Tải bản đầy đủ (.pdf) (24 trang)

Trình bày thực trạng phát triển thương mại của singapore và cơ hội hợp tác thương mại của singapore và việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (636.68 KB, 24 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI
KHOA KINH TẾ & KINH DOANH QUỐC TẾ

——🙠🙡🕮🙣🙢——

BÀI THẢO LUẬN
MÔN: KINH TẾ KHU VỰC VÀ ASEAN

Đề tài: Trình bày thực trạng phát triển thương mại của
Singapore và cơ hội hợp tác thương mại của Singapore và
Việt Nam

Giảng viên hướng dẫn

: Nguyễn Ngọc Diệp

Nhóm thực hiện

:3

Lớp HP

: 2163FECO2031


Hà Nội, 2021
Mục lục
I. Thực trạng phát triển thương mại của Singapore

1


1. Thương mại hàng hóa

1

2. Thương mại dịch vụ

5

3. Chính sách thương mại

9

II. Cơ hội hợp tác của Singapore và Việt Nam

11

1. Thực trạng hợp tác giữa Việt Nam và Singapore về thương mại hàng hóa

12

2. Thực trạng hợp tác giữa Việt Nam và Singapore về thương mại dịch vụ

16

3. Đánh giá cơ hội hợp tác của Singapore và Việt Nam về thương mại hàng hóa và
thương mại dịch vụ.

16

3.1. Thuận lợi


16

3.2. Khó khăn

19

4. Tiềm năng và triển vọng hợp tác kinh tế trong những năm tới

19


I.

Thực trạng phát triển thương mại của Singapore

1. Thương mại hàng hóa
1.1. Xuất khẩu và nhập khẩu
− Năm 2015, Singapore là một trong những nhà xuất khẩu lớn nhất trên thế giới. Năm
đối tác chính là Trung Quốc với 14,37%, Hong Kong, Trung Quốc với 11,49%,
Malaysia với 10,80%, Indonesia với 8,27% và Mỹ là 6,49%. Về nhập khẩu hàng hóa,
5 quốc gia cung cấp hàng hóa chính cho Singapore là Trung Quốc (13,68%), Mỹ
(10,88%), Malaysia (10,73%), Nhật Bản (6,23%) và các quốc gia khác (8,05%).
− Xuất khẩu tại Singapore năm 2015 cán mức 346,638 tỷ USD, giảm 15,40% so với
cùng kì năm ngối. Nhập khẩu hàng hóa đạt 296,744 tỷ USD, tương tự cũng bị giảm
18,97 so với năm 2014. Có thể nhận thấy rằng, kim ngạch xuất khẩu của Singapore
giảm mạnh so với năm 2014. Nguyên nhân đưa ra cho rằng, giá dầu trên thế giới giảm
dẫn đến việc xuất khẩu các sản phẩm hóa dầu của Singapore giảm đến 17,5%, trong
khi các loại hóa chất giảm 41,8% và thiết bị máy móc giảm 43,5%. Cùng với đó là
tình hình nền kinh tế Mỹ phục hồi chưa vững chắc, tỏng khi nền kinh tế thứ hai thế

giới là Trung Quốc lại rơi vào suy thoái dự kiến sẽ tiếp tục đè nặng lên tăng trưởng
của khu vực, trong đó có Singapore (theo VnExpress).
− Năm 2017, xuất khẩu tại Singapore đạt gần 373,255 tỷ USD, tăng 10,40% so với năm
2016 trong khi đó, nhập khẩu đạt 327,710 tỷ USD, tăng 12,26% so sới năm 2016.
− Singapore tiếp tục là một trong những nhà xuất khẩu lớn nhất trên thế giới, các thị
trường lớn của nước này là: Trung Quốc (chiếm 14,48%), Hồng Kông (Trung Quốc)
(chiếm 12,33%), Malaysia (chiếm 10,6%), Indonesia (chiếm 7,49%) và Mỹ (6,48%)
(số liệu từ wits.worldbank.org). Đây cũng là những thị trường lớn trên toàn thế giới.
− Bên cạnh xuất khẩu, Singapore cũng nhập khẩu rất nhiều hàng hóa, trong đó các quốc
gia đối tác lớn bao gồm: Trung Quốc (13,84%), Mỹ (10,88%), Malaysia (11,86%),
Nhật Bản ( 6,25%) và các khu vực khác (8,28%)


Hình 1: Các đối tác xuất khẩu và nhập khẩu của Singapore trong năm 2017
− Các nhóm mặt hàng xuất khẩu và nhập khẩu chủ yếu của Singpare bao gồm: các
nguyên liệu thô (xuất khẩu chiếm 0,92%, nhập khẩu chiếm8,85%), hàng hóa trung
gian (xuất khẩu chiếm 18,90%, nhập khẩu chiếm16,38%), hàng hóa tiêu dùng (xuất
khẩu chiếm 24,55% , nhập khẩu chiếm 28,62%) và hàng hóa sản xuất (xuất khẩu
chiếm 49,93%, nhập khẩu chiếm 45,25%).


Hình 2: Nhóm sản phẩm xuất – nhập khẩu nổi bật của Singapore năm 2017
− Năm 2019, Singapore là nước xuất khẩu lớn thứ 15 trên thế giới (tăng 9,1% kể từ năm
2015 nhưng giảm 5,3% so với 2018) và đứng thứ 16 về nhập khẩu (gần 359 tỷ USD,
giảm 3.2%).

Các thị trường xuất khẩu lớn của Singapore vẫn là Trung Quốc

(13.22%), Hông Kông – Trung Quốc ( 11,37%), Malaysia (10,54%), Mỹ (8,81%) và
Indonesia (7,01%) .

− Các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của Singapore là: máy móc, thiết bị điện tử, hệ thống
lọc dầu, chế biến cao su và các sản phẩm cao su, thực phẩm chế biến và đờ ́ng, hóa
chất, dược phẩm, …
− Hầu hết các mặt hàng nhập khẩu của Singapore là để tái xuất. Đứng đầu danh sách
nhập khẩu của Singapore là xăng dầu chiếm 35% tổng lượng nhập khẩu, tiếp theo là
máy tính và phụ tùng máy tính chiếm 10%. Singapore nhập khẩu khí đốt với số lượng
nhỏ hơn. Các công ty Singapore cũng nhập khẩu thiết bị phát thanh truyền hình và
máy móc văn phòng. Hầu hết các sản phẩm nhập khẩu của Singapore đến từ Trung
Quốc và Malaysia và chiếm khoảng 20% ​tổng nhập khẩu của thành phố. Các đối tác
thương mại khác là Hàn Quốc, Nhật Bản và Ấn Độ ở Trung Đông, nhưng Singapore
cũng nhập khẩu từ Hoa Kỳ, UAE và Đức. Với tỷ lệ nhỏ hơn, Singapore nhập khẩu từ
các nước châu Âu khác như Thụy Sĩ, Pháp và Vương quốc Anh.
− Các mặt hàng nhập khẩu chủ yếu: dầu thơ, linh kiện điện tử, máy móc cơng nghiệp,
thực phẩm, đờ ́ng, sắt thép, máy bay, xe có đợng cơ, …


Hình 3: Nhập khẩu hàng hóa của Singapore năm 2019
− Tổng thương mại hàng hóa ở Singapore giảm 15,2% trong quý 2 năm 2020, sau khi
tăng nhẹ 0,5% trong quý trước. Xuất khẩu tại Singapore giảm từ 39570,58 triệu SGD
vào tháng 6 xuống còn 39508,52 triệu SGD vào tháng 7 năm 2020. Xuất khẩu các sản
phẩm phi điện tử trong nước tăng 5,4% so với năm ngoái, sau mức tăng 7,7% trong
quý trước. Các ngành đóng góp lớn nhất cho sự tăng trưởng là vàng (132,7%), dược
phẩm (41,3%) và máy móc chuyên dụng (28,1%). Nhập khẩu vào đã tăng từ 34581,96
triệu SGD (6/2020) lên 36242,14 triệu SGD vào tháng 7 năm 2020.
− Covid-19 đã tác động đến mọi mắt xích trong chuỗi cung ứng tồn cầu, từ sự sẵn có
của nguyên liệu thô, các thành phần trung gian và thành phẩm, đến việc lưu trữ, giao
và bán các mặt hàng này và sự di chuyển của lao động.
− Vì Singapore có mức độ tham gia chuỗi giá trị tồn cầu (GVC) cao nhất trên thế giới,
nên nó phụ thuộc nhiều vào sự vận hành trơn tru của mạng lưới sản xuất toàn cầu.
− Đặc biệt, phần lớn hàng nhập khẩu của Singapore không được tiêu thụ trực tiếp tại

Singapore mà được tiếp tục chế biến và hấp thụ ở nước ngồi. Trong đó Mỹ, Malaysia
và Trung Quốc là ba nguồn nhập khẩu lớn nhất.
− Điều này có nghĩa là Singapore phải chịu những cú sốc lớn từ phía nguồn cung đang
diễn ra tại các nền kinh tế lớn này do COVID-19. Đồng thời, Singapore cũng chịu


những cú sốc lớn từ phía cầu trên thị trường khu vực và toàn cầu do hạn chế về khả
năng di chuyển của con người và ngừng hoạt động kinh doanh.
1.2. Cán cân thương mại
(triệu USD)
2015

2016

2017

2018

2019

Xuất khẩu

357,941

338,082

373,255

411,743


390,332

Nhập khẩu

308,122

291,908

327,709

370,504

358,975

Cán cân thương

51,819

46,174

46,176

41,293

31,357

mại hàng hóa
Hình 4
− Có thể thấy rõ, năm 2016, cán cân thương mại sụt giảm so với năm trước đó. Nguyên
nhân cho kết quả này là do nền kinh tế của Singapore bị suy giảm trong năm 2016, chỉ

đạt mức tăng trưởng 1,8% khiến thương mại hai chiều giữa Singapore và các đối tác
chủ yếu đều giảm. Đồng thời, trong năm 2016, nền kinh tế mở và phụ thuộc thương
mại của Singapore nhìn chung bị thiệt hại bởi sự suy thối theo chu kỳ tồn cầu.
− Tương tự ở năm 2019, cán cân thương mại cũng bị giảm so với năm 2018. Nguyên
nhân là do Singapore đã bị ảnh hưởng bởi khối lượng thương mại sụt giảm trong bối
cảnh xung đột thương mại Mỹ - Trung vào năm 2019 mà cả hai quốc gia này đều là
một trong số các đối tác thương mại lớn của Singapore, có thể nói Singapore hiện
đang đối mặt với sự sụt giảm thương mại hàng hóa hơn nữa. 
2. Thương mại dịch vụ
− Thương mại dịch vụ bao gồm các ngành như vận tải, du lịch, phí sử dụng tài sản trí
tuệ, tài chính, viễn thơng, máy tính và thơng tin, hàng hóa và dịch vụ của chính
phủ,…


Hình 5: Xuất khẩu và nhập khẩu dịch vụ của Singapore 2015-2020
− Năm 2015, thương mại dịch vụ tổng thể đạt 432,9 tỷ SGD, cán cân thương mại thâm
hụt 11,7 tỷ SGD . Xuất khẩu dịch vụ vận tải chiếm 33,8% kim ngạch xuất khẩu dịch
vụ, những dịch vụ kinh doanh khác như dịch vụ chuyên gia, kỹ thuật và dịch vụ khác
chiếm 24,2%, dịch vụ tài chính chiếm 14,5%. Nhập khẩu dịch vụ chủ yếu là dịch vụ
vận tải, chiếm 30,7% và dịch vụ khác chiếm 28,8%.
− Năm 2016, thương mại dịch vụ tổng thể đạt 428,8 tỷ SGD, giảm 4,1 tỷ so với năm
2015, cán cân thương mại thâm hụt 9 tỷ SGD. Tỷ trọng xuất khẩu giảm 0,33%, nhập
khẩu giảm 1,5% (so với năm 2015). Sở dĩ có sự sụt giảm như vậy do bị thiệt hại bởi
sự suy thối theo chu kỳ tồn cầu.
− Năm 2017, thương mại dịch vụ tổng thể đạt 486,3 tỷ SGD, trong đó tỷ trọng xuất
khẩu tăng 12,4%, nhập khẩu tăng 14,3%(so với nam 2016). Cán cân thương mại thâm
hụt, mức chênh lệch giữa xuất khẩu và nhập khẩu là 14,1 tỷ SGD.
− Năm 2018, thương mại dịch vụ tổng thể của Singapore đạt 548,8 tỷ SGD, ghi nhận
mức tăng trưởng mạnh mẽ 12,8% do cả xuất khẩu và nhập khẩu dịch vụ đều tăng từ



năm trước. Cán cân thương mại dịch vụ thặng dư 9 tỷ SGD, đảo ngược từ mức thâm
hụt 14,1 tỷ SGD năm 2017 do tốc độ tăng dịch vụ xuất khẩu (18,1%) vượt dịch vụ
nhập khẩu (7,8%). Dịch vụ vận tải, du lịch và quản trị kinh doanh là ba loại dịch vụ
chính hàng đầu, chiếm 49,8% dịch vụ xuất khẩu và 53,8% dịch vụ nhập khẩu. Trong
số các nhóm dịch vụ chính, xuất khẩu các dịch vụ sản xuất dựa trên đầu vào vật chất
thuộc sở hữu của người khác ghi nhận mức tăng nhanh nhất với 61,0%, tiếp theo là
xuất khẩu dịch vụ xây dựng và dịch vụ quảng cáo & tìm hiểu thị trường, tương ứng
tăng 48,5% và 34% cho năm. Tương tự, nhập khẩu dịch vụ tổng thể tăng chủ yếu do
sự gia tăng của dịch vụ vận tải. Xét về tốc độ tăng nhập khẩu, dịch vụ xây dựng, dịch
vụ kế toán và dịch vụ bảo trì, sửa chữa có mức tăng trưởng cao nhất với lần lượt là
44,0%, 33,1% và 32,2%. Năm 2018, xuất khẩu dịch vụ vận tải tăng 24%, phần lớn là
do doanh thu vận tải đường biển tăng. Nhập khẩu dịch vụ vận tải tăng 19,9% nhờ việc
tăng chi phí vận tải biển và hành khách. Các khoản thu và chi từ du lịch lần lượt tăng
0,3% và 2,1% lên 20,37 tỷ SGD và 26,2 tỷ SGD, do cả lượng khách đến và người dân
đi du lịch nước ngoài đều tăng. Khi các khoản thanh toán tăng với tốc độ nhanh hơn,
dịch vụ du lịch ghi nhận mức thâm hụt lớn hơn là 5,85 tỷ SGD trong năm 2018. Xuất
khẩu dịch vụ quản trị kinh doanh tăng 12,1% lên 20,1 SGD trong khi nhập khẩu tăng
13,3% lên 19,03 tỷ SGD. Doanh thu từ dịch vụ tài chính tăng 9,3%, phần lớn là do
doanh thu từ các dịch vụ ngân hàng ngày càng tăng. Nhập khẩu dịch vụ tài chính tăng
13,3% do thanh tốn cho các dịch vụ ngân hàng và phí hoa hồng tăng. Dịch vụ tài
chính tiếp tục ghi nhận mức thặng dư thương mại cao nhất trong số tất cả các ngành
dịch vụ chính, tăng lên 21,9 tỷ SGD do tăng trưởng thu vượt quá các khoản thanh
toán. Xuất khẩu các dịch vụ viễn thơng, máy tính & thơng tin tăng 15,0%, đạt 14,6 tỷ
SGD trong năm 2018 do xuất khẩu dịch vụ máy tính tăng. Ngược lại, nhập khẩu dịch
vụ viễn thơng, máy tính và thơng tin giảm 5,6% xuống còn 14,4 tỷ SGD do nhập khẩu
dịch vụ máy tính giảm trong thời gian này.


− Năm 2019, thương mại dịch vụ tổng thể đạt 580,3 tỷ SGD, tăng 6% so với năm 2018,

cán cân thương mại thặng dư 12,3 tỷ SGD. Xuất khẩu tăng 6,2%, nhập khẩu tăng
5,2% so với năm 2018. Doanh thu đến từ ngành du lịch Singapore trong năm ngối
ước tính đạt 27,1 tỷ SGD , tăng 0,5% so với năm 2018 về tăng trưởng chi tiêu của các
thị trường lớn, bao gồm cả Trung Quốc. Năm 2019, ngành du lịch Singapore ghi nhận
con số cao kỷ lục với 19,1 triệu lượt khách quốc tế, trong đó khách Trung Quốc chiếm
19%, tiếp theo là khách Indonesia với 16% và khách Ấn Độ là 7%. Có 4 quốc gia
hàng đầu mà Singapore xuất khẩu năm 2019: Hoa Kỳ, Nhật Bản, Trung Quốc; 4 quốc
gia hàng đầu nhập khẩu là Hoa Kỳ, Hà Lan, Trung Quốc, Hồng Kông.
− Năm 2020, lượng dịch vụ xuất khẩu đạt 497,1 tỷ SGD, thấp nhất trong giai đoạn từ
năm 2018-2020, cán cân thương mại dương. Năm 2020 do ảnh hưởng của dịch bệnh
Covid 19, tỷ trọng xuất khẩu trong thương mại dịch vụ giảm 12,6% (so với năm 2019)
và 7,2% (so với năm 2018). Trong xuất khẩu 3 dịch vụ chiếm tỷ trọng lớn nhất lần
lượt là vận tải 28,8% (73,3 tỷ SGD), dịch vụ tài chính 16,9% (43,6 tỷ SGD) và quản
lý kinh doanh 9,4% (24,4 tỷ SGD). Năm 2020, tỷ trọng nhập khẩu giảm 16,1% (so với
năm 2019) và 11,7% (so với năm 2018), 3 dịch vụ chiếm tỷ trọng lớn nhất là vận tải
30,5% (72,6 tỷ SGD, quản lý kinh doanh 11,7% (20 tỷ SGD), viễn thơng, máy tính và
thơng tin 10,1%(24,1 tỷ SGD). Dịch vụ vận tải là động lực chính thúc đẩy tăng trưởng
xuất khẩu và nhập khẩu dịch vụ. Ba dịch vụ chiếm tỷ trọng nhỏ nhất là hàng hóa và
dịch vụ của Chính phủ 0,2% (0,4 tỷ SGD), xây dựng 0,4% (1,1 tỷ SGD), cá nhân, văn
hóa và giải trí 0,5% (1,3 tỷ SGD). Trong năm 2020, Covid 19 đã khiến ngành du lịch
Singapore thất thu lớn, dịch vụ xuất khẩu du lịch chỉ chiếm 2,8% và nhập khẩu là 4%
. Giới chức du lịch Singapore vừa cho biết, lượng khách quốc tế đến tham quan quốc
đảo này đã giảm 25-30% so với năm 2019. Con số thống kê trên được đưa ra sau khi
Chính phủ nước này ban hành lệnh hạn chế nhập cảnh đối với người mang hộ chiếu
Trung Quốc nhằm ngăn chặn sự lây lan của dịch bệnh viêm đường hô hấp cấp do
virus corona chủng mới (Covid-19) gây ra. Sau khi dịch Covid-19 bùng phát, ngành


du lịch Singapore, vốn đóng góp khoảng 4% vào tổng sản phẩm quốc nội (GDP),
đang chịu thiệt hại đáng kể, thậm chí hơn cả tác động do dịch viêm đường hô hấp cấp

SARS gây ra năm 2003, khi lượng khách du lịch ước tính đến Singapore đã giảm 19%
so với năm 2002.
3. Chính sách thương mại
− Như chúng ta đã biết, Singapore là một quốc đảo với diện tích nhỏ bé, dân số vào
khoảng vài triệu người và nghèo tài nguyên thiên nhiên. Mặc dù vậy nhưng với việc
thực hiện thành cơng mơ hình chính sách tự do hóa thương mại và thúc đẩy xuất khẩu
Singapore đã xây dựng được một nền thương mại năng động, hiện đại và vững mạnh,
từ đó trở thành một điển hình cho nền kinh tế khu vực và thế giới. Dưới đây là một số
chính sách nổi bật mà Singapore đã áp dụng rất hiệu quả
3.1. Thực hiện tự do hóa thương mại thơng qua cắt giảm thuế quan
-

Singapore tích cực tham gia vào các hoạt động của các tổ chức thương mại đa phương
hay khu vực như Tổ chức thương mại thế giới (WTO), Tổ chức hợp tác kinh tế Châu
Á – Thái Bình Dương(APEC),…

-

Chính sách cắt giảm thuế quan được Singapore thực hiện đúng với lộ trình đã quy
định của tổ chức mà họ đã tham gia. Hiện nay, Singapore được coi là thị trường tự do
nhất khu vực Đông Nam Á, đồng thời cịn là thị trường xuất nhập khẩu hồn tồn tự
do, với hơn 99% hàng hóa nhập khẩu khơng có thuế.
3.2. Xuất khẩu miễn thuế hoặc hồn thuế nhập khẩu đầu vào sản xuất hàng xuất
khẩu.

− Chính sách này được áp dụng nhằm mục đích tăng năng suất lao động của các ngành
sản xuất hàng xuất khẩu, khuyến khích xuất khẩu, từ đó thúc đẩy thương mại quốc tế
phát biện pháp cụ thể
-


Để khuyến khích các nhà kinh doanh quốc tế thành lập các cơ sở khu vực của họ ở
Singapore, các nhà doanh nghiệp sẽ được giảm 10% thuế thu nhập nước ngoài từ giao


dịch hàng hóa, bao gồm: hoạt động nơng nghiệp, cơng nghiệp, hàng hóa khống chất,
vật liệu xây dựng và các linh kiện máy móc. 
-

Để khuyến khích hoạt động kinh doanh năng lượng ở Singapore, các nhà kinh doanh
dầu được giảm 10% thuế thu nhập từ các buôn bán dầu hoặc hoa hồng từ môi giới
mua bán. 

-

Tại Singapore hiện áp dụng thuế hàng hóa và dịch vụ (Goods and Services Tax) ở
mức 7%. Để khuyến khích xuất khẩu tại chỗ, Singapore đã thực hiện chính sách hồn
thuế cho du khách để kich thích chi tiêu của họ. Theo chương trình hồn thuế cho du
khách (Tourist Refund Scheme), nếu mua hàng hóa tại Singapore từ những cửa hiệu
bán lẻ tham gia chương trình, du khách có thể được hồn lại thuế GST khi vận chuyển
hàng hóa ra khỏi Singapore qua sân bay quốc tế Changi (Changi International
Airport) hoặc Sân Bay Seletar (Seletar Airport) trong vòng 2 tháng kể từ ngày mua
hàng. Trung bình mỗi năm, kim ngạch xuất khẩu của Singapore cao gấp 3 lần GDP
Áp dụng chính sách hỗ trợ tín dụng và hỗ trợ bảo hiểm hàng hóa.
3.3. Thành lập cục xúc tiến thương mại Singapore

− Cục xúc tiến thương mại Singapore (TDB) được thành lập vào năm 1983, chịu trách
nhiệm chính cho việc thúc đẩy Singapore tiến nhanh trên đấu trường TMQT, bảo vệ
quyền lợi kinh tế của đào quốc, đồng thời giới thiệu sản phẩm của họ trên khắp thế
giới. TDB chú trọng mở rộng hoạt động ngoài nước và đã có hơn 30 văn phịng
thương mại trên khắp thế giới, với chức năng quảng bá cho nền thương mại Singapore

và hỗ trợ các công ty trong giao thương quốc tế. Sự hỗ trợ này được thể hiện một cách
nhuần nhuyễn và đa dạng thơng qua các đồn cơng tác, các hội chợ thương mại để tìm
cơ hội hợp tác và đầu tư. Vào tháng 4 năm 2002, TDB được tái cơ cấu để thành lập
International Enterprise (IE Singapore) và đánh giấu một sự thay đổi chiến lược trong
các hoạt động, sẽ tập trung ít hơn vào xúc tiến xuất khẩu và tập trung nhiều hơn vào
việc giúp các doanh nghiệp Singapore bắt đầu và phát triển kinh doanh ở nước ngoài.
Vào ngày 1/4/2018, IE Singapore đã hợp nhất với Spring Singapore để thành lập


Enterprise Singapore (ESG), hỗ trợ sự phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ (SMEs)
của Singapore, nâng cấp năng lực, đổi mới, chuyển đổi và quốc tế hóa. Nó cũng hỗ trợ
sự phát triển của Singapore với tư cách là một trung tâm thương mại và khởi nghiệp,
đồng thời tiếp tục là cơ quan kiểm định và tiêu chuẩn quốc gia.

3.4. Đối tác thương mại
-

Thời kỳ trước năm 1990: chú trọng phát triển quan hệ thương mại với Tây Âu,
Nhật Bản, Hoa Kỳ.

-

Thành tựu:
+ Nhận được viện trợ cũng như các khoản đầu tư lớn từ các nước này, đặc biệt là
Hoa Kỳ, được hưởng quy chế tối huệ quốc về thương mại trong suốt thời gian
dài.
+ Đây là những thị trường lớn của Singapore, giúp nền kinh tế của họ tăng
trưởng với tốc độ cao.

− Hạn chế: việc chú trọng phát triển quan hệ thương mại với các nước này làm

Singapore phụ thuộc rất lớn vào các nước này về vốn, cơng nghệ, thị trường.


Thời kỳ sau năm 1990: Tình hình thế giới có nhiều biến động, thế giới có nhiều thị
trường tiềm năng mới, việc thay đổi đối tác thương mại của Singapore là đúng đắn
không chỉ với các nước trước đây mà còn là với các nước phát triển. Đến năm 2020,
cảng biển Singapore hiện đang kết nối thông thương với 600 cảng tại 123 quốc gia và
vùng lãnh thổ, thông qua 200 tuyến vận tải biển. Mặc dù là quốc gia nhỏ, nhưng đối
tác thương mại của Singapore thuộc diện đa dang nhất trên thế giới với khoảng 220
đối tác (năm 2020). Đối tác thương mại hàng đầu của Singapore là Trung Quốc(51,5
tỷ USD), Hồng Kông (46,2 tỷ USD), Hoa Kỳ (40,2 tỷ USD), Malaysia (33,3 tỷ USD)
và đặc biệt Việt Nam nằm trong top 10 đối tác thương mại hàng đầu của Singapore
với 12,5 tỷ USD chiếm 3,3%.


− Singgapore đã thực hiện thành cơng mơ hình chính sách tự do hóa thương mại và thúc
đẩy xuất khẩu. Điều đó được chứng minh qua những thành tựu về thương mại mà
Singapore đã đạt được. Hiện nay, Singapore được xem như là trung tâm thương mại,
đầu tư của khu vực. Gía trị xuất khẩu của Singapore so với giá trị xuất khẩu của các
quốc gia khác chiếm tỷ trọng lớn trong kim ngạch xuất nhập khẩu của quốc gia mà
Singapore xuất khẩu sang. Trong năm nay, do ảnh hưởng của dịch Covid-19, nền kinh
tế Singapore bị tác động ngày càng nặng nề và rõ nét, do đó nước này phải điều chỉnh
lại mơ hình tăng trưởng và cơ cấu kinh tế. Singapore sẽ chú trọng đẩy mạnh các biện
pháp nhằm giảm thiểu sự phụ thuộc nguồn cung cũng như sự phụ thuộc thị trường
xuất khẩu vào một số đối tác. Với mạng lưới các hiệp định thương mại tự do không
ngừng được mở rộng đến các khu vực và đối tác, Singapore dự kiến sẽ dự kiến khống
chế tỷ lệ xuất khẩu vào một thị trường đơn lẻ không quá 15% tổng giá trị xuất khẩu
của nước này. Đối với một số hàng hóa thiết yếu, Singapore sẽ phối hợp với các
doanh nghiệp để đảm bảo năng lực sản xuất nội tại. Về nguồn cung, Singapore sẽ tiếp
tục quan tâm để đẩy mạnh sự đa dạng hóa về cả nguồn hàng thực phẩm, nguồn

nguyên vật liệu lẫn nguồn lao động để tránh mọi nguy cơ đứt gãy trong tương lai.
II. Cơ hội hợp tác của Singapore và Việt Nam
1. Thực trạng hợp tác giữa Việt Nam và Singapore về thương mại hàng hóa
− Theo số liệu thống kê của Tổng cục Hải quan, thương mại hàng hóa song phương
giữa Việt Nam – Singapore trong giai đoạn từ năm 2016 -2019 luôn đạt tỷ trọng lớn
trong tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của cả nước. Hiện nay, Singapore là đối tác
thương mại lớn thứ sáu của Việt Nam trên toàn thế giới và là một trong những đối tác
thương mại lớn nhất của Việt Nam trong Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á .
Năm

Xuất khẩu

Nhập khẩu

Tổng kim ngạch

2016

2,41

4,76

7,17


2017

2,96

5,3


8,26

2018

3,1

4,57

7,67

2019

3,2

4,1

7,3

Hình 6: Kim ngạch xuất nhập khẩu Việt Nam-Singapore giai đoạn 2016-2019 (đơn
vị: tỷ USD)

Hình 7: Kim ngạch xuất nhập khẩu Việt Nam – Singapore giai đoạn 2016-2019
1.1. Về xuất khẩu:


Tình hình xuất khẩu

− Năm 2016, Việt Nam xuất khẩu đạt 2,41 tỷ USD, chiếm 33,6% tổng kim ngạch xuất
nhập khẩu, thâm hụt thương mại hàng hóa với Singapore là 2,35 tỷ USD. Việt Nam

trở thành đối tác thương mại lớn thứ 12 của Singapore.
− Năm 2017, Việt Nam xuất khẩu đạt 2,96 tỷ USD, tăng 22,82% so với năm 2016, thâm
hụt thương mại hàng hóa với Singapore là 2,34 tỷ USD


− Năm 2018 và 2019, mức xuất khẩu của Việt Nam sang Singapore 3,1 tỷ USD và 3,2
tỷ USD, tiếp tục giữ mức tăng trưởng ổn định so với các năm trước.
Các mặt hàng xuất khẩu chính:

Hình 8: 5 mặt hàng Việt Nam có kim ngạch cao xuất khẩu sang Singapore 4 tháng
năm 2018
− Các nhóm hàng xuất khẩu hàng đầu của Việt Nam sang Singapore trong giai đoạn
hiện nay bao gồm : Máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện; máy móc, thiết bị,
dụng cụ phụ tùng khác; thủy tinh và các sản phẩm từ thủy tinh; phương tiện vận tải và
phụ; điện thoại các loại và linh kiện. Ngồi ra, các mặt hàng nơng, thuỷ sản của Việt
Nam xuất sang Singapore đều tăng như các chế phẩm từ thịt, cá, động vật.
1.2. Về nhập khẩu
● Tình hình nhập khẩu
− Năm 2017, kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam từ thị trường Singapore đạt 4,76 tỷ
USD, tăng 11,34% so với năm 2016. Kim ngạch nhập khẩu hàng hóa của Việt Nam có
xuất xứ từ Singapore đang chiếm tỷ trọng ngày càng cao trong tổng kim ngạch nhập
hàng hóa của cả nước.


− Từ năm 2017-2019, kim ngạch nhập khẩu hàng hoá từ Singapore vào Việt Nam giảm
mạnh, năm 2018 so với 2017 giảm 15,9%, năm 2019 so với năm 2018 giảm 11,5%.
● Tình hình nhập khẩu
Các mặt hàng nhập khẩu
− Các mặt hàng chính có xuất xứ từ Singapore được các doanh nghiệp Việt Nam chủ
yếu nhập khẩu bao gồm: xăng dầu các loại; máy móc, thiết bị, dụng cụ, phụ tùng; máy

vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện; chất thơm, mỹ phẩm và chế phẩm vệ sinh, sữa
và các sản phẩm từ sữa,...

Mặt hàng

2017

2018

2019

Xăng dầu các loại

2,158.2

1,531.0

1,208.5

Máy móc, thiết bị, dụng cụ, phụ

347.8

373.1

399.5

774.1

512.0


372.1

227.1

278.7

311.2

94.3

143.8

211.3

tùng khác

Máy vi tính, sản phẩm điện tử và
linh kiện

Chất thơm, mỹ phẩm và chế phẩm
vệ sinh

Chế phẩm thực phẩm khác

Sữa và sản phẩm từ sữa

122.4

134.1


94.1


Hình 9: Một số mặt hàng Việt Nam nhập khẩu nhiều nhất từ Singapore (đơn vị:
triệu USD)
2. Thực trang hợp tác giữa Việt Nam và Singapore về thương mại dịch vụ
− Trong lĩnh vực logistics, Singapore là một trong những quốc gia đi đầu trong lĩnh vực
logistics, đồng thời Singapore cịn có hệ thống, trung tâm cảng biển lớn thứ hai của
thế giới. Việc hợp tác với Singapore là cơ hội để thúc đẩy, phát triển các dịch vụ và hệ
thống giao thông, hạ tầng hiện đại ở Việt Nam nhằm thu hút các luồng trung chuyển
hàng hóa mới qua khu vực. Năm 2018, tập đoàn YCH của Singapore đã liên doanh
với tập đoàn T&T quyết định đầu tư phát triển Dự án Trung tâm Logistics và cảng cạn
quốc tế tại Vĩnh Phúc.
− Trong lĩnh vực du lịch, Singapore là một trong 10 thị trường có lượng khách du lịch
lớn nhất của Việt Nam và du lịch Việt Nam hiện có nhiều tiềm năng để tiếp tục thu
hút khách du lịch từ thị trường này, đặc biệt từ phân khúc khách du lịch gia đình và
thanh niên. Năm 2017, trao đổi khách hai chiều đạt trên 800.000 lượt, trong đó, khách
Việt Nam đến Singapore đạt hơn 530.000 lượt, tăng 21% so với năm 2016.  Hai bên
cũng thường xuyên tổ chức họp Ủy ban hợp tác du lịch Việt Nam –Singapore, đến nay
đã họp được 14 phiên; từ năm 2012 họp 2 lần/năm. Phiên họp gần nhất diễn ra tháng
5/2016 tại Đà Lạt, chủ yếu bàn về hợp tác tăng cường trao đổi khách giữa hai nước,
phát triển du lịch tàu biển, đào tạo nguồn nhân lực, đầu tư, kết nối tuyến điểm du lịch.
3. Đánh giá cơ hội hợp tác của Singapore và Việt Nam về thương mại hàng hóa
và thương mại dịch vụ.
3.1. Thuận lợi
❖ Ký kết một số hiệp định thương mại tạo điều kiện thuận lợi cho hợp tác thương mại
giữa cả 2 nước.
● Hiệp định thương mại đa phương



- Hiệp định thương mại hàng hóa ASEAN (ATIGA): được ký vào tháng 2/2009, có
hiệu lực từ ngày 17/05/2010. Hiệp Định điều chỉnh tồn bộ hoạt động thương mại
hàng hóa trong nội khối và được xây dựng trên cở sở cam kết về cắt giảm hoặc loại
bỏ các loại thuế quan.
- Hiệp định khung về dịch vụ của ASEAN (AFAS): được ký ngày 15/12/1995. Các
nước ASEAN từng bước đàm phán về tự do hóa thương mại dịch vụ thơng qua các
Gói cam kết về dịch vụ. Các gói cam kết về mở cửa dịch vụ trong khuôn khổ Hiệp
định AFAS chỉ bao gồm 3 phương thức cung cấp dịch vụ: Cung cấp dịch vụ qua
biên giới, Tiêu dùng ở nước ngoài và Hiện diện thương mại.
- Hiệp định đầu tư toàn diện ASEAN (ACIA): được ký vào ngày 26/02/2009 và có
hiệu lực từ ngày 29/03/2012. 4 nội dung chính của ACIA bao gồm: Tự do hóa đầu
tư, Bảo hộ đầu tư, Thuận lợi hóa đầu tư và Xúc tiến đầu tư.
- Hiện nay Việt Nam đã tham gia ký kết 15 FTA trong đó có 9 FTA có sự tham gia
đồng thời của cả Việt nam và Singapore.
- Hiện định Đối tác kinh tế toàn diện khu vực ký kết vào 15/11/2020. Hiệp định được
đưa ra nhằm giảm thiểu thuế quan và quan liêu. Nó bao gồm việc thống nhất các
quy tắc xuất xứ thơng qua khối, có thể tạo điều kiện cho chuỗi cung ứng quôc stees
và trao đổi trong tồn khu vực. Nó cũng bao gồm việc cấm các loại thuế quan nhất
định.
● Hiệp định thương mại song phương:
-

Hiệp định thương mại giữa Việt Nam và Singapore: được ký kết vào 24/09/1992
tại Singapore với mong muốn phát triển và tăng cường quan hệ kinh tế và thương
mại giữa hai nước trên cơ sở bình đẳng và cùng có lợi.

- Vào ngày 21/6/2021 vừa qua, Việt Nam-Singarope nhất trí thành lập nhóm cơng tác
kỹ thuật chung về Đối tác kỹ thuật số, xem xét tiềm năng phát triển hiệp định
thương mại số song phương. Sáng kiến này diễn ra ngay trước thêm Đối thoại chính

sách cấp cao của Hội nghị Á – Âu.


- Một số chính sách thương mại của Việt Nam dành cho Singapore: cắt giảm thuế còn
0-5% đối với các hàng hố bn bán thuộc nghành chế tạo, tư liệu sản xuất, chế
biến nông sản; cho phép nhà đầu tư Singapore có thể đầu tư tại Việt Nam dưới mọi
hình thức; nhà đầu tư Singapore làm việc trong các xí nghiệp có vốn đầu tư nước
ngồi được phép chuyển thu nhập về nước sau khi nộp thuế thu nhập theo luật định;
ký 1 số hiệp định như Hiệp định hàng hải thương mại, Hiệp định về vận chuyển
hàng không, Hiệp định thương mại…
- Một số chính sách thương mại của Singapore dành cho Việt Nam: thương nhân
Singapore nhập khẩu hàng Việt Nam không phải nộp thuế 0,5% giá trị hàng nhập
khẩu nữa; tạo điều kiện cho các công ty xuất nhập khẩu Việt Nam thành lập văn
phòng đại diện tại Singapore; thời gian làm thủ tục visa vào Singapore giảm từ 3
tuần xuống cịn 1 tuần, trong đó quy định quá cảnh 36h không cần xin visa…
● Hiệp định Đối tác kinh tế toàn diện khu vực ký kết vào 15/11/2020
− Hiệp định được đưa nhằm để giảm thiểu thuế quan và quan liêu. Nó bao gồm việc
thống nhất các quy tắc xuất xứ thơng qua khối, có thể tạo điều kiện cho chuỗi cung
ứng quốc tế và trao đổi trong tồn bộ khu vực. Nó cũng bao gồm việc cấm các loại
thuế quan nhất định.
❖ Về phía Singarope: Với vị trí địa lý thuận lợi, hệ thống pháp luật đầy đủ và nghiêm
ngặt, chính sách phát triển kinh tế ổn định, Singapore đã thu hút hầu hết các tập đồn
cơng ty lớn trên thế giới mở các văn phịng đại diện, chi nhánh các công ty tại
Singapore và thông qua các công ty này để buôn bán trực tiếp với Việt Nam và các
nước trong khu vực.
❖ Về phía Việt Nam: Việt Nam là một nước nông nghiệp lực lượng lao động dồi dào,
nguồn tài nguyên thiên nhiên đa dạng và phong phú, diện tích đất nơng nghiệp nhiều
nên Singapore có thể nhập từ Việt Nam các sản phẩm hàng nông nghiệp nhiệt đới
như gạo, cà phê, cao su, hạt điều… Singapore có một nghành cơng nghiệp hiện đại
nên Việt Nam có thể nhập từ Singapore các sản phẩm của ngành này như máy móc

thiết bị, linh kiện điện tử, linh kiện ô tô xe máy…


❖ Việt Nam, Singapore cịn có vị trí địa lý gần nhau rất thuận lợi cho việc luân chuyển
hàng hoá, vì vậy trong những năm qua, trao đổi bn bán giữa hai nước diễn ra mạnh
mẽ.
3.2. Khó khăn
❖ Trong tổng kim ngạch xuất nhập khẩu với Singapore, kim ngạch nhập khẩu lớn hơn
rất nhiều so với kim ngạch xuất khẩu và ngày càng có xu hướng tăng cao. Nhóm mặt
hàng Việt Nam nhập khẩu từ Singapore là những mặt hàng cơng nghiệp, có giá trị
cao, dẫn đến tổng kim ngạch nhập khẩu cũng cao. Trong khi đó nhóm mặt hàng xuất
khẩu lại là hàng nông sản, giá trị thấp. Việt Nam đã phải trả nhiều ngoại tệ hơn so với
mức cần thiết để nhập hàng hóa về từ Singapore.
❖ Hiện nay Singapore tập trung nhập khẩu vào một nhóm sản phẩm cơng nghiệp là
chính để sau khi gia cơng, lắp ráp, chế biến sẽ tái xuất nhằm thu về giá trị gia tăng
cao hơn, như thế, hàng nguyên liệu thô sơ chế của Singapore giảm cả về khối lượng
và kim ngạch.
❖ Có các nhân tố khác ảnh hưởng đến sự phát triển quan hệ kinh tế thương mại – đầu tư
giữa hai nước như: sự phát triển mạnh của các định chế toàn cầu (WTO, WB, IMF,
Liên hợp quốc…), sự phát triển của các công ty xuyên quốc gia và đa quốc gia… tạo
ra những cơ hội cũng như sự cạnh trong trong thương mại hai nước.
❖ Việc chuyên chở hàng hố đều do Singapore đảm nhiệm, vì thế chúng ta chưa khai
thác được các hàng hố vơ hình như vận tải đường biển – cước phí vận tải (F), bảo
hiểm hàng hải (I)… tức chúng ta cũng tự đánh mất một khoản ngoại tệ trong buôn
bán với Singapore.
❖ Hệ thống pháp luật của Việt Nam chưa hoàn chỉnh và chưa đồng bộ. Hệ thống pháp
lý để xử lý khi tranh chấp trong ngoại thương phát sinh còn chưa rõ ràng, thường
xuyên thay đổi khiến cho các đơn vị kinh doanh xuất nhập khẩu Singapore lo ngại.



4. Tiềm năng và triển vọng hợp tác kinh tế trong những năm tới
− Cách mạng công nghiệp 4.0 đang đem lại rất nhiều cơ hội và thách thức giúp Việt
Nam ưu tiên phát triển nền kinh tế theo hướng số hóa với các mũi nhọn quốc gia như
cơng nghệ thông tin (CNTT), đô thị thông minh, logistics, các dự án khởi nghiệp sáng
tạo, phát triển hạ tầng, năng lượng, dịch vụ chất lượng cao, thương mại điện tử… .
Singapore – Việt Nam có thể cùng nhau hợp tác nhiều hơn trong những lĩnh vực công
nghệ và đổi mới, kết nối hàng không và hàng hải, lương thực và nông nghiệp, thương
mại và đầu tư.
− 3 lĩnh vực mới đầy hứa hẹn trong hợp tác kinh tế giữa hai nước:
+ Lĩnh vực thứ nhất là đổi mới và khởi nghiệp. Việt Nam có nhiều thanh niên có trí sáng
tạo. Năm 2019, Việt Nam đứng ở vị trí 42 trong Chỉ số Sáng tạo Toàn cầu, tăng 17
bậc từ năm 2016. Điều này đã tạo ra một hệ sinh thái khởi nghiệp thu hút làn sóng
quan tâm từ các nhà đầu tư. Singapore mong muốn đầu tư vào tiềm năng sáng tạo của
Việt Nam. Tháng trước, chúng tôi đã ra mắt Liên minh Sáng tạo Toàn cầu (GIA) tại
TP.HCM, tạo điều kiện cho việc tương tác gần gũi hơn nữa giữa hai hệ thống đổi mới
và khởi nghiệp tại Singapore, Việt Nam.
+ Lĩnh vực hợp tác đầy hứa hẹn thứ hai là thành phố thông minh. Mạng lưới Các thành
phố thông minh ASEAN được thành lập năm ngoái khi Singapore giữ chức Chủ tịch
ASEAN. Mạng lưới này đã mang lại nhiều cơ hội cho Singapore chia sẻ kinh nghiệm
trong việc xây dựng quốc gia thông minh với Việt Nam, đặc biệt là với các thành phố
thí điểm trong khn khổ mạng lưới này, gồm Hà Nội, Đà Nẵng, TP.HCM.
Các doanh nghiệp Singapore háo hức tìm kiếm các cơ hội để đóng góp vào việc xây
dựng các thành phố thơng minh của Việt Nam, từ các giải pháp đơ thị đến chính phủ
điện tử, nhằm phát triển các dịch vụ công, đảm bảo tính tiện lợi và chất lượng cuộc
sống của người dân Việt Nam.


+ Lĩnh vực thứ ba là các giải pháp đô thị. Việt Nam đang đơ thị hóa rất nhanh, với 819
thành phố lớn nhỏ và theo số liệu năm 2018, 38% dân số Việt Nam sống tại các khu
đô thị. Điều này mang lại nhiều cơ hội trong ba khía cạnh chính.

− Tháng 7 năm 2019, Enterprise Singapore và Liên đoàn Doanh nghiệp Singapore đã
dẫn đoàn doanh nghiệp lớn nhất trong những năm gần đây sang Việt Nam để tìm kiếm
các cơ hội. Chuyến thăm này cũng đánh dấu việc ra mắt Hội đồng Doanh nghiệp
Singapore – Việt Nam. Đây là diễn đàn cho cộng đồng doanh nghiệp hai nước thắt
chặt hợp tác hơn nữa.
− Ngược lại, Việt Nam cần đẩy mạnh hợp tác với Singapore trong những lĩnh vực mà
Singapore có thế mạnh, giúp gia tăng giá trị nhanh chóng và phát triển bền vững như
số hóa nền kinh tế, áp dụng cơng nghệ cao, xây dựng chính phủ kiến tạo, quy hoạch
đô thị thông minh, dịch vụ thương mại điện tử, tài chính, ngân hàng, dịch vụ logistic,
năng lượng sạch, năng lượng tái tạo…
− Hướng tới tương lai, các nỗ lực hội nhập khu vực được duy trì sẽ giúp xóa bỏ dần các
rào cản như ngơn ngữ và văn hóa, khuyến khích nhân dân hai nước tìm kiếm cơ hội
sống, làm việc và kinh doanh trên lãnh thổ hai quốc gia.


Tài liệu tham khảo:
wits.worldbank.org
customs.gov.vn
tuyengiao.vn
singstat.gov.sg
VnExpress.vn



×