MỤC LỤC
MỤC LỤC....................................................................................................................................1
1
LỜI MỞ ĐẦU
Chủ nghĩa tư bản là một hình thái kinh tế - xã hội phát triển cao của xã hội loài
người, xuất hiện đầu tiên tại châu Âu và phát triển từ trong lòng xã hội phong kiến
châu Âu. Sau cách mạng Pháp cuối thế kỷ VIII hình thái chính trị của nhà nước tư bản
chủ nghĩa dần dần chiếm ưu thế hoàn toàn tại châu Âu và loại bỏ dần hình thái nhà
nước của chế độ phong kiến, q tộc. Và sau này hình thái chính trị - kinh tế - xã hội tư
bản chủ nghĩa lan ra khắp châu Âu và thế giới.
Sự phát triển của chủ nghĩa tư bản trải qua ba giai đoạn, đầu tiên là giai đoạn
chủ nghĩa tư bản cạnh tranh tự do. Tiếp theo sau giai đoạn cạnh tranh tự do, chủ nghĩa
tư bản phát triển lên đến giai đoạn cao hơn đó là chủ nghĩa tư bản độc quyền và sau đó
là chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước. Giai đoạn độc quyền là sự kế tục trực tiếp giai
đoạn tự do cạnh tranh trong cùng một phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Đây là
những nấc thang mới trong quá trình phát triển và điều chỉnh của chủ nghĩa tư bản về
cả lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất để thích ứng với những biến động trong tình
hình thế giới từ cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX cho đến nay.
2
I. Tìm hiểu sự hình thành của tư bản tài chính.
1. Các nấc thang phát triển của CNTB.
CNTB là một hình thái kinh tế - xã hội phát triển cao của xã hội loài người, xuất
hiện đầu tiên tại châu Âu phơi thai và phát triển từ trong lịng xã hội phong kiến châu
Âu và chính thức được xác lập như một hình thái xã hội tại Anh và Hà Lan ở thế kỷ
thứ 18. Sau cách mạng Pháp cuối thế kỷ 18 hình thái chính trị của nhà nước tư bản chủ
nghĩa dần dần chiếm ưu thế hoàn toàn tại châu Âu và loại bỏ dần hình thái nhà nước
của chế độ phong kiến, quý tộc. Và sau này hình thái chính trị - kinh tế - xã hội tư bản
chủ nghĩa lan ra khắp châu Âu và thế giới.
Trong hình thái kinh tế tư bản chủ nghĩa các cá nhân dùng sở hữu tư nhân để tự
do kinh doanh bằng hình thức các cơng ty tư nhân để thu lợi nhuận thông qua cạnh
tranh trong các điều kiện của thị trường tự do, mọi sự phân chia của cải đều thơng qua
q trình mua bán của các thành phần tham gia vào quá trình kinh tế,
CNTB phát triển qua hai giai đoạn: CNTB tự do cạnh tranh và CNTB độc quyền
mà nấc thang tột cùng của nó là CNTB độc quyền nhà nước.Trong suốt quá trình phát
triển, CNTB cũng có những mặttích cực đối với phát triển sản xuất: - Sự ra đời của
CNTB đã giải phóng lồi người khỏi xã hội phong kiến, đoạn tuyệt với nền kinh tế tự
nhiên,tự túc, tự cấp chuyển sang phát triển kinh tế hàng hóa tư bản chủ nghĩa,chuyển
sản xuất nhỏ thành sản xuất lớn hiện đại. Dưới tác động của quy luật giá trị thặng dư
và các quy luật kinh tế của sản xuất hàng hóa, CNTB đã làm tăng năng suất lao động,
tạo ra khối lượng của cải khổng lồ hơnnhiều xã hội trước cộng lại.
- Phát triển lực lượng sản xuất.
Quá trình phát triển của CNTB đã làm cho lực lượng sản xuất phát triển mạnh mẽ
với trình độ kỹ thuật và công nghệ ngày càng cao: từ kỹ thuật thủ cơng lên kỹ thuật cơ
khí, sang tự động hóa, tin học hóa và cơngnghệ hiện đại. Cùng với sự phát triển của kỹ
thuật vầ công nghệ là q trình giải phóng sức lao động, nâng cao hiệu quả khám phá và
chinh phục thiên nhiên của con người.
- Thực hiện xã hội hóa sản xuất.
3
CNTB đã thúc đẩy nền sản xuất hàng hóa phát triển mạnh và đạt tới mức điển
hình nhất trong lịch sử, cùng với nó là q trình xã hội hóa sản xuất cả về chiều rộng
và chiều sâu. Đó là sự phát triển của phân công laođộng xã hội, sản xuất tập trung với
quy mơ hợp lý, chun mơn hóa sản xuấtvà hợp tác lao động sâu sắc, mối liên hệ kinh
tế giữa các đơn vị, các ngành,các lĩnh vực ngày càng chặt chẽ... làm cho các quá trình
sản xuất phân tán được liên kết với nhau và phụ thuộc lẫn nhau thành một hệ thống,
thành mộtquá trình sản xuất xã hội. - CNTB thông qua cuộc cách mạng công nghiệp,
lần đầu tiêntổ chức lao động theo kiểu công xưởng, đó đó xây dựng được tác
phongcơng nghiệp cho người lao động, làm thay đổi nề nếp thói quen của ngườilao
động sản xuất nhỏ trong xã hội phong kiến. - CNTB lần đầu tiên trong lịch sử thiết lập
nên nền dân chủ tư sản, tiến bộ hơn rất nhiều so với thể chế chính trị phong kiến.
Những hạn chế:
Bên cạnh mặt tích cực nói trên, trong q trình phát triển, CNTB cũng có những
hạn chế về lịch sử: - Lịch sử ra đời của CNTB gắn với q trình tích lũy nguyên thủy
nên ngay từ đầu đã thể hiện bản chất bóc lột và chiếm đoạt những người sản xuất nhỏ
và nông dân tự do.
- Cơ sở cho sự tồn tại và phát triển của CNTB là quan hệ bóc lột, do đó tất yếu
làm cho bất bình đẳng, phân hóa xã hội ngày càng gay gắt.
- Các cuộc chiến tranh đế quốc tranh giành thị trường dẫn đến những hậu quả
nặng nề cho sự phát triển của xã hội loài người.
- CNTB phải chịu trách nhiệm chính trong việc tạo ra hố sâu ngăn cách giữa các
nước giàu, nghèo trên thế giới.
- Trong xã hội tư bản ngày nay, sự bất bình đẳng và các tệ nạn xã hội vẫn tồn tại
một cách phổ biến: sự suy đồi về xã hội, văn hoá và đạo đức ngày càng trầm trọng.
Cơ chế vận hành
Kinh tế thị trường TBCN là nền kinh tế tự do theo chế độ cung cầu không phải
chịu sự chi phối của chính phủ. Điển hình của nền kinh tế này là Anh, Pháp... . Kinh tế
thị trường tư bản chủ nghĩa là nền kinh tế mà trong đó người mua và người bán tác
động với nhau theo quy luật cung cầu, giá trị để xác định giá cả và số lượng hàng hoá,
dịch vụ trên thị trường. Trong nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa, nếu lượng cầu
hàng hóa cao hơn lượng cung, thì giá cả hàng hóa sẽ tăng lên, mức lợi nhuận cũng tăng
4
khuyến khích người sản xuất tăng lượng cung. Người sản xuất nào có cơ chế sản xuất
hiệu quả hơn, thì cũng có tỷ suất lợi nhuận cao hơn cho phép tăng quy mơ sản xuất, và
do đó các nguồn lực sản xuất sẽ chảy về phía những người sản xuất hiệu quả. Những
người sản xuất có cơ chế sản xuất kém hiệu quả sẽ có tỷ suất lợi nhuận thấp, khả năng
mua nguồn lực sản xuất thấp, sức cạnh tranh kém sẽ bị đào thải. Cơ chế phân bổ nguồn
lực trong nền kinh tế thị trường TBCN có thể dẫn tới bất bình đẳng. Đấy là chưa kể vấn
đề thơng tin khơng hồn hảo có thể dẫn tới việc phân bổ nguồn lực không hiệu quả. Do
một số nguyên nhân, giá cả có thể khơng linh hoạt trong các khoảng thời gian ngắn hạn
khiến cho việc điều chỉnh cung cầu không suôn sẻ, dẫn tới khoảng cách giữa tổng cung
và tổng cầu. Đây là nguyên nhân của các hiện tượng thất nghiệp, lạm phát. Trong thực
tế hiện nay, khơng có một nền kinh tế thị trường hoàn hảo, cũng như khơng có nền kinh
tế kế hoạch hóa tập trung hồn toàn (trừ nền kinh tế Bắc Triều Tiên). Thay vào đó là
nền kinh tế hỗn hợp. Tùy ở mỗi nước mà các yếu tố thị trường nhiều hay ít. Trong
thương mại quốc tế, mức độ thị trường hóa nền kinh tế có thể được sử dụng làm tiêu
chí trong xác định điều kiện thương mại của mỗi nước.
2. Tư bản tài chính.
Tư bản tài chính là một loại tư bản được hình thành trên cơ sở sự xâm nhập lẫn
nhau giữa tư bản công nghiệp và tư bản ngân hàng. Tư bản ngân hàng vớI vai trò và địa
vị mớI của mình, đã cử ngườI tham gia vào các tổ chức độc quyền công nghiệp để theo
dõi việc sử dụng vốn vay. Để hạn chế sự chi phốI của ngân hàng, các nhà tư bản công
nghiệp cũng can thiệp vào họat động của tư bản ngân hàng bằng cách mua cổ phiếu
hoặc thành lập ngân hàng cho riêng mình. 2 quá trình thâm nhập ấy gắn kết vớI nhau,
làm cho tư bản công nghiệp và tư bản ngân hàng dần trở nên đồng nhất vớI nhau, hình
thành nên tư bản tài chính. Các nhóm tư bản tài chính có tiềm lực đủ mạnh trở thành
các đầu sỏ tài chính ( hay còn gọi là tài phiệt ), thực hiện thao túng đời sống kinh têchính trị
ở các nước tư bản.
Sự tích tụ sản xuất trong cơng nghiệp dẫn đến hình thành các tổ chức độc quyền
trong công nghiệp Vào cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX , quá trình tích tụ và tập
trung sản xuất diễn ra cực kỳ nhanh chóng trong ngành cơng nghiệp . Những năm đầu
thế kỷ 20 ở Mỹ , Anh , Đức , Pháp các xí nghiệp lớn chiếm 1 % tổng số xí nghiệp
5
nhưng chiếm hơn % tổng số sức hơi nước và điện lực , gần 1/2 số công nhân và %
tổng sản phẩm .
Sự tích tụ và tập trung sản xuất đến mức cao như vậy đã trực tiếp dẫn đến hinh
thành các tổ chức độc quyền , Bởi vì , một mặt , do có một số ít các xí nghiệp lớn nên
có thể dễ dảng thoả thuận với nhau , mặt khác , các xí nghiệp có quy mơ lớn , kỹ thuật
cao nên cạnh tranh sẽ rất gay gắt , quyết liệt , khó đánh bại nhau , do đó đã dẫn đến
khuynh hưởng thoả hiệp với nhau để nắm độc quyền . Tổ chức độc quyền là tổ chức
liên minh giữa các nhã tư bản lớn để tập trung vảo trong tay phần lớn việc sản xuất và
tiêu thụ một số loại hàng hố nào đó nhằm mục đích thu được lợi nhuận độc quyền cao
. Khi mới bắt đầu q trình độc quyền hố , các liên minh độc quyền hình thành theo
liên kết ngang , nghĩa là mới chỉ liên kết những doanh nghiệp trong cùng một ngành ,
nhưng về sau theo mối liên hệ dây chuyển , các tổ chức độc quyền đã phát triển theo
liên kết dọc , mở rộng ra nhiều ngảnh khác nhau . Với những ưu thế và quyền lực này ,
các tổ chức độc quyền có thể loại trừ đối thủ cạnh tranh , độc quyền quy định giá và
thu được lợi nhuận độc quyền cao .
Lênin nói “ Cạn biển thành độc quyền , kết quả là xã hội hóa của sản xuất có
một bước tiến lớn lao . Tập trung sản xuất diễn ra với tốc độ cao và trên qui mô lớn đã
đần thẳng tới độc quyền , đây là quy luật phổ biến và căn bản của CNTB vào thời kỳ
này "
Sự tích tụ sản xuất và độc quyền hố trong cơng nghiệp dẫn đến tích tụ tư bản
và độc quyền hố trong lĩnh vực ngân hàng
Cũng vào cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX , trong ngành ngân hàng cũng không
ngừng diễn ra q trình tích tụ và tập trung tự bản tiền tệ . Biểu hiện ở chỗ : số các
ngân hàng độc lập giảm xuống , số chi nhánh và số tiền gửi vào các ngân hàng 2 lớn
tăng nhanh .
Nguyên nhân : do ảnh hưởng của tích tụ và tập trung sản xuất trong công
nghiệp và do tác động của q trình cạnh tranh trong ngân hàng từ đó hình thành nên
các ngân hàng khổng lồ . Trên cơ sở các ngân hàng khổng lồ , các tổ chức độc quyền
trong ngân hàng ra đời và ngân hàng có vai trò mới , Vai trò mới của ngân hàng được
thể hiện ở sự khống chế của tư bản độc quyền ngân hàng đối với tư bản độc quyền
công nghiệp và phản ứng của các tư bản độc quyền công nghiệp muốn thoát ra khỏi sự
6
phụ thuộc vào tư bản độc quyền ngân hàng đã dẫn đến sự thâm nhập và hòa quện vào
nhau giữa tư bản độc quyền công nghiệp và tư bản độc quyền ngân hàng
Sự dung hợp giữa tư bản độc quyền trong ngân hàng và tư bản độc quyền trong
công nghiệp dẫn đến hình thành TBTC. Sự xuất hiện , phát triển của các độc quyền
trong ngân hàng đã làm thay đổi quan hệ giữa tư bản ngân hàng và tư bản cơng
nghiệp , làm cho ngân hàng bắt đầu có vai trò mới , Ngân hàng từ chỗ chỉ là kẻ trung
gian trong việc thanh tốn và tín dụng , nay đã nắm được hầu hết tự bản tiền tệ của xã
hội nên có quyền lực vạn năng , khống chế mọi hoạt động của nền kinh tế xã hội tư
bản . Dựa trên địa vị người chủ cho vay , độc quyền ngân hàng cử đại diện của nó vào
các cơ quan quản lý của độc quyền công nghiệp để theo dõi việc sử dụng tiền vay ,
hoặc các tổ chức độc quyền ngân hàng côn trực tiếp đầu tư vào công nghiệp . Trước sự
khống chế và chi phối ngày càng xiết chặt của ngân hàng , một quá trình xâm nhập
tương ứng trở lại của các độc quyền công nghiệp vào ngân hàng cũng diễn ra . Các tổ
chức độc quyền công nghiệp cũng tham gia vào công việc của ngân hàng bằng cách
mua cổ phần của ngân hàng lớn để chi phối hoạt động của ngân hàng , hoặc lập ngân
hàng riêng phục vụ cho minh . Q trình độc quyển hố trong cơng nghiệp và trong
ngân hàng xoắn xuýt với nhau và thúc đẩy lẫn nhau làm nảy sinh một thử tư bản mới ,
gọi là tư bản tài chính , V.I. Lênin nói : " tự bản tài chính là kết quả của sự hợp nhất
giữa tư bản ngân hàng của một số ít ngân hàng độc quyền lớn nhất , với tư bản của
những liên minh độc quyền các nhà công nghiệp " 1 . Sự phát triển của tư bản tài chính
dẫn đến sự hình thành một nhóm nhỏ độc quyển chi phối tồn bộ đời sống kinh tế và
chính trị của toàn xã hội tư bản gọi là bọn đầu sỏ tài chính .
Bọn đầu sỏ tài chính thiết lập sự thống trị của mình thơng qua chế độ tham dự .
Thực chất của chế độ tham dự là một nhà tài chính lớn , hoặc một tập đồn tài chính
nhờ có số cổ phiếu khống chế mà năm được một công ty lớn nhất với tư cách là công
ty gốc ( hay là " công ty mẹ " ) ; công ty này lại mua được cổ phiếu khống chế , thống
trị được công ty khác , gọi là " công ty con " ; " công ty con " đến lượt nó lại chi phối
các cơng ty cháu " cũng bằng cách như thế ... Nhờ có chế độ tham dự và phương pháp
tổ chức tập đoàn theo kiểu móc xích như vậy , bằng một lượng tư bản đầu tư nhỏ , các
nhà tư bản độc quyền tải chính có thể khống chế và điều tiết được một lượng tư bản
7
lớn gấp nhiều lần . Ngoài " chế độ tham dự " , bọn đầu sỏ tài chính cịn sử dụng những
thủ đoạn như lập công ty mới , phát hành trái khoản , kinh doanh công trái , đầu cơ
chứng khoán ở Sở giao dịch , đầu cơ ruộng đất ... để thu được lợi nhuận độc quyền cao
. Thống trị về kinh tế là cơ sở để bọn đầu sỏ tài chính thống trị về chính trị và các mặt
khác . Về mặt chính trị , bọn đầu sỏ tài chính chi phối mọi hoạt động của các cơ quan
nhà nước , biển nhà nước tư sản thành cơng cụ phục vụ lợi ích cho chúng . Sự thống trị
của bọn tài phiệt đã làm nảy sinh chủ nghĩa phát xít , chủ nghĩa quân phiệt và nhiều
thứ chủ nghĩa phản động khác , cũng chạy đua vũ trang gây chiến tranh xâm lược để
áp bức , bóc lột các nước đang phát triển và chậm phát triển.
Sự tập trung sản xuất và sự thống trị của các tổ chức độc quyền
Tích tụ và tập trung sản xuất cao dẫn đến hình thành các tổ chức độc quyền.
Tổ chức độc quyền là liên minh giữa những nhà tư bản lớn để tập trung vào trong
tay một phần lớn (thậm chí tồn bộ) sản phẩm của một ngành, cho phép liên minh này
phát huy ảnh hưởng quyết định đến q trình sản xuất và lưu thơng của ngành đó.
Tư bản tài chính
Tích tụ, tập trung tư bản trong ngân hàng dẫn đến sự hình thành các tổ chức độc
quyền trong ngân hàng. Từ chỗ làm trung gian trong việc thanh tốn và tín dụng, nay
do nắm được phần lớn tư bản tiền tệ trong xã hội, ngân hàng đã trở thành người có
quyền lực vạn năng chi phối các hoạt động kinh tế - xã hội.
Các tổ chức độc quyền ngân hàng cho các tổ chức độc quyền công nghiệp vay và
nhận gửi những số tiền lớn của các tổ chức độc quyền công nghiệp trong một thời gian
dài, nên lợi ích của chúng xoắn xuýt với nhau, hai bên đều quan tâm đến hoạt động của
nhau, tìm cách thâm nhập vào nhau.
Từ đó hình thành một loại tư bản mới gọi là tư bản tài chính. Tư bản tài chính là
sự thâm nhập và dung hợp vào nhau giữa tư bản độc quyền ngân hàng và tư bản độc
quyền trong cơng nghiệp.
Xuất khẩu tư bản
Xuất khẩu hàng hóa là mang hàng hóa ra nước ngồi để thực hiện giá trị và giá
trị thặng dư, còn xuất khẩu tư bản là xuất khẩu giá trị ra nước ngoài (đầu tư tư bản ra
nước ngồi) nhằm mục đích chiếm đoạt giá trị thặng dư ở các nước nhập khẩu tư bản
đó.
8
Xét về hình thức đầu tư, có thể phân chia xuất khẩu tư bản thành xuất khẩu tư
bản trực tiếp và xuất khẩu tư bản gián tiếp. Xuất khẩu tư bản trực tiếp là đưa tư bản ra
nước ngoài để trực tiếp kinh doanh thu lợi nhuận cao. Xuất khẩu tư bản gián tiếp là
cho vay để thu lợi tức.
Sự phân chia thế giới về mặt kinh tế giữa các liên minh độc quyền quốc tế
Việc xuất khẩu tư bản tăng lên về quy mô và mở rộng phạm vi tất yếu dẫn đến
việc phân chia thế giới về mặt kinh tế, nghĩa là phân chia lĩnh vực đầu tư tư bản, phân
chia thị trường thế giới giữa các tổ chức độc quyền. Cuộc đấu tranh giành thị trường
tiêu thụ, nguồn nguyên liệu và lĩnh vực đầu tư có lợi nhuận cao ở nước ngoài trở nên
gay gắt.
Những cuộc đụng đầu trên trường quốc tế giữa các tổ chức độc quyền có sức
mạnh kinh tế hùng hậu dẫn đến các cuộc cạnh tranh khốc liệt giữa chúng, tất yếu dẫn
đến xu hướng thoả hiệp, ký kết hiệp định để củng cố địa vị độc quyền của chúng trong
những lĩnh vực và những thị trường nhất định. Từ đó hình thành các liên minh độc
quyền quốc tế, các tập đoàn xuyên quốc gia…
Sự phân chia thế giới về mặt lãnh thổ giữa các cường quốc đế quốc
Chủ nghĩa đế quốc là một đặc trưng của chủ nghĩa tư bản độc quyền biểu hiện
trong đường lối xâm lược nước ngoài, biến những nước này thành hệ thống thuộc địa
của các cường quốc nhằm đáp ứng yêu cầu thu siêu lợi nhuận độc quyền của tư bản
độc quyền.
Khi đầu tư ra nước ngoài, đặc biệt là ở các nước thuộc địa và phụ thuộc, tư bản
độc quyền không chỉ thu được lợi nhuận độc quyền không thôi mà là "siêu lợi nhuận
độc quyền" do có những điều kiện thuận lợi mà tại chính quốc khơng có được như
nguồn ngun liệu dồi rào giá rẻ hoặc lấy khơng, giá nhân cơng rẻ mạt…
Do đó luôn diễn ra sự cạnh tranh khốc liệt giữa các tổ chức độc quyền thuộc các
quốc gia khác nhau. Điều này địi hỏi có sự can thiệp của nhà nước nhằm giúp cho các
tổ chức độc quyền của nước mình giành giật thị trường và môi trường đầu tư nhằm thu
được siêu lợi nhuận độc quyền ở ngoại quốc.
Sự can thiệp đó của nhà nước đã biến nó thành một nước đế quốc chủ nghĩa. Như
vậy, chủ nghĩa đế quốc là sự kết hợp giữa yêu cầu vươn ra và thống trị ở nước ngoài
của tư bản độc quyền với đường lối xâm lăng của nhà nước.
9
Trong quá trình này, các tổ chức ĐQ ngân hàng ra đời, “trở thành những tổ chức
độc quyền vạn năng, sử dụng được hầu hết tổng số TB tiền tệ của toàn thể các nhà TB
và tiểu chủ, cũng như phần lớn những TLSX và những nguồn nguyên liệu của một
nước nhất định hay của cả một loạt nước Xí nghiệp công nghiệp lớn Cần nguồn vốn
lớn Phá sản, chấm dứt hoạt động Xác nhập vào ngân hàng khác Ngày một lớn mạnh
hơn Độc quyền ngân hàng Không đáp ứng nổi Đáp ứng nổi
Độc quyền ngân hàng là những hình thức tổ chức liên minh của các TB ngân
hàng nhằm chi phối các hoạt động tài chính, tín dụng, ngân hàng để thu lợi nhuận độc
quyền cao.
Sự hình thành các tổ chức ĐQ ngân hàng gắn liền với vai trò mới của ngân hàng.
Vai trò của ngân hàng Vai trò cũ Vai trị mới Trung gian trong thanh tốn và tín dụng
Thâm nhập vào các tổ chức ĐQCN để giám sát Trực tiếp đầu tư vào công nghiệp Các
tổ chức ĐQ công nghiệp Mua cổ phần để chi phối Tự lập ngân hàng Cử người vào
quản lí vốn của mình Tư bản tài chính “Sự tập trung sản xuất, các tổ chức độc quyền
sinh ra từ sự tập trung đó; sự hợp nhất hay sự hoà vào nhau giữa ngân hàng và cơng
nghiệp – đó là lịch sử phát sinh của tư bản tài chính và là nội dung của khái niệm tư
bản tài chính”
Phạm vi liên kết và xâm nhập vào nhau giữa tư bản ngân hàng và công nghiệp
được mở rộng ra nhiều ngành, hình thành các tập đồn tư bản tài chính dưới các hình
thức một tổ hợp theo kiểu cơng – nơng – thương - tín - dịch vụ hay công nghiệp quân
sự - dịch vụ quốc phòng... Nội dung liên kết đa dạng, phức tạp hơn. • Cơ chế thống trị
của tư bản tài chính: Phát hành nhiều cổ phiếu mệnh giá nhỏ để nhiều người có thể
mua được. • Cùng với “chế độ tham dự” là “chế độ uỷ nhiệm”. Quyền hành ngày càng
tập trung vào những đại cổ đơng.
*Bản chất:
TB tài chính là sự dung hợp hay thâm nhập lẫn nhau giữa các tổ chức độc quyền
công nghiệp và tổ chức độc quyền ngân hàng Do nắm được cả TBCN và TB tiền tệ,
TB tài chính có thể thống trị từ một ngành đến nhiều ngành và cuối cùng là toàn bộ
nền KT QDân. Nó xác lập được sự thống trị và chế độ độc quyền vững chắc hơn, bộc
lộ đủ bản chất hơn. TB tài chính ra đời là do tư bản sở hữu và tư bản chức năng tách
10
rời cao độ. Sự tách rời này là cơ sở cho việc ra đời các loại chứng khoán mới và mở
rộng thị trường cho khơng chỉ dẫn đến sự hình thành .
II. Vai trị của tư bản tài chính đối với sự phát triển của CNTB
- Phát triển lực lượng sản xuất.
Quá trình phát triển của chủ nghĩa tư bản đã làm cho lực lượng sản xuất phát
triển mạnh mẽ với trình độ kỹ thuật và cơng nghệ ngày càng cao: từ kỹ thuật thủ cơng
lên kỹ thuật cơ khí (thời kỳ của C.Mác va V.I.Lênin) và ngày nay các nước tư bản chủ
nghĩa cũng đang là những quốc gia đi đầu trong việc chuyển nền sản xuất của nhân
loại từ giai đoạn cơ khí hóa sang giai đoạn tự động hóa, tin học hóa và cơng nghệ hiện
đại. Cùng với sự phát triển của kỹ thuật và công nghệ là q trình giải phóng sức lao
động, nâng cao hiệu quả khám phá và chinh phục thiên nhiên của con người, đưa nền
kinh tế của nhân loại bước vào một thời đại mới: thời đại của kinh tế tri thức.
- Thực hiện xã hội hóa sản xuất
Chủ nghĩa tư bản đã thúc đẩy nền sản xuất hàng hóa phát triển mạnh và đạt tới
mức điển hình nhất trong lịch sử, cùng với nó là q trình xã hội hóa sản xuất cả chiều
rộng và chiều sâu. Đó là sự phát trển của phân công lao động xã hội, sản xuất tập trung
với quy mơ hợp lý, chun mơn hóa sản xuất và hợp tác lao động sâu sắc, mối liên hệ
kinh tế giữa các đơn vị, các ngành, các lĩnh vực ngày càng chặt chẽ,... làm cho các quá
trình sản xuất phân tán được liên kết với nhau và phụ thuộc lẫn nhau thành một hệ
thống, thành một quá trình sản xuất xã hội.
Chủ nghĩa tư bản thông qua cuộc cách mạng công nghiệp đã lần đầu tiên biết tổ
chức lao động theo kiểu cơng xưởng, do đó đã xây dựng được tác phong công nghiệp
cho người lao động, làm thay đổi nền nếp, thói quen của người lao động sản xuất nhỏ
trong xã hội phong kiến.
Chủ nghĩa tư bản lần đầu tiên trong lịch sử đã thiết lập nên nền dân chủ tư sản,
nền dân chủ này tuy chưa phải là hồn hào, song so với thể chế chính trị trong các xã
hội phong kiến, nô lệ, vẫn tiến bộ hơn rất nhiều bởi vì nó được xây dựng trên cơ sở
thừa nhận quyền tự đo thân thể của cá nhân.
Tóm lại, chủ nghĩa tư bản ngày nay với những thành tựu và đóng góp của nó đối
với sự phát triển của nền sản xuất xã hội, là sự chuẩn bị tốt nhất những điều kiện, tiền
11
đề cho sự ra đời của chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới. Nhưng bước chuyển
từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội vẫn phải thông qua các cuộc cách mạng xã
hội. Dĩ nhiên, cuộc cách mạng xã hội sẽ diễn ra bằng phương pháp nào - hịa bình hay
bạo lực, điều đó hồn tồn tùy thuộc vào những hoàn cảnh lịch sử cụ thể của từng
nước và bối cảnh quốc tế chung từng thời điểm, vào sự lựa chọn của các lực lượng
cách mạng.
Cùng với q trình tích tụ và tập trung sản xt trong cơng nghiệp thì cũng diễn
ra q trình tích tụ và tập trung tư bản trong Ngân hàng dẫn đến hình thành các tổ chức
độc quyền ngân hàng.Theo quan điểm của Lênin “Tư bản tài chính là sự dung hợp hay
thâm nhập lẫn nhau giữa các tổ chức độc quyền công nghiệp và tổ chức độc quyền
ngân hàng”
Do sự phát triển mạnh mẽ của cuộc cách mạng KHKT, trong nền kinh tế TBCN
đã xuất hiện nhiều ngành kinh tế mới, đặc biệt là các ngành như dịch vụ, bảo hiểm…
ngày càng chiếm tỷ trọng lớn. Vì vậy, thích ứng với sự biến đổi, hình thức thức tổ chức
và cơ chế thống trị của TB tài chính đã thay đổi. Sự thay đổi diễn ra ngay trong quá
trình liên kết và xâm nhập vào nhau giữa tư bản ngân hàng và tư bản. Ngày nay, phạm
vi liên kết và xâm nhập vào nhau được mở rộng ra nhiều ngành, do đó các tập đồn tư
bản tài chính thường tồn tại dưới hình thức một tổ hợp đa dạng kiểu cơng – nơng –
thương – tín - dịch vụ hay cơng nghiệp quân sự, dịch vụ quốc phòng.
Nội dung của sự liên kết cũng đa dạng hơn, tinh vi hơn và phức tạp hơn. TB tài
chính mở rộng thị trường chứng khốn và tham gia vào việc đẩy mạnh hoạt động trong
các sở giao dịch trên thị trường trong và ngoài nước. Vai trị kinh tế và chính trị của tư
bản tài chính ngày càng tăng khơng chỉ trong khn khổ quốc gia mà còn ảnh hưởng
mạnh mẽ đến các nước khác trên thế giới.
Cơ chế thị trường của tư bản tài chính cũng thay đổi, cổ phiếu có mệnh giá nhỏ
được phát hành rộng rãi. Khối lượng cổ phiếu tăng lên, nhiều tầng lớp dân cư mua cổ
phiếu, kéo theo đó là chế độ tham dự được bổ sung bằng chế độ ủy nhiệm, nghĩa là
những đại cổ đông được ủy nhiệm thay mặt cho đa số cổ đơng ít cổ phiếu quyết định
phương hướng hoạt động của công ty cổ phần.
Nội dung của sự liên kết cũng đa dạng hơn, tinh vi hơn. Ví dụ ngân hàng cho
cơng nghiệp vay vốn và đảm bảo tín dụng cho kinh doanh, lợi cùng hưởng, rủi ro, thua
12
lỗ cùng chịu. Hoặc ngân hàng mua sắm các phương tiện sản xuất hiện đại, đắt tiền rồi
các doanh nghiệp thuê. Vì ngày nay, do tác động của cuộc cách mạng khoa học kỹ
thuật nên các tài sản cố định cũng như trang thiết bị lỗi thời rất nhanh, việc đi th
phương tiện sẽ khơng phải lo đối phó với tình trạng hao mịn vơ hình của tài sản cố
định đồng thời tiết kiệm được chi phí đầu tư mua sắm khi gia nhập một ngành sản xuất
mới.
Để vươn ra địa bàn thế giới và thích ứng với q trình quốc tế hố đời sống kinh
tế, các tập đồn TB tài chính đã thành lập các ngân hàng đa quốc gia và xuyên quốc
gia, thực hiện việc điều tiết các Consơn và Côngơlômêrết, xâm nhập vào nền kinh tế
của các quốc gia khác. Sự ra đời của các trung tâm tài chính của thế giới như: Nhật
Bản, Mỹ, Đức, Hồng Kông, Xingapo… là kết quả hoạt động của các tập đồn tài chính
quốc tế. Dù biển hiện dưới hình thức nào, cơ chế thống trị có sự thay đổi ra sao, thì
bản chất của tư bản tài chính cũng khơng thay đổi.
Do sự phát triển mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ , trong
nền kinh tế tư bản chủ nghĩa đã xuất hiện nhiều ngành kinh tế mới , đặc biệt là các
ngành thuộc " phần mểm " như dịch vụ , bảo hiểm ... ngày càng chiếm tỷ trọng lớn .
Thích ứng với sự biến đổi đỏ , hình thức tổ chức , hình thức ở hữu vả cơ chế thống trị
của tự bản tài chính đã thay đổi.
Sở hữu của tư bản tài chính
Tư bản tài chính theo Lênin “ là sự hợp nhất hay sự hịa hợp vào nhau giữa Ngân
hàng và cơng nghiệp - đó là lịch sử phát sinh của tư bản tài chính và là nội dung của
khái niệm tư bản tài chính " . Đây là hình thức sở hữu hỗn hợp tư bản ngân hàng và tư
bản công nghiệp do q trình tích tụ và tập trung sản xuất đưa tới , ngày này tư bản tài
chính đã có sự thay đổi và là những thay đổi về mặt cơ cấu , giá trị . cách thức huy
động vốn và ngày càng mang tỉnh quốc tế hóa cao . Trước sự phát triển mạnh mẽ của
cách mạng KHKT - CN , để chiếm lĩnh các kỹ thuật mũi nhọn và xác lập vị trí độc
quyển bằng kỹ thuật các tập đồn cần phải có lượng vốn cực kỳ lớn , do đó việc huy
động vốn phải bằng nhiều hình thức
Trước nhất , đó là hình thức sáp nhập giữa các xí nghiệp độc quyền , hình thức
nảy ngày nay đã mang tính tồn cầu và ngày càng trở thành phương thức đầu tư chủ
13
Như vậy , việc phát hành cổ phiếu giá trị nhỏ , chế độ ủy nhiệm , sự đan xen
thâm nhập vào nhau của tư bản tài chính đã làm cho số cổ đông tăng lên , lượng chu
chuyển ốc phiếu tăng theo . Sự dịch chuyển quyền sở hữu cổ phiếu diễn ra liên tục ,
tinh xã hội hóa của tư bản ngày càng mở rộng . Nhưng sự chênh lệch về quyền sở hữu
cổ phiếu do sự khác nhau về loại cổ phiếu gây ra khiến cho đông đảo các cổ đơng nhỏ
nắm được tình hình sản xuất tiêu thụ và đầu tư của XN , quyền kiểm sốt cổ phiếu vẫn
thuộc về các cổ đơng có lượng cổ phiếu đủ lớn . Sự đan xen vảo nhau giữa các ngân
hàng và các tổ chức tài chính thơng qua sự đan xem cổ phần làm cho bất kỳ một cổ
đơng độc lập nào cũng khơng thể có được sổ cổ phần có ý nghĩa quyết định đối với
XN độc quyền , quyền lực bị dàn đều , từ đó chế độ sở hữu kiểu mắt lưới liên kết theo
chiều quang ra đời , một hình thức sở hữu tập thể của tư bản độc quyền
Sự thay đổi diễn ra ngay trong quá trình liên kết và thâm nhập vào nhau giữa tư
bản độc quyền công và tư bản độc quyền ngân hàng
Ngày nay , phạm vi liên kết được mở rộng ở nhiều ngành do vậy , các tập đồn
tài chính thưởng tồn tại dưới dạng kiểu cơng nơng – thương tín – dịch vụ , hay cơng
nghiệp - quân sự - dịch vụ quốc phòng Nội dung của sự liên kết cũng đa dạng hơn ,
tỉnh vị hơn và phức tạp hơn , Vi dụ : ngân hàng cho cơng nghiệp vay vốn và đảm bảo
tính dụng cho nó kinh doanh , lợi củng hưởng , rủi ro thua lỗ cùng chịu . Hoặc là ngân
hàng mua sắm các phương tiện hiện đại , đắt tiền vổi mới cho các doanh nghiệp thuế .
Ngày nay , do tác động của cuộc cách mạng khoa học công nghệ nên các tài sản cố
định cũng như các trang thiết bị lỗi thời rất nhanh , việc đi thuê phương tiện của tài sản
cố định đồng thời tiết kiệm được chi phí đầu tư mua sắm khi gia nhập một ngành sản
xuất mới
Sự thay đổi trong lĩnh vực phát hành chứng khoán và hệ thống tham dự
Các ngân hàng đầu tư đã củng cố thêm vị trí của chúng trên thị trường quốc gia
và quốc tế nhở phát hành chứng khốn và bn bán chứng khốn với quy mơ lớn . Các
ngân hàng quản lý vốn của các công ty đầu tư , các quỹ hưu trị và từ thiện , các tổ chức
và cá nhân nhả tư bản đã tạo ra khả năng hình thành số cổ phiếu khống
Hình thành những tập đồn tư bản tài chính với tư cách như một hình thải liên minh
siêu độc quyền
14
Để vươn ra địa bản thế giới và thích ứng với quá trình quốc tế hoả đời sống
kinh tế , tồn cầu hố kinh tế , các tập đồn tư bản tài chính đã thành lập các ngân
hằng đa quốc gia và xuyên quốc gia thực hiện việc điều tiết các con sơn và
cônglômêrát , xâm nhập vào nền kinh tế của các quốc gia khác . Sự ra đời của các
trung tâm tài chính của thế giới như Nhật Bản , Mỹ , Đức , Hồng Kông , Singapo ... là
kết quả hoạt động của các tập đoàn tài chính quốc tế Dù biểu hiện dưới hình thức nào ,
có sự thay đổi cơ chế thống trị ra sao , bản chất của tư bản tài chính cũng khơng thay
đổi
Sự tham gia của các chuyên gia quản lý với tư cách là một bộ phận hợp thành của giới
đầu số tài chính
Sự tham gia của các chuyên gia quản lý với tư cách là một bộ phận hợp thành của
giới đầu sỏ tài chính . Thực tế hiện nay , các chuyển gia quản lý do chức năng của
mình có thể đạt tới sự kiểm sốt đối với tất cả các hoạt động kinh doanh của các công
ty tài chính , các ngân hàng.Ở Mỹ , nhiều chuyên gia quản lý do tham gia vảo dịch vụ
môi giới cổ phần cho công ty mà đã trở thành những chủ sở hữu của công ty : khoảng
150 chuyên gia quản lý ở Mỹ hiện nay có thu nhập hằng năm trên một triệu đô la . Các
chuyên gia quản lý này nằm trong giới kinh doanh và chính trị có ảnh hưởng lớn như
bộ phận họp thảnh của giới chop bu , thuộc vào hàng ngũ đầu sở tài chính . Đây chính
là tiêu biểu cho một thế hệ nhà tư bản tài chính mới
Những thành tựu và hạn chế của CNTB bắt nguồn từ mâu thuẫn cơ bản của
CNTB: mâu thuẫn giữa tính chất và trình độ xã hội hóa cao của lực lượng sản xuất với
quan hệ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất. CNTB càng phát triển thì
xã hội hóa sản xuất ngày càng cao, quan hệ sản xuất dựa trên sở hữu tư nhân tư bản
chủ nghĩa về tư liệu sản xuất ngày càng kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất.
CNTB đã thực hiện nhiều biện pháp điều chỉnh cả về mặt sở hữu, quản lý và phân phối
để hạn chế mâu thuẫn trên nhưng về cơ bản không thủ tiêu được mâu thuẫn này. Sự
điều chỉnh ấy vẫn không vượt qua khỏi khuôn khổ của sở hữu tư nhân tư bản chủ
nghĩa. CNTB nhất định sẽ bị phá vỡ và thay vào đó là một quan hệ sở hữu mới để đáp
ứng yêu cầu phát triển của lực lượng sản xuất, dẫn đến sự ra đời tất yếu của phương
thức sản xuất mới – phương thức sản xuất cộng sản chủ nghĩa.
15
Phương thức sản xuất TBCN không thể tự tiêu vong và phương thức sản xuất
cộng sản chủ nghĩa cũng không thể tự hình thành mà chỉ có thể thực hiện được thơng
qua cuộc cách mạng xã hội trong đó giai cấp cơng nhân là người có sứ mệnh lịch sử
thực hiện cuộc cách mạng này.
Từ khi nổ ra cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008 đến nay, chủ nghĩa tự do
mới và phương thức chính sách mà các quốc gia phương Tây nắm vai trò chủ đạo
trong 30 năm qua trở thành đối tượng bị cơng kích.
Tuy nhiên, cuộc khủng hoảng đang lan rộng hiện nay đã làm nổi cộm một quan
điểm, đó là hệ thống này khơng chỉ là vấn đề chính sách tự do mới, mà cịn thể hiện rõ
vấn đề của hệ thống tư bản. Hiểu được những khiếm khuyết của hệ thống này cũng là
một tiền đề để hiểu phương hướng và không gian thay đổi CNTB trong tương lai.
* Hệ thống tư bản chủ nghĩa là một hệ thống cạnh tranh, kiểm sốt và biến
hóa
Sự cần thiết của cạnh tranh và tích lũy là động lực thúc đẩy nền sản xuất tư bản
không ngừng phát triển. Giống như vậy, khủng hoảng kinh tế của CNTB cũng là sự
phản ánh của vấn đề cơ chế giữa cạnh tranh và tích lũy. Quan hệ giữa kiểm sốt và bị
kiểm soát là nhân tố quan trọng trong quan hệ sản xuất tư bản. Sự cần thiết của cạnh
tranh và tích lũy đã thúc đẩy sự khơng ngừng cải cách và đổi mới của CNTB, Điều này
vừa bao gồm sáng tạo kỹ thuật vừa bao gồm đổi mới về xã hội. Tóm lại, là một chế độ
xã hội, phương hướng phát triển và không gian thay đổi của CNTB được quyết định
bởi trạng thái và không gian vận hành của cơ chế cạnh tranh, cơ chế kiểm soát và cơ
chế đổi mới.
* Khủng hoảng tài chính là hệ quả tất yếu do những khiếm khuyết của hệ
thống vốn có
Cuộc khủng hoảng lần này có thể được xem là khiếm khuyết của hệ thống vốn có
và một hệ quả tất yếu do các mâu thuẫn tích tụ.
Hệ thống vốn có ở đây chỉ hệ thống tư bản chủ nghĩa sau Đại chiến thế giới thứ
hai được phát triển và hình thành từ thập niên 40 của thế kỷ XX. Từ sau khi kết thúc
cuộc đại chiến này đến đầu thập niên 70 của thế kỷ XX, CNTB đã trải qua “thời kỳ
hoàng kim” với nền kinh tế tăng trưởng nhanh và xã hội phồn vinh. Thời kỳ này xuất
hiện trên cơ sở sự thay đổi từ ba phương diện của một hệ thống: về cơ chế cạnh tranh
16
và tích lũy, phương diện quốc tế, hệ thống kiểm sốt kinh tế quốc tế , về mặt thực hiện
chính sách, đối mặt với thế mạnh đó của chủ nghĩa tự do mới.
Có thể thấy, chính sách của chủ nghĩa tự do mới tuy là nguyên nhân trực tiếp gây
ra cuộc khủng hoảng tài chính quốc tế năm 2008, nhưng vấn đề cơ bản do những
khiếm khuyết của hệ thống CNTB truyền thống chưa được khắc phục hiệu quả trong
thời đại tồn cầu hóa mới. Hiện nay, sự lan rộng của cuộc khủng hoảng đã thể hiện rõ
việc này.
* Khủng hoảng có thể trở thành liều thuốc kích thích cải cách hệ thống tư
bản chủ nghĩa, nhưng triển vọng cũng chưa lạc quan
CNTB trong thời đại hậu khủng hoảng tài chính phải thực sự thốt khỏi bóng đen
khủng hoảng, cần xây dựng lại mơ hình tích lũy cạnh tranh, hệ thống điều hành và hệ
thống đổi mới. về mặt logic, việc xây dựng lại không nên trên cơ sở khái niệm nhà
nước truyền thống, mà nên trên cơ sở sự cân bằng giữa toàn cầu, quốc gia và xã hội.
Hơn nữa, sự lan rộng và ngày càng trở nên sâu sắc của cuộc khủng hoảng hiện nay có
thể trở thành liều thuốc kích thích cải cách hệ thống tư bản chủ nghĩa, nhưng tương lai
cũng chưa chắc đã sáng sủa.
Trong cuộc khủng hoảng hiện nay, một mặt, người ta quan tâm đến việc làm thế
nào để ngăn chặn sự lan rộng của cuộc khủng hoảng và phục hồi kinh tế. Mặt khác, họ
mong muốn khắc phục những khiếm khuyết của hệ thống hoặc xây dựng một hệ thống
mới. Việc khôi phục kinh tế phải thực hiện trong một thời gian dài, có thể thực hiện
được, nhưng khắc phục những khiếm khuyết của hệ thống tư bản chủ nghĩa chắc chắn
khó hơn nhiều.
Vai trò của CNTB được thể hiện:
- Làm dịu mâu thuẫn kinh tế-xã hội
Nhà nước tư sản đóng vai trò quan trọng trong điều chỉnh các mâu thuân kinh tếxã hội tư bản, làm giảm nhẹ các chu kỳ kinh tế, hạn chế được tình trạng vơ chính phủ
và lạm phát.
Nhà nước tư sản đã làm giảm bớt căng thẳng trong một số mâu thuẫn xã hội tư
bản và lao động bằng nhiều chính sách điều tiết (thuế, giá cả, thu nhập, việc làm, bảo
hiểm...)
17
Nhà nước tư bản góp phần xúc tiến hợp tác với nhau để giải quyết nhiều mâu
thuẫn liên quan tới các nước tư bản, giữa các nước tư bản với các nước thế giới thứ ba.
- Chuẩn bị cơ sở vật chất – kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội
Theo V.I. Leenin, CNTB chuẩn bị cơ sở vật chất và kỹ thuật cho một phương
thức sản xuất mới cao hơn chủ nghĩa xã hội.
Trong giai đoạn CNTBĐQNN, tiềm lực kinh tế và nền tảng khoa học cơng nghệ
cho q trình tái sản xuất tư bản ngày càng phát triển mạnh mẽ và sâu sắc hơn.
Tóm lại, phải đánh giá CNTB trong thời đại hậu khủng hoảng tài chính từ ý
nghĩa cải cách hệ thống tư bản chủ nghĩa, chứ không đơn thuần chỉ dừng lại ở sự
chỉ trích chủ nghĩa tự do mới. Nhìn nhận từ góc độ biến đổi, cuộc khủng hoảng là
hệ quả của khiếm khuyết hệ thống vốn có, nhưng cũng có thể trở thành điểm khởi
đầu thúc đẩy cải cách hệ thống này, cho dù tương lai không thể lạc quan./.
18