếp nhận, xử lý tổ chức tham gia bảo hiểm tiền
gửi mất khả năng thanh toán

73


2.7.

Một số hoạt động khác của tổ chức bảo hiểm tiền gửi

79

2.7.1.

Quản lý và sử dụng nguồn vốn

79

2.7.2.

Hoạt động thông tin truyền thông

82

2.7.3.

Hoạt động hợp tác quốc tế

83

2.8.

Mối quan hệ giữa Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam với một số
cơ quan quản lý nhà nước có liên quan đến hoạt động bảo
hiểm tiền gửi


84

2.8.1.

Mới quan hệ giữa bảo hiểm tiề
hàng Nhà nước

84

2.8.2.

Mối quan hệ giữa Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam với Bộ Tài chí nh 86
Chương 3:

n gửi Việt Nam với Ngân

MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN PHÁP

89

LUẬT VỀ HOẠT ĐỘNG CỦA TỔ CHỨC BẢO HIỂM
TIỀN GỬI Ở VIỆT NAM

3.1.

Xây dựng và ban hành các văn bản hướng dẫn thi hành
Luật Bảo hiểm tiền gửi

89


3.2.

Nâng cao địa vị pháp lý của Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam

92

3.3.

Một số kiến nghị cụ thể nhằm hoàn thiện các quy định pháp
luật về hoạt động của Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam

96

KẾT LUẬN

107

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

109

4


MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Mặc dù nền kinh tế thế giới và khu vực đang trên đà phục hồi và phát
triển sau cuộc khủng hoảng kinh tế - tài chính tồn cầu bắt nguồn từ năm

2007, nhưng thực tế cho thấy các quốc gia vẫn đang phải đối mặt với những
yếu tố bất trắc tiềm ẩn có thể ảnh hưởng đến nền kinh tế của mình, đặc biệt là
trong lĩnh vực tài chính - ngân hàng. Đây là lĩnh vực luôn chứa đựng nhiều rủi
ro như: rủi ro về lãi suất, rủi ro khi tổ chức tín dụng mất khả năng thanh toán,
rủi ro về tỷ giá hối đối… Do đó, việc đổ vỡ hay phá sản của các ngân hàng
hoạt động kém hiệu quả là điều khó tránh khỏi. Tuy nhiên, để xử lý những
hậu quả do sự đổ vỡ hay phá sản này gây ra lại khơng hề đơn giản, thậm chí
có thể ảnh hưởng đến cả hệ thống ngân hàng và toàn bộ nền kinh tế. Để đối
phó với vấn đề này, nhiều quốc gia đã đưa ra các cơ chế phòng ngừa hoặc
hành động can thiệp nhằm giúp cho hệ thống ngân hàng trở lại hoạt động ổn
định và phát triển lành mạnh, trong đó cơ chế hữu hiệu được nhiều quốc gia
áp dụng phổ biến hiện nay là cơ chế bảo hiểm tiền gửi.
Chúng ta đều biết rằng, hoạt động chủ yếu và mang tính đặc thù của
các ngân hàng là huy động vốn từ người gửi tiền bằng những hình thức nhất
định và sau đó, ngân hàng sẽ sử dụng nguồn vốn huy động đó để "cho vay lại"
đối với những đối tượng có nhu cầu sử dụng vốn nên nếu có bất kỳ một rủi ro
nào xảy ra trong hoạt động của ngân hàng thì người gửi tiền sẽ là đối tượng bị
ảnh hưởng lớn nhất và trực tiếp nhất. Do đó, một cơ chế bảo hiểm tiền gửi
hiệu quả nhằm bảo vệ quyền lợi của người gửi tiền và bảo vệ sự an toàn cho
hoạt động của hệ thống ngân hàng trong các trường hợp rủi ro là vấn đề đã và
đang được nhiều quốc gia trên thế giới quan tâm, trong đó có Việt Nam.
Ở Việt Nam, pháp luật về bảo hiểm tiền gửi, trong đó có quy định về
những hoạt động mà tổ chức bảo hiểm tiền gửi được phép thực hiện, ngày

5


càng được hoàn thiện để đáp ứng yêu cầu của thực tiễn. Văn bản pháp luật
đầu tiên đặt nền móng cho sự ra đời tổ chức bảo hiểm tiền gửi ở Việt Nam là
Quyết định số 101/TCQĐ-BH của Bộ trưởng Bộ Tài chính về việc ban hành

Quy tắc bảo hiểm trách nhiệm của Quỹ tín dụng nhân dân đối với các khoản
tiền gửi có kỳ hạn. Tiếp theo đó là nhiều văn bản pháp luật quy định về tổ
chức và hoạt động của Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam lần lượt được các cơ quan
có thẩm quyền ban hành như: Nghị định số 89/1999/NĐ-CP ngày 01/9/1999
của Chính phủ về bảo hiểm tiền gửi, Quyết định số 218/1999/QĐ-TTg ngày
09/11/1999 của Thủ tướng Chính phủ về thành lập Bảo hiểm tiền gửi Việt
Nam, Nghị định 109/2005/NĐ-CP ngày 24/08/2005 của Chính phủ về việc
sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 89/1999/NĐ-CP, Thông tư số
03/2000/TT-NHNN5 ngày 16/3/2000 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước
Việt Nam hướng dẫn thi hành Nghị định số 89/1999/NĐ-CP ngày 01/9/1999
của Chính phủ về bảo hiểm tiền gửi, Quyết định số 75/2000/QĐ-TTg ngày
28/6/2000 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Điều lệ về tổ chức và
hoạt động của Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam, Thông tư số 03/2006/TT-NHNN
ngày 25/4/2006 của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam hướng dẫn một số nội
dung tại Nghị định số 89/1999/NĐ-CP ngày 01/9/1999 của Chính phủ về bảo
hiểm tiền gửi và Nghị định số 109/2005/NĐ-CP ngày 24/8/2005 của Chính
phủ về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 89/1999/NĐ-CP...
Tuy nhiên, những văn bản pháp luật quy định về vấn đề bảo hiểm tiền
gửi nói chung, cũng như quy định về hoạt động của tổ chức bảo hiểm tiền gửi
nói riêng được ban hành trong thời gian qua mới chỉ là những văn bản dưới
luật nên hiệu lực pháp lý chưa cao và cũng chưa đầy đủ, đồng bộ nên đã thể
hiện một số bất cập trên thực tế. Do đó, yêu cầu đặt ra là phải tiếp tục xây
dựng và hoàn thiện một khung pháp lý ổn định để giúp cho tổ chức bảo hiểm
tiền gửi ở Việt Nam hoạt động hiệu quả, thực hiện tốt chức năng và vai trị
của mình trong việc bảo đảm sự ổn định và phát triển cho thị trường tài chính tiền tệ quốc gia nói chung, đồng thời cũng chính là bảo vệ quyền lợi cho

6


những người gửi tiền - đối tượng cung cấp nguồn vốn chủ yếu cho thị trường.

Vì vậy, tháng 6/2012 vừa qua, Quốc hội đã thông qua Luật Bảo hiểm tiền gửi,
Luật này sẽ chính thức có hiệu lực từ ngày 01/01/2013. Tuy nhiên, những quy
định của Luật còn chung chung, nhiều vấn đề vẫn cịn bỏ ngỏ, do đó, việc tìm
hiểu và đi sâu nghiên cứu pháp luật về bảo hiểm tiền gửi nói chung cũng như
hoạt động của tổ chức bảo hiểm tiền gửi ở Việt Nam nói riêng là việc làm cần
thiết, nhằm nâng cao hiệu quả của hoạt động bảo hiểm tiền gửi ở Việt Nam.
Chính vì vậy, tôi đã mạnh dạn lựa chọn đề tài "Pháp luật về hoạt động của tổ
chức bảo hiểm tiền gửi ở Việt Nam - Thực trạng và hướng hoàn thiện" làm
đề tài luận văn tốt nghiệp cao học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Liên quan đến bảo hiểm tiền gửi và pháp luật về bảo hiểm tiền gửi đã
có một số cơng trình nghiên cứu, đề tài khoa học và nhiều bài báo như: sách
chuyên khảo "Pháp luật về bảo hiểm tiền gửi ở Việt Nam" của TS. Lê Thị Thu
Thủy, Luận văn thạc sĩ Luật học "Hoàn thiện pháp luật về bảo hiểm tiền gửi
của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay" của tác giả Bùi Hữu Toàn, Luận văn
thạc sĩ Luật học "Pháp luật về bảo hiểm tiền gửi ở Việt Nam" của tác giả
Nguyễn Thị Vân Hoài, bài báo nghiên cứu "Mơ hình bảo hiểm tiền gửi hiện
nay và những vấn đề cần quan tâm khi xây dựng luật bảo hiểm tiền gửi" của
TS. Đinh Dũng Sỹ in trên Tạp chí Nghiên cứu lập pháp… Tuy nhiên , các
cơng trình trên đây chủ ́u nghiên cứu những vấn đề cơ bản

, chung nhất về

bảo hiểm tiền gửi và pháp luật về bảo hiểm tiền gửi mà chưa đi sâu nghiên
cứu về các hoạt động của tổ chức bảo hiểm tiền gửi ở Việt Nam . Do vậy, tôi
nhận thấy rằng cần thiết phải nghiên cứu về các quy đị nh của pháp luật hiện
hành về các hoạt động chính của tổ chức bảo hiểm tiền
giá thực trạng áp dụng và phân tích một c

gửi Việt Nam , đánh


ách toàn diện , có hệ thống những

quy đị nh đó để đưa ra những kiến nghị góp phần hoàn thiện pháp luật về hoạt
động của tổ chức bảo hiểm tiền gửi ở Việt Nam trong thời gian tới , từ đó góp

7


phần nâng cao vị thế cũng như hiệu quả hoạt động của tổ chức này đối với hệ
thống ngân hàng nói riêng và đối với nền kinh tế nói chung.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
Mục đích của luận văn là nghiên cứu một cách có hệ thống một số vấn
đề lý luận cơ bản về bảo hiểm tiền gửi và đi sâu nghiên cứu về hoạt động của
tổ chức bảo hiểm tiền gửi, đồng thời phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật
quy định về hoạt động của tổ chức bảo hiểm tiền gửi ở Việt Nam để trên cơ sở
đó đưa ra một số phương hướng hoàn thiện pháp luật về hoạt động của tổ
chức này sao cho phù hợp với điều kiện phát triển và yêu cầu thực tiễn về hội
nhập kinh tế quốc tế của đất nước ta.
Để đạt được mục đích trên, luận văn hướng tới việc giải quyết các
nhiệm vụ sau:
- Nghiên cứu một số vấn đề lý luận cơ bản về bảo hiểm tiền gửi như
quá trình hình thành , phát triển của bảo hiểm tiền gửi ; khái niệm, đặc điểm,
mục đích, vai trị của bảo hiểm tiền gửi… để từ đó có cơ sở nghiên cứu sâu
hơn về những hoạt động của tổ chức bảo hiểm tiền gửi ở Việt Nam.
- Nghiên cứu thực trạng pháp luật quy định về hoạt động của tổ chức
bảo hiểm tiền gửi ở Việt Nam hiện nay đồng thời có tham khảo, so sánh với
những quy định tương ứng của pháp luật một số nước trên thế giới về bảo
hiểm tiền gửi để thấy được một số hạn chế, bất cập trong các quy định này, từ
đó có cơ sở kiến nghị những phương hướng hoàn thiện pháp luật về hoạt động

của tổ chức bảo hiểm tiền gửi ở Việt Nam trong thời gian tới.
- Kiến nghị một số phương hướng hoàn thiện pháp luật về hoạt động
của tổ chức bảo hiểm tiền gửi sao cho phù hợp với tình hình thực tiễn của nền
kinh tế - xã hội Việt Nam.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là các quy định củ
hành về hoạt động của tổ chức bảo hiểm tiền gửi ở Việt Nam

8

a pháp luật hiện
. Trên cơ sở đó


nêu ra một số bất cập và hướng hoàn thiện pháp luật về hoạt động của tổ chức
bảo hiểm tiền gửi ở Việt Nam trong thời gian tớ i.
Phạm vi nghiên cứu của đề tài tập trung phân tích khía cạnh pháp lý

,

cơ sở lý luận và nội dung các quy đị nh hiện hành của pháp luật Việt Nam về
hoạt động của tổ chức bảo hiểm tiền gửi , đồng thời có tham khảo thêm m ột số
quy đị nh có liên quan của pháp luật một số nước về lĩ nh vực bảo hiểm tiền
gửi để từ đó thấy được một số hạn chế , bất cập trong các quy định của pháp
luật Việt Nam và đưa ra kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về hoạt động
của tổ chức bảo hiểm tiền gửi ở Việt Nam trong thời gian tới.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Đề tài này được nghiên cứu dựa trên nền tảng cơ sở phương pháp luận
là chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử.
Bên cạnh đó, trong q trình thực hiện luận văn, tôi cũng sử dụng một

số phương pháp nghiên cứu cụ thể như: phương pháp thống kê, phương pháp
so sánh, phương pháp phân tích, tổng hợp để làm sáng tỏ những nội dung đã
đưa ra trong đề tài.
6. Những đóng góp mới của luận văn
Sau khi hoàn thành luận văn này , tôi mong muốn góp p hần làm rõ hơn
một số nội dung cơ bản về bảo hiểm tiền gửi, làm rõ một số hạn chế, bất cập
trong các quy đị nh hiện hành của pháp luật Việt Nam về hoạt động của tổ
chức bảo hiểm tiền gửi để từ đó đưa ra những kiến nghị nhằm góp phần hoàn
thiện pháp luật về hoạt động của tổ chức bảo hiểm tiền gửi ở

Việt Nam trong

thời gian tới, cụ thể:
- Làm rõ bản chất của bảo hiểm tiền gửi và mơ hình bảo hiểm tiền gửi.
- Phân tích đặc điểm, vị trí pháp lý của tổ chức bảo hiểm tiền gửi.
- Nêu những đặc điểm pháp lý cơ bản trong hoạt động của tổ chức bảo
hiểm tiền gửi.

9


- Đánh giá thực trạng pháp luật về hoạt động của tổ chức bảo hiểm
tiền gửi, nêu ra một số hạn chế, bất cập trong các quy định này và kiến nghị
phương hướng hoàn thiện pháp luật quy định về hoạt động của tổ chức bảo
hiểm tiền gửi ở Việt Nam.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận cơ bản về bảo hiểm tiền gửi và hoạt
động của tổ chức bảo hiểm tiền gửi .

Chương 2: Thực trạng pháp luật về hoạt động của tổ chức bảo hiểm
tiền gửi ở Việt Nam.
Chương 3: Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về hoạt động
của tổ chức bảo hiểm tiền gửi ở Việt Nam .

10


Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ BẢO HIỂM TIỀN GỬI
VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA TỔ CHỨC BẢO HIỂM TIỀN GỬI

Hoạt động tài chính - ngân hàng ln gắn với sự nhạy c ảm và tiềm ẩn
nhiều rủi ro . Việc hoạt động kém hiệu quả hoặc sự sụp đổ của một ngân hàng
khơng chỉ bó gọn trong ngân hàng riêng lẻ đó mà nó cịn có thể tạo ra một
phản ứng dây chuyền dẫn tới sự sụp đổ của cả hệ thống ngân hàng , điều này
sẽ có tác đợng rất tiêu cực đến tồn bộ nền kinh tế của q́c gia , vì vậy các
q́c gia cần phải có một cơ chế hữu hiệu nhằm củng cố , đảm bảo cho sự phát
triển an toàn của hệ thống ngân hàng và bảo vệ quyền lợi của người gửi tiền

-

đối tượng cung cấp nguồn vốn chủ yếu cho hoạt động của hệ thống ngân
hàng, đó chính là cơ chế bảo hiểm tiền gửi.
Hiện nay, thuật ngữ "bảo hiểm tiền gửi" đã khơng cịn xa lạ đối với
chúng ta, nhưng để hiểu một cách cụ thể về cơ chế đó thì có lẽ khơng phải ai
cũng làm được. Chính vì vậy, để có cơ sở đi sâu phân tích, nghiên cứu các
quy định của pháp luật về bảo hiểm tiền gửi ở những phần tiếp theo thì trước
tiên chúng ta cần tìm hiểu một số vấn đề lý luận cơ bản nhất về bảo hiểm
tiền gửi.

1.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM, BẢN CHẤT, MỤC ĐÍCH VÀ VAI TRỊ
CỦA BẢO HIỂM TIỀN GỬI

1.1.1. Khái niệm và đặc điểm của bảo hiểm tiền gửi
1.1.1.1. Khái niệm bảo hiểm tiền gửi
* Khái niệm tiền gửi:
Nghiên cứu lịch sử hình thành và phát triển về hoạt động của các tổ
chức tín dụng có thể thấy rằng, một trong những hoạt động cơ bản của các tổ

11


chức tín dụng là hoạt động huy động vốn từ cơng chúng bằng nhiều hình thức
khác nhau như nhận tiền gửi dưới dạng tiền gửi có kỳ hạn, tiền gửi không kỳ
hạn, tiền gửi tiết kiệm; phát hành kỳ phiếu; phát hành chứng chỉ tiền gửi…
Nguồn vốn huy động này sẽ được các tổ chức tín dụng cho các chủ thể khác
trong nền kinh tế vay nhằm mục đích sản xuất, kinh doanh, sinh hoạt và đời
sống. Như vậy, các tổ chức tín dụng đã trở thành trung gian tài chính giữa
người gửi tiền - người cho vay và người đi vay. Tuy nhiên, dưới góc độ pháp
lý thì người cho vay và người đi vay khơng có mối liên hệ pháp lý nào, họ chỉ
biết đến hợp đồng được ký kết giữa mình với tổ chức tín dụng và tổ chức tín
dụng là chủ thể trung chuyển nguồn vốn giữa người thừa vốn và người thiếu
vốn. Điều này có nghĩa là tổ chức tín dụng có tồn quyền sử dụng đồng vốn
mà họ huy động được, chủ động quyết định việc cho chủ thể nào vay và phải
chịu trách nhiệm thanh toán tiền gửi cho người gửi tiền khi đáo hạn hoặc khi
người gửi tiền có nhu cầu.
Như vậy, có thể thấy rằng thuật ngữ "tiền gửi" đã được sử dụng từ rất
lâu và gắn liền với quá trình hình thành, phát triển của hoạt động ngân hàng.
Ở giai đoạn bắt đầu xuất hiện hoạt động ngân hàng thì thuật ngữ tiền gửi chỉ
được hiểu một cách đơn giản là các khoản tiền nhàn rỗi của dân chúng nhưng

họ không muốn hoặc không biết đầu tư vào đâu nên đem gửi vào ngân hàng
với mục đích tiết kiệm và bảo đảm an tồn cho tài sản của mình. Sau này,
cùng với sự phát triển của nền kinh tế - xã hội, hoạt động ngân hàng cũng
ngày càng phát triển và kéo theo đó là sự hình thành hàng loạt hoạt động
nghiệp vụ ngân hàng khác như cho vay, thanh tốn… thì các khoản tiền gửi
của dân chúng tại ngân hàng khơng đơn thuần chỉ nhằm mục đích bảo quản
tài sản nữa mà đã được hưởng lãi.
Ngày nay, khi nhu cầu về vốn trong nền kinh tế là rất lớn thì yêu cầu
huy động vốn nhàn rỗi từ dân chúng của các ngân hàng cũng ngày càng tăng
và để khuyến khích việc gửi tiền vào ngân hàng thì các ngân hàng ngày càng

12


phải nâng cao chất lượng dịch vụ, đưa ra các mức lãi suất huy động phù
hợp… Do đó, thuật ngữ tiền gửi cũng được hiểu rộng hơn và được quy định
cụ thể trong các văn bản pháp luật về tài chính ngân hàng của mỗi quốc gia.
Tuy nhiên, ở mỗi quốc gia cũng lại có quan niệm và sự phân loại tiền gửi
khác nhau.
Chẳng hạn, tại Điều 2 Đạo luật 372 - Luật về các tổ chức tài chính và
ngân hàng năm 1989 của Malaysia quy định:
Tiền gửi có nghĩa là một khoản tiền đã nhận hay được hoàn
trả theo các điều kiện: a) mà theo đó khoản tiền sẽ được hồn trả,
có hoặc khơng có lãi hoặc có cộng thêm phí hoặc chiết khấu đi;
hoặc b) mà theo đó khoản tiền phải hoàn trả, toàn bộ hoặc một
phần, với bất kỳ tính tốn nào về tiền tệ hoặc trị giá tiền tệ, và
khoản được hồn trả như vậy khơng kỳ hạn hoặc có kỳ hạn hoặc
trong những hồn cảnh được thỏa thuận bởi hoặc thay mặt cho
người thực hiện thanh toán và người nhận thanh toán, bất kỳ là
giao dịch được coi như là một khoản cho vay, một khoản ứng trước,

một khoản đầu tư, khoản tiết kiệm, mua hoặc mua và bán, nhưng
khơng tính yếu tố xác thực của khoản tiền được trả [10].
Như vậy, theo định nghĩa này thì tiền gửi là khái niệm được hiểu rất
rộng, nó khơng đơn thuần chỉ là các khoản tiền nhàn rỗi của dân chúng gửi tại
ngân hàng để tiết kiệm hay nhằm hưởng lãi mà còn là các khoản tiền gửi
nhằm mục đích khác nhau như để đầu tư, đặt cọc hay ứng trước…
Hay tại Phần 3 Luật bảo hiểm tiền gửi của Mỹ cũng đưa ra khái niệm:
Tiền gửi có nghĩa là số dư tiền hoặc giá trị tương đương
chưa được thanh toán đã được nhận hoặc giữ bởi một ngân hàng
hoặc hiệp hội tiết kiệm trong hoạt động kinh doanh thơng thường
và từ đó nó cấp hoặc có nghĩa vụ cấp tín dụng, dù là có điều kiện
hay không điều kiện, cho một tài khoản thương mại, séc, tiết kiệm,

13


không kỳ hạn hoặc được chứng minh bằng giấy chứng nhận tiền
gửi, chứng nhận tiết kiệm, chứng nhận đầu tư, chứng nhận nợ, hoặc
những tên tương tự, hoặc séc hay hối phiếu rút từ tài khoản tiền gửi
và được chứng nhận bởi ngân hàng hoặc hiệp hội tiết kiệm, hoặc
thư tín dụng hoặc séc du lịch mà ngân hàng hoặc hiệp hội tiết kiệm
có nghĩa vụ đầu tiên [4].
Tại Việt Nam, khái niệm tiền gửi cũng đã được quy định trong các
văn bản pháp luật. Theo quy định tại khoản 20, Điều 9 Luật Các tổ chức tín
dụng năm 1997 thì "Tiền gửi là số tiền của khách hàng gửi tại tổ chức tín
dụng dưới hình thức tiền gửi khơng kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn, tiền gửi tiết
kiệm và các hình thức khác. Tiền gửi được hưởng lãi hoặc khơng hưởng lãi và
phải được hồn trả cho người gửi tiền" [35]. Theo định nghĩa này có thể biết
được những khoản tiền nào của khách hàng được coi là tiền gửi, nhưng những
khoản tiền đó phải được gửi tại các tổ chức tín dụng, cịn những khoản tiền

gửi tại các tổ chức khác có hoạt động ngân hàng thì khơng được coi là tiền
gửi. Đây chính là một điểm bất cập của pháp luật Việt Nam về vấn đề này.
Chính vì vậy, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Các tổ chức tín dụng
năm 2004 đã có sự thay đổi lớn về phạm vi và chủ thể gửi tiền khi xác định:
"Tiền gửi là số tiền của tổ chức, cá nhân gửi tại tổ chức tín dụng hoặc các tổ chức
khác có hoạt động ngân hàng dưới hình thức tiền gửi khơng kỳ hạn, tiền gửi có
kỳ hạn, tiền gửi tiết kiệm và các hình thức khác. Tiền gửi được hưởng lãi hoặc
không hưởng lãi và phải được hoàn trả cho người gửi tiền" [37, khoản 3 Điều 1].
Tuy nhiên, hiện nay, Luật các tổ chức tín dụng năm 2010 lại khơng đưa ra
khái niệm tiền gửi nữa mà thay vào đó là khái niệm "nhận tiền gửi" với ý
nghĩa là một trong những nghiệp vụ của hoạt động ngân hàng, theo đó:
"Nhận tiền gửi là hoạt động nhận tiền của tổ chức, cá nhân dưới hình thức tiền
gửi khơng kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn, tiền gửi tiết kiệm, phát hành chứng chỉ tiền
gửi, kỳ phiếu, tín phiếu và các hình thức nhận tiền gửi khác theo ngun tắc có hồn
trả đầy đủ tiền gốc, lãi cho người gửi tiền theo thỏa thuận" [44, khoản 13 Điều 4].

14


Theo định nghĩa này, phạm vi và nguyên tắc hoàn trả tiền gửi đã được mở
rộng hơn so với các định nghĩa nêu trên và phù hợp hơn với điều kiện phát
triển kinh tế hiện nay, cụ thể là tiền gửi cịn được ghi nhận dưới hình thức
chứng chỉ tiền gửi, kỳ phiếu, tín phiếu và tiền gửi được hồn trả theo "nguyên
tắc thỏa thuận".
Qua phần dẫn chiếu ở trên có thể thấy rằng ở mỗi quốc gia lại có một
quan niệm khác nhau về tiền gửi, song có thể khái quát ngắn gọn khái niệm
về tiền gửi như sau: Tiền gửi là số tiền của khách hàng gửi tại các tổ chức tín
dụng hoặc các tổ chức khác có hoạt động ngân hàng dưới những hình thức
được pháp luật cơng nhận và được hồn trả cho khách hàng trên nguyên tắc
thỏa thuận nhưng không trái với các quy định của pháp luật..

Trên thực tế, các tổ chức được phép nhận tiền gửi của tổ chức, cá nhân
trong xã hội không phải là chủ thể "giữ hộ" tài sản của người gửi tiền mà họ
chính là những trung gian tài chính trong nền kinh tế, họ sử dụng khoản tiền
gửi của khách hàng để thực hiện các hoạt động đầu tư, cấp tín dụng cho các
đối tượng có nhu cầu sử dụng vốn trong xã hội… Điều này có nghĩa là các tổ
chức được phép nhận tiền gửi sẽ có trách nhiệm phải hoàn trả cho người gửi
tiền cả gốc và lãi số tiền họ đã gửi khi đáo hạn hoặc khi người gửi tiền có nhu
cầu (trong những trường hợp được thỏa thuận có thể rút tiền trước hạn) mà
khơng phụ thuộc vào việc các tổ chức này có thu được nợ từ việc cho các đối
tượng khác vay hay khơng? Như vậy, có thể thấy rằng hoạt động ngân hàng
luôn chứa đựng sự rủi ro rất lớn và dân chúng sẽ có tâm lý e ngại việc gửi tiền
vào các tổ chức tín dụng bởi nếu xảy ra trường hợp các tổ chức này đổ vỡ thì
tiền gửi của họ cũng sẽ mất theo. Do đó, để huy động được nguồn vốn trong
dân cư, thúc đẩy kinh tế phát triển thì việc tạo dựng niềm tin đối với dân
chúng là hết sức quan trọng. Chính vì vậy, sự ra đời của tổ chức bảo hiểm tiền
gửi là một đòi hỏi khách quan của nền kinh tế nhằm tạo ra sự ổn định và phát
triển bền vững cho hoạt động của hệ thống tài chính - tiền tệ nói riêng cũng
như an ninh kinh tế - chính trị nói chung của toàn xã hội.

15















×