Tải bản đầy đủ (.docx) (16 trang)

ly luận về pháp luật và quyền con người.12.LTHH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (98.42 KB, 16 trang )

BÀI TIỂU LUẬN
MÔN LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ QUYỀN CON NGƯỜI
Đề tài: QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM VỀ
BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI GẮN VỚI KHÁT VỌNG
PHÁT TRIỂN ĐẤT NƯỚC PHỒN VINH, HẠNH PHÚC

MỤC LỤC
1


PHẦN I: MỞ
ĐẦU ...............................................................................................3
PHẦN II: NỘI DUNG ..........................................................................................4
1. Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam........................................................ 4
1.1. Nội dung quan điểm của Đảng về quyền con người ……………………….8
1.2. Quan điểm của Đảng về khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh,
hạnh phúc trên cơ sở đảm bảo quyền con người...................................................7
2. Thực tiễn và giải pháp nhằm bảo đảm quyền con người gắn với sự phát triển
đất nước phồn vinh, hạnh phúc.............................................................................8
2.1. Những thành tựu đạt được:.............................................................................8
2.2. Một số vấn đề còn tồn tại: ...........................................................................10
2.3. Một số giải pháp cơ bản...............................................................................12
PHẦN III: KẾT LUẬN.......................................................................................15
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................16

PHẦN I: MỞ ĐẦU
2


Quyền con người là sự kết tinh những giá trị cao đẹp nhất trong nền văn hóa
của nhân loại, được hình thành với sự đóng góp của tất cả các quốc gia, dân tộc, giai


cấp, tầng lớp và cá nhân con người trên trái đất. Kể từ khi Liên hợp quốc được thành
lập (10/1945), quyền con người đã được quy định trong rất nhiều văn kiện pháp lý
quốc tế, trở thành một hệ thống tiêu chuẩn pháp lý toàn cầu được các quốc gia tôn
trọng và thực hiện. Ở Việt Nam, trải qua lịch sử hàng ngàn năm dựng nước và giữ
nước, nhân dân Việt Nam đã phải đổ biết bao xương máu để giành lấy những quyền cơ
bản của con người: được sống trong điều kiện độc lập, tự do, có cơm ăn, áo mặc, nhà
ở, được học hành, nhân phẩm được tôn trọng. Từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời
đến nay, vấn đề quyền con người luôn luôn được quan tâm và là một trong những mục
tiêu cao cả nhất trong suốt tiến trình cách mạng Việt Nam. Bảo đảm và thúc đẩy quyền
con người là quan điểm nhất quán, xuyên suốt của Đảng Cộng sản Việt Nam. Ngày
12/7/1992, Ban Bí thư (khóa VII) ban hành Chỉ thị 12/CT-TW về "Vấn đề quyền con
người và quan điểm, chủ trương của Đảng ta". Chỉ thị 12/CT-TW của Ban Bí thư đã đề
cập đến những nội dung cốt lõi nhất của vấn đề quyền con người và quan điểm của
Đảng ta về vấn đề quan trọng này. Đại hội XIII của Đảng (2021) tiếp tục bổ sung, phát
triển nhận thức về quyền con người trong thời kỳ mới của đất nước. Đó là thời kỳ đẩy
mạnh mọi hoạt động đối nội và đối ngoại nhằm hiện thực hóa khát vọng xây dựng đất
nước phồn vinh, hạnh phúc. Đảng, Nhà nước ta khẳng định việc bảo đảm quyền con
người là nhân tố quan trọng trong hiện thực hóa khát vọng phát triển đất nước phồn
vinh, hạnh phúc.
Trên cơ sở kiến thức được truyền thụ từ môn Lý luận và pháp luật về quyền con
người trong chương trình Hồn thiện kiến thức về Cao cấp lý luận chính trị, tơi xin
phép được viết bài thu hoạch môn với chủ đề “Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt
Nam về bảo đảm quyền con người gắn với khát vọng phát triển đất nước phồn vinh,
hạnh phúc”.

PHẦN II: NỘI DUNG
3


1. Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam

1.1. Nội dung quan điểm của Đảng về quyền con người
Kế thừa nhận thức chung của cộng đồng quốc tế, xuất phát từ quan điểm
mácxít, từ thực tiễn Việt Nam và thế giới, Đảng đã xác định một số quan điểm cơ bản
về vấn đề quyền con người trên cơ sở thực tiễn đổi mới, phù hợp với các Hiến pháp
năm 1992 và 2013, các văn kiện của Đảng, Nhà nước:
Thứ nhất, quyền con ngườỉ là giá trị chung của nhân loại: Đảng ta khẳng định:
“quyền con người là thành quả của cuộc đấu tranh lâu dài qua các thời đại của nhân
dân lao động và các dân tộc bị áp bức trên thế giới, và cũng là thành quả của cuộc đấu
tranh của lồi người làm chủ thiên nhiên; qua đó, quyền con người trở thành giá trị
chung của nhân loại” . Ngày nay, những nguyên tắc và quy định của Luật quốc tế về
quyền con người được coi là mục tiêu phấn đấu của nhiều quốc gia. Ở hầu hết các
nước, nội dung các công ước quyền con người đã được nội luật hóa và tùng bước tổ
chức thực hiện trên thực tế. Là giá trị chung nên tất cả các quốc gia, dân tộc - không
phân biệt chế độ chính trị, trình độ phát triển kinh tế, xã hội, văn hóa - đều có quyền
thụ hưởng và có nghĩa vụ bảo vệ, phát triển giá trị xã hội cao quý này.
Thứ hai, trong xã hội có phân chia giai cẩp đổi kháng, khái niệm quyền con
người mang tính giai cấp sâu sắc: Quyền con người, về bản chất không có tính giai
cấp, nhưng trong xã hội có giai cấp đối kháng, khái niệm quyền con người được hiểu
theo góc nhìn hay “lăng kính”, hệ tư tưởng của mỗi giai cấp cụ thể. Tuy nhiên, trong
khi nhận rõ tính chất giai cấp của khái niệm quyền con người, cũng cần tránh khuynh
hướng tuyệt đối hóa vấn đề giai cấp trong giải quyết các vấn đề cụ thể về quyền con
người. Như thế dễ dẫn tới cực đoan, làm cản trở sự hợp tác, tăng đối đầu trên lĩnh vực
quyền con người. Trong xã hội Việt Nam, quyền lợi của giai cấp công nhân và nhân
dân lao động gắn liền với quyền lợi của đất nước, dân tộc; tính giai cấp của khái niệm
quyền con người thống nhất với tính nhân loại, tính phổ biến của quyền con người. Do
đó, quyền con người của tất cả mọi người đều được tôn trọng và bảo đảm, không phân
biệt giai cấp, tầng lớp, dân tộc, tôn giáo...
Thứ ba, quyền con người gắn với độc lập dân tộc và chủ quyền quốc gia: Đảng
ta khẳng định: “Quyền con người gắn với quyền dân tộc cơ bản và thuộc phạm vi chủ
quyền quốc gia” . Quyền dân tộc tự quyết đã trở thành một bộ phận không thể thiếu

của quyền con người, được ghi nhận ở điều đầu tiên của hai công ước cơ bản về quyền
con người năm 1966. Ngày nay, quyền con người đã được quốc tế hóa về nhiều mặt,
nhưng việc bảo đảm quyền con người chủ yếu vẫn thuộc thẩm quyền của các quốc gia.
Có thể nói, độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia là điều kiện tiên quyết để bảo đảm

4


quyền con người; khơng có độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia, khơng thể nói đến các
quyền con người. Tuy nhiên, điều có ý nghĩa cực kỳ quan trọng là nhà nước phải sử
dụng các điều kiện này để đem lại cuộc sống hạnh phúc cho mọi thành viên của quốc
gia. Điều này thể hiện mối quan hệ biện chứng giữa quyền dân tộc tự quyết với quyền
con người và trở thành định hướng chính trị quan trọng trong mọi hoạt động bảo vệ
quyền con người của Nhà nước Việt Nam.
Thứ tư, quyền con ngườỉ gắn liền với lịch sử, truyền thống và phụ thuộc vào
trình độ phát triển kỉnh tế, văn hóa của mỗi quốc gia: Đảng Cộng sản Việt Nam cho
rằng: “Quyền con người luôn luôn gắn liền với lịch sử, truyền thống và phụ thuộc vào
trình độ phát triển kinh tế, văn hóa của đất nước. Do vậy khơng thể áp đặt hoặc sao
chép máy móc các tiêu chuẩn, mô thức của nước này cho nước khác”. Quyền con
người là giá trị được kết tinh từ những thành tựu, kinh nghiệm đặc sắc trong lịch sử,
truyền thống, văn hóa của mỗi quốc gia. Chính nét đặc sắc trong việc bảo đảm quyền
con người của mỗi quốc gia lại làm phong phú thêm giá trị chung của quyền con
người. Tính phụ thuộc của quyền con người cịn bắt nguồn từ sự phát triển “không
đều” về mọi mặt của thế giới, nên quyền con người cũng không thể được đáp ứng như
nhau giữa các quốc gia, mà luôn phụ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế, xã hội, văn
hóa của mỗi nước. Đây là cơ sở lý luận để bác bỏ mọi sự sao chép, áp đặt các mơ hình
dân chủ, quyền con người; đồng thời địi hỏi phải chủ động, sáng tạo trong việc bảo
đảm các quyền con người phù hợp với thực tiễn mỗi quốc gia.
Thứ năm, quyền con người là mục tiêu, động lực của sự phát triển xã hội, là bản
chất của chế độ XHCN: Từ hoạt động nghiên cứu lý luận và thực tiễn đấu tranh cách

mạng, Đảng ta đã đi đến kết luận: “Đối với chúng ta, vấn đề quyền con người được đặt
ra xuất phát từ mục tiêu của chủ nghĩa xã hội, từ bản chất của chế độ ta”5 ; “Giải
phóng con người gắn liền với giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng xã
hội. Chỉ dưới tiền đề độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội thì quyền con người mới
được bảo đảm rộng rãi, đầy đủ, trọn vẹn nhất” . Kiên trì trong nhận thức và nhất quán
trong hành động, Đại hội lần thứ XIII của Đảng chủ trương: Tiếp tục cụ thể hóa, hoàn
thiện thể chế thực hành dân chủ theo tinh thần Cương lĩnh xây đựng đất nước trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011) và Hiến pháp năm
2013, bảo đảm tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Thực hiện đúng đắn, hiệu
quả dân chủ trực tiếp, dân chủ đại diện, đặc biệt là dân chủ ở cơ sở. Thực hiện tốt, có
hiệu quả trên thực tế phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân
giám sát, dân thụ hưởng”. Trên ý nghĩa ấy, quyền con người thể hiện rõ bản chất của
chế độ xã hội XHCN, của Nhà nước pháp quyền XHCN. Đó vừa là mục tiêu, vừa là

5


động lực thúc đẩy xã hội phát triển theo dòng chảy chung của nhân loại là hướng tới tự
do, bình đẳng, hạnh phúc và thịnh vượng cho tất cả mọi người.
Thứ sáu, quyền con người được ghi nhận và bảo vệ bằng Hiến pháp, pháp luật:
Thực tiễn Việt Nam và thế giới cho thấy, bảo đảm bằng pháp luật là một trong những
điều kiện quan trọng nhất để các quyền con người được thực hiện. Trong phạm vi quốc
gia, pháp luật bảo vệ quyền con người thể hiện ở việc ghi nhận các quyền con người,
quyền công dân trong Hiến pháp, pháp luật; hoàn thiện các thiết chế, bộ máy nhằm bảo
vệ ngày càng tốt hơn quyền con người. Mặc dù luôn nhấn mạnh “quyền bẩm sinh”,
nhung ngày nay, ở mọi quốc gia, quyền con người đều được ghi nhận và bảo vệ bằng
các hình thức pháp luật khác nhau. Đó là cơ sở để Đảng và Nhà nước Việt Nam ln
nhấn mạnh vai trị của pháp luật trong việc bảo đảm quyền con người. Hiến pháp năm
2013, tại Điều 14, đã nhấn mạnh: Các quyền con người được “công nhận, tôn trọng,
bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật” và “chỉ có thể bị hạn chế theo quy định

của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phịng, an ninh quốc gia, trật tự, an
tồn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng”.
Thứ bảy, quyền của mỗi cá nhân không tách rời nghĩa vụ và trách nhiệm công
dân: Đảng khẳng định: “Quyền dân chủ, tự do của mỗi cá nhân không tách rời nghĩa
vụ và trách nhiệm công dân. Dân chủ phải đi đôi với kỷ cương, pháp luật” . Quan điểm
này có ý nghĩa hết sức quan trọng, vì nó chỉ ra được cách thức giải quyết một trong
những mối quan hệ cơ bản nhất của vấn đề quyền con người, khắc phục được cách
hiểu phiến diện, cực đoan về vấn đề quyền con người.
Hệ thống các quan điểm, cách tiếp cận nói trên của Đảng về quyền con người
nhìn chung tương đồng với quan điểm của nhiều quốc gia trên thế giới; có giá trị định
hướng cho mọi hoạt động của Nhà nước Việt Nam nhằm bảo vệ, đấu tranh trên lĩnh
vực quyền con người trong thời kỳ mới - thời kỳ đất nước hội nhập toàn diện, sâu rộng
vào mọi lĩnh vực của sinh hoạt quốc tế và khu vực, trong bối cảnh tồn cầu hóa. Qn
triệt đầy đủ các quan điểm nói trên chắc chắn sẽ tạo ra bước phát triển vững chắc trên
lĩnh vực quan trọng này, không chỉ bảo đảm giành thắng lợi trong cuộc đấu tranh trên
lĩnh vực quyền con người hiện nay mà điều quan trọng nhất là đem lại tự do, hạnh
phúc cho tất cả mọi người dân Việt Nam - một nhiệm vụ cao cả, thiêng liêng và cũng
là mục tiêu chủ yếu của Đảng và Nhà nước Việt Nam. Nội dung này tiếp tục được Đại
hội XIII của Đảng khẳng định với quan điểm chỉ đạo: Khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu
nước, ý chí tự cường dân tộc, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và khát vọng phát
triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc.

6


1.2. Quan điểm của Đảng về khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn
vinh, hạnh phúc trên cơ sở đảm bảo quyền con người
Việt Nam đang xây dựng các nền tảng cơ bản, từng bước đi lên chủ nghĩa xã
hội và mục tiêu cuối cùng là chủ nghĩa cộng sản. Chủ nghĩa xã hội hiểu một cách đơn
giản theo tư tưởng Hồ Chí Minh đó là nước được hồn toàn độc lập, nhân dân được

hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành; đó
chính là mục tiêu theo cách diễn đạt dễ hiểu của Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội.
Như vậy, chủ nghĩa xã hội chính là mục tiêu, khát vọng hiện thực hóa quyền con
người, mà quyền con người là giá trị chung của nhân loại, là thành quả đấu tranh của
nhân dân lao động, các dân tộc bị áp bức trên tồn thế giới, trong đó có dân tộc Việt
Nam. Tơn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người là vấn đề thuộc bản chất của chế
độ XHCN, ngọn cờ của những người cộng sản. Lịch sử loài người đã chứng minh
rằng, toàn bộ các cuộc đấu tranh chống bất cơng, chống áp bức, bóc lột, chống đô hộ,
suy cho cùng là lịch sử đấu tranh giải phóng con người, vì quyền con người.
Từ khi Đảng ra đời đã khơi dậy tinh thần, ước vọng, khát vọng và đấu tranh để
đạt được độc lập, tự do, thống nhất, phát triển đất nước, “sánh vai 7 cùng các cường
quốc năm châu”. Với khát vọng mạnh mẽ về độc lập, tự do, thống nhất trong thời kỳ
đất nước chưa độc lập, Đảng ta đã khơi dậy ý chí và tinh thần yêu nước của dân tộc,
huy động toàn bộ sức mạnh chiến đấu hy sinh trong suốt 45 năm để thực hiện được
một cách trọn vẹn. Ngày nay, khát vọng phát triển dân tộc giàu mạnh, hùng cường là
một động lực thúc đẩy dân tộc ta tiến lên, khắc phục đói nghèo, lạc hậu, vượt qua bẫy
thu nhập trung bình, nguy cơ tụt hậu về kinh tế. Đồng thời, việc phát huy ý chí, sức
mạnh đại đồn kết toàn dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại có ý nghĩa vơ cùng quan
trọng để xây dựng đất nước và bảo vệ Tổ quốc. Vì vậy hơn bao giờ hết chúng ta phải
phát huy cao độ truyền thống yêu nước và cách mạng, tinh thần đoàn kết, trách nhiệm,
nỗ lực phấn đấu vượt qua mọi khó khăn, thử thách, khát vọng phát triển thành một
quốc gia giàu mạnh. Đại hội XIII của Đảng nhấn mạnh: “Khơi dậy mạnh mẽ tinh thần
yêu nước, ý chí tự cường dân tộc, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và khát vọng
phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc; phát huy dân chủ XHCN, sức mạnh tổng
hợp của cả hệ thống chính trị và của nền văn hóa, con người Việt Nam, bồi dưỡng sức
dân, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, có cơ chế đột phá để thu hút, trọng dụng
nhân tài, ứng dụng mạnh mẽ khoa học và công nghệ, nhất là những thành tựu của cuộc
Cách mạng Công nghiệp lần thứ tư, thúc đẩy đổi mới sáng tạo, tạo động lực mới cho
phát triển nhanh và bền vững đất nước”. Đây là lần đầu tiên trong chủ đề Đại hội Đại
biểu toàn quốc của Đảng và Báo cáo chính trị sử dụng cụm từ “khát vọng phát triển

đất nước phồn vinh, hạnh phúc”.

7


Đây là một điểm rất mới và là điểm nhấn rất quan trọng thể hiện bước phát
triển mới trong tư duy lý luận của Đảng ta. Điều đó cũng thể hiện quan điểm, tư tưởng
của Đảng ta: “Chúng ta cần một xã hội mà trong đó sự phát triển là thực sự vì con
người, chứ khơng phải vì lợi nhuận mà bóc lột và chà đạp lên phẩm giá con người.
Chúng ta cần sự phát triển về kinh tế đi đôi với tiến bộ và công bằng xã hội, chứ khơng
phải gia tăng khoảng cách giàu nghèo và bất bình đẳng xã hội. Chúng ta cần một xã
hội nhân ái, đoàn kết, tương trợ lẫn nhau, hướng tới các giá trị tiến bộ, nhân văn, chứ
không phải cạnh tranh bất cơng, “cá lớn nuốt cá bé” vì lợi ích vị kỷ của một số ít cá
nhân và các phe nhóm. Chúng ta cần sự phát triển bền vững, hài hòa với thiên nhiên để
bảo đảm môi trường sống trong lành cho các thế hệ hiện tại và tương lai, chứ không
phải để khai thác, chiếm đoạt tài nguyên, tiêu dùng vật chất vô hạn độ và hủy hoại môi
trường. Và chúng ta cần một hệ thống chính trị mà quyền lực thực sự thuộc về nhân
dân, do nhân dân và phục vụ lợi ích của nhân dân, chứ khơng phải chỉ cho một thiểu số
giàu có”.
2. Thực tiễn và giải pháp nhằm bảo đảm quyền con người gắn với sự phát
triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc
2.1. Những thành tựu đạt được:
Trong các chủ trương, đường lối, chính sách, pháp luật của Đảng, Nhà nước từ
trước đến nay, quyền con người và pháp luật về quyền con người là nội dung rất quan
trọng, được quy định cụ thể trong hệ thống pháp luật Việt Nam. Hiến pháp năm 1946,
1959, 1980, 1992 và đặc biệt là Hiến pháp năm 2013 đã thể chế hóa quan điểm của
Đảng về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, phù hợp với thực
tiễn Việt Nam và chuẩn mực quốc tế về quyền con người mà Việt Nam đã tham gia.
Đồng thời, để bảo đảm quyền con người trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, hệ
thống pháp luật về quyền của con người cũng đã được bổ sung, hoàn thiện như việc

ban hành Luật Báo chí; Luật Tín ngưỡng, tôn giáo; Luật Tiếp cận thông tin; Luật An
ninh mạng…
Bên cạnh việc hoàn thiện hệ thống pháp luật để đảm bảo quyền con người, Việt
Nam cũng đã tham gia hầu hết các công ước quốc tế cơ bản, quan trọng nhất về quyền
con người và được luật hóa. Cụ thể: Tham gia 4 Công ước Geneve của Luật Nhân đạo
quốc tế năm 1957; Tham gia Công ước về quyền dân sự, chính trị; Cơng ước về quyền
kinh tế - xã hội và văn hóa, ký ngày 24/9/1982; Cơng ước về xóa bỏ mọi hình thức
phân biệt đối xử với phụ nữ, ký ngày 18/12/1982; Cơng ước về xóa bỏ mọi hình thức
phân biệt chủng tộc, ký ngày 19/3/1982; Cơng ước về quyền trẻ em, ký ngày
20/2/1990; Công ước về quyền của người khuyết tật, ký ngày 22/10/2007; tham gia

8


trong việc thành lập Ủy ban liên Chính phủ ASEAN về quyền con người, ký ngày
23/10/2009, Ủy ban thúc đẩy và bảo vệ quyền phụ nữ và trẻ em ASEAN (ACWC),
ngày 7/4/2010...
Thực hiện đầy đủ các cam kết quốc tế về quyền con người mà Việt Nam đã
tham gia ký kết, nhất quán quan điểm về bảo đảm và thúc đẩy quyền con người đã
được Đảng ta đề ra tại các đại hội trước, Đại hội XIII của Đảng xác định: “Tôn trọng,
bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền và nghĩa vụ của công dân theo Hiến pháp
năm 2013; gắn quyền công dân với nghĩa vụ và trách nhiệm công dân đối với xã hội”.
Đây là cách tiếp cận mới của Đảng ta trong bảo đảm, bảo vệ và thúc đẩy quyền con
người ở Việt Nam trong giai đoạn mới. Vấn đề quyền con người gắn với quyền dân
tộc, khẳng định chủ nghĩa xã hội là chế độ tốt nhất bảo đảm quyền con người cho nhân
dân Việt Nam. Từ đó, Đảng, Nhà nước ln xem xét, giải quyết hài hòa, đúng đắn mối
quan hệ giữa quyền dân tộc - quốc gia với quyền của các cộng đồng dân tộc thiểu số
và các giai tầng xã hội. Quyền con người, quyền cơng dân về chính trị, dân sự, kinh tế,
văn hóa xã hội được cơng nhận, tơn trọng, bảo vệ và bảo đảm theo Hiến pháp, pháp
luật. Những thành quả trong việc bảo đảm, tôn trọng quyền con người và nâng cao

chất lượng thụ hưởng các quyền con người của mọi người dân được thể hiện trên mọi
lĩnh vực, ở mọi điều kiện, hoàn cảnh và đã được cộng đồng quốc tế, Liên hợp quốc ghi
nhận, đánh giá cao.
Điển hình như, Việt Nam là một trong sáu quốc gia thành viên Liên hợp quốc
đã hoàn thành phần lớn các Mục tiêu Phát triển thiên niên kỷ trước thời hạn năm 2015
và được xem là tấm gương điển hình của cộng đồng quốc tế trong thực hiện mục tiêu
phát triển bao trùm, khơng ai bị bỏ lại phía sau của Liên hợp quốc. Tạp chí The
Economist tháng 8/2020 xếp Việt Nam trong tốp 16 nền kinh tế mới nổi thành công
nhất thế giới. Năm 2019, Việt Nam đã vinh dự lọt vào Top 10 danh sách những quốc
gia đáng sống và làm việc nhất thế giới và thuộc nhóm các nước có tốc độ tăng trưởng
chỉ số HDI cao nhất trên thế giới. Theo Báo cáo “Phát triển con người năm 2019”
được Chương trình Phát triển Liên hợp quốc (UNDP) công bố ngày 9/12/2019, với chỉ
số HDI là 0,63, Việt Nam xếp thứ 118 trong tổng số 189 nước. Tuổi thọ trung bình của
người Việt Nam tăng 4,8 năm, số năm đi học trung bình tăng 4,3 năm, thu nhập bình
quân đầu người tăng khoảng trên 354%; tỷ lệ nghèo đa chiều ở Việt Nam giảm từ
9,88% (năm 2015) xuống còn 3,73% (năm 2019)... Theo báo cáo của trang mạng "We
are social", năm 2020 Việt Nam có hơn 68 triệu dân sử dụng Internet (chiếm tỷ lệ 70%
dân số) với mục đích sinh kế, học tập, giải trí, biểu đạt và thực hiện các quyền con
người của mình, kể cả những quyền dân sự, chính trị như tham gia đóng góp ý kiến
vào các dự thảo văn bản chính sách, pháp luật, văn kiện Đại hội Đảng.

9


Đồng thời, với những thành tựu trong việc tôn trọng, bảo đảm về quyền của con
người, Việt Nam được tín nhiệm là thành viên của Hội đồng Nhân quyền Liên hợp
quốc (nhiệm kỳ 2014 - 2016). Tại khóa họp lần thứ 73, tại trụ sở Liên hợp quốc vào
ngày 7/6/2019, Đại hội đồng Liên hợp quốc đã bầu Việt Nam làm Ủy viên không
thường trực Hội đồng bảo an Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2020 - 2021 với số phiếu gần
tuyệt đối (192/193 phiếu).

Mới đây, Việt Nam đã hoàn thành tốt vai trò Chủ tịch Hội đồng Bảo an Liên
hợp quốc trong tháng 1 và tháng 4 năm 2021 với nhiều dấu ấn, đóng góp, trong đó có
vấn đề bảo đảm quyền con người trước đại dịch COVID-19 được cộng đồng quốc tế
ghi nhận, đánh giá cao và thể hiện uy tín, vị thế quốc tế ngày càng tăng của Việt Nam.
Thành tựu đảm bảo quyền con người tại Việt Nam trên các lĩnh vực đời sống văn hóa,
xã hội, kinh tế, đặc biệt là những thành tựu của Việt Nam trong việc phòng, chống dịch
COVID-19 và bảo đảM quyền sống là quyền cao nhất trong đại dịch COVID-19 là
những minh chứng rõ nét nhất trong bảo đảm quyền của con người trước những biến
cố, đại dịch mà người dân trên toàn thế giới phải trải qua.
2.2. Một số vấn đề còn tồn tại:
Thứ nhất, thực tế cho thấy, hiểu biết về quyền con người ở nước ta hiện nay cịn
nhiều hạn chế, dẫn đến có những hành động cố ý hoặc vô ý vi phạm các quyền hợp
pháp của công dân, đặc biệt là ở một số cơ quan công quyền và một số cơ quan tư
pháp. Sự hạn chế như vậy có ngun nhân từ cơng tác tun truyền, giáo dục về quyền
con người. Trong hoạt động tuyên truyền và đấu tranh chống vi phạm quyền con
người, các phương tiện thông tin đại chúng ở nước ta chủ yếu đề cập đến vấn đề quyền
con người dưới dạng phê phán sự xuyên tạc, lợi dụng nhân quyền để chống phá ta của
các thế lực phản động, thù địch. Quyền con người được coi là một vấn đề nhạy cảm, ít
khi những vấn đề quyền con người trong nước được tuyên truyền, phổ cập trực tiếp
trên các phương tiện thông tin đại chúng.
Thứ hai, Việt Nam vẫn đang trong q trình hồn thiện Nhà nước pháp quyền
XHCN. Pháp luật về quyền con người ở Việt Nam mặc dù đang từng bước được kiện
toàn nhưng vẫn chưa đồng bộ, một số lĩnh vực chưa theo kịp với sự thay đổi của cuộc
sống, chậm được sửa đổi, bổ sung dẫn đến khó khăn trong q trình vận dụng và thực
thi pháp luật ở cơ sở. Việc Quốc hội thông qua Hiến pháp 2013 đang đặt ra yêu cầu
sửa đổi, bổ sung, ban hành mới nhiều đạo luật để cụ thể hóa các quy định trong Hiến
pháp nhằm bảo đảm trên thực tế các quyền, tự do cơ bản của con người, của công dân.
Thứ ba, tuy đạt tốc độ tăng trưởng nhanh và ổn định trong các năm qua, nhưng
Việt Nam đang phải đối mặt với vấn đề thiếu hụt các nguồn lực cần thiết dành cho


10


phát triển, đặc biệt trong việc triển khai các chính sách hỗ trợ và bảo đảm các quyền
của các nhóm yếu thế trong xã hội. Do thiếu hụt nguồn lực, tầm bao phủ của hệ thống
an sinh xã hội hiện nay còn khiêm tốn, nhất là đối với người nghèo và các nhóm dễ bị
tổn thương. Ở nhiều địa phương, cơ 12 sở vật chất của các ngành y tế, giáo dục, khoa
học, văn hóa, thơng tin, thể thao... cịn nhiều thiếu thốn, ảnh hưởng đến việc hưởng thụ
đầy đủ các quyền của người dân. Hơn nữa, Việt Nam còn gặp nhiều khó khăn trong
việc bảo đảm an sinh xã hội, đặc biệt là lĩnh vực y tế, giáo dục. Sự khác biệt giữa các
vùng, miền, giữa các nhóm dân cư về các chỉ số sức khỏe còn lớn và có xu hướng gia
tăng; tỷ số tử vong mẹ, tử vong trẻ em ở một số khu vực miền núi cao gấp 3-4 lần so
với khu vực đồng bằng, đô thị và gấp 2 lần so với mức trung bình tồn quốc; tỷ lệ suy
dinh dưỡng trẻ em vẫn cịn cao ở vùng Tây Bắc, Tây Nguyên… Giáo dục còn nhiều
tồn tại như sự bất bình đẳng trong tiếp cận giáo dục, khoảng cách về chất lượng giáo
dục giữa thành thị và nông thôn, vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc thiểu số, cần đẩy
mạnh cải cách giáo dục trong công tác giảng dạy và học tập, cải tiến thiết bị, cơ sở vật
chất, trường học… Giáo dục về quyền con người trong các cấp học chưa được đầu tư
thỏa đáng. Trong chương trình giáo dục phổ thơng, nội dung giảng dạy về quyền con
người nói chung và các quyền cụ thể còn sơ sài và chưa phù hợp với cấp học và độ
tuổi.
Thứ tư, sự phát triển của kinh tế thị trường kéo theo những vấn nạn xã hội đáng
lo ngại. Thất nghiệp gia tăng; sự phân hóa giàu nghèo giữa các tầng lớp dân cư và giữa
các vùng miền còn lớn; những tệ nạn xã hội như ma túy, mại dâm, tình trạng lây nhiễm
HIV/AIDS có chiều hướng lan rộng; tai nạn giao thông ngày càng tăng; môi trường
sống bị ô nhiễm... Phần lớn người nghèo là cư dân nông thôn và người dân tộc thiểu
số, thường cư trú ở những vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn về các điều kiện sản
xuất, phát triển kinh tế, giao thông, tiếp cận thị trường nên tỷ lệ giảm nghèo hiện nay
chưa bền vững. Một số hộ gia đình mặc dù đã thoát nghèo nhưng khả năng tái nghèo
rất cao do thiên tai, thời tiết, tai nạn lao động, giao thơng... Năng lực tài chính yếu kém

cùng với nguồn lực bảo trợ xã hội hạn chế khiến cho các hộ gia đình cận nghèo dễ bị
rơi trở lại cảnh nghèo đói. Bên cạnh đó, nghèo đơ thị đang nổi lên là một vấn đề đáng
lo ngại do dòng người di cư từ nông thôn ra các đô thị ngày một tăng.
Bên cạnh đó, những phong tục, tập quán và định kiến mang tính địa phương
vẫn cịn nặng nề tạo nên khoảng cách về giới, nhất là trong nhận thức. Tư tưởng trọng
nam hơn nữ; nạn ngược đãi phụ nữ, bạo lực trong gia đình vẫn tồn tại, nhất là ở những
nơi trình độ dân trí cịn thấp. Những vấn nạn này không chỉ ảnh hưởng đến từng người
dân trong việc hưởng thụ các quyền, đặc biệt là quyền sống và quyền của các nhóm dễ
bị tổn thương, mà cịn là thách thức đối với các cơ quan chính quyền trong việc xây

11


dựng và triển khai các chính sách nhằm cải thiện đời sống vật chất, tinh thần của người
dân.
Thứ năm, những biến động của mơi trường quốc tế đang có những tác động tiêu
cực tới Việt Nam. Nền kinh tế phát triển chưa bền vững, chịu nhiều ảnh hưởng bất lợi
từ mơi trường bên ngồi, đặc biệt là từ cuộc suy thối kinh tế tồn cầu. Những rủi ro
về biến đổi khí hậu, thiên tai, dịch bệnh ln tạo ra thách thức khơng nhỏ đối với Việt
Nam, trong đó đối tượng chịu tác động nặng nề nhất chính là các nhóm xã hội yếu thế,
đặc biệt là người nghèo.
2.3. Một số giải pháp cơ bản
Thứ nhất, tiếp tục kiện toàn hệ thống pháp luật trên nguyên tắc phát huy nhân tố
con người, bảo đảm thực hiện tốt hơn các quyền và tự do cơ bản của người dân, bảo
đảm hệ thống pháp luật quốc gia hài hòa và phù hợp với các chuẩn mực pháp luật quốc
tế. Đây sẽ là khuôn khổ pháp lý để thực hiện tốt các quyền con người về kinh tế, xã
hội, văn hóa cũng như dân sự, chính trị, đồng thời xử lý nghiêm minh hành vi vi phạm
quyền con người. Tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền công dân theo
Hiến pháp năm 2013, gắn quyền với nghĩa vụ, trách nhiệm công dân. Đại hội XIII
nhấn mạnh: “Tiếp tục cụ thể hóa, hồn thiện thể chế thực hành dân chủ..., bảo đảm tất

cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân”. Quyền lực của nhân dân trong điều kiện
thể chế Nhà nước pháp quyền XHCN không chỉ là làm chủ tập thể, mà trước tiên và cơ
bản là làm chủ bản thân. Cho nên, trong phương hướng tiếp tục xây dựng, hoàn thiện
nhà nước pháp quyền XHCN, không chỉ chú 14 trọng xây dựng, hoàn thiện thể chế
pháp quyền của Nhà nước, mà đồng thời phải chú ý đúng mức đến việc xây dựng,
hoàn thiện thể chế pháp quyền của con người, của công dân trong tổng thể các quan hệ
nền tảng và có tính bình đẳng với thể chế pháp quyền của Nhà nước. Thể chế Nhà
nước pháp quyền XHCN không chỉ thể hiện ở mục tiêu bảo đảm quyền lực của dân, do
dân, vì dân, mà cịn phải được thể chế hóa thành phương tiện, cơng cụ để đạt được
mục tiêu đó một cách hiệu lực, hiệu quả trong thực tế. Văn kiện xác định: “Đề cao vai
trò chủ thể, vị trí trung tâm của nhân dân trong chiến lược phát triển đất nước”. Bằng
cách tiếp cận dựa trên quyền của người dân như vậy, mới có thể đưa thực tế triển khai,
thực hiện cơng tác xây dựng, hồn thiện thể chế Nhà nước pháp quyền XHCN và thể
chế nền kinh tế thị trường định hướng XHCN nhằm bảo đảm quyền lực của nhân dân
một cách hiệu lực, hiệu quả trong thực tế.
Thứ hai, đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội nhằm nâng cao điều kiện, nguồn
lực phục vụ cơng tác xóa đói giảm nghèo, nâng cao chất lượng đời sống vật chất và
tinh thần cho người dân là một trong những ưu tiên hàng đầu của Nhà nước Việt Nam.

12


Trong đó, chú trọng các chính sách giảm nghèo bền vững, thu hẹp khoảng cách giữa
thành thị và nông thôn, vùng sâu, vùng xa; tăng cường đầu tư, phát triển kinh tế - xã
hội vùng dân tộc thiểu số. Việt Nam sẽ phát huy thành quả từ việc thực hiện các Mục
tiêu thiên niên kỷ, đẩy mạnh triển khai thực hiện các Mục tiêu phát triển bền vững.
Thực tế cho thấy, ở Việt Nam, khả năng tiếp cận với các loại hình an sinh xã hội là một
trong những yếu tố quan trọng nhất ảnh hưởng đến mức sống của người dân. việc giảm
thu nhập, lạm phát và bệnh tật là ba trong số các nguyên nhân chính làm giảm mức
sống của người dân. Do đó, an sinh xã hội là giải pháp bảo vệ cho người dân, đặc biệt

là người nghèo và nhóm các đối tượng dễ bị tổn thương như phụ nữ, trẻ em, người cao
tuổi, người khuyết tật. Trong thời gian tới, Đảng và Chính phủ cần tập trung các chính
sách để tăng khả năng tiếp cận của các nhóm yếu thế vào hệ thống an sinh xã hội, đặc
biệt chú trọng nghiên cứu phát triển loại hình bảo hiểm cho nhóm người lao động
trong lĩnh vực nông nghiệp.
Thứ ba, chất lượng giáo dục là yếu tố quan trọng hàng đầu nhằm bồi dưỡng thế
hệ trẻ và đào tạo lớp người lao động có kiến thức cơ bản, có kỹ năng nghề nghiệp, có ý
thức vươn lên về khoa học và công nghệ, xây dựng đội ngũ công nhân lành nghề, các
chuyên gia và nhà khoa học, nhà văn hóa, nhà kinh doanh, nhà quản lý … là nhân tố
quan trọng để hiện thực hóa khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc. Giáo
dục về quyền con người là hướng ưu tiên đặc biệt trong thời gian tới của Việt Nam,
nhằm nâng cao nhận thức của người dân và năng lực của các cơ quan thực thi pháp
luật trong việc bảo đảm ngày càng tốt hơn các quyền và tự do cơ bản của người dân,
theo quy định của pháp luật Việt Nam và các chuẩn mực quốc tế về quyền con người.
Thứ tư, chăm sóc sức khỏe cộng đồng, hướng đến một xã hội khỏe mạnh và
được tiếp cận với các dịch vụ chăm sóc sức khỏe đầy đủ cả về thể chất và tinh thần, là
một trong những hướng ưu tiên cao của Việt Nam. Nỗ lực của Đảng và Chính phủ Việt
Nam thời gian tới sẽ tập trung vào các vấn đề: Giảm tỉ lệ tử vong trẻ em, đặc biệt là ở
trẻ sơ sinh; tăng cường hiệu quả thực hiện các chương trình tiêm chủng mở rộng,
Chiến lược dinh dưỡng quốc gia, Chiến lược quốc gia về sức khỏe sinh sản, Chiến
lược quốc gia về phòng chống HIV/AIDS. Đồng thời, cần tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ
những quyền mới phát sinh trong bảo đảm quyền lực của nhân dân, như: quyền an
ninh, an tồn thơng tin mạng, quyền mua bán, kinh doanh trên nền tảng in-tơ-nét,
quyền giáo dục, sinh hoạt tôn giáo, văn hóa trực tuyến, quyền bí mật đời tư, quyền về
thân thể, danh dự, nhân phẩm của trẻ em, quyền của những người lao động di cư,...
Thứ năm, Việt Nam chủ trương tiếp tục tăng cường hợp tác với tất cả các quốc
gia, các cơ chế và tổ chức chun mơn của Liên Hợp Quốc có liên quan đến quyền con
người trên tinh thần bình đẳng, tơn trọng luật pháp quốc tế, chủ quyền quốc gia, không

13



can thiệp vào công việc nội bộ của nhau. Tăng cường hợp tác, đối thoại với các cơ chế
nhân quyền Liên Hợp Quốc, nhất là với Văn phòng Cao ủy Nhân quyền Liên Hợp
Quốc và các Thủ tục đặc biệt, trong đó có việc xem xét mời một số Thủ tục đặc biệt
vào thăm Việt Nam; thực hiện nghiêm túc các nghĩa vụ đối với các Công ước nhân
quyền quốc tế mà Việt Nam là thành viên; ủng hộ và tích cực tham gia q trình tham
vấn liên Chính phủ về việc tăng cường năng lực và hiệu quả hoạt động của các cơ
quan thực thi các Công ước quốc tế về nhân quyền, đồng thời tiếp tục xem xét việc
tham gia các Công ước quốc tế khác về quyền con người.
Việt Nam cũng chủ trương tăng cường hiệu quả các cơ chế đối thoại song
phương thường kỳ về quyền con người và hợp tác với các nước, các tổ chức trên lĩnh
vực nhân quyền nhằm trao đổi, chia sẻ kinh nghiệm bảo đảm ngày càng tốt hơn các
quyền con người; đồng thời cung cấp cho các nước, các tổ chức và cộng đồng quốc tế
nguồn thông tin đầy đủ, chính xác về tình hình bảo đảm quyền con người ở Việt Nam.
Giờ đây, khát vọng đặt ra từ Đại hội XIII của Đảng là dân tộc Việt Nam phải
bứt phá vươn lên, xây dựng, phát triển quốc gia thịnh vượng, nhằm thu hẹp khoảng
cách phát triển với các nước tiên tiến, sánh vai ngang hàng với các cường quốc trên thế
giới. Nguồn nhân lực là một trong những yếu tố quan trọng quyết định sự thành công
hay thất bại trong phát triển kinh tế - xã hội của quốc gia. Muốn phát huy nguồn lực
con người thì phải đề cao hơn nữa vai trò trung tâm của con người trong mọi quyết
sách. Khi đặt vấn đề khơi dậy khát vọng, làm sao để mỗi người trong xã hội, trong
cộng đồng có ý thức phát huy cao nhất khả năng của mình đóng góp cho sự phát triển
của đất nước, của dân tộc thì lúc đó bài tốn mà chúng ta thường đề cập đến như một
mệnh đề song song đó là quyền con người phải được đáp ứng tối đa. Tức là con người
phải được tham gia vào công việc quan trọng, được đóng góp vào sự nghiệp lớn lao
của đất nước và được hưởng thành quả một cách tương xứng và đầy đủ. Cho nên, có
thể khẳng định, để phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc thực chất là phát huy
nguồn lực sức mạnh con người thành sức mạnh tổng hợp quốc gia và tôn trọng những
giá trị của quyền con người.


14


PHẦN III: KẾT LUẬN
Quyền con người là giá trị phổ quát mà tất cả người dân các quốc gia đều mong
muốn quyền của mình được bảo đảm; quyền này được nêu trong hầu hết các điều ước
quốc tế. Ở Việt Nam, bảo đảm và thúc đẩy quyền con người, mà trước hết là quyền
dân tộc tự quyết - quyền được ghi nhận tại Điều 1 của Công ước về các quyền dân sự
chính trị (ICCPR), chính là mục tiêu và thành quả quá trình đấu tranh, hy sinh gian
khổ của nhiều thế hệ người dân Việt Nam. Đặc biệt, trong cơng cuộc đổi mới tồn diện
đất nước mà Việt Nam tiến hành suốt 35 năm qua, con người (nhân dân) ln được
Đảng, Nhà nước ta đặt ở vị trí trung tâm, coi đó vừa là mục tiêu, vừa là động lực của
sự phát triển.
Đối với nước ta từ cuộc cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân đến công cuộc
đổi mới ngày nay, đường lối nhất quán của Đảng là chăm lo cho con người, bảo vệ,
bảo đảm quyền con người, coi đó là vừa mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy phát triển,
thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; đó cũng là đặc trưng, nguyên tắc của Nhà nước
pháp quyền XHCN; là yêu cầu của quá trình hội nhập quốc tế.
Vấn đề quyền con người và bảo đảm quyền con người ở Việt Nam là một trong
những vấn đề trọng tâm, có ý nghĩa chiến lược của cách mạng Việt Nam, là nhiệm vụ
vừa mang tính cơ bản lâu dài, vừa mang tính cấp thiết của tồn Đảng, tồn dân, tồn
qn trong điều kiện tình hình thế giới, khu vực dự kiến cịn có những diễn biến khó
lường, nhất là những tác động tiêu cực của chủ nghĩa bảo hộ, cực đoan; tình hình thiên
tai, dịch bệnh; xung đột sắc tộc, tôn giáo; tranh chấp lãnh thổ... Đảm bảo thực hiện tốt
quyền con người ở Việt Nam cũng thể hiện bản chất ưu việt của chế độ XHCN mà
Đảng và nhân dân ta đang phấn đấu xây dựng nhằm thực hiện thắng lợi mục tiêu “dân
giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” đưa Việt Nam trở thành một đất
nước phồn vinh, hạnh phúc.


15


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh: Giáo trình Lý luận và pháp luật
về quyền con người (Dùng cho hệ đào tạo Cao cấp lý luận chính trị), Nxb Lý luận
chính trị, H.2021
2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ XIII,
Nxb Chính trị quốc gia, H.2021
3. Ban Chỉ đạo về nhân quyền của Chính phủ, Vãn phòng Thường trực: Tài liệu
tổng kết Chỉ thị sổ 12 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về vấn đề quyền con người và
quan điểm, chủ trương của Đảng ta, Nxb.Chính trị - Hành chính, H.2012
4. Bộ Ngoại giao: Thành tựu bảo vệ và phát triển quyền con người ở Việt Nam,
H.2017

16



×