Tải bản đầy đủ (.docx) (79 trang)

CẠNH TRANH KINH tế mỹ TRUNG QUỐC GIAI đoạn 2017 2020

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (422.37 KB, 79 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC DUY TÂN
KHOA KHOA HỌC XÃ HỘI NHÂN VĂN

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP

CẠNH TRANH KINH TẾ MỸ - TRUNG QUỐC GIAI
ĐOẠN 2017 - 2020
Chuyên ngành: Quan Hệ Quốc Tế

GVHD: TS. VŨ THỤY TRANG
SVTH: TRỊNH THỊ CÚC HOA
LỚP: K23-VQH
MSV: 23203510322

ĐÀ NẴNG, 2021


LỜI CÁM ƠN
Để hồn thành khóa luận này, ngồi sự nỗ lực của bản thân, đề tài “Cạnh
tranh kinh tế Mỹ - Trung Quốc giai đoạn 2017 - 2020” được hồn thành nhờ sự
hướng dẫn tận tình, chu đáo của TS. Vũ Thụy Trang – Viện Nghiên cứu Châu Âu Viện Hàn lâm KHXH NV – Hà Nội.
Tôi cũng xin bày tỏ lịng biết ơn đến các thầy cơ giáo trong khoa Khoa học xã
hội và nhân văn, trường Đại học Duy Tân nói chung, các thầy cơ giảng dạy chuyên
ngành Quan hệ quốc tế nói riêng đã dạy dỗ cho tôi kiến thức về các môn đại cương
cũng như các mơn chun ngành, giúp tơi có xây dựng được nền tảng kiến thức
vững vàng và tạo điều kiện giúp đỡ tơi trong suốt q trình học tập.
Cuối cùng, tơi xin chân thành cảm ơn gia đình và bạn bè, đã luôn tạo điều
kiện, động viên tôi trong suốt quá trình học tập và hồn thành khóa luận tốt nghiệp.
Xin chân thành cảm ơn!



LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan khóa luận tốt nghiệp “Cạnh tranh kinh tế Mỹ - Trung Quốc giai
đoạn 2017 - 2020” là đề tài của bản thân, được thực hiện dưới sự hướng dẫn của TS.
Vũ Thụy Trang – Viện Nghiên cứu Châu Âu - Viện Hàn lâm KHXH NV – Hà Nội.
Nội dung của khóa luận có tham khảo, trích dẫn và sử dụng các tài liệu,
thơng tin được đăng tải trên các tác phẩm, báo, tạp chí và mạng internet theo danh
mục tài liệu tham khảo của khóa luận. Các số liệu, kết quả trình bày trong khóa luận
là hồn tồn trung thực. Nếu có bất kỳ vấn đề gì, tơi xin hồn tồn chịu trách nhiệm.
Xin chân thành cảm ơn!
Đà Nẵng, ngày 04 tháng 01 năm 2022
Tác giả khóa luận

Trịnh Thị Cúc Hoa

MỤC LỤC



DANH MỤC CÁC BẢNG

DANH MỤC CÁC HÌNH


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
Chữ viết tắt

Tiếng Anh

Tiếng Việt


APEC

Asia - Pacific Economic
Cooperation

Hợp tác kinh tế châu Á Thái Bình Dương

ARF

ASEAN Regional Forum

Diễn đàn Khu vực ASEAN

ASEAN

Association of Southeast Asian
Nations

Hiệp hội các quốc gia Đông
Nam Á

CPTPP

Comprehensive and Progressive
Agreement for Trans - Pacific
Partnership

Hiệp định Đối tác Toàn diện
và Tiến bộ xuyên Thái Bình
Dương


EFTA

European Free Trade Association

Hiệp hội Thương mại tự do
Châu Âu

EU

European Union

Liên minh châu Âu

EVFTA

European - Vietnam Free Trade
Agreement

Hiệp định thương mại tự do
Liên minh châu Âu - Việt
Nam

FDI

Foreign Direct Investment

Đầu tư trực tiếp của nước
ngoài


FTA

Free Trade Area

Hiệp định thương mại tự do

OECD

Organization for Economic
Cooperation and Development

Tổ chức Hợp tác và Phát
triển Kinh tế

RCEP

Regional Comprehensive
Economic Partnership

Hiệp hội Đối tác Kinh tế
Toàn diện Khu vực

WTO

World Trade Organization

Tổ chức Thương mại Quốc tế


7


PHẦN MỞ ĐẦU
1.

Lý do chọn đề tài
Quan hệ Mỹ và Trung Quốc là cặp quan hệ quan trọng và phức tạp hàng đầu

trong quan hệ quốc tế nói chung cũng như trong kinh tế nói riêng từ sau chiến tranh
thế giới thứ hai đến nay và có lẽ trong cả tương lai. Cặp quan hệ Mỹ - Trung Quốc
đã và đang trở thành tâm điểm và đóng vai trị then chốt trong định hình cục diện
tồn thế giới. Cuộc canh tranh diễn ra giữa hai nền kinh tế lớn trên lĩnh vực kinh tế,
khơng sử dụng binh lính, vũ khí hay súng đạn mà là mặt trận vơ cùng nóng bỏng,
đầy căng thẳng và phức tạp đó là “cạnh tranh kinh tế” được xem là trung tâm căng
thẳng kinh tế toàn cầu.
Kinh tế Mỹ dưới thời Tổng thống Donald Trump với dấu ấn tăng trưởng kinh
tế ấn tượng.Tỷ lệ thất nghiệp tại Mỹ xuống thấp nhất kể từ thập niên 60, tốc độ tăng
trưởng thu nhập của các hộ gia đình bùng nổ và lạm phát được kiềm chế. Tình trạng
nghèo đói và bất bình đẳng thu nhập được thu hẹp, khi tăng trưởng lương và tài sản
của người Mỹ có thu nhập và trình độ giáo dục thấp tăng nhanh nhất trong các
nhóm. Mỹ tăng trưởng với tốc độ trung bình 2,5%. Tốc độ này được đánh giá khá
vững chắc. Thu nhập trung bình của các hộ gia đình - chuẩn mực đánh giá chất
lượng sống - tăng thêm 6.000 USD trong 3 năm đầu nhiệm kỳ của Trump. Trong
suốt hơn 10 năm trước đó, con số này chỉ tăng hơn 250 USD. Tuy nhiên, tất cả
những xu hướng tích cực này đã đột ngột đảo chiều khi đại dịch COVID-19 lây lan
đến Mỹ đầu năm 2020.
Trung Quốc đã vượt Mỹ và trở thành quốc gia giàu có nhất thế giới, với tài
sản rịng lên tới 120 nghìn tỷ USD vào năm 2020, so với 90 nghìn tỷ của Mỹ. Vượt
lên là nền kinh tế có quy mơ GDP lớn thứ 2 thế giới. Mức đóng góp trung bình của
Trung Quốc vào tăng trưởng kinh tế thế giới khoảng 30%, lớn nhất trong tất cả các
quốc gia và cao hơn cả mức đóng góp của Mỹ, EU và Nhật Bản. Thu nhập của

người dân được nâng cao, với mức bình quân đầu người tăng từ 8.147 USD/người
năm 2016 lên 10.500 USD/người năm 2020, tỷ lệ tăng hằng năm là 7,4%. Số người
nghèo ở nơng giảm mạnh, cịn ở mức trên 20 triệu người nghèo. Mạng lưới an sinh


8

xã hội đã được hình thành rộng khắp. Bảo hiểm dưỡng lão xã hội đã bao phủ tới 900
triệu dân, bảo hiểm y tế cơ bản đã tới hơn 1,3 tỷ người dân.
Kể từ khi Trung Quốc trở thành thành viên WTO (2001) và sự trỗi dậy ngày
một lớn mạnh của Trung Quốc dần trở thành thách thức lớn đối với Mỹ cũng như
các nước trong khu vực và thế giới. Bên cạnh việc tích cực tăng cường và đa dạng
hóa hợp tác song phương về kinh tế thì những bất đồng, căng thẳng về cả kinh tế và
chính trị ngày một nhiều hơn. Đặc biệt, từ giai đoạn 2017 trở lại đây, hai cường
quốc kinh tế ln có những mâu thuẫn kinh tế khó giải quyết và kết quả cho những
mâu thuẫn là cuộc cạnh tranh thương mại giữa hai bên đã diễn ra vào ngày
22/03/2018 khi Tổng thống Mỹ Donald Trump tuyên bố sẽ áp dụng mức thuế 50 tỷ
USD cho hàng hóa Trung Quốc dựa theo Mục 301 của Đạo luật Thương mại năm
1974, để ngăn chặn những gì Mỹ cho là hành vi thương mại khơng cơng bằng và
hành vi trộm cắp tài sản trí tuệ. Những quyết định này của Mỹ đã em lại nhiều thiệt
hại cho nền kinh tế Trung Quốc, vì vậy Trung Quốc cũng đáp trả lại bằng cách áp
thuế quan mạnh mẽ vào hàng hóa nhập khẩu vào quốc gia này từ Mỹ. Các biện
pháp thuế quan trừng phạt lẫn nhau tiếp tục được thực hiện giữa hai quốc gia và
thiệt hại nhất định mà cuộc cạnh tranh kinh tế đem lại trong suốt thời gian này đối
với Mỹ, Trung Quốc, khu vực và cả nền kinh tế thế giới là điều không thể tránh
khỏi và Việt Nam cũng không nằm ngồi vịng xốy đó.
Cạnh tranh kinh tế Mỹ - Trung Quốc giai đoạn 2017 - 2020 đã ảnh hưởng
đến nền kinh tế tồn cầu bị cầu suy giảm, các dịng đầu tư suy yếu, các thị trường tài
chính tài chính mất ổn định khiến cho tăng trƣởng kinh tế bị ảnh hưởng trên quy
mô rộng cũng như nền kinh tế hai nước Mỹ và Trung Quốc. Việt Nam cũng chịu tác

động không nhỏ của cuộc cạnh tranh này, làm ảnh hưởng đến nền kinh tế, gián đoạn
các hoạt động xuất - nhập khẩu và từ tư từ nước ngoài vào cũng bị suy giảm. Dự
báo cạnh tranh kinh tế Mỹ - Trung Quốc vẫn sẽ tiếp tục là trung tâm của căng thẳng
kinh tế toàn cầu và dự báo sẽ tiếp tục leo thang với diễn biến khó lường trong thời
gian tới.


9

Xuất phát từ những lý do trên, tôi đã lựa chọn đề tài “cạnh tranh kinh tế
Mỹ - Trung Quốc giai đoạn 2017 - 2020” để phân tích rõ thực trạng của cạnh tranh
kinh tế Mỹ - Trung Quốc, và những tác động của cạnh tranh làm ảnh hưởng đến thế
giới, khu vực và cả Việt Nam. Từ đó, đưa ra một số nhận xét về tình hình cạnh tranh
kinh tế Mỹ - Trung Quốc trong giai đoạn từ 2017 đến 2020.
2.

Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Cạnh tranh kinh tế Mỹ - Trung Quốc giai đoạn từ năm 2017 đến năm 2020

dưới thời Tổng thống Donald Trump là một vấn đề thu hút rất nhiều sự quan tâm
của các nhà nghiên cứu quan tâm và có nhiều cơng trình, bài báo, chuyên đề nghiên
cứu về vấn đề này, cụ thể là:
D. C. Tuan (2017) với bài viết "Adjustments of the US strategy of “pivot of
the axis of the Asia-Pacific” in the coming time and Vietnam’s responses"
(International Study Review). Bài viết đã phân tích chính sách của Mỹ đối với khu
vực châu Á - Thái Bình Dương, Trung Quốc và Việt Nam, từ đó đưa ra một số kiến
nghị của Việt Nam để ứng phó với tình hình khu vực và thế giới.
Bùi Ngọc Sơn (2018) với bài báo “Cuộc chiến thương mại Mỹ - Trung và
những tác động đối với Việt Nam” đã nghiên cứu tổng quan nguyên nhân và diễn
biến của chiến tranh thương mại Mỹ - Trung Quốc, những tác động của chiến tranh

thương mại đối với Việt Nam.
Hoàng Thị Thúy (2019) với bài viết “Chiến tranh thương mại Mỹ - Trung và
vấn đề đặt ra đối với kinh tế Việt Nam” (Tạp chí điện tử Tài chính). Bài viết đã phân
tích tình hình chiến tranh thương mại Mỹ - Trung Quốc và những tác động đến nền
kinh tế Việt Nam. Từ đó, tác giả đề xuất một số kiến nghị đối với kinh tế Việt Nam
trong bối cảnh cạnh tranh thương mại Mỹ - Trung Quốc.
Tác giả Phạm Ngọc Anh (2020), “Chiến tranh thương mại Mỹ - Trung và an
ninh quốc gia trong tình hình mới” (Nxb Chính trị Quốc gia sự thật) đã cung cấp
những tư liệu về thực trạng và tác động của chiến tranh thương mại Mỹ - Trung
Quốc đối với Việt Nam, đưa ra một số dự báo chiến tranh thương mại Mỹ - Trung
Quốc và những vấn đề đặt ra đối với an ninh quốc gia trong tình hình mới.


10

Mỹ Châu (2021) với bài báo “Tác động của phân tách Mỹ - Trung đến cục
diện thế giới và khu vực châu Á - Thái Bình Dương” (Tạp chí Nghiên cứu quốc tế
Khoa học và Đào tạo Ngân hàng, số 124/2021) đã phân tích những tác động của
chiến tranh thương mại đến nền kinh tế toàn cầu và các khu vực từ đó đưa ra các
giải pháp cho doanh nghiệp và nhà nước Việt Nam trước diễn biến khó đốn của
cuộc chiến thương mại Mỹ - Trung Quốc.
Những cơng trình trên đây cung cấp nhiều tư liệu khoa học, đáng tin cậy giúp
tôi kế thừa, tham khảo và sử dụng trong đề tài nghiên cứu. Các chuyên khảo trên
cũng đã gợi mở một số ý tưởng khoa học trong khi thực hiện đề tài nghiên cứu..
Tóm lại, hiện nay có nhiều cơng trình đã nghiên cứu về chủ đề này và để cập
đến nhiều khía cạnh và góc độ khác nhau. Đề tài khóa luận là sự tiếp nối các nghiên
cứu đã có, đồng thời phát triển thêm những vấn đề này ở những điểm sau: cơ sở
thực tiễn cạnh tranh kinh tế Mỹ - Trung Quốc giai đoạn 2017 - 2020, thực trạng của
cạnh tranh kinh tế Mỹ - Trung Quốc giai đoạn 2017 - 2020 và đưa ra một số nhận
xét về cạnh tranh kinh tế Mỹ - Trung Quốc giai đoạn 2017 - 2020.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Cạnh tranh kinh tế
- Phạm vi nghiên cứu:
+ Về không gian: nước Mỹ và Trung Quốc.
+ Về thời gian: giai đoạn từ năm 2017 đến năm 2020.
4. Mục tiêu nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của khóa luận là làm rõ cuộc cạnh tranh kinh tế giữa hai
nước Mỹ và Trung Quốc trong giai đoạn từ năm 2017 đến năm 2020 và tác động
của cạnh tranh kinh tế giữa hai nước này đối với thế giới và một số nước.
Để đạt được mục tiêu nghiên cứu trên, khóa luận sẽ thực hiện những nhiệm vụ
nghiên cứu sau:
- Phân tích cơ sở thực tiễn, tình hình kinh tế khu vực châu Á - Thái Bình
Dương và khái quát mối quan hệ kinh tế Mỹ - Trung Quốc trước năm 2017 (dưới
thời Tổng thống B.Obama).
- Làm rõ các hình thức cạnh kinh tế giữa Mỹ - Trung Quốc và tác động đến thế
giới và một số nước khu vực giai đoạn 2017 - 2020.


11

- Đưa ra một số đặc điểm của cạnh tranh kinh tế Mỹ - Trung Quốc giai đoạn
2017 - 2020, dự báo của cạnh tranh kinh tế Mỹ - Trung Quốc và đưa một số kiến
nghị đối với Việt Nam.
5. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp luận: Để giải quyết vấn đề đặt ra, về mặt phương pháp luận
chúng tôi dựa vào lý luận chủ nghĩa Mác Lênin với chủ nghĩa duy vật biện chứng
và chủ nghĩa duy vật lịch sử cùng tư tưởng Hồ Chí Minh làm khung phân tích và
tiếp cận để giải quyết các vấn đề của đề tài.
Phương pháp nghiên cứu: Đề tài sử dụng phương pháp lịch sử, phương pháp
logic và phương pháp nghiên cứu trong quan hệ quốc tế, nhằm giải quyết vấn đề đặt

ra. Ngồi ra, đề tài cịn sử dụng một số phương pháp khác như: tổng hợp, thống kê,
phân tích, đối chiếu, so sánh... để giải quyết các nội dung liên quan.
Do đặc thù của lĩnh vực nghiên cứu nên việc thu thập dữ liệu sơ cấp khó có
thể thực hiện được. Bởi vậy dữ liệu được sử dụng trong luận văn là dữ liệu đã cơng
bố- cịn gọi là dữ liệu thứ cấp từ các nguồn tin cậy của các tổ chức uy tín trong nước
và quốc tế.
6. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, đề tài được chia làm ba
chương:
Chương 1. Cơ sở thực tiễn cạnh tranh kinh tế Mỹ - Trung Quốc giai đoạn 2017 2020
Chương 2. Thực trạng cạnh tranh kinh tế Mỹ - Trung Quốc giai đoạn 2017 - 2020
Chương 3. Một số nhận xét về cạnh tranh kinh tế Mỹ - Trung Quốc giai đoạn 20172020


12

CHƯƠNG 1
CƠ SỞ THỰC TIỄN CẠNH TRANH KINH TẾ MỸ - TRUNG QUỐC
GIAI ĐOẠN 2017 - 2010
1.1. Cơ sở thực tiễn
Hiện nay, Mỹ và Trung Quốc là hai quốc gia có nền kinh tế lớn thứ nhất và
thứ hai thế giới, có vai trị tác động, chi phối mạnh mẽ đến cục diện chính trị trên
thế giới. Bởi vậy, phần lớn các chuyên gia về kinh tế - chính trị, giới nghiên cứu
chiến lược trên toàn thế giới đề đồng quan điểm khi cho rằng: Cạnh tranh kinh tế
Mỹ - Trung Quốc từ khi xảy ra cho đến nay mang dáng vóc như một “cuộc chiến
tranh cấp sử thi”. Để tiếp cận vấn đề mang tính thời sự nóng bỏng này, nhất thiết
cần phải đi sâu nghiên cứu, phân tích, đánh giá về những vấn đề mang tính cốt lõi,
nổi cộm trong quan hệ kinh tế Mỹ - Trung Quốc. Theo đó, để khái quát cạnh tranh
kinh tế Mỹ - Trung Quốc giai đoạn từ năm 2017 đến năm 2020, cần tiếp cận tình
hình kinh tế khu vực châu Á - Thái Bình Dương, kinh tế Mỹ và Trung Quốc, khái

quát mối quan hệ kinh tế Mỹ - Trung Quốc trước năm 2017, qua đó có cái nhìn tổng
quan về cạnh tranh kinh tế Mỹ - Trung Quốc giai đoạn 2017 - 2020, sự kiện này
đang là trung tâm của căng thẳng kinh tế tồn cầu.
1.2. Tình hình kinh tế khu vực châu Á – Thái Bình Dương
Châu Á – Thái Bình Dương được coi là khu vực "nhộn nhịp" nhất thế giới.
Nơi đây chiếm 40% tổng diện tích lãnh thổ, 41% dân số (gần 3,6 tỷ người), 61%
GDP, 47% tổng thương mại quốc tế và 48% nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
của thế giới.[6, tr.114] Khu vực cũng sở hữu nhiều tuyến hải quan trọng nhất cũng
như kho lưu trữ tài nguyên lớn. Từ sau cuộc khủng hoảng kinh tế 1997 và 2008,
châu Á – Thái Bình Dương nhanh chóng phục hồi và phát triển mạnh mẽ cùng với
sự ra đời của các chuỗi hiệp hội thương mại tự do (FTA) như: Hiệp định Đối tác
Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), Hiệp định Thương mại Tự
do Mỹ - Hàn (KORUS FTA), Hiệp định Đối tác Kinh tế Toàn diện Khu vực
(RCEP)... Hầu hết các nền tảng kinh tế mới nổi và các cơ chế lớn đều tập trung tại
đây như: Ấn Độ, Đài Loan, Hàn Quốc, Indonesia, Jordan, Malaysia, Pakistan, Việt


13

Nam, Philippines, Thái Lan; Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), Diễn
đàn Kinh tế châu Á – Thái Bình Dương (APEC), Diễn đàn An ninh Khu vực
(ARF)...
Châu Á - Thái Bình Dương là khu vực tập trung các nước lớn, trung tâm lực
lượng lớn, trong tương lai một số nhà chiến lược đánh giá cao phần lớn tập trung tại
châu Á - Thái Bình Dương, đặt biệt là các nước lớn không phải là đồng minh mà là
“đối thủ cạnh tranh” của Mỹ như Trung Quốc, Nga và Ấn Độ. Nhằm tăng cường ưu
thế trong cạnh tranh ảnh hưởng tại khu vực châu Á - Thái Bình Dương, Mỹ muốn
mượn cớ nhằm trang bị bảo vệ an ninh để tăng cường ưu thế quân sự. Tình hình ở
khu vực châu Á - Thái Bình Dương khá phức tạp và tập trung nhiều mâu thuẫn,
xung đột lợi ích là vấn đề điểm nóng, các mối đe dọa an ninh như vũ khí hạt nhân

dẫn đến nhiều nước đua nhau tăng chi phí qn sự từ đó làm cho khu vực châu Á Thái Bình Dương xuất hiện xu thế chạy đua vũ trang. Ngoài ra, khu vực châu Á Thái Bình Dương là một trong những trung tâm kinh tế thế giới hiện nay với tốc độ
phát triển kinh tế nhanh chóng, và vượt bậc, Mỹ sẽ có lợi ích lớn ở khu vực này, nếu
khu vực này có biến động thì lợi ích của Mỹ cũng sẽ bị tổn hại. Diễn đàn khu vực
châu Á - Thái Bình Dương hội tụ nền kinh tế năng động nhất hiện nay bao gồm 21
thành viên: Mỹ, Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Canada, Nga, Mexico, Việt
Nam… và một số nước, khu vực lãnh thổ khác, có 2,6 tỷ người tiêu thụ, tổng sản
phẩm quốc nội (GDP), chiếm 47% giá trị trao đổi hàng hóa tồn cầu và đóng góp
70% tỷ lệ tăng trưởng kinh tế thế giới.[13]
Châu Á - Thái Bình Dương là một thị trường tiêu thụ rộng lớn, với nhu cầu
rất đa dạng làm cho các nền kinh tế trong khu vực có sự chênh lệch khá lớn về mật
độ phát triển. Các nước công nghiệp như: Mỹ, Nhật Bản, Canada... Có tiềm lực lớn
về vốn, cơng nghệ, là các thị trường xuất nhập khẩu lớn trên thế giới. Các nước
đang phát triển như Trung Quốc, ASEAN... Được đánh giá là phát triển năng động
hàng đầu thế giới,đặc biệt là nền kinh tế Trung Quốc. Các ngành kinh tế mới cơng
nghiệp hóa như Hàn Quốc, Đài Loan, Singapore… Có tiềm lực về vốn và cơng
nghệ, có khả năng cạnh tranh rất mạnh trong những lĩnh vực yêu cầu công nghệ


14

trung gian. Thêm vào đó, châu Á - Thái Bình Dương cũng là khu vực hiện đang đi
đầu trong việc tự do hóa thương mại và đầu tư, tạo điều kiện cho việc luân chuyển
hàng hóa giữa các nước trong khu vực. Trong những năm đầu thế kỷ XXI, châu Á Thái Bình Dương trở thành động lực vừa thúc đẩy hợp tác kinh tế vừa thúc đẩy sự
cạnh tranh ảnh hưởng giữa Mỹ và Trung Quốc. Có thể nói, sự phát triển năng động
của khu vực châu Á - Thái Bình Dương này là một trong những nhân tố có ảnh
hưởng lớn đến điều chỉnh chính sách đối ngoại của Mỹ đối với Trung Quốc từ năm
2001 và dự đốn sẽ tiếp tục chi phối sự điều chỉnh chính sách đối ngoại của Mỹ đối
với Trung Quốc trong thời gian tới.
Sau chiến tranh lạnh, Mỹ đã chuyển trọng tâm chiến lược sang khu vực châu
Á - Thái Bình Dương, khu vực này ngày càng chiếm vị trí đặc biệt trong cả lĩnh vực

kinh tế, chính trị lẫn trong chiến lược an ninh quân sự của Mỹ. Hơn nữa, việc Trung
Quốc đang trỗi dậy và ảnh hưởng ngày càng mở rộng ra khu vực châu Á - Thái
Bình Dương gây ra sự cạnh tranh ảnh hưởng đối với vị thế và vai trò lãnh đạo của
Mỹ tại khu vực này đã khiến cho khơng ít người trong chính giới Mỹ hết sức lo ngại
về vấn đề này.
Mặc khác, Trung Quốc đang trỗi dậy và ngày càng có sự ảnh hưởng ở khu
vực châu Á - Thái Bình Dương gây ra sự cạnh tranh ảnh hưởng đối với vị thế và vai
trò lãnh đạo của Mỹ tại khu vực này đã khiến khơng ít người trong chính giới Mỹ
hết sức lo ngại về điều này.
Trong quá trình phát triển khu vực châu Á - Thái Bình Dương, mối quan hệ
giữa Mỹ và Trung Quốc đóng vai trị rất quan trọng. Mối quan hệ này được củng cố
bằng mức tăng trưởng đáng kể của khu vực, sự hợp tác phát triển giữa hai quốc gia
và lợi ích mà hai quốc gia này thu lợi được từ sự ổn định của khu vực này.
Có thể thấy trong tương lai, kinh tế khu vực châu Á - Thái Bình Dương sẽ
phải đối đầu với những rủi ro mới về kinh tế, chính trị. Sự suy thối của nền kinh tế
Mỹ có thể ảnh hưởng đến sự tăng trưởng kinh tế của khu vực châu Á - Thái Bình
Dương. Khu vực châu Á - Thái Bình Dương sẽ phải đối mặt với nhiều khó khăn lớn
như việc thắt chặt tín dụng tồn cầu, các biện pháp điều chỉnh đột ngột trong tỷ giá


15

hối đoái, sự biến động giá dầu và giá cả các mặt hàng khác. Quan hệ Mỹ - Trung
Quốc đóng vai trị rất quan trọng trong khu vực này.
1.3. Tình hình kinh tế Mỹ và Trung Quốc
1.3.1. Kinh tế Mỹ
Mỹ và Trung Quốc hiện là nước đang phát triển nhất nhì thế giới. Tổng sản
phẩm quốc nội (GDP) của hai nước chiếm 1/3 GDP của thế giới. Tổng kim ngạch
xuất nhập khẩu thương mại hàng hóa chiếm 40% tồn thế giới. Là nền kinh tế lớn
thứ nhất và thứ hai của thế giới, Mỹ - Trung Quốc có điều kiện phát huy tiềm năng

hợp tác, mở rộng lĩnh vực hợp tác, nâng cao trình độ hợp tác, từ đó thúc đẩy nền
kinh tế, tài chính và kỹ thuật của hai nước phát triển ở cấp độ cao hơn. Đồng thời, là
hai đầu tàu lớn của nền kinh tế thế giới, hai nước Mỹ - Trung Quốc có trách nhiệm
thúc đẩy kinh tế thế giới tăng trưởng ổn định, thúc đẩy hợp tác quốc tế phát triển.
Mỹ - Trung Quốc là hai nước lớn có ảnh hưởng quan trọng ở hai bờ Đơng - Tây
Thái Bình Dương, đều là thành viên thường trực của Hội đồng Bảo an Liên Hợp
Quốc, phát huy vai trị quan trọng trong các cơng việc quốc tế. Mỹ - Trung Quốc có
thể cống hiến cho cộng đồng quốc tế trong việc duy trì hịa bình ổn định thế giới đặc
biệt là khu vực châu Á - Thái Bình Dương cũng như đối phó với các thách thức
mang tính tồn cầu.[1, tr.29]
Cạnh tranh kinh tế là cuộc cạnh tranh chủ lực chủ yếu đánh vào lĩnh vực
thương mại và đầu tư là bộ phận quan trọng của nền kinh tế. Đối với nền kinh tế Mỹ
thâm hụt về thương mại là vấn đề nổi cộm của nền kinh tế Mỹ trong cạnh tranh với
các nền kinh tế khác, trong đó có Trung Quốc. Vào ngày 20 tháng 01 năm 2017,
Donald John Trump chính thức nhậm chức tổng thống Hoa Kỳ. Ông là Tổng thống
Hoa Kỳ thứ 45. Trước đó, ơng nổi tiếng với vai trị là một tỷ phú, doanh nhân, nhà
sản xuất chương trình truyền hình. Là chủ tịch kiêm tổng giám đốc của The Trump
Organization, Ông cũng đồng thời là người sáng lập Trump Entertainment Resorts.
Mỹ là một quốc gia có thâm hụt thương mại lớn nhất thế giới và đây là vấn
đề muôn thuở của nước Mỹ kể từ năm 1975. Theo công bố của của Bộ Thương mại
Mỹ ngày 06 tháng 03 năm 2019 thì thâm hụt thương mại và hàng hóa dịch vụ của


16

nước này trong năm 2018 là 621 tỷ USD, tăng 68,8 tỷ USD, tương đương tăng
12,5%, so với năm 2017, mức cao nhất trong 10 năm, trong đó những sản phẩm
nhập khẩu nhiều nhất của Mỹ là xe hơi, xăng dầu và điện thoại. Những đối tác
thương mại hàng đầu của Mỹ là Trung Quốc, Canada, Mexico, Nhật Bản, và Đức.
[1, tr.29]

Trung Quốc là bạn hàng lớn nhất của Mỹ. Trong hơn 20 năm qua, giao dịch
kinh tế giữa Mỹ và Trung Quốc tăng lên đáng kể. Giá trị hàng hóa từ Mỹ sang
Trung Quốc tăng lên 30 lần và giá trị hàng hóa Trung Quốc xuất khẩu sang Mỹ năm
2017 so với năm 1985 tăng hơn 130 lần. Xuất khẩu của Trung Quốc vào Mỹ tăng
lên nhanh chóng làm thâm hụt thương mại của Mỹ với Trung Quốc ngày càng tăng.
Thâm hụt thương mại Mỹ - Trung Quốc vào cuối thập kỷ 80 của thế kỷ XX là dưới
10 tỷ USD thì năm 2017 đã lên mức kỷ lục 375 tỷ USD, chiếm 65% tổng thâm hụt
thương mại của Mỹ.[7] Trong lịch sử, nước Mỹ đã từng có thâm hụt thương mại với
nhiều quốc gia. Điển hình có thời điểm thâm hụt thương mại giữa Mỹ với Liên
minh châu Âu lên tới 64,58% (vào thập niên 1980) và với Nhật Bản lên tới 50%
(đầu những năm 1990). Tuy nhiên, trong trường hợp của Trung Quốc, đây không
phải là đồng minh chiến lược của Mỹ và quốc gia này cũng khơng tơn trọng quyền
sở hữu trí tuệ của châu Âu hay Nhật Bản khiến cho nước Mỹ cảm thấy thua thiệt.
Nạn sao chép công nghệ của Trung Quốc là một vấn nạn của nước Mỹ khi Trung
Quốc là “thiên đường hàng nhái”. Trung Quốc có thể sao chép mọi thương hiệu
hàng hóa, từ giày dép, quần áo đến ơ tơ hay cả máy bay. Các quan chức Mỹ khẳng
định rằng, chính sách thương mại của Trung Quốc mang mục đích chính là mua lại
và tiếp thu tài sản trí tuệ của Mỹ cũng như các nước khác trên thế giới để sao chép,
nhưng lại rất thiếu tôn trọng các quy định về bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ. Năm
2013, một nhóm cựu quan chức cấp cao của Mỹ do cựu Đại sứ Mỹ tại Trung Quốc
J. Huntsman cựu Giám đốc Tình báo quốc gia D. Blair đứng đầu đã tiến hành một
cuộc điều tra về nạn ăn cắp bản quyền và vi phạm quyền sở hữu trí tuệ. Báo cáo của
nhóm khẳng định có tới 50 - 80% vụ vi phạm sở hữu trí tuệ nhằm vào Mỹ có nguồn


17

gốc từ Trung Quốc và các hoạt động này khiến nước Mỹ thiệt hại 300 tỷ USD mỗi
năm.[1, tr.29]
Trong bối cảnh cạnh tranh kinh tế giữa hai nước đang diễn ra với nhiều động

thái khó lường, sự tác động rất lớn đối với công ty, doanh nghiệp của cả hai nước.
Cạnh tranh kinh tế Mỹ - Trung Quốc đã đặt các công ty, doanh nghiệp của cả hai
nước vào thế “khó xử”. Có thể thấy rõ, năm 2019 đã có hơn 600 doanh nghiệp Mỹ
đệ đơn hy vọng Tổng thống Trump nhanh chóng kết thúc cạnh tranh kinh tế, trong
đó đa số các doanh nghiệp thuộc các ngành công nghiệp giày dép, nơng sản xuất
khẩu hoặc có dây chuyền sản xuất tại Trung Quốc.
Tóm lại, với những chênh lệch về cán cân thương mại và đầu tư giữa hai
nước cũng như nhiều yếu tố lợi ích bị ảnh hưởng, đặc biệt là thâm hụt thương mại
và đầu tư từ nước ngoài được coi là một trong những yếu tố trực tiếp tác động đến
cạnh tranh kinh tế Mỹ - Trung Quốc. Dưới góc độ tiếp cận như trên, thâm hụt
thương mại và đầu tư là một khía cạnh quan trọng, nổi cộm trong tương quan nhiều
yếu tố khác nhau của nền kinh tế Mỹ trong bối cảnh chính quyền Donald Trump
luôn muốn hướng đến giải quyết vấn đề này khi phát động cạnh tranh kinh tế với
Trung Quốc.
1.3.2. Kinh tế Trung Quốc
Trung Quốc là nền kinh tế mới nổi, với tổng GDP lớn thứ hai thế giới, là nhà
sản xuất hàng hóa lớn nhất thế giới, với tổng kim ngạch thương mại hàng hóa lớn
nhất thế giới, thu hút đầu tư nước ngoài đứng thứ ba và đầu tư ra nước ngoài đứng
thứ hai thế giới, dự trữ ngoại tệ đứng đầu thế giới, viện sự kinh tế ra bên ngoài thứ
hai thế giới. Sau 40 năm thực hiện cải cách mở cửa, những thành tựu đã đạt được
của Trung Quốc trên lĩnh vực kinh tế nhận được sự quan tâm, chú ý của toàn thế
giới. Kinh tế Trung Quốc đã giải quyết được vấn đề về phát triển, thu nhập bình
quân đầu người của Trung Quốc trước cải cách mở cửa không đến 300 USD, nhưng
hiện nay đã hơn 9.000 tỷ USD, giúp cho hơn 700 triệu dân thoát nghèo.[3]
Đặc biệt, trong gần 3 thập kỷ qua, Trung Quốc có tốc độ tăng trưởng kinh tế
rất ấn tượng với mức tăng trưởng trung bình 9,3% /năm kể từ năm 1992. Tốc độ


18


tăng trưởng của kinh tế Trung Quốc trong hơn 20 năm chưa bao giờ xuống dưới
6%/năm với nhiều năm đạt trên 10%/năm và có những thời điểm đạt tới gần
15%/năm, theo Ngân hàng Thế Giới:báo cáo kinh tế của các nước đang phát triển
năm 2018.[1, tr.31]
Tổng GDP của Trung Quốc đã lần lượt vượt qua Anh, Pháp, Đức, Nhật Bản
và từ năm 2010 đến nay duy trì vị trí thứ hai thế giới sau Mỹ. Năm 2017 tổng GDP
của Trung Quốc chiếm 14,84% tổng lượng kinh tế toàn cầu, xếp thứ hai sau Mỹ là
24,32%, vượt xa Nhật Bản đứng thứ ba là 5,91%.[31] Theo tổ chức Thương mại thế
giới (WTO) năm 2016, Mỹ đã giành được vị trí đứng đầu thế giới về thương mại
hàng hóa sau bốn năm Trung Quốc “ngự trị” ở ngôi vị này; Nhưng đến năm 2017
Trung Quốc đã lấy lại vị trí là quốc gia đứng đầu thế giới về giá trị thương mại hàng
hóa. Ba vị trí tiếp theo là Mỹ với 3.960 tỷ USD, Đức với 2.610 tỷ USD và Nhật Bản
với 1.370 tỷ USD.Mặc dù bị ảnh hưởng bởi cuộc cạnh tranh kinh tế, những nền
kinh tế Trung Quốc vẫn có nhiều dấu hiệu sẽ tiếp tục đà tăng trưởng, kể cả khi mà
tăng trưởng của kinh tế Trung Quốc đang chững lại, giảm dần về mức 6% theo nhận
định của phần lớn các chuyên gia kinh tế. Theo dự báo của Bộ Thương mại Trung
Quốc với tốc độ tăng trưởng 6% còn kinh tế Mỹ tăng trưởng đều đặn 2%, quy mô
kinh tế Trung Quốc được cho là sẽ ngang bằng Mỹ vào năm 2029, quy mô kinh tế
Trung Quốc và Mỹ lúc đó ở mức 25,5 nghìn tỷ USD.[1, tr.32]
Hiện Mỹ và Trung Quốc đều đang là những đối tác kinh tế lớn nhất của
nhau. Thương mại hàng hóa và dịch vụ của Mỹ với Trung Quốc đạt khoảng 737,1 tỷ
USD trong năm 2018. Cụ thể, tính đến năm 2018, Trung Quốc vẫn duy trì là quốc
gia xuất khẩu hàng hóa lớn nhất của Mỹ với giá trị 539,5 tỷ USD, tăng 6,7% (34 tỷ
USD) so với năm 2017 và tăng 59,7% so với năm 2008. Ở chiều ngược lại, Trung
Quốc là thị trường xuất khẩu hàng hóa lớn thứ ba của Mỹ trong năm 2018. Xuất
khẩu hàng hóa của Mỹ sang Trung Quốc năm 2018 là 120,3 tỷ USD, giảm 7,4%
(9,6 tỷ USD) so với năm 2017, tăng 72,6% so với năm 2008. Riêng ở lĩnh vực nông
nghiệp, tổng xuất khẩu nông sản của Mỹ sang Trung Quốc đạt 9,3 tỷ USD trong
năm 2018, là thị trường xuất khẩu nông sản lớn thứ tư của Mỹ. Các loại hàng xuất



19

khẩu nội địa hàng đầu bao gồm: đậu nành (3,1 tỷ USD), bông (924 triệu USD), sản
phẩm da và da (607 triệu USD), các sản phẩm thịt lợn và thịt lợn (571 triệu USD)
và ngũ cốc thô (530 triệu USD).[1, tr.33] Các doanh nghiệp, tập đồn cơng nghệ đã
phải chịu tác động lớn nhất, qua doanh mục đánh thuế có thể nhận thấy bản chất của
cạnh tranh kinh tế giữa hai nước do Tổng thống Mỹ Donald Trump phát động là
cuộc so găng quyết liệt giữa một bên là “MC25” và một bên là “Made in America”.
Kế hoạch MC25 dự kiến sẽ thực hiện trong 10 năm (2015 - 2025) nhằm phát triển
10 ngành công nghệ cao then chốt của cuộc Cách mạng cơng nghiệp lần thứ tư,
trong đó tiêu biểu là cơng nghệ chế tạo robot, trí tuệ nhân tạo, mạng 5G… Mục tiêu
hướng đến của chiến lược này là tạo điều kiện cho nước này kiểm soát 80% thị
trường sản phẩm cơng nghệ cao trên tồn thế giới. Trong khi đó, kết hợp với chiến
lược “vành đai con đường”, thì có khả năng nước này sẽ thống lĩnh nền kinh tế và
chính trị của thế giới.
Từ những dẫn chứng trên có thể thấy sau 40 năm nỗ lực cải cách mở cửa,
Trung Quốc đã trở thành một trong những ngành kinh tế hàng đầu thế giới và không
ngừng vươn lên, thách thức vị trí và vai trị cường quốc kinh tế của Mỹ trên phạm vi
toàn cầu. Điều này phần nào là nguyên nhân dẫn đến sự căng thẳng đối với Mỹ hiện
nay.
1.4. Khái quát mối quan hệ kinh tế Mỹ - Trung Quốc trước năm 2017
Quan hệ kinh tế Mỹ - Trung Quốc đã không ngừng phát triển kể từ khi hai
nước chính thức bắt đầu thiết lập quan hệ ngoại giao và ký kết Hiệp định Thương
mại song phương vào năm 1979. Sau đó, đến tháng 10 năm 2000, Tổng thống Bill
Clinton ký Đạo luật quan hệ Mỹ - Trung Quốc, chính thức trao cho Bắc Kinh mối
quan hệ kinh tế bình thường vĩnh viễn với Mỹ và mở đường cho Trung Quốc gia
nhập Tổ chức Thương mại thế giới vào năm 2001. Từ đó đến nay, kim ngạch xuất
nhập khẩu song phương giữa Mỹ và Trung Quốc từ mức chỉ 5 tỷ USD vào năm
1980 đã tăng lên mức 645 tỷ USD vào năm 2017, đã đưa Trung Quốc trở thành đối

tác kinh tế lớn nhất của Mỹ.[1, tr.84] Mỹ là nước phát triển lớn nhất thế giới, Trung
Quốc là nước đang phát triển lớn nhất thế giới. Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) của


20

hai nước chiếm 1/3 GDP của thế giới. Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu thương mại
hàng hóa chiếm 40% tồn thế giới. Là hai nền kinh tế lớn thứ nhất và thứ hai của
thế giới, Mỹ và Trung Quốc có điều kiện phát huy tiềm năng hợp tác, mở rộng lĩnh
vực hợp tác, nâng cao trình độ hợp tác, từ đó thúc đẩy nền kinh tế, tài chính và kỹ
thuật của cả hai nước phát triển ở cấp độ cao hơn. Đồng thời, là hai đầu tàu lớn của
nền kinh tế thế giới, hai nước Mỹ - Trung Quốc có trách nhiệm thúc đẩy kinh tế thế
giới tăng trưởng ổn định và thúc đẩy hợp tác quốc tế phát triển. Mỹ và Trung Quốc
là hai nước lớn có ảnh hưởng quan trọng ở hai bờ Đơng - Tây Thái Bình Dương,
đều là thành viên thường trực của Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc, phát huy vai trò
quan trọng trong các cơng việc quốc tế. Mỹ - Trung Quốc có thể cống hiến cho cộng
đồng quốc tế trong việc duy trì hịa bình ổn định thế giới đặc biệt là ở khu vực châu
Á - Thái Bình Dương cũng như đối phó với các thách thức mang tính tồn cầu. Việc
Tổng thống Mỹ Obama tuyên bố “Quan hệ Mỹ - Trung Quốc sẽ được xây dựng lại
trong thế kỷ 21 khơng phải là khơng có cơ sở.
Trong vấn đề kinh tế, Mỹ cũng đang chờ đợi Trung Quốc những bước đi cụ
thể: trước hết, Mỹ sẽ tiếp tục gây áp lực đòi hỏi Trung Quốc Phải để luật cung cầu
trên thị trường ấn định giá trị đơn vị tiền tệ hiện đang được định giá quá thấp một
cách giả tạo và có các biện pháp quốc nội nhằm điều chỉnh sự mất qn bình tài
chính quốc tế, giúp giải quyết khủng hoảng tồn cầu; Mỹ chờ đợi Trung Quốc có
thái độ bớt tự vệ đối với điều kiện tự do hóa mậu dịch bên trong tổ chức tổ chức
Thương mại Thế giới (WTO), nhất là trong phạm vi kỹ thuật, công nghệ chế biến và
dịch vụ, và tôn trọng quyền sở hữu trí tuệ một cách nghiêm túc; Mỹ sẽ thúc đẩy
Trung Quốc từ bỏ chính sách mậu dịch song phương vì các mục tiêu chính trị và
chiến lược, gây xáo trộn kinh tế thế giới; Chính quyền Obama thúc đẩy Trung Quốc

điều chỉnh chính sách viện trợ phát triển theo đúng các chuẩn mực quốc tế hiện hữu
cũng như những chuẩn mực về sự minh bạch; Mỹ cũng khuyến khích Trung Quốc
tránh các chính sách trọng thương về tài nguyên nhằm chiếm độc quyền trên các thị
trường nước ngoài. Chính quyền Obama hiểu rõ khơng thể có giải pháp cho vấn đề
thay đổi khí hậu tồn cầu nếu khơng có sự tham gia của Trung Quốc, quốc gia đang


21

gây 20% hiệu ứng nhà kính hiện nay và chịu trách nhiệm đến 50% tổng số khí thải
gia tăng cho đến 2030, khi chỉ riêng Trung Quốc sẽ chiếm tới 1/3 lượng khí thải nhà
kính hàng năm. Cho đến nay Trung Quốc Vẫn chưa chấp nhận trách nhiệm và thời
biểu bắt buộc giảm bớt lượng khí thải. Tuy nhiên, gần đây cho thấy Trung Quốc
cũng đã có nhiều bước tiến đầy ý nghĩa, kể cả chấp thuận một chiến lược quốc gia
về khí hậu và cơng bố thiện chí chấp thuận những “biện pháp báo cáo và kiểm tra”
nhằm cắt giảm cường độ năng lượng. Đồng thời, như Michael Levi thuộc Hội đồng
Quan hệ Đối ngoại ghi nhận, Mỹ và các nền kinh tế phát triển đang chờ đợi Trung
Quốc cải thiện khả năng quản trị và pháp lý thiếu đồng đều, sở dĩ có thể thực hiện
trong thực tế những mục tiêu đầy tham vọng nói trên.
Lần đầu tiên kể từ sau thế chiến thứ II, không phải Mỹ mà chính Trung Quốc
đã lơi kéo phần cịn lại của thế giới ra khỏi tăng trưởng âm của cuộc đại suy thối.
Về phần Mỹ bắt đầu khơi phục èo uột như một quốc gia con nợ hàng đầu với tổng
số nợ lên gần 14.000 tỷ USD, và Trung Quốc với vai trò là một nước chủ nợ hàng
đầu với tổng số ngoại tệ dự trữ 2.400 tỷ. Các công ty giàu tiền mặt của Trung Quốc
ngày nay đang tậu mua các công ty và tài nguyên thiên nhiên tương lai từ Úc đến
Peru, từ Canada đến Afghanistan.[22] Trong giai đoạn 2000 - 2017, tỷ trọng hàng
hóa xuất khẩu từ Mỹ sang Trung Quốc trên tổng giá trị xuất khẩu của quốc gia này
tăng từ 2,1% lên 8,4%. Các mặt hàng chủ lực xuất khẩu sang Trung Quốc như: sản
phẩm hàng không, các loại hạt và dầu ăn, ôtô, chất bán dẫn và linh kiện điện tử,
năng lượng. Trung Quốc là một đối tác thương mại dịch vụ lớn của Mỹ. Năm 2017,

Trung Quốc đứng thứ 4 trong danh sách các đối tác thương mại dịch vụ lớn nhất của
Mỹ với kim ngạch thương mại ngành dịch vụ đạt mức 75 tỷ USD.
Mỹ là thị trường lớn nhất của Trung Quốc với giá trị lên đến 505 tỷ USD
trong năm 2017, tăng 9,3% so với năm 2016. Tỷ trọng giá trị hàng Trung Quốc trên
tổng số hàng hóa nhập khẩu vào thị trường Mỹ tăng liên tục từ mức 8,2% vào năm
2000 lên mức 21,6% vaò năm 2017. Những mặt hàng xuất khẩu hàng đầu của Trung
Quốc vào Mỹ như: thiết bị liên lạc, thiết bị máy tính, hàng hóa tiêu dùng, chất bán
dẫn và các thành phần điện tử khác. Năm 2017, Trung Quốc đứng thứ 4 trong danh


22

sách các đối tác thương mại dịch vụ lớn nhất của Mỹ với kim ngạch thương mại
ngành dịch vụ đạt mức 75 tỷ USD. Theo thống kê của Trung Quốc, từ năm 2006
đến năm 2016, xuất khẩu dịch vụ của Mỹ sang Trung Quốc đã tăng từ 14,4 tỷ USD
lên 86,9 tỷ USD. Thặng dư thương mại của Mỹ với Trung Quốc trong dịch vụ vào
năm 2016 đạt 55,7 tỷ USD, gấp 40 lần so với năm 2006. Về du lịch, kinh tế Mỹ đã
thu lợi từ khách du lịch của Trung Quốc đến Mỹ, họ đã chi khoảng 7.000 USD mỗi
người trong năm 2016 nhiều hơn so với các nước khác, góp vào ngân sách nước Mỹ
khoản 97 triệu USD mỗi ngày. Về giáo dục, Mỹ là điểm đến thu hút nhiều nhất các
du học sinh Trung Quốc. Sinh viên Trung Quốc du học tại Mỹ, mỗi năm thu lợi về
khoảng 15,9 tỷ USD.[7] Tuy nhiên, đáng chú ý hơn cả là tình hình thâm hụt kinh tế
với Trung Quốc mà Mỹ phải đối mặt. Giá trị nhập khẩu của Mỹ từ Trung Quốc tăng
từ mức 102 tỷ USD vào năm 2001 lên mức 490 tỷ USD trong năm 2017. Ngược lại,
trong khoản thời gian trên, giá trị xuất khẩu của Mỹ sang thị trường Trung Quốc tuy
có tốc độ tăng trưởng khá ổn định nhưng lại có quy mô rất hạn chế so với đối tác, từ
19 tỷ USD vào năm 2001 lên mức 120 tỷ USD vào năm 2017. Cụ thể hơn, thâm hụt
thương mại giữa Mỹ và Trung Quốc đã tăng từ 83 tỷ USD vào năm 2001 lên mức
370 tỷ USD vào năm 2017, tương đương với tăng thâm hụt 20,3 tỷ USD/năm, tính
từ thời điểm Trung Quốc gia nhập WTO.[1, tr.84]

Tiểu kết Chương 1
Cạnh tranh kinh tế Mỹ - Trung Quốc đã trở thành vấn đề có tính thời sự nóng
bỏng, thu hút sự quan tâm của cả thế giới. Có thể nói, cạnh tranh kinh tế là một cuộc
cạnh tranh chủ yếu về thương mại, diễn ra ở mức căng thẳng, gay gắt và liên tục leo
thang với những diễn biến phức tạp khó đốn đốn được. Tuy nhiên, cạnh tranh
kinh tế chính thức nổ ra là hệ quả tất yếu của một mối quan hệ kinh tế sau khi đã
trải qua nhiều thăng trầm với những sự kiện nóng bỏng ảnh hưởng trực tiếp đến
quan hệ hợp tác giữa hai nước. Cạnh tranh kinh tế Mỹ - Trung Quốc được cho là
bước ngoặt mang tính lịch sử sẽ tạo nên sự thay đổi lớn trong quan hệ hai nước, khi
quan hệ kinh tế giữa hai nước lớn luôn xảy ra va chạm về lợi ích của riêng.


23

CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG CẠNH TRANH KINH TẾ MỸ- TRUNG QUỐC
GIAI ĐOẠN 2017 - 2020
Cạnh tranh kinh tế giữa hai nước bắt đầu diễn ra từ năm 2018, Mỹ và Trung
Quốc đã trải qua 11 cuộc đàm phán và tưởng chừng như đã kết thúc cuộc cạnh tranh
kinh tế với một thỏa thuận phù hợp cho cả hai bên. Tuy nhiên, đến tháng 5/2019,
Tổng thống Mỹ Donald Trump đã công bố tăng mức thuế nhập khẩu 10% đang áp
dụng với hàng hóa Trung Quốc trị giá 200 tỷ USD lên thành 25% đây là một động
thái leo thang mạnh mẽ đối với phía Mỹ. Quan hệ hai nước ngày càng trở nên căng
thẳng sau khi Mỹ đưa Tập đồn cơng nghệ Huawei của Trung Quốc vào “danh sách
đen”, cấm các doanh nghiệp Mỹ làm ăn với tập đoàn này. Các động thái này cho
thấy Mỹ cuộc cạnh tranh ngày càng diễn ra phức tạp khi cả hai liên tục “ăn miếng
trả miếng” áp thuế vào rất nhiều mặt hàng. Đến nay Mỹ đã áp thuế lên tổng cộng
khoảng 250 tỷ USD là gần một nửa hàng hóa nhập từ Trung Quốc. Ngồi ra, Donald
Trump cịn đe dọa nếu Trung Quốc vẫn tiếp tục có những hành vi trả đũa, khả năng
hàng rào thuế quan sẽ còn nâng lên đến 500 tỷ USD và thậm chí Mỹ cũng khơng

ngần ngại đánh thuế tất cả các hàng hóa của Trung Quốc. Ngược lại, để đáp trả Mỹ,
Trung Quốc cũng áp hàng rào thuế quan tương tự lên hàng hóa của Mỹ, tuy nhiên
việc tăng thuế của Trung Quốc lên các mặt hàng nhập khẩu từ Mỹ là không đủ
mạnh để trả đũa do Trung Quốc đã áp thuế lên đến 85% các mặt hàng nhập từ Mỹ,
có tổng cộng 110 tỷ USD trên tổng số 130 tỷ USD hàng nhập từ Mỹ, nên để tăng
thuế những lần tiếp theo chỉ khoảng 15 %.[1, tr.83-84]
2.1. Các hình thức cạnh tranh kinh tế của Mỹ - Trung Quốc
2.1.1. Trong lĩnh vực thương mại
Cuộc chiến thương mại Mỹ- Trung Quốc được bắt đầu vào tháng 07/2018
khi tổng thống Mỹ Donald Trump chính thức áp thuế nhập khẩu bổ sung lên 34 tỷ
USD hàng từ Trung Quốc. Trong suốt 18 tháng sau đó, hai quốc gia đã tiến hành vô
số các cuộc đàm phán qua lại cùng với một cuộc chiến thuế quan trả đũa lẫn nhau


24

khiến cho căng thẳng thương mại Mỹ- Trung đi đến bờ vực của một cuộc chiến
tranh thương mại toàn diện.

Nguồn: Chad P.Bown, 2020
Hình 1.1 Sơ đồ tóm tắt cuộc chiến thuế quan giữa Mỹ và Trung Quốc
Trong giai đoạn từ đầu năm 2018 đến tháng 2/2020 khi thỏa thuận giai đoạn 1
giữa Mỹ và Trung Quốc chính thức có hiệu lực, mức thuế trung bình Mỹ và Trung
Quốc áp vào hàng nhập khẩu từ quốc gia còn lại đã tăng đáng kể. Trong 6 tháng đầu
năm 2018 cho đến khi chiến tranh thương mại giữa Mỹ và Trung Quốc bùng nổ vào
tháng 07/2018, mức thuế quan nhập khẩu trung bình của Mỹ áp lên hàng nhập khẩu
từ Trung Quốc chỉ ở mức 3,8% trong khi ở chiều ngược lại mức thuế quan nhập
khẩu trung bình của Trung Quốc áp lên hàng nhập khẩu từ Mỹ ở mức 7,2%.
Trong vòng 2 tháng từ tháng 07/2018 đến tháng 08/2018, Mỹ thực hiện áp thuế
bổ sung 25% lên 34 tỷ USD hàng hóa nhập khẩu từ Trung Quốc vào 06/07/2017 và



25

tiếp tục áp thêm 25% lên 16 tỷ USD hàng hóa nhập khẩu từ Trung Quốc vào
23/08/2018 khiến thuế nhập khẩu trung bình của hàng Trung Quốc vào thị trường
Mỹ tăng từ 3,8% lên 12%. Ngược lại, Trung Quốc cũng đáp trả thuế quan từ Mỹ
bằng cách áp gói thuế quan bổ sung 25% lên 34 tỷ USD hàng nhập khẩu từ Mỹ vào
06/07/2018 và tiếp tục áp dụng thuế quan lên 60 tỷ USD hàng nhập khẩu từ Mỹ vào
24/09/2018 khiến thuế nhập khẩu trung bình của hàng hóa từ Mỹ vào Trung Quốc
tăng từ 7,2% lên 18,3%.
Trong vòng 8 tháng tiếp theo, với các động thái hịa hỗn từ hai bên, mức thuế
quan nhập khẩu trung bình tạm ổn định và chưa có nhiều biến động. Đến tháng
5/2019, Mỹ tuyên bố tăng thuế đối với hàng hóa Trung Quốc trị giá 200 tỷ USD từ
10% lên 25% cùng với hành động đáp trả của Trung Quốc tuyên bố tăng thuế đối
với hàng hóa trị giá 60 tỷ USD của Mỹ kể từ 01/06/2019 khiến cho mức thuế quan
nhập khẩu trung bình áp lên hàng hóa của hai quốc gia có xu hướng tăng trở lại.
Mức thuế nhập khẩu trung bình Mỹ áp lên hàng hóa Trung Quốc tăng từ 12% lên
21% trong khi ở chiều ngược lại mức thuế nhập khẩu trung bình Trung Quốc áp lên
hàng hóa nhập khẩu từ Mỹ tăng từ 18,3% lên 21,1%.
Từ tháng 10/2019 đến tháng 2/2020, trong vòng 5 tháng, chiến tranh thương
mại hạ nhiệt do hai bên tiến hành đàm phán để đi đến thỏa thuận thương mại giai
đoạn 1 có hiệu lực vào 14/02/2020. Với thỏa thuận này, Mỹ cam kết khơng áp thêm
thuế quan lên hàng hóa Trung Quốc, tuy nhiên mức thuế quan đã áp lên 250 tỷ USD
hàng Trung Quốc vẫn giữ nguyên. Mức thuế quan 15% áp lên 120 tỷ hàng nhập
khẩu từ Trung Quốc ngày 01/09/2019 giảm xuống còn 7,5%. Với động thái này,
mức thuế nhập khẩu trung bình Mỹ áp lên hàng nhập khẩu từ Trung Quốc giảm
xuống còn 19,3%, trong khi ở chiều ngược lại mức thuế nhập khẩu trung bình Trung
Quốc áp lên hàng nhập khẩu từ Mỹ giữ ở mức 20,3%.
Tóm lại, kể từ khi chiến tranh thương mại bắt đầu vào tháng 7/2018 cho đến

khi hai bên ký kết thỏa thuận giai đoạn 1, mức thuế nhập khẩu trung bình Mỹ áp lên
hàng nhập khẩu từ Trung Quốc đã tăng 15,5% từ 3,8% lên 19,3%. Trong khi mức


×