Tải bản đầy đủ (.doc) (103 trang)

Bảo tồn và phát triển các giá trị văn hóa tại khu di tích mỹ sơn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (671.08 KB, 103 trang )

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG.............................................................................1
1.1Khái quát về văn hóa Chăm:..............................................................................................1
1.2Nội dung cơ bản về bảo tồn và phát triển giá trị văn hóa:............................................16
1.2.1Khái niệm bảo tồn, phát triển:......................................................................................16
1.2.2Các hình thức của việc bảo tồn:....................................................................................17
1.2.3Các hoạt động trong việc bảo tồn và phát triển giá trị văn hóa:...............................19
1.2.3.1Hoạt động gìn giữ giá trị văn hóa:.............................................................................19
1.2.3.2Cơng tác quản lý cơ sở vật chất, kỹ thuật trong du lịch:.........................................23
1.2.3.3Công tác đào tạo nhân lực tại khu di tích:................................................................28
1.2.3.4Đầu tư phát triển giá trị văn hóa:..............................................................................30
1.2.3.5Các hoạt động truyền thơng quảng bá các giá trị văn hóa:....................................30
1.3Ý nghĩa của việc bảo tồn và phát triển các giá trị văn hóa:..........................................32
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG VỀ CÔNG TÁC BẢO TỒN VÀ PHÁT TRIỂN CÁC GIÁ
TRỊ VĂN HĨA TẠI KHU DI TÍCH MỸ SƠN – QUẢNG NAM......................................37
2.1Giới thiệu khái quát về sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Quảng Nam:...............37
2.1.1Giới thiệu tổng quan về sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Quảng Nam............37
2.1.2 Cơ cấu tổ chức của sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Quảng Nam:..................44
2.2Giới thiệu sơ lược về khu di tích Mỹ Sơn:......................................................................48
2.2.1Lịch sử hình thành của thánh địa Mỹ Sơn:.................................................................48
2.2.2Kiến trúc của thánh địa Mỹ Sơn:.................................................................................49
2.3Thực trạng về hoạt động kinh doanh tại khu di tích Mỹ Sơn:.....................................63
2.4Thực trạng về cơng tác bảo tồn và phát triển các giá trị văn hóa tại khu di tích Mỹ
Sơn: ......................................................................................................................................64


2.4.1Cơng tác trùng tu các giá trị văn hóa tại khu di tích Mỹ Sơn :.................................64
2.4.2Cơng tác quản lý cơ sở vật chất kỹ thuật tại khu di tích Mỹ Sơn:............................66
2.4.3Cơng tác đào tạo lao động tại khu di tích Mỹ Sơn:.....................................................68


2.4.4Các hoạt động đầu tư và phát triển giá trị văn hóa tại khu di tích Mỹ Sơn :...........69
2.4.5Các hoạt động truyền thông quảng bá cho giá trị văn hóa tại khu di tích Mỹ Sơn :...
..................................................................................................................................71
2.5Nhận xét về quá trình bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa tại thánh địa Mỹ Sơn:..
......................................................................................................................................73
2.5.1Ưu điểm trong cơng tác bảo tồn và phát triển các giá trị văn hóa tại khu di tích Mỹ
Sơn:

..................................................................................................................................73

2.5.2Hạn chế trong cơng tác bảo tồn và phát triển các giá trị văn hóa tại khu di tích Mỹ
Sơn:

..................................................................................................................................74

CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP VỀ CƠNG TÁC BẢO TỒN VÀ PHÁT TRIỂN CÁC GIÁ
TRỊ VĂN HÓA TẠI KHU DI TÍCH MỸ SƠN:..................................................................77
3.1Phương hướng, mục tiêu trong việc bảo tồn và phát triển các giá trị văn hóa tại khu
du tích Mỹ Sơn:......................................................................................................................77
3.1.1Phương hướng:...............................................................................................................77
3.1.2Mục tiêu:.........................................................................................................................78
3.2Một số giải pháp nhằm bảo tồn và phát triển các giá trị văn hóa tại khu di tích Mỹ
Sơn: ......................................................................................................................................79
3.2.1Các hoạt động trùng tu các giá trị văn hóa tại khu di tích Mỹ Sơn :........................80
3.2.2Tăng cường hoạt động quản lý cơ sở vật chất kỹ thuật tại khu di tích Mỹ Sơn :....86
3.2.3Các hoạt động đào tạo nguồn nhân lực tại khu di tích Mỹ Sơn :..............................87
3.2.4Các hoạt động đầu tư và phát triển giá trị văn hóa tại khu di tích Mỹ Sơn :...........90


3.2.5Các hoạt động truyền thông quảng bá cho giá trị văn hóa tại khu di tích Mỹ Sơn :...

..................................................................................................................................92
KẾT LUẬN.............................................................................................................................95
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO..............................................................................96


MỞ ĐẦU
Trong bức tranh văn hóa truyền thống đa sắc của đất nước Việt Nam có một mảng
màu khá lớn, rất đặc sắc và nổi tiếng trong khu vực Đông Nam Á- đó là mảng màu văn hóa
người Chăm. Hiện nay, người Chăm trong 54 dân tộc của đại gia đình các dân tộc Việt Nam,
và nền văn hóa của người Chăm, từ nhiều thế kỷ nay đã, đang đóng góp nhiều giá trị và tạo
nên phần phong phú cho nền văn hóa của nước ta.
Trong suốt nhiều thế kỷ qua, người Chăm đã sang tạo nên nhiều giá trị văn hóa tinh
thần như: phong tục tập qn về hơn nhân, tang lễ, nếp sống trong gia đình xã hội, lễ hội, tín
ngưỡng, tơn giáo,… bên cạnh những giá trị văn hóa tinh thần là những giá trị văn hóa vật
chất có tầm cở quốc tế trong khu vực Đơng Nam Á. Mà một trong những giá trị văn hóa độc
đáo mà người Chăm để lại cho văn hóa Việt Nam là những di tích như đền tháp, thành
quách, các tác phẩm điêu khắc, các tấm bia ký cổ, trong đó khu thánh địa Mỹ Sơn là một
trong những địa điểm nổi bật thể hiện rõ kiến trúc văn hóa của người Chăm. Sau khi khu
đền tháp chăm của thánh địa Mỹ Sơn được công nhận là di sản văn hóa thế giới thì lượng
khách đến với khu thánh địa Mỹ Sơn ngày càng đông, việc đến đông tạo doanh thu cho di
tích tuy nhiên việc có nhiều du khách có hành động thiếu ý thức có thể làm tổn hại đến khu
di tích. Vì thế em xin chọn đề tài “ Bảo tồn và phát triển các giá trị văn hóa tại khu di
tích Mỹ Sơn” để có thể đóng góp một số cơng sức nhỏ bé của em để có thể giúp bảo tồn và
phát triển các giá trị văn hóa Chăm tại Mỹ Sơn. Tuy nhiên vì khả năng có hạn nên em chỉ
xin tóm gọn trong việc bảo tồn các di tích tại Mỹ Sơn.
Vì đây là đề tài tương đối sâu, rộng, cho nên trong quá trình tiến hành nghiên cứu đề
tài của em sẽ khơng tránh khỏi những sai sót. Rất mong sự thơng cảm và đóng góp chân
thành cuả hội đồng , của quý thầy cô để đề tài này được phong phú, hoàn thiện hơn.



MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU:
- Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn về các vấn đề liên quan đến hoạt động bảo
tồn và phát triển các giá trị văn hóa tại khu di tích Mỹ Sơn.
- Thực trạng bảo tồn và phát triển các di tích văn hóa tại Mỹ Sơn.
- Thống kê lượt khách đến Mỹ Sơn cũng như doanh thu từ du lịch tại khu di tích
Mỹ Sơn trong vòng 3 năm từ năm 2014 đến năm 2016
- Trên cơ sở năm bắt thực trạng, từ đó đề xuất một số kiến nghị giải pháp nhằm bảo
tồn và phát triển các di sản văn hóa tại khu di tích Mỹ Sơn.
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU:
- Phương pháp tổng hợp, phân tích số liệu
- Phương pháp tổng hợp tài liệu
- Phương pháp nghiên cứu và tham khảo
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU:
- Đối tượng nghiên cứu: Các hoạt động bảo tồn và phát triển các di tích văn hóa tại
Mỹ Sơn.
- Phạm vi nghiên cứu:
+ Về mặt khơng gian: Sở Văn hóa – Thể thao – Du lịch tỉnh Quảng Nam
+ Về mặt thời gian: Số liệu thu thập được trong khoảng thời gian từ năm 2014 đến
năm 2016
+ Về mặt nội dung: Đề tài tập trung phân tích thực trạng cơng tác bảo tồn tại Mỹ
Sơn từ đó đưa ra một số giải pháp để bảo tồn và phát triển các di tích văn hóa tại Mỹ Sơn.

BỐ CỤC ĐỀ TÀI:
Đề tài được chia ra làm ba phần:
Phần 1: Cơ sở lý luận.
Phần 2: Thực trạng công tác bảo tồn và phát triển các giá trị văn hóa tại khu di tích
Mỹ Sơn.
Phần 3: Giải pháp để bảo tồn và phát triển các giá trị văn hóa tại khu di tích Mỹ Sơn.



Do sự hạn chế về thời gian cũng như kiến thức, nên dù đã cố gắng hết sức, bài khóa luận tốt
nghiệp cũng không thể tránh khỏi những hạn chế, thiếu sót. Em hy vọng nhận được sự đóng
góp ý kiến từ q thầy cơ và người đọc để khóa luận được hoàn thiện hơn.
Sinh viên thực hiện
Hồ Xuân Tâm


1
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG
1.1 Khái quát về văn hóa Chăm:
Qua các tài liệu nghiên cứu của các thế hệ trước, được biết rằng văn hóa Chăm được
hình thành do kết quả của quá trình hoạt động nhằm thích ứng với các điều kiện sinh hoạt
khắc nghiệt của cư dân vùng chân núi và đồng bằng ven biển miền Trung Việt Nam. Đó
cũng là kết quả của sự giao lưu tiếp biến với các cư dân trong vùng Nam Đông Dương cũng
như vùng Đông Nam Á, thể hiện qua sự phát triển ngôn ngữ chữ viết, sự đan xen giữa văn
hóa miền núi và văn hóa biển, giữa các tín ngưỡng dân gian với các tơn giáo Bàlamơn và
Hồi giáo. Chúng được thể hiện qua những nét văn hóa vật thể và phi vật thể của dân tộc
Chăm, vừa mang tính cách đồng nhất cho cả cộng đồng, vừa hàm chứa vài dị biệt do các
vùng cư trú và các cộng đồng tơn giáo khác nhau.
Văn hóa vật thể:
Nhà cửa, trang phục, các di tích lịch sử:
Nhà cửa: Trước đây (vào thập niên 40-50), hầu như tất cả nhà cửa Chăm đều được
xây cất theo kiểu truyền thống. Đó là những thang yơ có đặc thù của loại nhà sàn.(mà sàn
lại rất thấp, chỉ cách mặt đất khoảng 3, 4 tấc) ln ln quay về phía tây. Thang yơ có bề
ngang hẹp và bề dài khá sâu để bố trí nhiều phịng. Thang gan Chăm hao hao giống như căn
nhà ba gian của người Kinh nhưng luôn luôn quay về hướng tây như thang yơ. Còn Thang
lơm giống như thang gan nhưng có đặc trưng là rất sang trọng, loại nhà của các phú gia hay
các quan chức; mái thường lợp ngói (trong lúc thang yơ và thang gan thường chỉ lợp
tranh) , dưới mái chính này lại có mái phụ bằng đất sét, chính vì thế mà thang lâm giữ độ
ẩm rất tốt, mùa đơng thì ấm áp, mùa hè thì mát mẻ. Sàn nhà thì làm bằng gỗ, thường là các

gỗ q. Tồn bộ những khn cửa cũng như khn lịng đều bằng gỗ cao cấp, được chạm
trổ rất mĩ thuật. Thang lâm luôn luôn hướng về phía nam. Loại nhà thứ tư là thang tong là
loại nhà khách ln quay về phía đơng là hướng của các thánh đường Hồi giáo nên không


2
phải là nhà ở bình thường mà lại là “nhà mát” dùng để tiếp khách và làm nơi hội họp, sinh
hoạt gia đình mà thơi. Tưởng cũng cần nói đến loại nhà thứ năm theo cụm nhà truyền thống
là thang ging (nhà bếp) là một nhà hai gian (một gian dùng làm bếp núc, gian kia làm
kho). Thang ging luôn luôn quay về hướng đông, đối diện với các nhà truyền thống thang
gan và thang yơ.
Ngược lại người Chăm Nam bộ thì thường ở nhà sàn trong những làng gần bờ sơng,
rạch, kênh, mương. Cịn Chăm Hroi thì chịu ảnh hưởng sâu đậm các sắc dân Tây Nguyên,
đặc biệt là sắc dân Bana.
Hiện nay, ngay tại vùng chăm Ninh Thuận, nhà cửa có thay đổi nhiều. Đa số nhà
được xây cắt theo kiểu hiện đại, kiên cố. Chỉ một số rất ít nhà theo kiểu mẫu nhà truyền
thống được hiên đại hóa. Hầu hết các nhà ở Chăm khơng tn theo nguyên tắc “hướng nhà”
mà trước kia là rất quan trọng để đồng loạt quay về hướng đông, vừa đề tránh ánh nắng gây
gắt của buổi chiều vừa để được hưởng gió biển của miền cực nam Trung bộ.
Trang phục:
Người Chăm rất tôn trọng trang phục truyền thống dân tộc nên mới có câu tục ngữ:
“Bất hạnh cho dân tộc nào tìm cách thay đổi trang phục của mình”. Trong xã hội Chăm, hai
hạng người tiêu biểu cho phong tục tập quán dân tộc là phụ nữ và chức sắc.
Phụ nữ Chăm có trang phục giống như phụ nữ Mã Lai: Áo dài không xẻ tà và được
chui qua đầu lúc mặc, mang váy (khơn) trắng, đội khơn hluh hoặc khăn nhjrơm truyền
thống. Áo dài truyền thống không nắn eo như áo dài hiện nay. Sở dĩ có việc nắn eo này là
do ảnh hưởng áo dài người Kinh ….
Các chức sắc thuộc tơn giáo Bàni thì mang áo dài trắng, khăn trắng và đầu chít khăn
trắng có viền đỏ với những “đắng ten đỏ. Các chức sắc Bàlamôn cũng mang y phục trắng
tương tựa như chức sắc Bàni, nhưng có khác hơn ở một vài đặc điểm, nhất là cách gài nút

lại ở phía hơng bên phải (chứ khơng ở khoảng giữa như các chức sắc Bàni)


3
Nam giới thì mặc áo tương tựa như áo bà ba, nhưng có cổ cao, nút thắt, xẻ tà và
khơng có túi, mặc chăn (khơn) trắng, đầu chít khăn trắng có đăng ten (brwei) hoặc khăn
màu (đối với bơ lão).
Đối với người Chăm Nam bộ, trang phục phụ nữ cũng như Nam giới đã phải chịu
ảnh hưởng sâu đậm của phong cách và văn hóa Á Rập, trong lúc Chăm Hroi lại bị lai căng
phần nào với trang phục Bana.
Các di tích lịch sử
Tại Quảng Bình: “ Phế thành Lâm Ấp” (Lâm Ấp cổ thành) là vết tích thành cũ của
người Chăm cổ tọa lạc tại xã Trung Ái, huyện Bình Chính. Nơi đây, chúng ta cịn tìm thấy
“Luỹ cũ Hoàng sơn” (Hoàng sơn cổ luỹ) là biên giới giữa Lâm Ấp và Đại Việt.
Tại Quảng Trị: “Cổ thành Quảng Trị” cũng là di tích lâu đời và nổi tiếng của người
Chăm được mọi người biết đến.
Tại Thừa Thiên: có thành Khu túc ở phía nam sơng Hương, vào khoảng giữa Nguyệt
Biều và chỗ hợp lưu của sông Phú Cam. Tại Thừa Thiên cũng có một tháp cổ Chăm đổ nát
mới được phát hiện tháng 4-2001 tại xã Phú Diên, nay đã được trùng tu lại. Tháp Phú Diên
có niên đại khoảng thế kỉ thứ VIII.
Tại Quảng Nam: Đây là trung tâm văn hóa chính trị của Champa cũ nên chúng ta bắt
gặp nhiều ngọn tháp đồ sộ và đa dạng nhất như: Thánh Địa Mĩ Sơn (xã Duy Tân, huyện
Duy Xuyên cách Đà Nẵng 70 km về hướng tây nam) là cụm tháp gồm 71 ngôi tháp, đã sụp
đổ khoảng 50 , nay chỉ còn 21 tháp, do sự tàn phá của thời gian và con người. Thánh địa
được xây dựng từ thế kỉ thứ VIII, và đã được UNESCO cơng nhận là di sản văn hóa thế giới
vào năm 1999. Đồng Dương là di tích kinh đơ Champa, nơi ghi nhận sự phát triển và thịnh
hành của phật giáo Champa (thuộc huyện Thanh Bình) được xây dựng từ thế kỉ 9. Trà
Kiệu tức kinh đô Indravarman từng vang tiếng một thời của châu Amaravati, được xây dựng
vào thế kỉ thứ 4 nay chỉ còn thấy dấu vết của thành quách cũ (xã Duy Sơn, huyện Duy



4
Xuyên); tháp Bằng An, toạ lạc tại xã Duyên Hồng, Huyện Điện Bàn, cách Đà Nẵng 30 km
về phía nam, là một ngôi tháp xây dựng vào thế kỉ XII, theo hình bác giác rất độc đáo;
tháp Chiên Đàn tọa lạc ở xã Tam An, thị xã Tam Kì, cách Đà Nẵng 6 km về hướng Nam;
đây là cụm tháp đẹp gồm 3 ngơi tháp có niên đại là thế kỉ thứ XI. Tháp Khương Mĩ cũng là
cụm tháp đẹp ở xã Tam Kì, Huyện Mĩ Thanh, cách Đà Nẵng 70km về hướng Nam ( cách thị
xã Tam Kì 2 km) gồm 3 ngơi tháp với kiến trúc tân kì, xây dựng vào THế Kỉ thứ 10.
Tại Bình Định: Đây cũng là trung tâm văn hóa chính trị lớn thứ hai của Champa,
được hình thành thủ đơ Sribanưy (Đồ Bàn) vào năm 1000. Có nhiều tháp đẹp được tìm thấy
ở thủ đơ cổ này như: Tháp Bạc(cịn gọi là tháp Bánh Ít) tọa lạc tại xã Nhơn Hịa, huyện An
Nhơn, cách Qui Nhơn 18 km về hướng Bắc. Cụm tháp này được xây dựng vào thế kỉ thứ XI
trên một ngọn đồi cao, nên từ xa trông rất hùng vĩ; thápBình Lâm tọa lạc tại thơn Bình Lâm,
xã Phước Hồ, huyện Trung Phước, cách Qui Nhơn 25 km về hướng Đông Bắc được xây
dựng vào thế kỉ thứ XI; tháp Cánh Tiên và thành Chà Bàn còn gọi là tháp Đồng hay tháp
con Gái được xây dựng vào Thế kỉ thứ XII tọa lạc tại thôn Nhơn Hậu, huyện An Nhơn, cách
Qui Nhơn khoảng 27 km về hướng Bắc. Đồ Bàn là thành đô lớn của Champa sinh hoạt
thịnh vượng cho đến năm 1471, năm chiến thắng của vua Lê Thánh Tơn; tháp Thốc
Lốc (cịn gọi là Tháp Vàng được xây dựng thế kỉ thứ 12 thuộc xã Nhơn Thận, huyện An
Nhơn, cách Qui Nhơn 30 km về hướng bắc; tháp Thủ Thiện tọa lạc tại xã Thủ Thiện, huyện
Tây Sơn cách Qui Nhơn 30km về hướng bắc được xây dựng vào thế kỉ 12 ; Tháp Dương
Long (còn gọi là Tháp Ngà) gồm 3 ngọn tháp đẹp nhất của khu vực Bình Định, chạm trổ rất
độc đáo được xây dựng vào thế kỉ XII. Cụm tháp này thuộc địa bàn xã Bình An, huyện Tây
Sơn, cách Qui Nhơn 40 km về hướng tây bắc; tháp Hưng Thạnh hay tháp đôi tọa lạc tại
Đống Đa thuộc thành phố Qui Nhơn, được xây dựng vào thế kỉ XII.
Tại Phú Yên: từ quốc lộ số 1 tại thị xã Tuy Hoà, du khách có thể trơng thấy ở phía
đơng một ngơi tháp đồ sộ trên một ngọn đồi cao đó là Tháp Nhạn. Đây là một ngôi tháp đẹp


5

được xây dựng vào thế kỉ thứ XI.
Tại Khánh Hoà: trên một ngọn đồi không lớn cách trung tâm thành phố Nha Trang
khoảng 2 km về hướng bắc, sát quốc lộ số Một, là ngọn tháp Ppo Nagar nổi tiếng. Tháp
được xây dựng vào thế kỉ thứ XI để thờ bà mẹ xứ sở Ppo Inư Nưgar.
Tại Ninh Thuận: nằm sát quốc lộ số Một, thuộc địa bàn xã Tân Hải cách TP Phan
Rang 14 km, du khách có thể ghé thăm cụm tháp Hòa Lai, còn gọi là Ba Tháp (nay chỉ còn
2 tháp) mà người Chăm gọi là Yang Pakran. Tháp được xây dựng vào thế kỉ thứ VIII nên có
vẻ cổ kính và hoang tàn; tháp thứ hai là Tháp Ppo Klaung Garai, được xây dựng vào cuối
thế kỉ XIII đầu thế kỉ XIV trên Đồi Trầu (Bbwơn Hala) cách TP Phan Rang 7 km về phía
tây. Đây là một trong những ngọn tháp đẹp nhất của người Chăm; nơi đây thường diễn ra
định kì hàng năm lễ hội Katê hoành tráng của người Chăm Ninh Thuận; Tháp Ppo
Rome được xây dựng vào thế kỉ XVII , là giai đoạn cuối cùng của nghệ thuật kiến trúc tháp
Chăm. Tháp tọa lạc phía tây palei Thon (Hậu Sanh) huyện Ninh Phước trên một ngọn đồi
xinh xắn, cách TP Phan Rang khoảng 14 km về hướng tây nam.
Tại Bình Thuận: du khách tìm thấy trước hết là Tháp Po Dơm được xây dựng trên
một ngọn núi đá cách ga Sơng Lịng Sơng 2 km hướng đơng bắc huyện Tuy Phong. Cụm
tháp gồm 6 tháp nhỏ đang trong tình trạng đổ nát và được nghiên cứu trùng tu lại. Tháp
được xây dựng vào cuối thế kỉ thứ IIIV và đầu thế kỉ thứ IX, theo phong cách Hoà Lai;
tháp Phú Hài (tiếng Chăm Pajai) cách trung tâm TP Phan Thiết 7 km, về hướng đông bắc để
thờ Ppo Xah Inư (người chăm thường gọi tháp Ppo Xah Inư) tháp này được xây dựng rất
sớm, vào thế kỉ thứ VIII, theo phong cách kiến trúc Khmer.
Văn hóa phi vật thể:
Ngơn ngữ chữ viết:
Tiếng Chăm thuộc ngữ hệ Nam đảo, là thứ tiếng hiện nay một số dân tộc thiểu số ở
Việt Nam đang dùng: Giarai, Êđê, Churu, Raglai. Riêng Chăm có 3 phương ngữ: Chăm


6
Đơng (gồm Chăm Ninh Thuận và Bình Thuận). Chăm Giữa (gồm Chăm Châu Đốc, Tây
Ninh và Tp. Hồ Chí Minh), Chăm Tây (Chăm ở Campuchia).

Tiếng Chăm là thứ ngôn ngữ có văn tự xuất hiện sớm nhất ở Đơng Nam Á. Ở cuối
thế kỉ thứ II, người ta tìm thấy bia Võ Cạnh ghi bằng chữ Phạn. Thế kỉ thứ IV, bia Đông
Yên Châu thuộc hệ thống bia Mĩ Sơn, chữ Chăm cổ đã xuất hiện. Sau đó, hai loại chữ này
song hành, có mặt trên các bia; mãi đến thế kỉ thứ VIII chữ Phạn mới hết tồn tại. Từ trước
thế kỉ thứ VII, Chăm cũng đã biết sử dụng văn tự để ghi chép kinh sách và trao đổi thư từ,
bằng chứng là vào năm 609, tướng Lưu Phương của nhà Đường đánh Lâm Ấp, cướp đi
1350 bộ kinh Phật viết bằng chữ Chăm .
Về chữ viết, đây là thứ chữ ghi âm đựơc vay mượn từ miền Nam Ấn, qua nhiều biến
thể để trở thành chữ Chăm ngày nay.
Có 3 loại chính:
Akhar hayap: gồm các loại chữ khắc trên bia đá
Akhar rik: chữ hoa
Akhar thrah: chữ thông dụng
Akhar thrah có các lối viết khác là: akhar tor (chữ viết tắt) akhar yok (chữ khơng có
dấu) và akhar galimưng (chữ con nhện, chữ viết tháu).
Nghệ thuật truyền thống của người Chăm:
Người Chăm đang lưu giữ một kho tàng dân ca với những làn điệu, cung bậc có
quan hệ mật thiết với dân ca người Việt và các làn điệu dân ca của các dân tộc sống cộng
cư, cận cư khác. Nhiều điệu hát trữ tình, đằm thắm như “Thay mai”(Ai đến phía xa),
“Ainich lo”, “Lekdiphik”, hay những làn điệu như “Dohdamdara” (hát đối đáp),
Klaymrailopan (sợi chỉ đủ màu) đều mang những âm hưởng trữ tình, đặc sắc. Người Chăm
cịn có các làn điệu Ariya, là hình thức hát trường ca theo dạng kể chuyện, hát lối bằng thơ
và có một kho tàng các làn điệu hát ru. Kho tàng nhạc lễ, hát lễ được các tu sĩ Balamôn lưu


7
truyền và hát ở các nghi lễ, đây là nhạc lễ có nguồn gốc tơn gíáo Balamơn từ ấn Độ xa xưa:
“Trong kinh VêĐa từ thế kỷ XX trước công nguyên có "Samma Vêđa" là tập ca khúc dùng
để hát xướng khi cúng bái, tổng cộng 1549 bài, nội dung chủ yếu của Phuốc Vêda là nói rõ
trong khi cúng tế nên dùng các thi ca này và tiến hành cúng tế như thế nào".

Nghệ thuật ca múa nhạc không tách rời giá trị đặc trưng trong từng lễ hội với những
bài ca nghi lễ (Dcannưy), hát dân gian (Douh Mưduôn), dân ca, dân vũ (Paran douh), hát
giao duyên (Douh Dam dara)… Trong khi hát (tuỳ nội dung bài hát) có múa: múa tơn giáo
(múa Siva), múa tín ngưỡng (Đạp lửa, vãi chài…), múa dân gian (múa quạt, đội nước), múa
cung đình (Apsara)… Kèm theo với múa và hát bao giờ cũng có bộ nhạc cụ dân tộc: trống
Ginang, trống Baranưng, kèn Xaranai, chiêng, đàn Kanhi, lục lạc… Các yếu tố đó đan
quyện vào nhau tạo âm thanh khơng thể thiếu khi khoan thai, lúc sôi nổi tương ứng cho từng
lễ hội.
Ở tín ngưỡng của người Chăm, các chức sắc đảm nhiệm công việc điều hành nghi lễ
và cả âm nhạc, múa. Đội ngũ chức sắc này phần lớn là chuyên nghiệp, đôi khi được mời từ
các plây khác để phục vụ âm nhạc cho nghi lễ, lễ hội. Trước đây, trong các nghi lễ của
người Chăm Hồi giáo đặc biệt khơng có sự tham gia của âm nhạc và múa. Hiện nay người
Chăm Hồi giáo Bà ni cũng tham gia vào những sinh hoạt hát múa trong những lễ hội cộng
đồng với người Chăm Bàlamôn. Hầu như trong các nghi lễ của người Chăm Bàlamôn, âm
nhạc đều tham gia một cách tích cực và trở thành nhân tố quan trọng trong nhiều nghi lễ, lễ
hội.
Xưa người Chăm không dám sử dụng các nhạc cụ, các điệu múa truyền thống để
phục vụ vào cuộc vui chơi hay giải trí trong đời thường, vì như thế là xúc phạm đến các
thần linh, trái với đạo đức, phong tục, tập quán. Theo trào lưu cuộc sống mới, dần dần nghệ
thuật ca múa nhạc Chăm được đưa lên sân khấu biểu diễn.


8
Trước đây, âm nhạc mang nặng tính thiêng, chỉ để phục vụ nghi lễ, không được sử
dụng làm chức năng vui chơi giải trí có tính chất trần tục.
Trong xã hội Chăm từ thuở xa xưa tín ngưỡng và tơn giáo đã chi phối hầu hết các
lĩnh vực, từ kinh tế đến văn hoá xã hội, những chức sắc trong các đạo Giáo thuộc đẳng cấp
tăng lữ vừa giữ quyền điều hành, lãnh đạo xã hội, kinh tế lại vừa có vai trị quan trọng trong
lĩnh vực văn hố nghệ thuật, đặc biệt là âm nhạc.
Ngay từ khi vương quốc Chămpa mới thành lập, Bàlamôn giáo đã du nhập và chiếm

vị trí quan trọng trong đời sống văn hố tinh thần của người Chăm. Dưới triều đại các vua
Chăm, giữa thần quyền và vương quyền ln có sự đồng nhất (cụ thể là thánh đô và kinh đô
luôn được định vị gần nhau như thánh đô Mĩ Sơn và kinh đô Trà Kiệu ở Duy Xuyên Quảng
Nam). Vua Chăm tự coi mình là hố thân của thần linh và từ đó tạo ra một hệ thống Vua Thần để trị vì đất nước. Khi du nhập vào xã hội Chăm, Bàlamơn giáo đã dung hồ nghệ
thuật âm nhạc dân gian bản địa với nền văn hố Bàlamơn giáo để tạo thành nghệ thuật âm
nhạc truyền thống Chăm giàu bản sắc. Người Chăm Bàlamôn đã thu hút vào sinh hoạt nghi
lễ những yếu tố văn hoá dân gian bản địa, trong đó có nghệ thuật âm nhạc dân gian, đồng
thời góp phần bảo lưu những giá trị văn hoá và những nhạc khí truyền thống, thơng qua sinh
hoạt âm nhạc nghi lễ của mình.
Mặc dù nền âm nhạc truyền thống Chăm được hình thành bởi ba thể loại: âm nhạc
thế tục, âm nhạc cung đình và âm nhạc nghi lễ, song xã hội Chăm cổ là một xã hội tôn giáo,
cho nên giữa ba thể loại âm nhạc này ln có sự hồ hợp và đan xen lẫn nhau, trong đó thể
loại âm nhạc nghi lễ đóng vai trị chủ đạo và âm nhạc cung đình Chăm ln chiếm vai trị
quan trọng trong sinh hoạt nghi lễ cung đình Chăm. Do đặc điểm tơn giáo và tính chất xã
hội nên giữa âm nhạc cung đình và âm nhạc nghi lễ tơn giáo ln có sự hồ hợp.
Hệ thống nhạc khí trong dàn nhạc cung đình có lẽ cũng được sử dụng trong nghi lễ
và có nguồn gốc từ các quốc gia bên ngồi nhập vào, được bản địa hố trở thành những


9
nhạc khí truyền thống của dân tộc Chăm. Thể loại âm nhạc này khá phong phú và thường
xuyên tham gia vào các hoạt động nghi lễ của người Chăm. Trong số đó, đa dạng và độc
đáo hơn cả là hệ thống nghi lễ nông nghiệp và hệ thống nghi lễ Rija.
Căn cứ vào những di tích điêu khắc cịn lưu dấu trên các đền tháp và hệ thống tượng
cổ ở bảo tàng Chăm, chúng ta có thể khẳng định rằng Vương quốc Champa trước đây đã
từng có thể loại âm nhạc cung đình và một dàn nhạc đại lễ, đã từng tham gia vào các nghi lễ
lớn trong cung đình với những nhạc cơng chun nghiệp. Ngồi ra cịn có những hình thức
độc tấu, đệm nhạc cho hát - múa trong những buổi sinh hoạt giải trí của vua quan, triều đình
và hồng tộc.
Khơng chỉ có một nền âm nhạc dân tộc độc đáo và đa dạng, người Chăm có nền

nghệ thuật múa dân gian đặc sắc, và là một bộ phận quan trọng trong đời sống văn hóa tinh
thần của dân tộc Chăm. Tiếng trống paranưng nổi lên hoà quyện với tiếng kèn saranai như
cuốn hút những bước chân của những chàng trai, cô gái Chăm bước vào những điệu múa
uyển chuyển nhịp nhàng, những điệu múa say cuốn, mê hoặc lịng người mang đậm phong
cách văn hố Chăm.
Múa Dân gian Chăm, còn gọi là múa cộng đồng, thường diễn ra vào các ngày lễ đầu
năm, đầu mùa. Những điệu múa đặc trưng là đố pụ (có nghĩa là đội nước, khi múa, những
cơ gái đội một cái bình trên đầu- đội đầu là một hình thức vận chuyển phổ biến của người
Chăm), múa quạt, múa khăn, múa trống paranưng, múa roi, múa chèo thuyền. Múa chèo
thuyền được coi là điệu múa lâu đời nhất của người Chăm, thể hiện sinh hoạt lao động vùng
biển của con người. Đa phần các điệu múa của người Chăm đều gắn liền với lễ hội, mà hệ
thống lễ hội của người Chăm thì vơ cùng phong phú. Mỗi điệu múa chứa đựng những nội
dung khác nhau, nhưng đều phản ánh ước vọng của người Chăm trước thần linh, thân tộc,
thiên nhiên và cộng đồng. Họ mong sao cho mưa thuận gió hồ, mùa màng được bội thu,


10
cây cối tươi tốt, con cháu ấm no khoẻ mạnh, hạnh phúc, được sống yên ổn làm ăn và thờ
phụng tổ tiên.
Khơng chỉ gắn bó với lễ hội, múa dân gian Chăm còn gắn liền với những dịp trọng
đại của gia đình như cưới xin, khánh thành nhà... Điều đặc biệt là múa dân gian Chăm hầu
hết là múa có đạo cụ như khăn, roi, trống, quạt... và dựa vào đạo cụ mà gọi tên cho từng
điệu múa.
Vũ điệu múa Chăm thường bắt nguồn từ những động tác lao động, sinh hoạt thường
ngày và đều phản ánh những ước vọng của con người trước thần linh, thiên nhiên và cuộc
sống cộng đồng. Những điệu múa thể hiện sự cầu mong cho mưa thuận gió hồ, con cháu
khoẻ mạnh, n ổn làm ăn và thờ phụng tổ tiên, nhưng cũng có những điệu múa thể hiện ý
chí quật cường sẵn sàng đương đầu mọi khó khăn thử thách trong cuộc sống (múa roi).
Múa dân gian Chăm, cùng với múa cung đình và múa tôn giáo, là một bộ phận độc
đáo trong di sản văn hóa Chăm. Mỗi điệu múa Chăm chứa đựng trong đó những nội dung

khác nhau, nhưng đều hướng đến các điểm chính là thể hiện ước vọng của người Chăm
trước thần linh, thân tộc, thiên nhiên và cộng đồng. Họ mong sao cho mưa thuận gió hịa,
mùa màng được bội thu, cây cối tươi tốt, con cháu ấm no khỏe mạnh, hạnh phúc, được sống
yên ổn làm ăn và thờ phụng tổ tiên. Ngồi ra cịn có động tác nhún êm dịu, bồng bềnh như
những đợt sóng nhẹ trên mặt biển mênh mơng. Trong động tác chân có những nét phụ như
tơ điểm cho những nhịp chính gây cảm giác lạ thường.
Múa Chăm là một kho tàng nghệ thuật q báu khơng chỉ của dân tộc Chăm mà còn
của Việt Nam và nhân loại. Bên trong những điệu múa ấy, người ta có thể phần nào cảm
nhận được tâm hồn đầy chất văn hóa biển, dạt dào và sơi động, khơng ít sự lãng mạn trong
tâm hồn của dân tộc Chăm.


11
Tơn giáo tín ngưỡng:
Tơn giáo
Người Chăm theo hai tơn giáo chính là Bà la mơn và Hồi giáo. Trong Hồi giáo lại
chia ra Hồi giáo cũ (Bà ni) và Hồi giáo mới (Ixlam). Hai tôn giáo Bà la môn và Hồi giáo tồn
tại độc lập, và trải qua quá trình lịch sử, đã hịa nhập với tín ngưỡng bản địa, tạo nên một
thứ tơn giáo địa phương. Ngồi ra cịn một số ít người Chăm cịn theo đạo Cơng giáo và Tin
Lành. Trong quá khứ Phật giáo từng đóng một vị trí khá quan trọng trong đời sống tinh thần
của người Chăm, tồn tại và phát triển song song với đạo Bà la môn từ đầu thế kỷ trước công
nguyên đến thế kỷ thứ IX
Bà la môn (Bà chăm)
Đạo Bà la môn du nhập vào Chăm Pa từ khoảng thế kỷ thứ II, III, tồn tại và biến đổi
trong cộng đồng người Chăm cho đến ngày nay. Sử sách Trung Quốc cho biết, đạo Bà la
môn du nhập vào Chăm Pa rất sớm. Ba trong bốn bia ký bằng chữ Phạn có niên đại thế kỷ
VII được tìm thấy ở Quảng Nam và Phú Yên ở triều đại Bhadresvaravamin cũng ghi nhận
điều này. Đạo Bà la môn được truyền bá đến Chăm pa nói riêng và Đơng Nam Á nói chung
bằng hai con đường: đường thủy và đường bộ. Đường thủy thì từ cảng Coromandel thơng
qua eo biển Malaka (Mã Lai), và đường bộ thì từ Atxan đi vào Mianma rồi qua khu vực

đồng bằng sông Mêkông. Người Chăm gọi đạo Bà la mơn (đã Chăm hóa) là Bà chăm. Đạo
Bà chăm phổ biến ở Ninh Thuận và Bình Thuận
Hệ thống chức sắc Bà la môn
Hệ thống chức sắc Bà la mơn có hai tầng lớp:
- Chức sắc tu sỹ Pà xế (Passeh)
- Chức sắc dân gian (Gồm các nghệ nhân sử dụng nhạc lễ, trang trí, thầy cúng, thầy
pháp).
Tu sĩ Pà xế là những chức sắc tôn giáo Bà la mơn, có địa vị cao nhất trong xã hội. Pà
xế là những người trí thức, họ biết chữ Chăm, lưu giữ các sách cổ Chăm qui định về các


12
nghi thức hành lễ, hiểu biết tập tục, truyền bá và thực hiện các nghi thức tôn giáo. Tu sĩ Pà
xế được duy trì trong xã hội Chăm theo cha truyền con nối. Về hình thức bên ngồi tu sĩ Pà
xế để tóc dài búi tó, khơng để râu. Trên đầu các thầy Pà xế luôn đội khăn vải màu trắng,
không bao giờ đi giày, chỉ đi dép nhựa hoặc đi chân đất. Tu sỹ Pà xế được quyền lấy vợ,
sinh con.
Hệ thống giáo lý, giáo luật:
Từ xa xưa, người Chăm Bà la mơn khơng cịn liên hệ với cộng đồng Ấn Độ giáo trên
thế giới. Vì vậy, tơn giáo Bà la mơn của người Chăm khơng có hệ thống giáo lý, giáo luật rõ
ràng. Giáo lý, giáo luật của người Chăm Bà la môn là các kinh luật Bà la môn được các tăng
lữ Pà xế phiên dịch ra tiếng Chăm, ghi lại bằng chữ Chăm trong các thư tịch cổ, truyền lại
từ đời này qua đời khác và được thay đổi cho phù hợp với thực tiễn tín ngưỡng và đời sống
xã hội Chăm như bộ kinh Upanishad (Áo nghĩa thư), Rigvêđa, Samavada (ca vịnh Vệ đà),
Yajurvada (tế tự Vệ đà) và Athrvamda (gồm bùa chú và khấn trừ tà ma)...
Hệ thống thần linh:
Tôn giáo Bà la môn vốn là tín ngưỡng đa thần như thần mặt trời, thần gió, thần mưa,
thần sấm sét, thần núi, thần sơng, thần cây, thần rừng... Tuy nhiên, hệ thống thần linh của
người Chăm Bà la môn không theo một hệ thống rạch rịi như Bà la mơn ngun thủy mà đã
được bồi đắp nhiều lớp đời này qua đời khác thông qua sự cúng tế, cầu nguyện. Đền tháp

theo tôn giáo Ấn Độ là để thờ các đấng thần linh của đạo Bà la mơn, đền tháp người Chăm
thì đã biến thể như tháp Poklongarai thờ vua Poklongarai , tháp Pôrômê thờ vua Pôrômê...
Hệ thống nghi lễ:
Người Chăm Bà la môn có hệ thống nghi lễ phong phú, đa dạng và diễn ra quanh
năm. Có thể chia ra các nhóm hệ thống nghi lễ nơng nghiệp, hệ thống nghi lễ vịng đời và
hệ thống nghi lễ mang tính cộng đồng tơn giáo. Lễ Ka tê là lễ hội lớn nhất của người Chăm
Bà la môn tổ chức vào ngày mùng 1 tháng 7 Chăm lịch hàng năm.


13
Hồi giáo cũ (Bà ni)
Trong các thế kỷ XII-XVI, hoạt động hàng hải của người Chăm phát triển mạnh họ
tiếp xúc mua bán với các nước Indonesia, Malaysia, Malacca (là những nước theo Hồi giáo)
Hồi giáo bắt đầu vào Chăm Pa theo con đường này. Trong giai đoạn đầu sự truyền đạo mới
chỉ xảy ra ở cấp thượng lưu xã hội (triều đình và các người quyền quý), sau năm 1471 (năm
thủ đô Vijaya thất thủ, quân Chiêm bị bắt sống hơn 3 vạn người, bị giết 4 vạn người, vua
Chiêm là Trà Toàn bị bắt đem về Đại Việt, kinh đơ bị phá hủy hồn tồn), niềm tin vào Bà
la môn của người Chăm Pa giảm sút, một bộ phận người Chăm Pa chuyển sang Hồi giáo.
Người Chăm gọi Hồi giáo (đã Chăm hóa) là Bà ni. Đạo Bà ni phổ biến ở Ninh Thuận và
Bình Thuận.
Hệ thống thánh đường:
Ngày xưa, thánh đường làm bằng nhà tranh, sau này được xây cất bằng gạch ngói,
hiện nay nhiều thánh đường từng bước được tu bổ khang trang, hiện đại theo phong cách
thánh đường nhưng khơng hồn tồn chịu ảnh hưởng của phong cách các thánh đường Hồi
giáo quốc tế, thánh đường Bà ni còn nơi hội họp của các chức sắc, các nhân sỹ trí thức để
bàn bạc việc làng.
Hệ thống chức sắc Bà ni:
Mỗi thánh đường Bà ni đều có đội ngũ chức sắc phụ trách các sự vụ tôn giáo. Tầng
lớp tu sỹ Bà ni được gọi chung là "thầy char". Tu sỹ Bà ni có trang phục: áo quần màu
trắng, áo dài, cạo tóc (ngược lại với các tu sĩ Bà la mơn tóc búi tó), bịt khăn và để râu. Đối

với tín đồ Bà ni, thầy Char rất được nể trọng. Ông vừa là người thay mặt cho thánh A la làm
các nghi thức tôn giáo, vừa là người thay mặt cho người Chăm của cả hai tôn giáo Bà la
môn (Bà chăm) và Bà ni làm chủ nhiều nghi lễ mang tính chất dân gian của người Chăm Bà
la môn và Bà ni.
Hệ thống thần linh và hệ thống giáo lý giáo luật:


14
Từ tín ngưỡng đa thần của đạo Bà la mơn, người Chăm Bà ni chuyển sang tín
ngưỡng nhất thần, chỉ thờ phụng thánh A la và thiên sứ Mô ha met. Tuy nhiên, trong tiềm
thức của người Chăm Bà ni vẫn sâu đậm quan niệm đa thần vì vậy người Chăm Bà ni ngồi
việc cầu nguyện Pơ Âu lóa (A la), vẫn cầu nguyện các thần linh từ xa xưa như các thần
thiên nhiên: thần Mưa, thần Biển, thần Núi, thần Nước...
Hồi giáo Bà ni khơng có sự liên lạc với Hồi giáo quốc tế và cũng không chấp nhận
Hồi giáo mới (Ixlam). Vì vậy, hệ thống giáo lý giáo luật của tôn giáo Bà ni hiện nay đã khác
xa với hệ thống giáo lý giáo luật của Hồi giáo quốc tế. Tuy vậy, hệ thống giáo lý giáo luật
của Bà ni cũng từ kinh Coran mà ra
Hồi giáo mới (Ixlam)
Hồi giáo mới (Ixlam) mới du nhập vào đồng bào Chăm từ Trung Đông. Người Chăm
theo Ixlam phổ biến ở An Giang. Những người theo Hồi giáo này có sự liên lạc với Hồi giáo
quốc tế, hàng năm có người hành hương đến thánh địa Mecca. Tại mỗi thôn, người theo
Ixlam đều có thánh đường riêng. Người Chăm gọi những người theo Ixlam này là Hồi giáo
mới. Hoạt động của cộng đồng Chăm Ixlam theo Hồi giáo chính thống, chỉ tơn thờ thánh
Ala, cầu nguyện mỗi ngày 5 lần. Tín đồ là nam đều tắm rửa sạch sẽ, y phục chỉnh tề đến
thánh đường làm lễ trưa thứ sáu hàng tuần. Tín đồ nữ được làm lễ tại nhà. Các tín đồ thực
hiện nghiêm túc giáo lý giáo luật của Hồi giáo, thực hiện các bổn phận của tín đồ như nhịn
ăn tháng Ramadan. Các tín đồ đã hành hương đến thánh địa Mecca được mang tước hiệu
Hadji và được tín đồ khác kính trọng.
Phật giáo Đại thừa do những thương gia Ấn Độ du nhập vào Chăm pa từ những năm
trước công nguyên, phát triển và hưng thịnh nhất vào thế kỷ thứ IX. Các nhà khảo cổ đã tìm

thấy rất nhiều tượng Phật trong các di chỉ vùng Indrapura (Đồng Dương, Thăng
Bình, Quảng Nam ngày nay), Vijaya (Nhơn Hậu, huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định ngày nay),
Kauthara (khu vực đồng bằng duyên hải nhỏ hẹp từ Phú Yên Cam Ranh ngày nay), và


15
Panturanka (vùng Phan Rang, Phan Thiết ngày nay). Đặc biệt là các nữ thần phái Mật Tông
mà phổ biến nhất là Bồ Tát Prana Paramita, Bồ Tát Avalokitesvara (Bồ Tát Quán Thế Âm)
và Lokesvara (Nam Phật) những vị Bồ Tát này là Phật Amitahba hay A Di Đà hiện thân để
cứu độ chúng sinh. Một số tượng Phật bằng đồng cũng được tìm thấy tại động Phong Nha.
Vào năm 875 nhà vua Indravarman II cho xây dựng tại Indrapura (Quảng Nam) một tu viện
Phật giáo lấy tên là Laskmida Lokeskvara. Đây chính là di tích Phật viện Đồng Dương ngày
nay.
Tín ngưỡng:
Tín ngưỡng của người Chăm phong phú, đa dạng. Là bộ phận cấu thành nền văn hố
Chăm, tín ngưỡng người Chăm chi phối sâu sắc trong đời sống cộng đồng và tồn tại dưới
nhiều hình thức khác nhau. Tín ngưỡng sơ khai, tín ngưỡng liên quan đến thờ cúng tổ tiên,
tín ngưỡng liên quan đến sản xuất nơng nghiệp, lễ nghi vòng đời người… Hiện nay trong
đời sống người Chăm vẫn cịn tồn tại hình thức tơ tem giáo thể hiện qua tục thờ các loại cây,
thờ dòng núi (atâu cơk) và dòng biển (atâu tasik) của các dòng họ Chăm.
Tín ngưỡng người Chăm, ngồi lễ nghi liên quan đến chu kì vịng đời người như lễ
cúng đứa trẻ mới sinh, đám cưới, đám tang, lễ nhập kút… họ còn có các nghi khác như lễ
hội múa Rija Harei (lễ múa ban ngày) … các lễ nghi nông nghiệp như lễ cúng thần lúa
(yang sri), lễ xuống cày (ngak yang trun li-oa), lễ đắp đập khai mương (trun jamưng hatăm).
Cùng với các lễ nghi đó người Chăm tơn thờ các vị thần núi thần sông, thần sấm sét, thần
mặt trời, thần đất, thần sóng biển…
Từ sự phong phú và đa dạng về lễ nghi tín ngưỡng, người Chăm hình thành một tầng
lớp thầy cúng dân gian. Theo số liệu thống kê hiện nay ở Ninh Thuận có tới 22 thầy cúng
đuổi tà ma (On tiap bhut), 13 thầy Kadhar (thầy kéo đàn Rabap cúng tế đền tháp và lễ nghi
dân gian), 09 thầy Ka-in (thầy bóng), 03 bà bóng (Muk PaJâu) và 36 thầy Mưduôn (thầy vỗ

trống Baranưng cúng lễ múa Rija). Hiện nay tầng lớp thầy cúng tín ngưỡng này đã có tuổi


16
đời từ 60-80 nhưng chưa có người kế tục. Vì tuổi già, họ đã lần lượt ra đi đã kéo theo sự
biến mất một số lễ nghi Chăm như lễ đuổi tà ma, chữa bệnh bằng bùa chú, và một số lễ nghi
nơng nghiệp. Ngày nay tín ngưỡng Chăm tuy một số khơng cịn phù hợp với cuộc sống nữa
nhưng từ lâu nó là một bộ phận của đời sống tâm linh. Tín ngưỡng người Chăm là hạt nhân
cơ bản hình thành nên diện mạo tơn giáo, lễ hội Chăm.
(Trích trong "Lễ hội của người Chăm" - Tác giả: Văn Món - Sakaya)
Phong tục tập qn:
Phong tục được hình thành từ sinh hoạt tơn giáo- tín ngưỡng và là hệ quả tự nhiên
vậy. Ví dụ việc người Chăm Bàni kiêng heo và Chăm Bàlamơn kiêng bị là thuộc phong tục
(chứ không phải tập quán).
Tập quán, ngược lại, chỉ là kết quả của thói quen lâu đời hay thói quen mới được
hình thành qua sở thích hoặc tình cảm cá nhân hay cộng đồng. Ví dụ lễ hội Katê trước đây
là “lễ” (thời điểm dân chúng đến tháp dâng cúng và cúng quẩy tại gia để thể hiện phong tục)
chứ không có “hội” như hiện nay. Nhưng từ thập niên 60 của thế kỉ trước, người Chăm mới
sinh hoạt nhộn nhịp và ăn uống linh đình, có ý nghĩa đầy đủ của lễ và hội như hiện nay. Như
thế, phần hội chỉ là tập quán.
1.2 Nội dung cơ bản về bảo tồn và phát triển giá trị văn hóa:
1.2.1 Khái niệm bảo tồn, phát triển:
“Bảo tồn là bảo vệ và giữ gìn sự tồn tại của sự vật hiện tượng theo dạng thức vốn
có của nó. Bảo tồn là giữ lại, không để mất đi, không để bị thay đổi, biến hóa hay biến
thái”. ( nguồn: Vấn đề bảo tồn và phát huy di sản văn hóa hiện nay – tác giả Nguyễn Tồn
Thắng – tạp chí văn hóa nghệ thuật, 15/03/2013)
“Phát triển dùng để chỉ quá trình vận động theo chiều hướng đi lên của sự vật: từ
trình độ thấp lên trình độ cao hơn”. ( Theo Phép biện chứng duy vật - Karl Marx)
Bảo tồn và phát triển giá trị văn hóa ln gắn kết chặt chẽ biện chứng. Đó là hai lĩnh
vực thống nhất, tương hỗ, chi phối ảnh hưởng qua lại trong hoạt động giữ gìn tài sản văn



17
hóa. Bảo tồn di sản văn hóa thành cơng thì mới phát huy được các giá trị văn hóa. Phát huy
cũng là một cách bảo tồn di sản văn hóa tốt nhất (lưu giữ giá trị di sản trong ý thức cộng
đồng xã hội).
1.2.2 Các hình thức của việc bảo tồn:
Đối tượng bảo tồn (tức là các giá trị văn hóa vật thể và phi vật thể) cần thỏa mãn hai
điều kiện:
Một là, nó phải được coi là tinh hoa, là một giá trị đích thực được thừa nhận minh
bạch, khơng có gì phải hồ nghi hay bàn cãi.
Hai là, nó phải hàm chứa khả năng, chí ít là tiềm năng, đứng vững lâu dài với thời
gian, là cái giá trị của nhiều thời (tức là có giá trị lâu dài) trước những biến đổi tất yếu về
đời sống vật chất và tinh thần của con người, nhất là trong bối cảnh nền kinh tế thị trường
và q trình tồn cầu hóa đang diễn ra cực kỳ sơi động.
Bảo tồn nguyên vẹn (bảo tồn trong dạng tĩnh):
Bảo tồn nguyên vẹn văn hóa vật thể ở dạng tĩnh là vận dụng thành quả khoa học kỹ
thuật công nghệ cao, hiện đại đảm bảo giữ nguyên trạng hiện vật như vốn có về kích thước,
vị trí, chất liệu, đường nét, màu sắc, kiểu dáng. Khi cần phục nguyên, cần sử dụng hiệu quả
các phương tiện kỹ thuật như: đồ họa kỹ thuật vi tính cơng nghệ 3D theo khơng gian ba
chiều, chụp ảnh, băng hình video, xác định trọng lượng, thành phần chất liệu của văn hóa
vật thể. Sau khi bảo tồn nguyên vẹn, phải so sánh đối chiếu số liệu với nguyên mẫu đã được
lưu giữ chi tiết để không làm biến dạng.
Bảo tồn văn hóa phi vật thể ở dạng tĩnh là điều tra sưu tầm, thu thập các dạng thức
văn hóa phi vật thể như nó hiện có theo quy trình khoa học nghiêm túc chặt chẽ, giữ chúng
trong sách vở, các ghi chép, mơ tả bằng băng hình (video), băng tiếng (audio), ảnh... Tất cả
các hiện tượng văn hóa phi vật thể này có thể lưu giữ trong các kho lưu trữ, các viện bảo
tàng.



18
Bảo tồn trên cơ sở kế thừa (bảo tồn trong dạng động):
Bảo tồn động, tức là bảo tồn các hiện tượng văn hóa trên cơ sở kế thừa. Các di sản
văn hóa vật thể sẽ được bảo tồn trên tinh thần giữ gìn những nét cơ bản của di tích, cố gắng
phục chế lại nguyên trạng bằng nhiều kỹ thuật cơng nghệ hiện đại.
Đối với các di sản văn hóa phi vật thể, bảo tồn động là bảo tồn các hiện tượng văn
hóa đó ngay chính trong đời sống cộng đồng. Bởi lẽ, cộng đồng không những là môi trường
sản sinh ra các hiện tượng văn hóa phi vật thể mà cịn là nơi tốt nhất để giữ gìn, bảo vệ, làm
giàu và phát huy chúng trong đời sống xã hội. Các hiện tượng văn hóa phi vật thể tồn tại
trong ký ức cộng đồng, nương náu trong tiếng nói, hình thức diễn xướng, nghi lễ, nghi thức,
quy ước dân gian. Văn hóa phi vật thể ln tiềm ẩn trong tâm thức và trí nhớ của những con
người đặc biệt mà chúng ta thường mệnh danh là những nghệ nhân hay là những báu vật
nhân văn sống. Do đó bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa phi vật thể còn đồng nghĩa với
việc bảo vệ những báu vật nhân văn sống. Đó là việc xã hội thừa nhận các tài năng dân
gian, tôn vinh họ trong cộng đồng, tạo điều kiện tốt nhất để họ sống lâu, khỏe mạnh, phát
huy được khả năng trong quá trình bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống. Cần
phải phục hồi các giá trị một cách khách quan, sáng suốt, tin cậy, khoa học chứ không thể
chủ quan, tùy tiện. Tất cả những giá trị phải được kiểm chứng qua nhiều phương pháp
nghiên cứu có tính chất chun mơn cao, có giá trị thực chứng thuyết phục thông qua các
dự án điều tra, sưu tầm, bảo quản, biên dịch và xuất bản các dấu tích di sản văn hóa phi vật
thể.
Bảo tồn theo quan điểm phục hồi ngun dạng chính là phương thức lý tưởng nhất.
Nếu khơng thể bảo tồn ngun dạng thì có thể bảo tồn theo hiện dạng đang có. Bởi theo quy
luật của thời gian thì các di sản văn hóa phi vật thể ngày càng có xu hướng xa dần ngun
gốc. Nếu khơng thể khơi phục được ngun gốc thì bảo tồn hiện dạng là điều khả thi nhất.
Tuy nhiên hiện dạng phải có mối liên hệ chặt chẽ với nguyên dạng. Theo đó, cần xác định


19
rõ thời điểm bảo tồn để sau này khi có thêm tư liệu tin cậy thì sẽ tiếp tục phục nguyên ở

dạng gốc di sản văn hóa.
1.2.3 Các hoạt động trong việc bảo tồn và phát triển giá trị văn hóa:
1.2.3.1 Hoạt động gìn giữ giá trị văn hóa:
Để có thể giữ gìn bảo về các đi sản văn hóa, thường chúng ta sẽ thực hiện dựa trên
khuynh hướng cố gắng ngăn chặn, tiến tới chấm dứt tình trạng xâm phạm mơi trường cảnh
quan di tích trên phạm vi cả nước, khơng để di tích bị xâm phạm thêm nữa; tiếp đến từng
bước giải quyết việc vi phạm không gian di tích theo trình tự ưu tiên căn cứ vào mức độ giá
trị của di tích và khả năng đầu tư của ngân sách nhà nước và quỹ đất để giải tỏa vi phạm.
Theo quan điểm đó, trên thực tế sẽ tùy từng di tích cụ thể để đề ra phương án phù hợp nhằm
bảo vệ cảnh quan môi trường di tích một cách khả thi. Đối với các di sản thế giới và các di
tích cấp quốc gia đặc biệt, cần ưu tiên đầu tư kinh phí để đảm bảo có mơi trường cảnh quan
tốt ở cả khu vực bảo vệ và khu vực đệm của di sản.
Để làm được điều này, chúng ta cần nhận thức rõ những hạn chế/ bất cập, những nỗi
lo hiện nay trên các khía cạnh: Hệ thống tổ chức, cơ cấu bộ máy quản lý, hệ thống văn bản
quy phạm pháp luật, nguồn nhân lực, tài chính và nhận thức của cộng đồng trong việc bảo
vệ và phát huy giá trị di sản. Những tồn tại đó cộng với những khó khăn do quá khứ để lại
quá nặng nề nên không thể trong một thời gian ngắn và chỉ một ngành, một cấp có thể khắc
phục được. Vậy nên, cần phải có lộ trình, có sự liên kết, phối hợp liên ngành để bảo tồn và
phát huy giá trị di sản thích hợp với điều kiện của đất nước trong từng giai đoạn lịch sử.
Trước mắt, cần tăng cường tổ chức phổ biến, tuyên truyền vận động thực hiện Lụật
di sản văn hóa, để Luật đi vào cuộc sống và có hiệu lực trong thực tế, nhằm ngăn chặn việc
vi phạm di sản, giữ nguyên hiện trạng của di sản, không để di sản tiếp tục bị xâm phạm,
xuống cấp thêm nữa.


×