TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI NGỮ - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
KHOA QUỐC TẾ HỌC
--------------------------------------
Tập bài giảng
TIẾP XÚC VĂN HĨA PHƢƠNG ĐƠNG VÀ
PHƢƠNG TÂY Ở VIỆT NAM
Tài liệu dùng cho sinh viên
Chuyên ngành: Quốc tế học
PGS.TS. Nguyễn Ngọc Chinh
(Biên soạn lần 2, có bổ sung và sửa chữa)
Đà Nẵng, tháng 12 năm 2021
1
MỤC LỤC
Chƣơng 1. Cơ sở lý luận 3
1.1. Khái niệm về tiếp xúc
1.2. Khái niệm về tiếp biến
1.3. Định nghĩa về văn hóa, văn minh nhân loại, văn hóa văn minh phương
Đông và phương Tây
1.4. Quan niệm về phương Đông và phương Tây
Chƣơng 2. Điều kiện tiếp xúc văn hóa 8
2.1. Thương mại, buôn bán
2.2. Mở rộng đất đai bờ cõi
2.3. Truyền bá tơn giáo, tín ngưỡng
2.4. Khoa học, kỹ thuật, giáo dục
Chƣơng 3. Các biểu hiện của tiếp xúc văn hóa phƣơng Đơng và phƣơng
Tây 13
3.1. Văn hóa vật chất
3.2. Văn hóa tinh thần
3.3. Về lối sống tư duy
3.4. Về cấu trúc lại nền văn hóa
3.5. Xây dựng nền văn hóa kiểu mới
Chƣơng 4. Tồn cầu hóa-kết quả của tiếp xúc Đơng-Tây 41
4.1. Tồn cầu hóa văn hóa
4.2. Xu thế tất yếu của tồn cầu hóa
4.3. Hội nhập Đơng – Tây: văn hóa, giáo dục, kinh tế, ...
4.4. Giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc trong tiếp xúc văn hóa phương Đơng
và phương Tây
4.5. Đa phương, đa văn hóa: tất yếu của tiếp xúc Đơng-Tây
Chƣơng 5. Tiếp xúc văn hóa phƣơng Đơng và phƣơng Tây ở Việt Nam
62
5.1. Truyền đạo thế kỷ XVI vào Việt Nam
5.2. Văn hóa thời Nguyễn
5.3. Chính sách văn hóa của thực dân Pháp trong tiếp biến văn hóa ĐơngTây
5.4. Sự cấu trúc lại nền văn hóa: tầng lớp trí thức mới, lối sống Âu hóa
5.5. Tích hợp đa văn hóa Đơng-Tây trong chiến lược giáo dục tương lai của
Việt Nam
Tài liệu tham khảo 76
Phụ lục 78
2
Chƣơng 1
CƠ SỞ LÝ LUÂN
1.1. Văn hóa, văn hóa phƣơng Đơng, văn hóa phƣơng Tây
1.1.1. Văn hóa
Văn hóa là một khái niệm đa tầng, đa nghĩa với ngoại diên rất
rộng và nội hàm rất phong phú. Cho đến nay đã có hàng trăm những
định nghĩa về văn hóa và con số đó vẫn cịn tiếp tục tăng lên. Ở đây
chỉ bàn đến văn hóa như một khái niệm khoa học chỉ đối tượng nghiên
cứu của văn hóa học.
- Định nghĩa của UNESCO trong bản Tuyên bố toàn cầu của
UNESCO về đa dạng văn hóa (11-2001): “Văn hóa nên được xem là
một tập hợp các đặc điểm nổi bật về tinh thần, vật chất, tri thức và tình
cảm của xã hội hay một nhóm xã hội, và ngồi văn học và nghệ thuật,
nó cịn bao gồm lối sống, cách thức cùng chung sống, các hệ thống giá
trị, các truyền thống và tín ngưỡng”.
- Hướng tiếp cận văn hóa từ hệ thống cấu trúc của GS Phạm
Xuân Nam: “Yếu tố hàng đầu của văn hóa là sự hiểu biết, bao gồm tri
thức, kinh nghiệm và sự khơn ngoan, tích lũy được trong quá trình học
tập, lao động sản xuất và đấu tranh để duy trì và phát triển cuộc sống
của mỗi cộng đồng dân tộc và các thành viên trong cộng đồng ấy.
Nhưng chỉ riêng sự hiểu biết không thôi chưa làm nên văn hóa. Sự
hiểu biết chỉ trở thành văn hóa khi nó làm nền và định hướng cho thế
ứng xử (thể hiện ở tâm hồn, đạo lý, lối sống, thị hiếu, thẩm mĩ, hành
vi…) của mỗi cá nhân và của cả cộng đồng vươn tới cái đúng, cái tốt,
cái đẹp trong quan hệ với tự nhiên, với xã hội, với người khác và với
chính bản thân”.
1.1.2. Văn hóa phương Đơng và văn hóa phương Tây
Theo nghĩa về văn hóa, phương Tây bao gồm các quốc gia
châu Âu và các quốc gia có nguồn gốc thuộc địa châu Âu ở châu Mỹ
và châu Đại dương, ví dụ như Hoa Kì, Canada, Australia, New
3
Zealand, Argentina, Brazil. Cịn phương Đơng là khái niệm được hình
thành để phân biệt với Phương Tây. Hai khái niệm này mang tính
tương đối và là sự quy ước của con người, xuất phát đầu tiên ở khu
vực Nam Âu (Hy lạp và vùng bán đảo Balkans) từ thời cổ đại. Lúc đó
con người chưa tìm ra Tân lục địa nên người Hy lạp gọi khu vực phía
mặt trời lặn so với họ là Phương Tây, còn các vùng đất cịn lại (Châu
Phi và Châu Á) gọi là Phương Đơng. Từ đó có khái niệm Cận, Trung
và Viễn Đơng - so với Hy Lạp.
“Trên thế giới có hai nền văn hóa tiêu biểu, văn hóa phương
Đơng và văn hóa phương Tây”, và hai nền văn hóa này có những điểm
khác biệt nhau” (Huỳnh Ngọc Thu). Triết lý sống của người phương
Tây là coi “con người là trung tâm” và khẳng định “vai trò cá nhân”,
nên ứng xử trong cuộc sống họ chú trọng đến cá nhân nhiều hơn cộng
đồng và ln tìm cách để chinh phục tự nhiên. Điều này hoàn toàn trái
ngược với triết lý sống của người phương Đơng là quan hệ cộng đồng
chặt chẽ và ln hịa đồng với tự nhiên, xã hội; trong cuộc sống không
đặt nặng vai trị cá nhân. Có lẽ, chính vì quan điểm khác biệt này mà
phương Tây đã có nền văn minh phát triển mạnh hơn phương Đông,
nguyên nhân là do họ khẳng định được vai trị cá nhân và ln tìm
cách chinh phục tự nhiên. Yếu tố này đã làm cho các nước phương
Tây phát triển mạnh trên mọi lĩnh vực, từ quân sự đến khoa học kỹ
thuật, kinh tế… trong vài thập kỷ qua và đã gây ảnh hưởng mạnh mẽ
đến các nước phương Đơng.
1.2. Tiếp xúc văn hóa
Trong khi nghiên cứu quá trình tương tác giữa hai (hay nhiều)
nền văn hóa khác nhau, có khá nhiều thuật ngữ được các nhà nghiên
cứu đưa ra như tiếp xúc văn hóa, giao lưu văn hóa, đối thoại văn hóa,
giao tiếp văn hóa, giao thoa văn hóa, tiếp biến văn hóa… Và cách hiểu
của mỗi nhà nghiên cứu về các thuật ngữ nói trên đến nay vẫn cịn
chưa thống nhất.
4
- GS Trần Quốc Vượng: giao lưu, tiếp xúc văn hóa (culture
contact) là tồn bộ những tương quan hỗ tương nối hai nền văn hóa có
quan hệ với nhau, trực tiếp hay gián tiếp, thể chất hay không, liên tục
hay có hạn, ý thức hay vơ thức (Văn hóa Việt Nam – tìm tịi và suy
ngẫm, NXB Văn học, 2003).
- GS. TS Ngơ Đức Thịnh: giao tiếp văn hóa là một đặc tính cố
hữu của con người, các cộng đồng người, nó xuất hiện cùng với con
người và xã hội loài người và tồn tại dưới nhiều sắc thái và trình độ
khác nhau. Ở đây nói tới giao tiếp văn hóa với tư cách là giao tiếp
giữa các cộng đồng người (ethnic), góp phần làm cho văn hóa của
cộng đồng người ấy được đổi mới, cách tân. Nó được xem như là một
nhân tố quan trọng trong quy luật truyền thống và đổi mới của văn
hóa. Đó là: Truyền thống (Tradition) – Tiếp biến (tiếp nhận và biến
đổi – Acculturation) – Đổi mới (Renovation) (Văn hóa, văn hóa tộc
người và văn hóa Việt Nam, NXB Khoa học xã hội, 2006).
- GS Đỗ Quang Hưng: tiếp xúc văn hóa là một hiện tượng văn
hóa phổ biến. Trong việc tiếp xúc, giao lưu văn hóa thường có hai q
trình phổ biến: q trình “đưa vào” của những chủ thể văn hóa bên
ngồi và quá trình “nhận lấy” của chủ thể tiếp nhận. Và trong bối cảnh
tồn cầu hóa hiện nay, khi nói về tiếp xúc văn hóa, các nhà nghiên cứu
đã có nhiều sự thay đổi về cách nhìn. Đó là cái nhìn truyền thống của
sự tiếp xúc văn hóa thường bắt đầu bằng sự xung đột (giữa các giá trị
“đưa vào” và bản sắc văn hóa của sự “nhận lấy”) vốn rất phổ biến ở
thế kỉ XIX sang một cách nhìn của sự tiến hóa về văn hóa, văn minh,
sự hội nhập tất yếu của những giá trị kinh tế, văn hóa có tính tồn cầu.
Trong thế giới ngày nay, khái niệm được sử dụng phổ biến khi nói về
tiếp xúc văn hóa, đó là thái độ tiếp biến văn hóa, sự thâu hóa văn hóa
(Tính hiện đại và sự chuyển biến của văn hóa Việt Nam thời cận đại,
NXB Chính trị quốc gia, 2013).
- GS Phạm Xuân Nam: tiếp xúc văn hóa là sự gặp gỡ, làm
quen, từ đó có thể tiến tới xác lập quan hệ giữa các cộng đồng văn hóa
5
khác nhau. Có nhiều cuộc tiếp xúc văn hóa là do chủ định và tự
nguyện của cả hai phía. Nhưng cũng có khơng ít cuộc tiếp xúc văn hóa
là do sự áp đặt, cưỡng bức từ một phía thơng qua hành động xâm lược
và thống trị của một nước mạnh đối với một nước yếu hơn. Chỉ có
những cuộc tiếp xúc văn hóa tự nguyện mới có thể dẫn đến các cuộc
đối thoại văn hóa cởi mở và bình đẳng. Ông cũng khẳng định, tiếp xúc
văn hóa là điều kiện cần nhưng chưa đủ của biến đổi văn hóa, bởi tiếp
xúc văn hóa khơng tự động dẫn đến sự biến đổi. Khi tiếp xúc với văn
hóa B, văn hóa A không tự thân và nhất thiết biến thành A’. Tiếp xúc
chỉ dẫn đến biến đổi khi có sự đối thoại giữa các nền văn hóa với
nhau. Tóm lại, tiếp xúc văn hóa là nguyên nhân dẫn đến sự biến đổi
văn hóa (tiếp biến văn hóa) mà đối thoại văn hóa là khâu trung gian
tác động đến sự chuyển hóa hay kết hợp các giá trị văn hóa nội sinh
với các giá trị văn hóa ngoại sinh của bên tham gia đối thoại (Sự đa
dạng văn hóa và đối thoại giữa các nền văn hóa – một góc nhìn từ
Việt Nam, NXB Khoa học xã hội, 2013).
Như vậy, theo quan điểm của nhiều nhà nghiên cứu trong nước,
tiếp xúc văn hóa là hiện tượng hai hay nhiều nền văn hóa cọ xát với
nhau, dẫn đến những biến đổi nhất định (đào thải hoặc củng cố) các
yếu tố văn hóa vốn có của mình và hình thành những cấu trúc, nội
dung và đặc điểm mới mang bản sắc của nền văn hóa ngoại lai. Tiếp
xúc văn hóa và tiếp biến văn hóa là những khâu kế tiếp nhau tất yếu.
Thuật ngữ tiếp biến văn hóa (acculturation) được các nhà văn
hóa học Việt Nam từ thập kỷ 60 đến nay dịch theo nhiều cách khác
nhau: “văn hóa hóa” (Nguyễn Khắc Viện), “hỗn dung văn hố”
(Nguyễn Đức Từ Chi), “đan xen văn hóa” (Trần Quốc Vượng), “tiếp
biến văn hóa” (tiếp xúc và biến đổi văn hóa) (Hà Văn Tấn), “giao hịa
văn hóa” (Hồng Ngọc Hiến), “tương tác văn hóa” (Hữu Ngọc). Theo
GS. Trần Quốc Vượng, giao thoa văn hóa / tiếp biến văn hóa ý chỉ sự
“móc ngoặc”, “móc nối” giữa hai hay nhiều nền văn hóa, để chuyển
6
biến nền văn hóa bản địa do sự tương tác giữa hai yếu tố nội sinh và
ngoại sinh.
Trong phạm vi của học phần, chúng tôi sẽ nghiên cứu tiếp xúc
văn hóa như là một q trình, bắt đầu từ sự tiếp xúc, giao lưu của các
chủ thể văn hóa đến từ các nền văn hóa khác nhau, đến khi kết thúc
bằng những thay đổi trong cấu trúc của mỗi nền văn hóa xảy ra như là
kết quả tất yếu của quá trình tương tác ấy./.
7
Chƣơng 2
ĐIỀU KIỆN TIẾP XÚC VĂN HÓA
2.1. Tiếp xúc văn hóa thơng qua hoạt động trao đổi kinh tế
“Một trong những hoạt động có ý nghĩa đặc biệt đối với giao
lưu văn hóa là trao đổi kinh tế. Giữa các cộng đồng sống trên các địa
bàn khác nhau thường có sự trao đổi nguyên liệu hoặc sản phẩm với
nhau mà sau này là sự trao đổi hàng hóa” (Hà Văn Tần). Sự trao đổi
kinh tế thường được tiến hành bằng những cuộc tiếp xúc tập thể hay
cá nhân tại các địa điểm quy định trên đường biên giới giữa lãnh thổ
của các cộng đồng (bộ lạc hay một nhóm bộ lạc). Cùng với việc trao
đổi mua bán, họ còn trao đổi với nhau những sản phẩm văn hóa khác.
2.2. Truyền bá tơn giáo, tín ngƣỡng
Như sự trao đổi tặng phẩm, vật phẩm tôn giáo…hay những sự
tiếp xúc khác như quan hệ hôn nhân, quan hệ ngoại giao, quan hệ
truyền giáo…
2.3.Tiếp xúc văn hóa thơng qua các cuộc di cƣ
Các cuộc thiên di lớn nhỏ, luôn luôn xảy ra trong thời nguyên
thủy và cổ trung đại làm cho các tập đoàn người có văn hóa khác nhau
đã tiến đến bên nhau hoặc sống xen kẽ vào nhau. Thời cận hiện đại lại
xuất hiện những làn sóng di dân, tị nạn, nhập cư giữa các quốc gia.
Sau hàng ngàn năm như vậy, các chủng tộc người đã di chuyển, gặp
gỡ, hòa huyết với nhau, nên đến nay trên thế giới chắc chẳng cịn dân
tộc nào thuần chủng, chẳng có một nền văn hóa y nguyên. Di cư - đó
cũng là một con đường quan trọng tạo ra sự tiếp xúc và giao lưu văn
hóa.
2.4. Mở rộng bờ cõi, đất đai
Nhiều quốc gia hiện nay được hình thành phần nhiều do việc
mở rộng bờ cõi, đất đai vốn có của mình. Khi mở rộng bờ cõi đến đâu
8
thì họ sẽ mang văn hóa, tập tục, lối sống áp đặt lên người dân sống ở
nơi mà họ mở mang bờ cõi, chiếm đoạt đất đai.
Việt Nam là nạn nhân trường kỳ của tham vọng đế quốc, thực
dân Hán tộc [Hanism]. Đồng thời cũng là 1 trong 2 dân tộc–cho tới
thế kỷ XI–thốt được chính sách đồng hóa. Khó thể xác định những
cuộc “chinh phạt” đầu tiên của Hán tộc. Suốt hai ngàn năm qua, người
ta lập đi lập lại vài đoạn về liên hệ cổ Việt với Trung Hoa mà giá trị sử
học thật giới hạn: Zhao Tuo [Triệu Đà], một huyện lệnh nhà Tần,
xưng đế, lập ra Nan yue [Nam Việt] quốc ở Phiên Ngung (Quảng
Đông ngày nay), và mang quân đi đánh dẹp Bách Việt lân cận. Trong
số những người bị Zhao Tuo tiêu diệt có An Dương Vương. Năm 111
TCL, ba đầu mục Cổ Việt mang theo “100 trâu, 1000 chén rượu và sổ
hộ tịch” tới xin nội phụ Lộ Bác Đức, được giữ nguyên tước vị, ở ba
quận Chiao Chih (Giao Chỉ, 10 huyện), Chiu Chen (Cửu Chân, 7
huyện), và Jih Nan (Nhật Nam, 5 huyện). (3) Năm sau, 110 TCL, Lưu
Triệt (Hán Hiếu vũ, 140-87 TCL) cử Thạch Đái làm Thứ sử [thái thú?]
Giao Chỉ bộ.
Năm 1801, nước Mỹ được 12 tuổi, rất trẻ, và cịn rất nhỏ nếu so
với diện tích nước Mỹ ngày nay. Dân cư còn thưa thớt, hầu hết là
nông dân, sống rải rác cách xa nhau. Nhưng một số người Mỹ muốn
có thêm khơng gian. Họ đi về phía tây, vượt qua dãy núi Allegheny,
và nhiều người định cư tại các bang Kentucky và Tennessee ngày nay.
Lewis gọi thêm một chiến hữu trong quân đội để cùng anh dẫn đầu
đoàn thám hiểm. William Clark cũng xuất thân thế gia tại Virginia,
nhưng đã chuyển đến sống ở Kentucky.
Clark họp một nhóm thanh niên ở Kentucky cùng đi, có cả một
nơ lệ tên York. Lewis và Clark cịn chiêu mộ thêm nhiều binh lính tại
các trại quân phía tây.
Cuối cùng, đoàn thám hiểm tụ tập được 33 người, đặt tên là
Corps of Discovery, hay Binh đoàn Thám hiểm. Từ corps nghĩa
là binh đồn, muốn nói tới tính chất qn đội của đồn người: chính
9
phủ đài thọ, hai tướng Lewis và Clark thống suất họ như một chiến
dịch hành quân.
Sử gia Jeff LaRock của Trung tâm Điều hành Vườn Quốc Gia
gọi Binh đoàn Thám hiểm này “về cơ bản là một đội Đặc Nhiệm”.
Ông chỉ ra mỗi thành viên đều có ít nhất một kỹ năng: săn bắn, sửa
súng, chế đồ, tìm hướng sơng ngịi, thơng dịch v.v.
Khi binh đồn khởi đầu hành trình vào tháng Năm 1804 gần St.
Louis, Missouri, họ trang bị nhiều thuyền và một ít ngựa. Hàng hóa rất
nhiều: súng ống, đạn dược, thiết bị khoa học, vật phẩm đổi chác với
người da đỏ, lương thực, và cả bàn viết. Những bản ghi chép của
Lewis và của những người khác trong Binh đồn Thám hiểm là những
đóng góp quan trọng nhất từ chuyến hành trình.
2.5. Khoa học, kỹ thuật, giáo dục
Trên bình diện quốc gia, sự phát triển bền vững của Việt Nam
ngày nay dựa vào thế chân kiềng của ba lĩnh vực chủ yếu: khoa học công nghệ, giáo dục - đào tạo và sự phát triển kinh tế - xã hội. Giữa 3
lĩnh vực đó, có những mối liên hệ tương tác, ảnh hưởng lẫn nhau. Về
mặt học thuật, đó là hiện tượng xâm thực vượt biên giới mang tính
liên/xun ngành. Những liên hệ tương tác đó được thể hiện trong sơ
đồ dưới đây:
trong hệ thống quốc gia, tiếp biến văn hóa chính là những mối
liên hệ tương tác giữa 3 thành tố: Khoa học - Công nghệ, Giáo dục Đào tạo và Phát triển kinh tế - xã hội, tạo thành một thế chân kiềng
gắn kết vững chắc. Một sự thiết kế khôn ngoan là cần nghiên cứu xác
định để tăng cường những liên hệ thuận, hạn chế tối đa những liên hệ
nghịch.
Trong khoa học và công nghệ, như trên đã nói, đã xảy ra tình
trạng mất cân đối giữa khoa học tự nhiên và khoa học xã hội. Sự trì trệ
về khoa học xã hội ở Việt Nam ngày nay phải chăng là do rào cản về ý
thức hệ và định kiến, tàn dư của hệ tư tưởng độc tôn Nho giáo ngày
10
xưa? Dưới thời Lê - Nguyễn, Phạm Đình Hổ đã từng phê phán trong
Vũ trung Tùy bút những vị “hủ Nho” là chỉ biết “nhai văn hoa hòe,
nhá chữ bã mía”. Phan Chu Trinh thì đả kích cả các phần tử “hủ Nho”
cũng như “hủ Tây”. Và ngày nay thì cịn họ hàng nhà Hủ gì nữa?
Cũng có sự mất cân đối trong khoa học cơ bản và khoa học ứng dụng.
Có lẽ thành tựu xuất sắc nhất về khoa học công nghệ của chúng ta chủ
yếu vẫn đi theo hướng “mơ phỏng” có tính chất truyền thống, chưa
vượt khỏi khâu “gia công, lắp ráp những mẫu mã theo công nghệ đời
mới nhất”, mà thiếu những cơng trình nghiên cứu ứng dụng độc lập,
nghiêm túc sáng tạo có tầm cỡ. Sự tiếp biến văn và hội nhập quốc tế
về văn hóa vẫn ở mức yếu kém, đặc biệt là chỉ số đóng góp chung cho
nhân loại. Báo cáo điều tra của tổ chức tư vấn độc lập Goodcountry
năm 2014 cho biết, về phương diện này, Việt Nam xếp thứ 124 trong
125 quốc gia, ở thang bậc áp chót, trong đó khoa học và cơng nghệ
(89/125) và văn hóa (76/125) đều bị đánh giá với thứ hạng dưới trung
bình. Về giáo dục và đào tạo, ngoài những khiếm khuyết về mục tiêu
và phương châm như đã nói bên trên, cịn nhiều mặt mất cân đối bất
cập khác. Giáo dục phát triển về số lượng, nhưng do những tệ đoan
trầm kha về bệnh thành tích, hình thức, khơng trung thực, nên chất
lượng còn thấp. Sản phẩm đào tạo ra là một nguồn nhân lực chất
lượng chưa cao. Người được đào tạo còn lúng túng trong những cơng
việc ứng phó tình huống và sáng tạo độc lập, chưa thực sự biết “hành”
những điều đã “học”.
Kết quả dẫn đến những dịch bệnh tâm lý xã hội khó chữa như ý
thức đi học để làm quan, nếp nghĩ vụ bằng cấp, nạn thừa thầy thiếu
thợ... Chúng ta vẫn đang nói nhiều đến một sự phát triển kinh tế - xã
hội bền vững. Nhưng bền vững làm sao được khi tâm lý vụ lợi thực
dụng trước mắt lấn át đi một tầm nhìn chiến lược tồn diện và dài hạn.
Một thời chúng ta đã đánh đồng giữa tăng trưởng và phát triển. Ngày
nay, chúng ta vẫn đang chạy theo một sự phát triển “vì con số”, chứ
chưa phải một sự phát triển “vì con người”, một sự phát triển khập
11
khiễng, mất cân đối hài hịa giữa những chiều kích kinh tế - kỹ thuật
và những chiều kích văn hóa - nhân văn.
-
Đầu thế kỷ XX, phong trào Đông Du (học tập ở Nhật
Bản)
- Người nước ngoài tới học tập (du học) tại các nước có
nền giáo dục phát triển, có nền kinh tế hùng mạnh, có nền khoa
học kỹ thuật phát triển, như: ở Mỹ, Đức, Pháp, Nga, Trung Quốc,
..../.
12
Chƣơng 3
CÁC BIỂU HIỆN CỦA TIẾP XÚC VĂN HĨA
PHƢƠNG ĐƠNG VÀ PHƢƠNG TÂY
3.1. Quy luật của sự tiếp xúc văn hóa
- Nói về nguyên nhân của sự tiếp xúc văn hóa, theo GS. Trần
Quốc Vượng, trên bước đường phát triển của xã hội loài người, cơ sở
kinh tế là nhân tố quyết định. Có thể nói, giao lưu văn hóa có xuất
phát điểm từ nhu cầu trao đổi kinh tế của các cộng đồng người. Giao
lưu văn hóa vừa là kết quả của trao đổi, vừa là chính bản thân của sự
trao đổi.
- Về bản chất, giao lưu và tiếp biến văn hóa là sự tiếp nhận văn
hóa nước ngồi bởi dân tộc chủ thể. Q trình này ln ln địi hỏi
mỗi tộc người phải xử lí tốt mối quan hệ biện chứng giữa yếu tố nội
sinh và yếu tố ngoại sinh.
- Vấn đề bản sắc văn hóa: Quan hệ biện chứng giữa yếu tố nội
sinh và yếu tố ngoại sinh đặt ra địi hỏi với chính tộc người chủ thể là
nội lực của chính nó, hay nói cách khác là bản sắc và truyền thống văn
hóa của tộc người tiếp nhận. Trên cái nhìn lịch sử, bản sắc và truyền
thống không phải là yếu tố nhất thành bất biến. Sự vận động của mỗi
nền văn hóa trong khơng gian và thời gian luôn luôn là sự vận động
của các yếu tố bất biến và khả biến, giữa cái cố hữu và cái cách tân.
Cái khả biến phát triển đến mức độ nào đó sẽ làm thay đổi chính thực
thể văn hóa ấy, như quy luật lượng đổi, chất đổi trong triết học.
3.2. Q trình tiếp xúc văn hóa Đơng – Tây
- Từ cổ đại cho đến sơ kì, trung kì thời Trung đại:
Từ cổ đại cho đến sơ kì, trung kì thời Trung đại, quan hệ Đơng
– Tây được thực hiện qua các cuộc chiến tranh của những đế chế lớn
từ phương Tây bành trướng sang phương Đông như đế chế Hi Lạp,
hay từ phương Đông bành trướng sang phương Tây như đế chế Ảrập
Hồi giáo, đế chế Mông Cổ, đế chế Ơttơman… và chủ yếu là qua giao
13
lưu kinh tế, văn hóa qua hoạt động của các nhà thám hiểm, các nhà
truyền giáo. Trong thời kì này, “con đường tơ lụa” giữ vai trò quan
trọng như một hành lang thông thương về kinh tế và giao lưu về văn
hóa.
Qua những hoạt động quân sự, những giao lưu kinh tế, văn hóa
Đơng – Tây, những tri thức của phương Đông về phương Tây và của
cả phương Tây về phương Đơng dần dần được tích lũy. Cho đến đầu
thế kỉ XV, trong quan hệ Đông – Tây, phương Đông vẫn giữ vai trò
ưu thế và vẫn tỏa chiếu ánh sáng văn minh sang phương Tây với sự
truyền bá nhiều thành tựu từ Trung Quốc, Ấn Độ, Tây Á sang các
nước Địa Trung Hải.
- Từ hậu kì Trung đại cho đến thời Cận đại:
Trong những phát kiến địa lí cuối thế kỉ XV, việc nhà hàng hải
và thám hiểm người Bồ Đào Nha Vasco Da Gama tìm ra con đường
biển từ Đại Tây Dương vòng qua bờ biển Châu Phi sang Ấn Độ
Dương giữ vai trò quan trọng trong quan hệ giao thương Đông – Tây.
Từ đây “con đường tơ lụa trên biển” nối liền Đông Á với Nam Á và
Tây Á phát triển thành con đường hàng hải nối liền ba đại dương, mở
ra “thời đại thương mại” – thời đại hình thành và phát triển thương
mại thế giới. Nhưng cũng từ đây ưu thế kinh tế - xã hội nghiêng hẳn
về phương Tây. Ở những nước phát triển sớm của phương Tây, đầu
thế kỉ XVI, chủ nghĩa tư bản ra đời.
Thế kỉ XVIII – XIX, cuộc cách mạng công nghiệp đưa những
nước tiên tiến của Tây Âu đi vào con đường cơng nghiệp hóa, sáng lập
ra nền văn minh cơng nghiệp. Trong lúc đó, cả châu Á và phương
Đơng nói chung vẫn cịn trong tình trạng kinh tế phong kiến lạc hậu
(trừ Nhật Bản đến nửa sau thế kỉ XIX mới phát triển mạnh). Chính
tình hình chung đó đã làm cho phương Đông chậm tiến so với phương
Tây và hậu quả là trở thành đối tượng xâm lược và thống trị của các
nước thực dân phương Tây.
14
Từ cuối thế kỉ XIX, với các xã hội châu Á và phương Đơng nói
chung, cùng với sự tranh giành và thiết lập bản đồ hệ thống thuộc địa,
các nước phương Tây đã bắt đầu cuộc “cơng nghiệp hóa cưỡng bức”,
xây dựng cơ sở hạ tầng, đầu tư kinh tế để bóc lột, khai thác thuộc địa,
từng bước làm thay đổi căn bản các xã hội ấy. Trong các xã hội châu
Á vào thời điểm cuối thế kỉ XIX, người ta bắt đầu cuộc hành trình
“hiện đại hóa” bằng những cuộc vận động cải cách chấn hưng dân trí,
dân khí. Bước vào đầu thế kỉ XX, khi những yếu tố của chủ nghĩa tư
bản đã lộ rõ trong nhiều không gian xã hội phương Đông, dù là thuộc
địa hay nửa thuộc địa, cũng tất yếu diễn ra sự chuyển đổi mơ hình văn
hóa, thiết chế văn hóa cũng như sự xuất hiện các loại hình văn hóa
mới theo kiểu phương Tây.
- Thời hiện đại:
Sau chiến tranh thế giới thứ hai, lịch sử nhân loại lại đi vào một
bước ngoặt với sự phát triển và thành công của phong trào đấu tranh
chống chủ nghĩa thực dân, giành độc lập dân tộc của các nước thuộc
địa và các nước phụ thuộc. Thắng lợi của sự nghiệp phi thực dân hóa
đó làm thay đổi bản đồ thế giới và mối quan hệ Đông – Tây. Phương
Đông thuộc địa đã thức tỉnh, trở thành các quốc gia, dân tộc độc lập và
bằng nhiều con đường khác nhau xây dựng lại đất nước, từng bước
tiến lên văn minh hiện đại. Khoảng cách Đông – Tây dần trở nên thu
hẹp cùng với sự khủng hoảng của văn minh phương Tây trong thời đại
kĩ trị, sự thoái trào của “chủ nghĩa Châu Âu trung tâm” và xu hướng
tồn cầu hóa của thế giới hiện đại. Những di sản độc đáo của châu Á
dần được đề cao. Quan hệ Đông – Tây dần tiến tới chỗ tôn trọng lẫn
nhau, hợp tác bình đẳng.
3.3. Tính chất của các cuộc tiếp xúc văn hóa Đơng – Tây
Nhà văn hóa Phạm Quỳnh ngay từ đầu thế kỉ XX từng nêu
quan điểm về cuộc đụng độ giữa hai nền văn hóa phương Đông và
phương Tây như sau: “Hai phần ấy của nhân loại đã sống cách xa
nhau khá lâu, chúng hoàn toàn không biết đến nhau, mỗi bên đều nuôi
15
dưỡng lý tưởng của mình. Lý tưởng của Phương Đơng là lý tưởng về
minh triết, thuận lợi cho một sự n bình hạnh phúc. Lý tưởng của
Phương Tây ln là lý tưởng về sức mạnh. Nhằm khuất phục các lực
lượng của tự nhiên để phục vụ con người, nó đã phát minh ra khoa
học. Khoa học làm ra ngày càng nhiều phương tiện, tạo nên các nhu
cầu, kích thích các ham muốn, và đưa ý chí về quyền lực lên đến độ
cao nhất của nó, làm cho con người Phương Tây tràn ra khỏi mơi
trường tự nhiên của mình và ném họ vào cuộc chinh phục thế giới.
Từ đây sự cân bằng bị phá vỡ. Phương Tây lao về Phương
Đông với tất cả niềm hăng say của chủ nghĩa đế quốc và tất cả sức
mạnh kỹ thuật của họ, và cuộc va chạm dữ dội cho đến nỗi các quốc
gia Phương Đông một thời gian dài đã không gượng dậy được từ trạng
thái bất ngờ và kinh ngạc của mình.
Cuộc gặp gỡ ấy đã có thể là tốt đẹp cho nhân loại nếu nó xảy ra
trong những điều kiện ít tàn nhẫn hơn, thông qua con đường của
những người ưu tú và trên bình diện một sự thơng lưu của các lý
tưởng và các học thuyết” (Đông phương và Tây phương, Tạp chí Nam
Phong, 1924).
Quả thật, xem xét lại từ trong lịch sử, văn hóa phương Đơng và
phương Tây đã gặp gỡ nhau trong một “cuộc va chạm dữ dội” mà
trong đó, văn hóa phương Đơng chịu sự áp đảo mạnh mẽ từ văn hóa
phương Tây và buộc phải có thái độ ứng biến trước sự áp đảo mạnh
mẽ ấy.
Sự áp đảo của phương Tây
Trong thời cổ đại, thế giới có 3 nền văn minh tiêu biểu và rực
rỡ nhất thì trong đó, phương Đơng chiếm hai: Văn minh cổ đại Ấn Độ
và văn minh cổ đại Trung Hoa. Còn phương Tây chỉ một: Văn minh
cổ đại Hy La. Vậy mà, trải qua thời kỳ trung đại, do điều kiện địa lý,
lịch sử của hai bên khác nhau mà dẫn đến tình trạng phương Tây bứt
lên, phát triển ào ạt, tạo dựng được một nền văn minh vật chất, văn
minh động (chữ dùng của Đông kinh nghĩa thục trong Văn minh tân
16
học sách). Từ đó mà có cuộc tấn cơng, áp đảo của phương Tây đối với
phương Đông trên mọi mặt: chính trị, kinh tế văn hóa, tinh thần…
Thái độ tiếp nhận của phương Đông
- Một là thái độ đối đầu, cự tuyệt. Đây là thái độ phổ biến của
các dân tộc trong buổi đầu tiếp xúc với văn minh phương Tây. Ví dụ
điển hình nhất là ở các bộ tộc da đỏ ở châu Mĩ Latinh khi họ chấp
nhận bị hủy diệt chứ không chịu sống chung với văn minh phương
Tây. Hay Việt Nam cũng từng có thái độ cương quyết như thế, nhất là
trong khung cảnh cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp đang ở giai
đoạn quyết liệt vào cuối thế kỉ XIX.
- Hai là tiếp nhận không điều kiện văn minh phương Tây, ý
thức hoặc vô thức, một giải pháp mà trong nhiều trường hợp được coi
là thái độ vong bản về văn hóa.
Ở nhiều nước Châu Phi đã từng có tình trạng khi bị thực dân
hóa, các cộng đồng dân tộc này đã “bằng lòng” với việc tiếp nhận
hoàn toàn văn minh phương Tây, trước hết là việc sử dụng ngơn ngữ
của chính quốc như tiếng Pháp, Anh và Tây Ban Nha trong tất cả các
lĩnh vực đời sống xã hội. Thậm chí khi đã giành được độc lập, cái áo
khoác của nền văn minh phương Tây vẫn khơng hề thay đổi.
- Ba là tiếp thu có chọn lọc hay nói đúng hơn là thái độ thâu
hóa văn minh phương Tây, tạo ra giá trị mới. Đây chính là thái độ văn
hóa đúng đắn nhất với các dân tộc phương Đơng và nó đã trở thành
một giải pháp tối ưu.
3.4. Các biểu hiện của tiếp xúc văn hóa phƣơng Đơng và phƣơng
Tây
3.4.1. Văn hóa vật chất
Theo GS. Trần Ngọc Thêm trong Giáo trình Cơ sở văn hóa
Việt Nam thì tiến trình văn hóa Việt Nam có thể chia thành 6 giai
đoạn: văn hóa tiền sử, văn hóa Văn Lang - Âu Lạc, văn hóa thời
chống Bắc thuộc, văn hóa Đại Việt, văn hóa Đại Nam và văn hóa hiện
đại. Sáu giai đoạn này tạo thành ba lớp: lớp văn hóa bản địa, lớp văn
17
hóa giao lưu với Trung Hoa và khu vực, lớp văn hóa giao lưu với
phương Tây.
Từ đó có thể thấy tầm quan trọng của tiếp xúc văn hóa Đơng
Tây trong diễn trình văn hóa dân tộc. Ngun nhân dẫn đến các cuộc
tiếp xúc văn hóa này, như GS. Trần Ngọc Thêm đã chỉ ra, đó là do
Việt Nam nằm ở vị trí ngã tư đường của các nền văn minh, khiến
người Việt Nam tiếp nhận được nhiều giá trị văn hóa nhân loại. Đặc
trưng nổi bật trong q trình giao lưu văn hóa nhiều thế kỉ này là tính
tổng hợp - dung hợp – tích hợp. Chẳng hạn, tiếp thu văn hóa Ấn Độ
theo cách của mình, chúng ta có nền văn hóa Chăm độc đáo và một
nền Phật giáo Việt Nam. Tiếp thu văn hóa Trung Hoa, ta có Nho giáo
và Đạo giáo. Văn hóa phương Tây đem lại Kitơ giáo cùng những giá
trị văn hóa vật chất và tinh thần mới mẻ. Tinh thần bao dung, hiếu
hòa, rồi tính tổng hợp và linh hoạt đã chi phối mạnh mẽ đến cách
người Việt Nam tiếp thu những hiện tượng văn hóa ngoại sinh, khiến
họ khơng bị đồng hóa mà ngược lại, luôn chiến thắng trong những
cuộc chiến tranh xâm lược dai dẳng và tàn khốc của Trung Hoa, Mông
Cổ, rồi Pháp, Mĩ.
Có thể nói sự nghiệp thực dân của Pháp đã tàn phá tiềm năng
kinh tế Việt Nam một cách nặng nề và hậu quả xã hội đau đớn, biến
nước ta thành một nước nô lệ, phụ thuộc vào nước Pháp, làm tăng sự
giàu có cho tư sản Pháp và bần cùng hoá đến tận cùng đời sống của
nhân dânn Việt Nam. Song nhìn từ một góc độ khác, ta cũng thấy
công cuộc khai thác thuộc địa của tư bản Pháp đã tạo nên một hệ
thống cơ sở vật chất mới, hiện đại ứng dụng những thành tựu khoa học
kĩ thuật Phương Tây vào đất nước ta. Những cơ sở vật chất của kinh tế
tư bản mọc lên trên nền móng của nền nơng nghiệp truyền thống đã
tạo ra diện mạo mới của nền văn hóa vật chất Việt Nam những thập
niên đầu thế kỉ XX.
Trên lĩnh vực nông nghiệp đã xuất hiện những cơ sở vật chất
mới, đó là hệ thống thuỷ nông mới ứng dụng khoa học kĩ thuật nông
18
nghiệp phương Tây. Để khai thác triệt để giá trị thặng dư của đất, thực
dân Pháp đã xây dựng nhiều cơng trình thuỷ lợi lớn phục vụ tưới tiêu
đồng ruộng. Chỉ riêng Bắc và Trung Kỳ đã có 25 cơng trình đập và
nhà máy bơm nước, trạm bơm nước bằng điện. Lần đầu tiên người
nông dân Việt Nam được thấy dẫn thuỷ nhập điền bằng máy thay cho
tát nước gầu dây, gầu sòng truyền thống. Chẳng hạn như các hệ thống
thuỷ lợi vùng cao Kép tưới cho 2500 ha, hệ thống tưới nước Vĩnh Yên
tưới 16.000 ha,hệ thống tưới nươc song Cầu tưới 33000 ha, hệ thống
nhà máy bơm dã tưới 23.1000 ha cho các tỉnh Sơn Tây, Hà Đông, Bắc
Ninh,… Qua đó nơng dân Việt Nam đã tiếp xúc với hệ thống thuỷ
nông mới hiện đại. Nhà máy sản xuất phân bón hố học được xây
dựng ở Hải Phịng, Bến Thuỷ. Nơng dân đã dùng phân hố học bón
ruộng bên cạnh phân hữu cơ truyền thống. Những cơ sở khoa học kĩ
thuật, trạm thí nghiệm giống cây, con xuất hiện ở nhiều nơi. Những
cây có giá trị kinh tế cao được đem trồng thí điểm rồi đại trà, bổ sung
vào cơ cấu cây trồng trên đồng đất Việt Nam, điển hình là cây cao su.
Năm 1929 đã có gần 1000 đồn điền cao su hoạt động. Thế độc canh
cây lương thực bị phá vỡ, hình thành cơ cấu cây trồng mới gồm cây
lương thực, thực phẩm và cây công nghiêp.
Trên lĩnh vực công nghiệp, tư sản Pháp đã du nhập công nghệ
hiện đại để xây dựng kĩ nghệ thuộc địa nhằm khai thác tài nguyên
thiên nhiên của Việt Nam phục vụ cho nền kinh tế Pháp. Đó là yếu tố
khách quan thúc đẩy sự ra đời của hệ thống cơ sở vật chất công nghiệp
hiện đại trên đất nước ta, nhất là hệ thống nhà xưởng của 2 ngành
công nghiệp khai khoáng và chế biến. Đầu thế kỉ XX các khu cơng
nghiệp khai mỏ hình thành ở nhiều nơi để cung ứng nguyên liệu cho
công nghiệp Pháp như khu mỏ Hồng Gai, Đông Triều, Tuyên Quang,
Phấn Mễ, Thái Nguyên, mỏ thiếc Tĩnh Túc... Công nghiệp chế biến đã
xây dựng nhiều nhà máy hiện đại bao gồm các ngành chế biến lâm
sản, hải sản, vật liệu xây dựng…Đặc biệt đã xuất hiện thành phố công
nghiệp với các nhà máy sợi, nhà máy tơ, làm chăn như thành phố Nam
19
Định. Năm 1906 đã có khoảng 200 nhà máy của tư sản Pháp xây dựng
trên cả 3 miền đất nước. Tiếp cận và học tập cách làm ăn của giới tư
sản Pháp, tư sản Việt Nam tham gia hoạt động trong các ngành công
nghiệp theo hướng độc lập. Nhiều nhà máy,xí nghiệp, nhà xưởng của
tư sản Việt Nam được xây dựng trên khắp đất nước. Như ngành dệt có
các xí nghiệp dệt ở Thái Bình, Hà Nội, Hà Đơng , Phú Yên, Châu
Đốc, Long Xuyên. Các xí nghiệp dệt chiếu được xây dựng ở Ninh
Bình, Thái Bình, Bạc Liêu, Rạch Giá, Tân An…các xí nghiệp sản xuất
đường ra đời ở Quảng Nam, Quảng Ngãi, Sơn Tây. Chế biến nông sản
cũng phát triển. Nhiều nhà máy xay xát gạo, ép dầu, chưng cất rượu ra
đời. Chỉ riêng Sài Gịn đã có 20 nhà máy xay xát của tư sản Việt Nam
hoạt động8. Tư sản Việt Nam đã lập các công ty để điều hành và quản
lý sản xuất như Quảng Nam hiệp thương công ty, Quảng Hưng Long,
Đông Thành Xương, Bạch Thái Bưởi…
Sau chiến tranh thế giới thứ nhất nhà máy xí nghiệp được xây
dựng mới nhiều hơn, và trang bị cơ sở vật chất hiện đại hơn. Chẳng
hạn như công ty xi măng Poorland nhân tạo Đông Dương tăng số lò
nung từ 4 lò ban đầu năm 1899 lên 25 lị vào năm 1925. Thay cơng
nghệ lị đứng cơng suất thấp sang cơng nghệ lị quay cơng suất cao.
Ngành khai mỏ trang bị máy móc hiện đại hơn, cơng nhân Việt Nam
đã tiếp xúc với máy móc hiện đại như máy phá khống, máy khoan
chạy bằng khí nén, búa khoan, cuốc máy, máy rạch đập bằng khí nén,
máy chạy điện, đầu máy hơi nước…
Điều đáng quan tâm là cơ sở vật chất do tư sản Việt Nam xây dựng
trong thời kì này phát triển khá mạnh. Những nhà tư sản hoạt động lâu
năm mở rộng phạm vi hoạt động như hãng tàu Nguyễn Hữu Thu có
hàng chục tàu thuỷ chạy ven biển Bắc bộ, hãng tàu Bạch Thái
Bưởi có 25 tàu thuỷ chạy trên các sông và ven biển Bắc và Trung kì.
Một số nhà tư sản mới ra đời xây dựng thêm nhiều nhà máy, xí
nghiêp, cửa hàng, cửa hiệu như xưỏng dệt Lê Vĩnh Phát sản xuất hoàn
toàn bằng khung cửi máy, hiệu thêu Trương Đình Long, hiệu ảnh
20
Khánh Ký. Công ty sản xuất điện của Phan Tùng Long và Lê Phát An
xây dựng 12 nhà máy điện cung ứng điện cho một số tỉnh miền Tây
Nam bộ. Một loại sơ sở vật chất mới xuất hiện và đưa vào sử dụng
phổ biến đầu thế kỉ XX là hệ thống đường giao thông hiện đại gồm
đường sắt, đường bộ, đường hàng không nối liền các trung tâm khai
thác với đô thị toả ra khắp nông thôn phục vụ cho việc chuyên chở
hàng hoá từ nơi sản xuất đến nơi tiêu thụ. Kĩ nghệ cầu đường tiên tiến
của Phương Tây được ứng dụng vào xây dựng hệ thống đường giao
thông ở Việt nam. Các tuyến đường sắt được xây dựng trong khoảng
thời gian từ 1899 đến 1928 như tuyến Hà Nội - Đồng Đăng, Hà Nội Lao Cai, Hà Nội - Hải Phòng…tuyến đường sắt dài nhất là tuyến
đường xuyên Việt Hà Nội - Sài Gòn với chiều dài 1.800 km xây dựng
kéo dài 36 năm mới hoàn thành (từ 1900 đến 1936). Năm 1931 có
2.389 km đưịng sắt. Phương tiện giao thơng hiện đại ra đời. Năm
1913 có 132 đầu máy, 327 toa xe khách và 1429 toa xe hàng hoạt
động.
Đường bộ mở rộng đến các khu công nghiệp khai mỏ, đồn điền,bến
cảng. Nhiều con đường hình thành trong đó có 17 tuyến chính đi khắp
Đơng Dương. Đặc biệt là con đưòng huyết mạch nối liền 3 xứ: Bắc
kỳ, Trung kỳ, Nam kỳ dài hơn 2.000 km gọi là đường thuộc địa số 1.
Đường qua thành phố,thị xã được rải nhựa hoặc rải đá. Trên các tuyến
đường sắt, đường bộ hàng trăm cây cầu sắt, bê tông cốt sắt được xây
dựng. Trong đó có nhiều cây cầu thế kỉ như cầu Long Biên, Cầu
Tràng Tiền, cầu Bình Lợi. Những phương tiện giao thông đường bộ
hiện đại như ô tô vận tải, xe taxi đã xuất hiện. Đường dây điện thoại
được xây dựng có chiều dài 14000 km. Ở 2 thành phố lớn Hà Nội, Sài
Gịn có thệ thống dường xe điện và tàu điện hoạt động. Đường thuỷ
khai thông các hệ thống sông lớn: sông Hồng, sông Hậu, sơng Thái
Bình, sơng Đồng Nai. Các tàu thuỷ lớn, xà lan đã chạy trên các tuyến
sơng, trong đó có nhiều tàu chạy bằng đầu máy hơi nước.
Đường hàng không được xây dựng và đưa vào hoạt động như đường
21
Hà Nội - Huế (1919), Hà Nội - Tây Nguyên (1929) và Hà Nội - Điện
Biên (1930). Có thể nói hệ thống đường giao thông thuỷ bộ, đường
sắt,đường hàng không đã làm thay đổi đáng kể cơ sở hạ tầng của Việt
Nam, đưa Việt nam vào hàng các nước có đường giao thông tốt nhất
khu vực Đông Nam Á đầu thế kỉ XX.
Trên lĩnh vực đơ thị có sự chuyển biến đáng kể. Sự thiết lập
chính quyền thuộc địa theo cách tổ chức đơn vị hành chính Phương
Tây dẫn đến sự ra đời của nhiều đô thị mới. Sự xâm nhập kinh tế tư
bản đã làm thay đổi chức năng của đơ thị Việt Nam, từ mơ hình đơ thị
Trung đại với chức năng là trung tâm chính trị chuyển sang mơ hình
đơ thị cận đại với chức năng trung tâm kinh tế cơng thương nghiệp là
chính. Những thành phố cận đại đầu tiên ra đời vào cuối thế kỉ XIX:
Sài Gòn (1877), Hà Nội(1888), Hải Phòng (1888), Chợ Lớn (1879),
Đà nẵng (1889). Đầu thế kỉ XX nhiều thị xã mở rộng quy mô lên
thành phố: ĐàLạt (1920), Nam Định (1921), Hải Dương (1923), Vinh
- Bến Thuỷ (1927), Bạc Liêu, Cần Thơ, Rạch Giá, Mỹ Tho (1928),
Huế, Thanh Hoá (1929), Quy Nhơn (1930). Bộ mặt đô thị được xây
dựng hiện đại theo kiến trúc Phương Tây điển hình là thành phố Sài
Gịn, Hà Nội.
Hà Nội trở thành trung tâm chính trị của cả Đông Dương và xứ
Bắc kỳ. Các trụ sởhành chính thuộc bộ máy chính quyền thực dân
được dựng lên giữa lòng Hà Nội 36 phố phường xưa. Nhiều dinh thự,
biệt thự,nhà xây cao tầng mọc lên đồ sộ như phủ Tồn quyền Đơng
Dương, phủ Thống sứ Bắc kỳ, sở Tư pháp, sở Cơng chính Đơng
Dương, sở y tế Đơng Dương…Nhiều nhà máy, xí nghiệp, cửa hàng,
cửa hiệu, hãng bn mọc lên. Đã hình thành nhiều dường phố mới của
người Âu. Nhiều cơng ty nước ngồi đặt trụ sở ở Hà Nội. Các trung
tâm vui chơi, giải trí kiểu Châu Âu ra đời: bảo tàng nông công thương
Hà Nội, nhà hát lớn thành phố, câu lạc bộ, bể bơi. Các trường cao
đẳng, đại học ra đời: trường Cao đẳng Sư phạm Đông Dương, Đại học
Đông Dương (1906).
22
Các đại lộ giải nhựa chạy ngang dọc như bàn cờ. Hà Nội có 23
km đường tàu điện. Ơ tơ tàu điện hoạt động nhộn nhịp suốt ngày đêm.
Tất cả khiến Hà Nội trở thành thành phố hiện đại và là trung tâm
chính trị văn hố lớn nhất nước. Sài Gịn cũng nhanh chóng trở thành
trung tâm kinh tế lớn nhất cả nước. Nhiều cơng ty lớn của nước ngồi
xây dựng trụ sở, văn phịng giao dịch, nhà máy, xí nghiệp tại Sài Gịn:
cơng ty điện và nước,cơng ty thương mại vận tải Đông Dương, công
ty dầu lửa Pháp - Á…Các dinh thự của phủ Toàn quyền, phủ Thống
đốc Nam kỳ, trụ sở các cơ quan chun mơn, Tồ thị chính, các trung
tâm vui chơi giải trí như nhà hát lớn và các nhà máy, xí nghiệp mọc
lên đã khốc cho Sài Gòn một bộ cánh mới rực rỡ hơn để người Âu
gọi nó là “hịn ngọc Viễn Đơng”. Đời sống vật chất của nhân dân xuất
hiện nhiêu tiện nghi mới. Từ cái ăn, cái mặc đến nhà ở đều có đan xen
những yếu tố mới. Bánh mì, pho mát, xúp, nước đá, bia, xơđa…những
món ăn nước uống của người Âu đã xen vào khẩu vị ẩm thực của
người Việt Nam. Các phương tiện giao thông bằng xe hơi, tàu hoả, tàu
điện được người dân sử dụng. Các đồ dùng sinh hoạt mới như xe đạp,
đèn pin, bình tec mốt, xà phịng, thuốc lá Tây được nhiều người ưa
thích. Ở thành thị những rạp hát lộng lẫy, những quán trà lịch sự mọc
lên ngày càng nhiều. Trong các gia đình bên cạnh những cọc đèn dầu
lạc đã xuất hiện những đèn Hoa Kỳ, đèn măng sông, đèn điện; bày
biện tủ chè thay thế dần những phản gụ, sập lim, xa lông chiếm chỗ
của hương án bàn thờ, án thư tràng kỷ.
Trang y phục của người Việt đã xuất hiện mặc quần áo tân thời:
nam sơ mi âu phục, com lê, nữ áo dài kiểu mới hoặc váy đầm.
Nhà ở của người dân đã tiếp cận với kiến trúc phương Tây: nhà cao
tầng, nhà biệt thự xuất hiện ngày càng nhiều. Nhà xây dựng theo kiểu
phố - hiệu để kinh doanh. Nhiều tòa nhà kết hợp giữa kiến trúc cổ
truyền với kiến trúc phương tây: nhà cao tầng có mái cong có
nhiều cửa và cửa sổ, có tầng cao cho thống mát. Nhìn đại thể ba thập
niên đầu thế kỷ XX, cơ sở vật chất kỹ thuật của nền kinh tế công
23
thương nghiệp hiện đại đã hình thành. Hàng trăm nhà máy, cơng
xưởng ra đời với hệ thống máy móc hiện đại chạy suốt ngày đêm. Nhà
gạch cao tầng kiên cố, xây dựng theo kiểu kiến trúc phương Tây ngày
càng nhiều thay thế nhà tranh. Các cửa hàng, cửa hiệu, vila, biệt thự,
nhà hàng, khách sạn, ngân hàng, công sở cấu trúc thành phố xá. Nhiều
làng quê nông nghiệp biến mất, thay vào đó là các thành phố cận đại
theo kiểu châu Âu mọc lên đồ sộ. Các phương tiện giao thông hiện
đại: Đường sắt, đường nhựa, ôtô, tàu lửa, tàu điện, điện thoại đưa vào
sử dụng... Tất cả các cơ sở vật chất trên đây đã bổ sung vào văn hóa
truyền thống thuần nơng những yếu tố mới của văn hóa cơng thương,
tạo dựng lên một diện mạo mới cho văn hóa vật chất Việt Nam đầu
thế kỷ XX
3.4.2. Văn hóa tinh thần và lối sống tư duy
Tiếp xúc văn hóa phương Tây, tư duy văn hóa truyền thống bị
lay động. Người Việt Nam đã hình thành một cách tư duy mới - tư duy
phân tích. Trên nền tảng tư duy tổng hợp của văn hóa Phương Đơng,
người Việt Nam tiếp nhận cách tư duy phân tích, bổ sung vào văn hóa
nhận thức của mình để ứng xử với mơi trường tự nhiên, môi trường xã
hội một cách khoa học hơn. Người ta nhìn nhận sự việc một cách biện
chứng hơn, chứ không bất biến như nho gia xưa sao nay vậy. Với cách
tư duy văn hóa mới, người Việt đã chọn lọc và học tập những giá trị
tốt đẹp của chế độ dân chủ cộng hòa, để vừa bảo tồn được giá trị tốt
đẹp của văn hóa dân tộc vừa tiếp nhận được thành tựu văn hóa tiến bộ
của nhân loại. Trong thư gửi tồn quyền Đơng Dương Lương Trúc
Đàm đã xác nhận: "những điều dân chủ, cộng hòa, bình đẳng, tự do...
đã thấm vào trong óc người nước tôi”12. Với cách tư duy mới người
Việt Nam đã tin "hồn tồn có thể học hỏi để nắm bắt tư duy Tây Âu,
một khi đã có ý mệnh về văn hóa và văn học, nghệ thuật Pháp và Tây
Âu, người mình hồn tồn có đủ năng lực để sáng tạo được một nền
văn học và một nền văn hóa dân tộc hiện đại”.
24
Trong lối sống người Việt đã chịu ảnh hưởng của kinh tế hàng
hóa, đồng tiền chiếm vị trí trọng yếu trong đời sống phá vỡ quan hệ
luân, thường truyền thống, tình nghĩa bị lép vế trước lợi nhuận. Quan
hệ họ hàng gia tộc bị lu mờ trước cá nhân. Cá nhân từ chỗ bị chìm
trong quan hệ gia tộc, làng xóm đã trở thành những cá thể độc lập, là
bản vị của xã hội có nghĩa vụ và lợi ích độc lập. Cách nhìn nhận
phong tục tập quán đã khác trước. Một mặt tôn vinh bản sắc tinh tế
riêng biệt của văn hóa dân tộc qua các lễ hội, sinh hoạt gia đình, tình
làng, nghĩa xóm, đạo thầy trị, nghĩa cha con, vợ chồng, đề cao sự
khoáng đạt bao dung, thủy chung nhân hậu của văn hóa truyền thống.
Mặt khác đã phê phán nhẹ nhàng những hủ tục lạc hậu. Xuất hiện
những hành vi ứng xử mới trong phong tục như thay đổi cách đặt tên
cho con, dùng tên của những loài hoa đẹp hoặc ước vọng của cha mẹ
đặt tên cho con, chứ không phải chỉ là thằng cu, con thẽm nữa. Đem
hoa ra viếng mộ để tưởng nhớ người đã khuất. Ở thành thị đơn giản
hóa ngày tết. Trong hôn nhân con cái được tự do yếu đương, không
nhất thiết phải môn đăng hộ đối, không nên phân biệt giàu nghèo, cha
mẹ không cưỡng ép duyên con cái nặng nề như trước. Nhìn nhận về
Nho giáo có những điểm mới: Vừa thấy cái hay, cái mạnh của Nho
giáo, làm cho nước nhà có kỷ cương, dân hưởng thái bình, “giúp con
người tu dưỡng đạo đức cá nhân". Nhưng cũng thấy cái yếu là dễ nhu
nhược, kỹ nghệ thô sơ, nên cạnh tranh không mạnh. Với cách nghĩ ấy
người ta coi việc tiếp xúc với văn hóa Phương Tây là dịp tiến hóa của
văn hóa dân tộc.
Nhận thức về nghề nghiệp của người Việt đã khác xưa. Nhân
tâm người Việt say mê bia đá bảng vàng, nên chăm lo dùi mài kinh sử
để đi thi, lấy con đường khoa bảng để lập thân, nên coi thường công
nghệ. Đầu thế kỷ XX giới sĩ phu đã viết "Văn minh tân học sách"
phê phán thái độ coi rẻ công thương và thấy cần phải chấn hưng công
nghệ. Nhận thấy "cái lý chung của một nước quan trọng nhất là buôn
bán. Đường bn bán có thịnh thì nước mới thịnh, đường bn bán
25